Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay | Luận án tiến sĩ Báo chí học

Trong những năm qua, báo chí đã xác lập được một vai trò rất to lớn trong đời sống tinh thần. Báo chí đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng và loại hình. Đời  sống báo chí ngày càng trở nên sống động, phong phú. Điều đó góp phần làm cho  mọi hoạt động của xã hội, của đất nước ngày càng cởi mở hơn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Báo chí 65 tài liệu

Thông tin:
31 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay | Luận án tiến sĩ Báo chí học

Trong những năm qua, báo chí đã xác lập được một vai trò rất to lớn trong đời sống tinh thần. Báo chí đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng và loại hình. Đời  sống báo chí ngày càng trở nên sống động, phong phú. Điều đó góp phần làm cho  mọi hoạt động của xã hội, của đất nước ngày càng cởi mở hơn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

21 11 lượt tải Tải xuống
“Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay”
Đạo đức ngh nghiệp của n o Việt Nam hiện nay như thế
o? Có những biểu hiện tích cực và tiêu cực gì? Đâu là nguyên
nhân và giải pp đểng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Việt Nam? Để góp phần giải quyết những vấn đề nói trên. Sau đây AJC xin giới
thiệu đi luận án tiến chuyên ngành báo chọc “Đạo đức nghề nghiệp của
nhà o Việt Nam hiện nay” ca Nguyễn ThTrường Giang
1.nh cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, báo chí đã xác lập được một vai t rất to lớn trong đời
sống tinh thần.
o chí đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng loại hình. Đời sống
o chí ngày càng trở n sống động, phong phú. Điều đó góp phần m cho mọi
hoạt động của hội, của đất nước ny càng cởi mởn. Tuy nhiên, sự tha a
của một bộ phận nhà báo - những người có nhiệm vụ tun truyền, định hướng
lun hội -ảnh hưởng xấu và c hại đến tn xã hội. Đã một sít nhà
o “đức không trong, tâm không ng” lợi dụng nghề nghiệp của mình để
“đánh người y, “cứu người kia, đi ngược lại tôn chỉ, mục đích của nghề
o phá vỡ những nguyên tắc bản của lao động o chí n trọng sự
thật, nói sự thật và bảo vệ sự thật. Những câu hỏi đặt ra là: Đạo đức nghề
nghiệp của nhà o Việt Nam hiện nay như thế nào? những biểu hiện ch
cực và tu cực gì? Đâu là ngun nhân và giải pp để nâng cao đạo đức ngh
nghiệp của nhà báo Việt Nam? Đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành báo chí học
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” hướng vào giải quyết
những vấn đề nói tn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thng lại nhng ni dung, yêu cu lý thuyết về vn đề đo đc nghề nghip
ca nhà báo, dựng lên một bức tranh đy đủ, khái quát và toàn din về thực trng
đo đc nghnghip ca nhà báo Vit Nam hin nay. Trên cơ sđó, tác giả chỉ ra
ngun nhân và đề xuất nhng gii pp chyếu nhmng cao đo đức ngh
nghiệp của nhà báo Vit Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án phải thực hiện những nhiệm vụ
sau: (1) Làm rõ những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của đề
tài. (2) Phân tích thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện
nay thông qua phân tích các tác phẩm báo chí; (3) Chỉ ra nguyên nhân và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đ i đạo đức nghnghiệp của n báo Vit
Nam. Điu này đưc thể hiện thông qua các tác phẩmo chí và hành vi, ứng xử
của họ trong khi hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động nghề nghip của
n o chủ yếu thể hin trong hot động sáng to tác phẩm, vì vậy, luận án đi sâu
nghiên cứu đạo đức nghnghiệp của nhà báo trong quá trình c nghiệp. Đo đc
nghề nghiệp của người làm báo có cả mặt tích cc và mặt tiêu cc. Mc dù, tiêu
cực chỉ là thiểu s, song những năm gần đây vấn đề này đang ny càng trở nên
nổi cộm. Vì vậy, luận án tuy đề cp cả hai mt tích cực và tiêu cực, song đc biệt
nhấn mạnh đến mặt tiêu cc, những biu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của
n o.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ 1998 đến 2008 Việt
Nam. do chúng tôi chọn thời điểm 1998 để bắt đầu từ đây, vấn đề
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trở thành vấn đề nổi cộm, những biểu hiện
tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trở nên nghiêm trọng hơn.
