Đạo Đức Kinh Doanh up - Bài tiểu luận cuối kỳ - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Đạo Đức Kinh Doanh up - Bài tiểu luận cuối kỳ - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Luật và đạo đức kinh doanh (MKT 20111)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KỲ
MÔN HỌC: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Họ và Tên: MSSV: Tình huống :
Bên ngoài Hội trường thành phố ở Anaheim, California- quê hương của hệ thống
công viên Disneyland-hàng chục người phản đối đã tụ tập vào tháng 8 năm 2007
để biểu tình. Mặc trang phục để nhấn mạnh quan điểm của họ, những người này
đóng vai "Mickey Mouse" và "nữ hoàng ác độc" ra lệnh cho các nhóm "người của
Disney" "đi ra khỏi thị trấn." Các diễn viên nghiệp dư này đã có mặt ở đó để nói
với hội đồng thành phố rằng họ ủng hộ kế hoạch của nhà phát triển để xây dựng
nhà ở giá rẻ gần công viên nổi tiếng thế giới Disneyland- nhưng đây lại là một kế
hoạch mà Disney phản đối.
"Họ muốn kiếm tiền, nhưng họ không quan tâm đến các nhân viên," Gabriel
De La Cruz- một người làm việc tại Disneyland- đã phát biểu như vậy. De la Cruz
đã sống trong một căn hộ một phòng ngủ đông đúc gần công viên với vợ và hai
đứa con ở tuổi thanh thiếu niên. "Giá thuê quá cao", ông nói. "Chúng tôi không có
một sự lựa chọn để đi một số nơi khác."
Công ty Walt Disney là một trong những công ty truyền thông và giải trí nổi
tiếng nhất trên thế giới. Tại thành phố Anaheim, nó đã thiết lập hoạt động đầu tiên
là công viên Disneyland, hoạt động mới đây là California Adventure, ba khách sạn,
và các khu mua sắm Disney Downtown. Khu phức hợp nghỉ dưỡng California đã
thu hút 24 triệu du khách mỗi năm. Toàn công ty kiếm được hơn $35 tỷ trong năm
2007, khoảng $11 tỷ trong số đó là đến từ các hoạt động của hệ thống công viên
Disneyland và các khu nghỉ dưỡng trên toàn thế giới, bao gồm cả những hoạt động ở California.
Walt Disney, người sáng lập công ty, đã nổi tiếng đưa ra tầm nhìn của khu
nghỉ dưỡng khi ông phát biểu, "Tôi không muốn công chúng nhìn thấy thế giới mà
họ đang sống trong khi họ đang ở Disneyland. Tôi muốn họ cảm thấy họ đang ở
trong một thế giới khác."
Thành phố Anaheim, nằm ở quận Cam, là một đô thị sắc màu rực rỡ với
350.000 dân, đã phát triển nhanh chóng với ngành công nghiệp du lịch. Vào đầu
những năm 1990, thành phố đã được chỉ định rằng trong vòng bán kính hai dặm
tiếp giáp với Disneyland sẽ là một quận nghỉ dưỡng đặc biệt, với tất cả sự phát
triển mới nhằm phục vụ nhu cầu khách du lịch, và đã bơm hàng triệu đô la vào việc
nâng cấp khu vực. Trong năm 2007, quận nghỉ dưỡng này- chiếm 5% diện tích của
cả khu vực Anaheim- đã đóng thuế chiếm hơn một nửa doanh thu thuế của cả khu vực Anaheim.
Vấn đề nhà ở tại thành phố Anaheim là rất đắt đỏ, và nhiều người trong số
20,000 nhân viên của Disney đã không đủ khả năng để sống ở đó. Giá nhà trung
bình trong cộng đồng là hơn $ 600,000, và một căn hộ với một phòng ngủ có thể
thuê ở giá $1,400 một tháng. Một nhân viên canh giữ tại công viên kiếm được
khoảng $23,000 một năm; nhân viên phục vụ nhà hàng khoảng $14,000 một năm.