Tn cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả đã xác định đối tượng và
phạm vi khảo sát như sau: Đối tượng khảo sát của luận án là công chúng o chí,
c nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý báo chí, các nhà nghiên cứu lý luận báo
chí và các tác phẩm báo chí. (1). Về công cng, chúng tôi dựa tn những điều
kiện về nhân khẩu học (tuổi, giới nh, nghnghiệp, chở...) để phát bảng hỏi
cho 600 người, chia đu chou tỉnh, thành sau: Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh Phúc,
Hà Tĩnh, Thành ph Hồ Chí Minh và Đồng Tháp. Bên cạnh đó, chúng tôi tiến
nh lựa chọn để phỏng vấn u 5 người; (2). Về nhà báo, luận án tập trung ch
yếu vào đối tượng nhà báo đang làm việc tại cơ quan báo chí trung ương và cơ
quano c địa pơng đphát 500 phiếu điều tra xã hội học.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành phỏng vn sâu đối vi 20 n báo chia tnh
6 nhóm đối tượng: (1). Các nhà báo lão tnh; (2). Các nhà quản lý báo chí; (3).
Cán blãnh đo quan báo c; (4). n bộ Hội n o Vit Nam; (5). Các n
nghiên cuo c; (6). Biên tập viên, png viên.
Bên cnh đy, để làm rõ thực trạng đạo đức nghề báo, chúng tôi đã tiến hành
kho sát Công tác báo chí ca V Báo chí thuộc Ban Tuyên Go Trung ương và
nhng báo cáo tng kết hàng năm về báo chí ca Bộ Thông tin và Truyn tng t
năm 1998 đến 2008. Trong khuôn khlun án, tác giả chỉ tập trung khảo sát nhng
tác phẩm báo chí trên loi nh báo in đưc chn lọc tnhiều tờ báo khác nhau trong
sut thi gian từ 1998 đến 2008 và không đi khảo sát sâu mt tờ báo cụ thể nào mà
kho sát theo thời điểm, vvic có tính cht ni cm đưc báo c và dư lun hội
quan tâm. Tuy nhiên, trong lun án, tác giả cũng có kho sát mt s ví d trên các loi
hình báo chí khác để so sánh, làm rõ thêm các nhận đnh.
4. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
- Đạo đức nghề nghiệp của n báo một vấn đề quan trọng,c động trực
tiếp, sâu sắc và quyết định tới chất lượng của tác phẩm o chí.
- Sự xuống cấp về mặt đạo đức nghề nghiệp của một số nhà báo Việt
Nam hiện nay đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh
dự của đội ngũ nhà báo và nghề báo.
- Mặc dù những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo chỉ
là thiểu số so vi mặt tích cực, song nó lại đang ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng
đến đời sống của nhân dân và để lại những hậu quả khôn lường cho sự pt trin
lâu dài của hội.
- Những biểu hiện tích cực và tu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Việt Nam hiện nay xuất pt từ một hệ thống những nguyên nhân khách quan và
chủ quan, cần phải được làm rõ để từ đó có thể đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Đtài được thực hiện trên nền tảng khoa học lý luận của chủ nga Mác–Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, cnh sách của Đng và Nhà
nước Việt Nam về công tác tư tưởng và báo c. Cụ thể đó là những lý thuyết về
nhiệm vụ, vai t, chức năng c nguyên tắc hoạt đng củao chí; thuyết về
đạo đức nghề nghiệp báo chí và sự tác động qua lại giữa đạo đc và các hình thái
ý thức xã hội kc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Dùng để xem xét, phân tích c thông tin
sẵn trong các tài liệu, từ đó t ra những thông tin cần thiết phục vụ cho mục
đích nghiên cứu của đề tài.
+ Pơng pp phân ch nội dung: Dùng để phân tích nội dung các tác phẩm
o chí, c đoạn ng ghi âm, ghi nh, những buổi phát thanh, truyền hình,
nhữngu trả lời thu được qua tng cầu ý kiến hay phỏng vấn sâu. Để trợ giúp
cho phương pháp này, c giả cũng kết hợp sử dụng phần mềm xử lý thông tin
định nh Nvivo.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Được sử dụng ng để phỏng vấn một số
phóng vn, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, nghiên cứu báo chí, công chúng
nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo đức nghề nghiệp
của nhà o cũng như nhận thức của họ về vấn đề này. Tác giả cũng sử dụng
phần mềm xử thông tin định tính Nvivo nhằm rút ra những dữ liệu nghiên
cứu đa dạng.
+ Phương pháp trưng cầu trc tiếp(an-két): Đưc dùng để lấy ý kiến của 600
công chúng, 500 n báo. Mc đích sdng pơng pp này là để thu nhận các ý
kiến, nhn xét, đánh giá ca công chúng và nhà o về vn đđo đc nghnghip
ca n báo. Trong phương pháp này, tác giả đã sử dng phn mềm xlý thông tin
đnh lưng SPSS nên kết quthu đưc hết sc khách quan, phong phú và đa dng.
+ : Dùng để thống tài liệu, con số, sự kiện, dữPhương pháp thống
liệu... có được trong quá trình khảo sát.
+ Phương pháp phân tích, tng hp: Đưc dùng đphân tích, đánh giá và tổng hp
nhng kết qunghiên cu nhằm đưa ra nhng luận c, lun đim khái quát
Nguyn Trưng Giang - Trình bàyĐo đc nghề nghip ca nhà báo Vit Nam
hin nay
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, hệ thống phát trin ơng đối cơ bản, toàn diện u rộng lý luận
về đạo đc nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam: (1) Xây dựng ki niệm đạo đức
nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và một số ki niệm kc có ln
quan; so sánh Quy định đạo đức nghề nghiệp ca nhà báo Việt Nam với các quy
ước về đạo đức nghề o của các quốc gia và tổ chức o chí quốc tế để thấy
những điểm tương đồng một st đặc thù; khẳng định tầm quan trọng của đạo
đức ngho. (2) Ki quátc điểm chính trong tư tưởng H Chí Minh, quan
điểm của Đng, Nhà nước và củac nhà báo hiện nay về đo đức nghề báo Việt
Nam. (3) Ch ra những mối quan h đạo đức ngh nghiệp của nbáo và các
chuẩn mực đạo đức ng xử trong từng mối quan hệ. Qua kết quả khảo sát, luận án
đánh giá thực trạng các mối quan hệ đạo đức nghề nghip của nhà báo Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, khẳng định tính tích cực là khuynh hướng chủ đạo trong đạo đức ngh
báo Việt Nam, đồng thi chra những biến đổi tiêu cc mang tính tha hoá của một
bộ phận nhà báo hiện nay. Luận án ki quát và pn tích toàn diện các biểu hin
tích cực và tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhào Việt Nam hin nay,
ctrọng vạch những hạn chế, yếu m, biểu hiện suy thi đạo đức nghề
nghiệp và nguyên nn dẫn đến những biểu hiện đó, tđó đưa ra một hệ thống
các giải pháp nhằm góp phần nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cu, tác giả luận án đã xây dng mt Bquy ước đo
đc nghnghiệp của n báo Vit Nam gồm 16 điu; đề xuất 7 bưc để xây dựng b
quy tc đạo đức ngh nghip trong từng cơ quan báo chí.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận án công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu hệ thống, quy mô,
toàn diện về thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện
nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể vừa là tài liệu tham khảo cho
những người đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực báo chí vừa sở
khoa học phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành
báo chí và những ai quan tâm đến đề tài.
8. Bố cục của luận án
Ngoài , Mở đầu,Tổng quan nghiên cứu của đề tài, Kết luận Danh mục
các công trình của tác giả, Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục,
những nội dung chính của luận án được bố trí thành , 3 chương 7 tiết, 162
trang.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên thế giới, vn đề đạo đc nghề nghiệp của no đã đưc nhiu c giả đ
cp đến. Trong quá trình đi tìm tư liệu cho lun án, tác giả đã tìm được tn mng
Internet hàng trăm mẩu tin giới thiệu v các cun ch, bài báo của các học giả, nhà
báo ớc ngi viết về vn đề đạo đc nghề báo. Nhưng những mẩu tin đó chỉ ghi
tóm tắt sơ lưc hoặc kng ghi gì cả. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho tác
gi. Tuy nhn, thông qua tên phần giới thiệu m tt thể thy c tác giả đã đ
cp đến những vấn đề lý luận cơ bn của đạo đức nghnghiệp của n báo.