Chỉ có 18% người lao động của khu nghĩ dưỡng Disneyland là sống ở Anaheim.
Nhiều người ở rất xa phải chạy xe hơi hoặc đi xe buýt với quãng đường dài tới nơi làm việc.
Cuộc tranh chấp trước hội trường thành phố đã bắt đầu vào năm 2005, khi
một công ty phát triển địa phương gọi là SunCal đã sắp xếp mua một một khu vực
rộng 26 mẫu ở quận nghỉ dưỡng. Kế hoạch của công ty SunCal là xây dựng khoảng
1.500 nhà chung cư, với 15% số căn hộ dưới giá thị trường cho thuê. Bởi vì khu
vực này là nằm trong quận nghỉ dưỡng, công ty phát triển Suncal này cần có sự cho
phép đặc biệt của hội đồng thành phố để tiến hành.
Những người ủng hộ nhà ở giá rẻ nhanh chóng ủng hộ đề nghị của công ty
SunCal. Một số công đoàn đại diện cho người lao động của Disney cũng ủng hộ ý
tưởng này, cũng như các cá nhân và các nhóm đã nghĩ rằng điều này sẽ giúp họ
giảm việc di chuyển đoạn đường xa đến nơi làm việc, dẫn đến giảm việc ô nhiễm
không khí của khu vực. Những người ủng hộ đã thiết lập Liên minh để phòng thủ
và bảo vệ Anaheim, tuyên bố rằng "những ngôi nhà mới sẽ cho phép nhiều. . . gia
đình sống gần nơi làm việc của họ và vì vậy sẽ làm giảm tắc nghẽn đi lại trên các xa lộ."
Disney, tuy nhiên, kịch liệt phản đối kế hoạch của công ty SunCal, cho rằng
đất khu này chỉ nên được sử dụng cho việc phát triển những vấn đề liên quan đến
du lịch như khách sạn và nhà hàng. "Nếu một công ty phát triển được phép xây
dựng nhà ở dân cư trong các khu nghỉ dưỡng, những công ty khác nữa sẽ làm
theo", một phát ngôn viên của công ty Disney đã lập luận. "Anaheim và quận Cam
phải giải quyết vấn đề nhà ở giá rẻ cho nhân viên, nhưng Anaheim cũng phải bảo
vệ khu nghỉ dưỡng. Nó không phải là lựa chọn “hoặc là cái này hoặc là cái kia".
Để hỗ trợ cho vị trí của Disney, các phòng thương mại, các doanh nghiệp khác
nhau trong quận nghỉ dưỡng, và một số quan chức chính quyền địa phương đã
thành lập hội “hãy cứu lấy quận nghỉ dưỡng Anaheim của chúng ta” để “bảo vệ
Quận nghỉ dưỡng Anaheim của chúng ta tránh khỏi các dự án phi du lịch”. Nhóm
này đã cân nhắc phát động một sáng kiến là đặt vấn đề trước các cử tri.
Năm thành viên trong Hội đồng thành phố bị chia rẽ về vấn đề này. Một
thành viên Hội đồng cho rằng, nếu công nhân không có đủ khả năng để chi trả
sống ở Anaheim, "họ có thể di chuyển tới một nơi khác… nơi mà tiền thuê nhà rẻ
hơn”. Tuy nhiên, có một bất đồng khác, nói rằng Disney đã thể hiện "hoàn toàn
không quan tâm người lao động, mà đây là lực lượng làm cho các khu nghỉ mát
của Disney rất thành công".
Câu 1. Vấn đề chính của tình huống này là gì?
Câu 2. Bên liên quan thị trường và phi thị trường gì? Ai là các bên liên quan thị
trường và phi thị trường trong tình huống này? Câu 3
. Mỗi bên liên quan có các đòi hỏi gì liên quan đến kế hoạch phát triển của
công ty SunCal? Hãy chỉ rõ mỗi bên liên quan ủng hộ, hoặc phản đối như thế nào? Bài Làm
Câu 1: Vấn đề chính của tình huống này là gì?