c ta, những nghn cứu hiện nay mới chđcập và tiếp cận vn đđo đức
nghnghiệp của nhà báo chyếu tnhững c độ riêng lẻ, cụ thể chưa có ng
trình nào nghiên cứu một cách hthng, tn din và u sắc vn đề thực trạng đạo
đc nghnghip của nbáo Việt Nam hiện nay. Đến nay vn chưa có ng tnh
nào ch ra toàn cảnh thực trạng đo đức nghề nghiệp ca nhà báo Việt Nam hin
nay, trong đó chỉ ra những điểm tích cực và tiêu cực ng như chỉ ra ngun nhân
và giải pháp ng cao đo đức ngh nghiệp nhà báo Việt Nam. Đấy chính là
khoảng trống trong nghn cứu v vấn đề này mà tác giả luận án hy vọng slấp đầy.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
1.1. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHƯ MỘT CHẾ TỰ ĐIỀU
TIẾT TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
1.1.1. Nhận thức chung về đạo đức nghề báo
1.1.1.1. Quan niệm chung về đạo đức
Cùng với nhiều pơng thc điều chnhnh vi con người, đạo đức đánh giá
hành vi con người theo các chun mực và các giá trị nthiện và ác, cnh nghĩa
phi nga, đúng sai, cái phi làm và cái không được làm, cái nên làm và cái
không nên làm Vmặt hội, đạo đức đưc biểu hiện bng ti đcthể ca dư
lun xã hội. Về mt cá nn, đạo đức được coi toà án lương tâmkhả năng
tphê pn, đánh gvà suy t từng hành vi, thái đvà ý nghĩ trong bản tn mỗi
cá nhân. Xét về bản cht, sự điều chỉnh của đạo đc mang tính tự giác, là sự tự la
chn ca mỗi người. Vì vy, ngoài biểu hiện trong c quan hệ xã hi, đạo đc n
th hiện trong ti độ, hành vi và stựng xử ca bản thân mỗi con ngưi.
1.1.1.2. Các khái niệm có liên quan
+ Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong
một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của hội. Đạo đức nghề nghiệp
bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc chuẩn mực trong
lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên
trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội.
+ Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Đo đức nghề nghip của nhà báo là những quy tc, chuẩn mực quy định ti độ
và hành vi ứng x ca n báo trong các mi quan hệ nghề nghip. Hiện nay, đo
đc ngh nghip ca nhà báo còn đưc gi đo đc ngh báo, đạo đức báo chí, đo
đc nghnghip ca ngưi làm báo, đo đc nhà báo. Trong luận án này, chúng tôi
sdng ba cách gọi: Đo đức nghề báo, đo đc nghề nghiệp ca nhà báo và đo
đc ngh nghiệp của ni m báo.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề báo
chung cho tất cả nhà báo tất cả các quốc gia thì còn những chuẩn mực
đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng quan báo chí phụ thuộc
vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. So
với các quy ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia tổ chức báo chí
quốc tế, thì nhữngQuy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam
điểm tương đồng và một số nét mang tính đặc thù.
+ Các khái nim khác: Nhà báo, nhânn, ng chúng, ngun tin, nhân vật
trong tác phm, ban biên tập, cng c viên, thông tin viên.
1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo
Ngày nay, vị trí và vai trò của o chí trong đời sống xã hội ngày càng được
ng lên, nó trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của con người, ở một ka cạnh nào đó nó còn tham gia vào tiến trình
lịch sử của thời đại, cùng lúc th tác động đến nhiều người, nhiều tầng lớp,
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Chính vậy, những người m nghy trong
mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân
nhắc kỹ lưỡng xem xét cẩn trọng những hậu quả thể xảy ra đối với
hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm
ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả.
1.1.2. NHNG YÊU CU VỀ ĐO ĐC NGHỀ BÁO VIT NAM HIN
NAY
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nghề báo
Những tưởng của Người về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
được tập trung ở những điểm chính sau:
+ Trung tnh với lý tưởng của đất nước, nhân dân và Đảng Cộng sản
+ Phản ánh chân thật, khách quan
+ Gần dân, yêu dân
+ Có tinh thần phê bình và tự phê bình
+ Rèn luyện, học tập suốt đời
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về đạo đức nghề báo
Trong các Văn kiện nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng rất coi trọng
bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà báo như Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết số 197 của Bộ Chính trị (khoá
III) năm 1972, Chỉ thị 15, ngày 21-9-1987 của Ban thư, Chỉ thị 22-
CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII)… Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước trong các thời kỳ khác nhau cũng đều quan tâm nhắc nhở cán bộ báo
chí phải rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2.3 Một số quan điểm của các nhà báo hiện nay về yêu cầu đạo
đức nghề báo Việt Nam trong tình hình mới
Từ những quan điểm trên của các nhà báo, các nhà quản lý, nghiên cứu
báo chí, chúng tôi nhận thấy rằng nhìn chung đều những chuẩn mực, tiêu
chí trong 9 điều “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt
Nam. Tuy nhiên, đối với mỗi nhà báo, trật tự ưu tiên giữa các tiêu chí có sự
thay đổi nhiều tiêu chí được đưa ra cụ thể hơn. Các nguyên tắc trên được
nhà báo thể hiện thông qua các tác phẩm báo chí hành vi, ứng xử của họ
trong từng mối quan hệ cụ thể khi hoạt động nghề nghiệp.
1.2. ĐO ĐC NGHỀ NHIP TRONG CÁC MI QUAN HỆ CA NHÀ
BÁO
1.2.1. Các mối quan hệ nền tảng
1.2.1.1. Nhà báo với Tổ quốc, đất nước
Với tư cách là thành viên của mt đất nước, được nuôing bằng văn hoá vt
chấttinh thần của đất nước, nhà báo phải có ti đtn trng, u quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó còn là thái độ và trách nhim ca
n báo trước đất ớc vì lợi ích của đất ớc.
1.2.1.2. Nhà báo với nhân dân
Nhà báo phải phục vụ điều kiện quyền thông tin của nhân dân, diễn
đàn tin cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông
tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống hội trong
ngoài nước, làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội.
Qua đó, nhà báo tham gia vào việc hình thành dư luận hội đúng đắn, xây
dựng thế giới quan khoa học, thái độ sống tích cực nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi công dân, tạo ra s đồng thuận cao trong xã hội.
1.2.1.3. Nhà báo với Đảng
Từ khi ra đời đến nay, những người m báo cách mạng luôn luôn gắn bó và
là người ớng dẫn tin cậy của đồng bào cả ớc, cổ nhân dân đi theo con
đường mà Đảng, Bác Hồ và nn dân đã chọn. Đa số nhà báo Việt Nam không
chphục ng sự nh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền họ còn góp
phần m cho chủ nghĩac-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
1.2.2. Các mối quan hệ trong môi trường xã hội
1.2.2.1. Nhà báo với công chúng
Mối quan hệ giữa nhào và công chúng là mối quan hệ mang tính liên kết
trong c nh vi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Trong khi làm nhiệm vụ
cung cấp thông tin, nhằm thoả mãn đầy đủ các nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích
của ng chúng, nhà o phải đối mặt với một loạt các câu hỏi mang nh đạo
đức. Kng chỉ có thế, việc cân nhắc, tính đến mức đhiệu quthông tin cũng
tch nhiệm đạo đức của nhà báo đối với công cng. Khi viết bài, nhà báo còn
phải trả lời một loạt các câu hỏi nhằm xem xét, phân tích đầy đủ các khía cạnh,
suy t nghiêm túc trọn vẹn mọi mặt để cung cấp thông tin tốt nhất cho công
chúng.
1.2.2.2. Nhà báo với nguồn tin
Có ba kiểu nguồn tin, thứ nhất tài liệu, thứ hai môi trường (hoặc hiện
trường) và thứ ba là con người. Khi nói đến mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp
giữa nhà báo nguồn tin nói đến mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo
kiểu nguồn tin thứ ba con người. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định
những chuẩn mực khi nhà báo tiếp xúc, thu thập, sử dụng thông tin và tài liệu
do nguồn tin cung cấp.
1.2.2.3. Nhà báo với nhân vật trong tác phẩm của mình
Nhân vật trong tác phẩm báo chí nhân vật thật, vậy nhà báo cần
phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nên đưa thông tin gì và không nên đưa thông tin
gì để không gây hại cho nhân vật. Nhà báo phải tự đặt ra các câu hỏi như: Viết
như thế này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống, lợi ích, nhân phẩm của nhân vật
không? Đưa bứa ảnh này, chi tiết này, tính cách này gây hại cho nhân
vật không? Nếu công bố mối quan hệ này làm phức tạp cuộc sống hàng
ngày của nhân vật không? Công chúng liệu hiểu đúng về nhân vật của
mình không?...
1.2.3. Các mối quan hệ nghề nghiệp
1.2.3.1. Nhà báo với Ban biên tập
Mi quan h y đòi hỏi nhà o phi tuân theo nhng quy đnh, chp hành
nhng đường lối, ch trương của Ban biên tập, đi đúng tôn ch, mc đích của tờ
báo. Đấy chính quan h đạo đức giữa cá nhân n báo với Ban biên tập của nh.
Nn tảng ca mối quan hệ này sự thống nht quan điểm tư tưởng. No phải
trung thành với toà soạn ca mình, phi có bổn phận giữ bí mt của toà son. Tuy
nhiên, sự chp hành này không đồng nghĩa vi sự mù quáng mà là sự nhất trí tn
ngun tắc của s sáng tạo.