- Xoay quanh cuộc chiến về việc kinh doanh giữa 2 công ty: SunCal và Walt Disney.
- Phát sinh xung đột về việc giải quyết nhà ở cho người lao động, nhân viên tại
thành phố Anaheim – nơi mà du lịch đang phát triển nhưng giá nhà thì quá cao.
- Công ty SunCal đã mua một khu đất để phát triển nhà ở với giá thành rẻ.
Nhưng công ty phải được chính quyền thành phố để tiến hành. Nhưng Disney
hoàn toàn phản đối vì cho rằng khu đất này chỉ nên phát triển du lịch. Câu 2
. Bên liên quan thị trường và phi thị trường gì? Ai là các bên liên quan thị
trường và phi thị trường trong tình huống này?
- Bên liên quan thị trường bao gồm: doanh nghiệp, nhân viên,khách hàng, nhà
cung cấp,… Trong tình huống này các bên liên quan thị trường của công ty
Disney là nhân viên Disney, công ty Suncal, khách du lịch Walt Disney.
- Các bên liên quan phi thị trường bao gồm: Cộng đồng, chính phủ, truyền
thông, người tiêu dùng,… Trong tình huống này các bên liên quan phi thị
trường của công ty Disney là: Liên minh để phòng thủ và bảo vệ Anaheim;
Năm thành viên trong hội đồng Thành Phố; quan chức chính quyền địa
phương; các doanh nghiệp trong khu nghỉ dưỡng. Câu 3
. Mỗi bên liên quan có các đòi hỏi gì liên quan đến kế hoạch phát triển của
công ty SunCal? Hãy chỉ rõ mỗi bên liên quan ủng hộ, hoặc phản đối như thế nào?
- Khách hàng: phần lớn là nhân viên đang làm việc tại Disney, họ đang có nhu
cầu giải quyết vấn đề nhà ở trong khi giá nhà khá cao, khu vực họ đang sống
khá xa nơi làm việc. Vì thế việc SunCal xây dựng nhà giá rẻ đang được nhóm khách hàng này ủng hộ.
- Công ty Disney: kịch liệt phản đối kế hoạch của công ty SunCal, cho rằng đất
khu này chỉ nên được sử dụng cho việc phát triển những vấn đề liên quan đến
du lịch như khách sạn và nhà hàng. "Nếu một công ty phát triển được phép xây
dựng nhà ở dân cư trong các khu nghỉ dưỡng, những công ty khác nữa sẽ làm
theo", một phát ngôn viên của công ty Disney đã lập luận. "Anaheim và quận
Cam phải giải quyết vấn đề nhà ở giá rẻ cho nhân viên, nhưng Anaheim cũng
phải bảo vệ khu nghỉ dưỡng. Nó không phải là lựa chọn “hoặc là cái này hoặc
là cái kia". Để hỗ trợ cho vị trí của Disney, các phòng thương mại, các doanh
nghiệp khác nhau trong quận nghỉ dưỡng, và một số quan chức chính quyền địa
phương đã thành lập hội “hãy cứu lấy quận nghỉ dưỡng Anaheim của chúng ta”
để “bảo vệ Quận nghỉ dưỡng Anaheim của chúng ta tránh khỏi các dự án phi
du lịch”. Nhóm này đã cân nhắc phát động một sáng kiến là đặt vấn đề trước các cử tri.
Câu hỏi chuyên đề: Bảo vệ người tiêu dùng
“Thông tin người tiêu dùng trên hệ thống mạng bị rò rỉ thì doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ có trách nhiệm như thế nào?”
Cuộc cách mạng kinh tế số đã và đang tạo ra nhiều sự phát triển, góp phần thay đổi
rõ nét không chỉ nền kinh tế mà còn tác động tới tác động tới nhiều chủ thể tham
gia các hoạt động tiêu dùng, văn hóa, xã hội, chính trị,...Những lợi ích và thách
thức của nền kinh tế số hiện đang được quan tâm và phân tích từ nhiều khía cạnh,
trong đó, một trong những nội dung thường xuyên được đặt ra ở vị trí trung tâm là
vấn đề bảo vệ thông tin của người tiêu dùng trong thời kỳ phát triển kinh tế số.