1.2.3.2. Nhà báo với các đồng nghiệp trong và ngoài toà soạn
Trong mối quan hệ vớic đồng nghiệp đòi hi nhà báo phải có nghĩa vụ thực
hiện nh đồng c, đồng nghiệp, nghĩa vụ gp đ lẫn nhau, ý thức dung nạp và
đ ợng với những chính kiến, bất đồng của đồng nghiệp. Mối quan hệ này
kng chỉ bó hẹp trong từng cơ quan báo chí mà ý thức cố kết, tình đoàn kết, s
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau còn phải được thhiện trong tn thể cộng đồng nhà
báo.
Nguyễn Thị Tờng Giang và các nhà khoa học đều đánh giá “Đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” là vấn đề có vai trò rất quan trọng góp
phần phát triển của xã hội i chung và của nnh truyền thông đại chúng i
rng.
1.2.3.3. Nhà báo với cộng tác viên, thông tin viên
Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là phải có thái độ trân trọng
và không được cố tình im lặng, tảng lờ trước những tư liệu, bài vở của các tác
giả gửi về toà soạn. Nhà báo phải thái độ tôn trọng suy nghĩ, lập luận, bố
cục, văn phong của tác giả. Nhà báo phải sự bàn bạc, trao đổi, thảo luận
với tác giả khi sự thay đổi (dù nhỏ) trong bài viết. Đương nhiên, nhà
báo cũng chính kiến, không thể đồng ý với tất cả những tác giả đề
xuất.
Tiểu kết chương 1: Những vấn đề bản về luận thực tiễn của
luận án đã được giải quyết trong chương này. (1) Đạo đức một hình thái ý
thức xã hội, giữ một vai trò quan trọng nhằm cân bằng trật tự hội, tạo
ra sức mạnh cộng đồng. (2) Người làm báo không đạo đức sẽ làm hại
nhiều người (nguồn tin, tờ báo, lợi ích xã hội và chính mình). (3) Những nội
dung yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được
c lập trên sở thống nhất với báo chí thế giới dựa trên sở thực tiễn
hoạt động báo chí Việt Nam, vì vậy có những điểm tương đồng một số nét
mang tính đặc thù. (4) thể khẳng định rằng trong các mối quan hệ đạo
đức nghề nghiệp đa số nhà báo Việt Nam luôn ứng xử đúng mực, luôn bám
sát các quy định đạo đức nghề nghiệp. Song kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra
một thực trạng đáng buồn. tới gần 1/4 số nhà báo được hỏi đã vi phạm
các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp trong các mối quan hệ đạo đức. Tuy
những nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp chỉ là một bộ phận nhỏ nhưng
hậu quả của những hành vi đó lại tác hại rất lớn đến đời sống của nhân
dân, sự bình yên của xã hội, đến uy tín, danh dự của người cầm bút.
Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NHÀ BÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. NHÀ BÁO VIỆT NAM SAU 10 NĂM THỰC HIỆN QUY ƯỚC,
QUY ĐỊNH ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
2.1.1. Tính tích cực là khuynh hưng ch đo trong đạo đc ngh nghip của
nhà báo Vit Nam
Phải khẳng định một điều rằng đại bộ phận nhà báo Việt Nam đã thực hiện tốt
những nội dung bản nhất, cốt i nhất của c tiêu chuẩn về đạo đức ngh
nghiệp của báo chí Việt Nam. Trong những năm qua, những người làm báo việt
Nam đã thực strở thành những con chim báo bão, góp phần dự o, đón đầu
c sự kiện và xu thế phát triển của xã hội. Điều này được th hiện rõ nét qua
chất lượng nội dung thông tin báo chíng ngày, hàng giờ đăng tải trênc loại
nh o c; báo chí phản ánh, bám sát toàn diện mọi mặt của cuộc sống và đáp
ứng rất tốt, rất kịp thời mọi nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú của hội.
2.1.2. Những biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề báo Việt Nam
Có thể nhn thy nhng biến đổi tiêu cực trong đạo đc ngh o Việt Nam
đang diễn ra ngày càng phức tạp cho thấy dấu hiệu của sự tha hoá, lưu
manh hoá trong một bộ phận nhà báo Việt Nam. Đó là: Hiện tượng nhà báo
thông tin sai sự thật, thiếu trách nhim, kng kiểm chứng, chp giật, thiếu khách
quan, thổi phồng sự tht và bóp méo sự tht; hiệnợng thương mại hoá to
bng việc đưa tin bài, hình ảnh git gân, câu kch, kích đng, kích dc, thiếu văn
hoá, thiếu tính thẩm mỹ và phn giáo dục; nh trạng nhà báo lạm quyền và cửa
quyền ngàyng gia tăng; biểu hiện thiếunh nhân văn trên báo c; hiện tượng
nhà o lợi dng nghnghiệp, danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí, lợi dụng vị t
và ng việc của mình đvlợi nn, kiếm cc cho rng mình m trái pháp
lut.
2.2. NHỮNG BIỂU HIỆNCH CỰC TRONG ĐẠO ĐỨC NGH BÁO
2.2.1. Trung thành với các lợi ích của đất nước, nhân dân
Thể hiện trên tác phẩm báo chí, phần đông người làm báo trong hoàn
cảnh nào cũng đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, một lòng theo
Đảng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Họ tích cực tham gia
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xuất phát từ lợi ích giai
cấp, dân tộc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để chọn lựa đăng tải
thông tin đúng mức độ, khách quan, đúng bản chất sự thật.
2.2.2. Dũng cm phát hin, biu dương cái tt và đu tranh chng li cái xu
Trong những năm qua, đội ngũ nhà báo đã đi đầu trong việc thông tin và ng
hộ,n vinh các cá nn, tập thể anh hùng, gương nời tốt, việc tốt, gương điển
hình tiên tiến, những tấm lòng nn ái, những sáng kiến hay, những kinh nghiệm
tốt, những phương pp m việc hiệu quả… góp phần nn lên trong xã hội ny
càng nhiều điều tốt. Bên cạnh đó, họ còn ng cảm,ch cc đi đầu trong cuộc đấu
tranh, phê phán, có hiệu quả, đúng pháp luật chống lại những tiêu cực và các tệ
nạn xã hội, p phần thúc đẩy tiến trình n chủ h đời sống hội.
2.2.3. Luôn có ý thc giữ gìn bn sắc, truyền thng tốt đp ca n tc
ng ngn bài viết của các nhà báo đã gp cho việc mở mang dân trí, nâng
cao trình độ n hóa, thỏa n nhu cầu ởng th n a, giải trí của người
n, bảo vệ, phục hồi và quảng bá bản sắcn hóa dân tộc ớc nhà. Với ý thức
giữ gìn bản sắc văn hoá và lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các
nhà báo Việt Nam tuyên truyền go dục, cung cấp cho nhân dân năng lực thẩm
mỹ đủ trình độ đấu tranh loại trừ và miễn dịch với những xâm lăng văn hóa độc
hại từ bên ngoài, ti với bản sắc tốt đẹp của văn hóan tộc, bồi đắp tinh thần
u nước, yêu ch nghĩa xã hội, yêu quý những giá trn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
2.2.4. Yêu nghề, lăn lộn trong thực tiễn
Đa số nhà o luôn tự rèn luyện mình, ớng ngòi bút vào trách nhiệm xã
hội lớn lao, luôn đẫm mình trong cuộc sống và trưởng thành từ môi trường của
nhân dân. Nhiều nhà báo đến tận những nơi khó khăn, gian khổ n: biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công trình trọng điểm, vùng thiên tai,
lũ lụt, tai nạn nặng nề… lựa chọn được các chủ đề, đề tài trúng với đòi hỏi của
nh hình chính trị từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và chủ trương của
Đảng Nhà nước, trình y đầy đủnguyện vọng chính đáng của quần
chúng nhân dân.
2.2.5. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện
Trong những năm qua báo chí rất tích cực tổ chức, tham gia các hoạt động
xã hội, từ thiện p phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là
ng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng khó khăn của đất nước. Nhiều cơ
quan báo chí, nhà báo đã tổ chức, duy trì các hoạt động từ thiện hiệu quả,
động viên được nhiều nhà hảo m đóng góp với số tiền n đến hàng trăm tỷ
đồng. Các hoạt động từ thiện của báo chí đạt hiệu quả cao, c dụng ý
nghĩa thiết thực nhằm tiếp thêm niềm tinngh lực trong cuộc sống. Đây là
biểu hiện nổi bật, có ý nghĩa về đạo đức sâu sắc giúp nâng cao uy tín của o
chí.