1. Thu thập và sử dụng thông tin người tiêu dùng
- Sự phát triển của công nghệ thông tin và tốc độ phủ sóng của Internet tại Việt
Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung đã tạo ra nền tảng và hỗ trợ
hiệu quả đối với sự phát triển vượt bậc của thương mại điện tử. Các doanh
nghiệp tham gia vào quá trình này ngày càng nhận thức rõ giá trị và tầm quan
trọng của thông tin nói chung và thông tin người tiêu dùng nói riêng đối với
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, các hoạt động thu thập và
khai thác, sử dụng thông tin của người tiêu dùng ngày càng phát triển với nhiều
cách thức và quy mô mới.
- Thông tin của người tiêu dùng trong thời kỳ kỹ thuật số không chỉ giới hạn ở
những nội dung truyền thống như thông tin định danh người tiêu dùng (họ tên,
địa chỉ, điện thoại...); thông tin tài chính của người tiêu dùng (số tài khoản, số
thẻ ngân hàng...) mà còn bao gồm những thông tin mô tả hành vi, cách thức
suy nghĩ và giao dịch của chính bản thân người tiêu dùng. Sự phát triển kỳ diệu
của công nghệ thông tin đã cho phép một số doanh nghiệp thậm chí có thể thu
thập gần như toàn bộ hành vi, thông tin của người tiêu dùng trong quá trình
giao dịch, tham khảo thông tin trên mạng Internet, từ việc người tiêu dùng
đang tìm kiếm sản phẩm, dịch vụ gì; người tiêu dùng đang chia sẻ suy nghĩ gì
hay chủ đề mà người tiêu dùng đang quan tâm trong các cuộc nói chuyện với
bạn bè trên các mạng xã hội...Tất cả các thông tin này được thu thập, tổng hợp
và phân tích, từ đó giúp cho doanh nghiệp định hướng được những hoạt động,
những nhóm người tiêu dùng mà doanh nghiệp sẽ tiếp cận để xúc tiến hoạt
động quảng cáo, kinh doanh. Hoạt động thu thập và khai thác thông tin nêu
trên thậm chí đã trở thành một khái niệm cơ bản trong nền kinh tế số - khái
niệm Big Data – để chỉ các hoạt động thu thập, phân tích và sử dụng thông tin
ở quy mô siêu lớn với sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin siêu khổng
lồ. Các doanh nghiệp như Google, Microsoft, Amazon, Facebook...là những ví
dụ tiêu biểu cho việc ứng dụng Big Data vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Không chỉ đối với các doanh nghiệp lớn, thu thập và khai thác thông tin còn là
nhu cầu thiết yếu của phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho dù họ có ý
thức được giá trị và tầm quan trọng của hoạt động này đối với việc kinh doanh
của doanh nghiệp hay không. Tại Việt Nam, rất dễ dàng để một doanh nghiệp
có thể mua được một danh sách các khách hàng với các thông tin chi tiết kèm
theo: vị trí địa lý, điện thoại, email, chức vụ...thậm chí là lịch sử giao dịch của
người tiêu dùng trong các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, mua bán hàng hóa...Các
doanh nghiệp sử dụng các thông tin này để gọi điện, nhắn tin, gửi email với
những mục đích đa dạng và khác nhau, trong đó, thực tế cho thấy, nhiều hành
vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thậm chí mang tính chất lừa đảo người tiêu dùng.
2. Chính sách Pháp luật bảo vệ thông tin người tiêu dùng
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban hành từ năm 2010 đã có quy
định về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ thông tin của người
tiêu dùng. Cụ thể, Điều 6 của Luật quy định như sau:
2.1 Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi
tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan
nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
2.2 Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu
dùng thì doanh nghiệp có trách nhiệm:
a. Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về
mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;
b. Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu
dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;
c. Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao
thông tin của người tiêu dùng;
d. Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh
thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
e. Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi
có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Thực thi pháp luật bảo vệ thông tin người tiêu dùng
- Trong những năm gần đây, vấn đề bảo vệ thông tin người tiêu dùng hay thường
gọi là chính sách thông tin đã được nhiều doanh nghiệp quan tâm và chủ động thực
thi. Các hoạt động này được thể hiện thông qua việc xây dựng các chính sách nội
bộ về quản lý thông tin của người tiêu dùng; xây dựng và công bố công khai trên
website, tờ rơi về chính sách thông tin của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy, còn một số lượng lớn doanh nghiệp chưa nắm được
các quy định pháp luật về bảo vệ thông tin người tiêu dùng, dẫn đến, không có
chính sách hoặc không có hành vi phù hợp khi thực hiện các giao dịch có phát sinh
trao đổi thông tin với người tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp đã bước đầu biết
và thực thi các quy định pháp luật về chính sách thông tin thì trong đó, bên cạnh
các doanh nghiệp nghiêm túc và có đầu tư vào nguồn lực, công nghệ để đảm bảo
thực thi tốt các trách nhiệm bảo vệ thông tin người tiêu dùng, vẫn tồn tại doanh
nghiệp chỉ thực hiện về mặt hình thức nhằm đối phó với các quy định pháp luật.
- Từ các nội dung phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng tại Cục Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu dùng, nhiều người tiêu dùng cho biết trong quá trình nói chuyện,
các đối tượng lừa đảo cung cấp chính xác thông tin về giao dịch của người tiêu
dùng đã được thực hiện trước đó, ví dụ, ngày tháng mua hàng tại trung tâm điện
máy; thương hiệu sản phẩm đã mua, giá trị hóa đơn...Thông tin này cho thấy việc
bảo mật thông tin của người tiêu dùng đã không được thực hiện theo đúng quy
định pháp luật, dẫn tới việc rò rỉ thông tin của người tiêu dùng và đã bị các đối
tượng xấu lợi dụng để khai thác, lừa đảo.
- Trong nhiều giao dịch tài chính, đặc biệt là các giao dịch tín dụng tiêu dùng, cho
vay trả góp, nhiều người tiêu dùng cho biết đã không được công ty tài chính thông
báo hoặc giải thích chính xác, đầy đủ về việc sẽ chuyển giao thông tin cho bên thứ
ba để thực hiện các hoạt động thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết. Hành vi này vi
phạm quy định về việc chuyển giao thông tin cho bên thứ ba khi chưa được sự
đồng ý của người tiêu dùng.
- Nhiều phản ánh của người tiêu dùng cũng cho thấy, trước khi sử dụng dịch vụ, họ
không được thông báo về việc một số thông tin trên thiết bị của người tiêu dùng, ví
dụ, hình ảnh, danh bạ trên điện thoại di động, sẽ được sử dụng bởi công ty cung
cấp dịch vụ. Hành vi này vi phạm quy định về việc doanh nghiệp phải thông báo rõ
ràng, công khai về phạm vi, mục đích sử dụng thông tin trước khi thực hiện thu
thập từ người tiêu dùng.
- Bên cạnh việc các doanh nghiệp chưa thực hiện tốt các quy định liên quan, một
vấn đề tồn tại có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình thực thi pháp luật về chính
sách thông tin người tiêu dùng là nhận thức của người tiêu dùng về các quyền liên
quan trong lĩnh vực thông tin. Hiện nhiều người tiêu dùng trong quá trình cung cấp
thông tin trên mạng xã hội, sử dụng các thông tin giao dịch tài chính không ý thức
được các nguy hiểm tiền ẩn khi bên thứ ba có thể khai thác và lợi dụng các thông
tin này vào mục đích lừa đảo; nhiều người tiêu dùng không nắm được trách nhiệm
theo quy định pháp luật mà doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện, dẫn tới, hiệu quả
của việc giám sát và phát hiện hành vi vi phạm không được phát huy.