2.3. NHỮNG BIỂU HIỆN VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
2.3.1. Chạy theo những thông tin tiêu cực
2.3.1.1 Đăng ti q nhiu v các ván mạng mt trái ca xã hội
Có thi, trên mặt báo hiện nay la liệt các vụ án khiến cho người đọc xem
đâu cũng thấy bi kịch, nhìn đâu cũng thấy tiêu cực làm họ có ấn tượng nặng nề,
bi quan về hội. Thậm chí, họ n t t, miêu tả một ch chi tiết, ng
khiến nời đọc ớn lạnh, sởn gai gà và tạo cho dư luận một thái độ không đúng
về tình hình an ninh trật tự của đất ớc.
2.3.1.2 Lợi dụng đưa tin, bài về đề tài giới tính, tình yêu, hôn nhân, tình
dục nhằm câu khách, khêu gợi trí tò mò, kích dục
Mt số tờ o, tp chí lm dụng chủ đề này, tng tin dung tc, không phù hp
vi thuần phong mỹ tc Vit Nam, phn nào mnh hưng tới lối sống của hi,
đc biệt thế hệ trẻ. Trong biu hin y nổi lên là vic đi sâu khai thác vào đời ,
tình cảm ca những người ni tiếng, của giới ngh s, nhng chuyện hậu trường,
đi tư của c chính khách nước ngoài.
2.3.1.3 Khai thác các thông tin, đề tài mê tín dị đoan, trong đó “đời sống
m linh” của con người được bàn luận, đề cập nhiều nhất
Thời gian qua nhiều tờ báo, nhà báo cố tình đi sâu vào vấn đề này, khai thác
với dung lượng q nhiều làm cho người đọc hư hư thực thực, mô hồ trong nhận
thức nhiều vấn đề, ảnh hưởng đến ng tin tinh thần lạc quan của hội.
Không những thế, những thông tin đó n góp phần, tiếp tay cho các thế lực
phản động tuyên truyền n dị đoan, hủ tục lạc hậu.
2.3.1.4 “Chạy” quảng cáo, quảng cáo thiếu trung thực
một thực trạng đang diễn ra trên nhiều o đó tình trạng quảng cáo
ợt số trang cho phép, quảng cáo trên trang nhất, quảng cáo trái với truyền
thống, lịch sử văn hoá, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, quảng cáo mặt hàng
không được phép quảng cáo, quảng cáo không cần quan tâm đến độ xác thực,
chínhc của thông tin trong nội dung quảng cáo...
2.3.2. Xa rời nguyên tắc khách quan, chân thật của báo chí
2.3.2.1. Viết sai sự thật, gây hậu quả nghiêm trọng
+ Thông tin sai gây tổn hại đến đời sống, sản xuất của nhân dân
Nhiều thông tin sai của báo chí đã ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến
đời sống, lợi ích của nhân dân, gây tâm hoang mang trong luận như
những thông tin liên quan đến giá lúa, đến kháng sinh, hoá chất trong thuỷ
sản, thực phẩm, lương thực; thông tin về rau nhiễm độc, về bưởi, sầu riêng
gây ung thư; về tăng giá xăng dầu...
+ Làm tổn hại đến uy tín, lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp
Nhiều thời điểm, tình trạng thông tin ở một số báo thiếu căn cứ, suy diễn,
thổi phồng, khoét sâu vào những thiếu sót, khuyết điểm của một số tổ chức,
doanh nghiệp; đặt tiêu đề không đúng với nội dung tin, bài hoặc đậm mặt
trái, những hiện tượng tiêu cực...
+ Gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm cá nhân
Trong những thông tin sai sự thật bị cơ quan quản lý báo chí xử lý, nổi lên
những thông tin xâm phạm mật đời tư, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của công dân. Thậm chí, một số tờ báo, nhà báo bới móc đời của người
khác theo kiểu mà thái độ vẫn bình thản, dửng dưng. “đánh tiêu diệt”
2.3.2.2. Viết sai không cải chính
Có một thực tế là hiện nay nhiều tờ báo, khi biết mình làm sai, gây tổn hại
đến uy n, danh dự, lợi ích, sinh mạng của người khác nhưng lại cố tình lờ
đi, cửa quyền, không chịu thừa nhận còn tìm cách cãi ; hoặc viện lý do“cùn”
để trì hoàn việc cải chính, xin lỗi. Cũng báo cải chính, xin lỗi nhưng
không đúng quy định, tìm chỗ khuất nhất, nhỏ nhất trong tờ báo để đăng cải
chính vào. Đáng lưu ý, nhiều trường hợp những thông tin sai do báo in
đăng rồi các báo mạng điện tử và trang tin điện tử đăng lại, nhưng khi báo in
đăng cải chính thì hầu như các báo mạng điện tử trang tin điện tử lại
không hề cải chính, thậm chí có những bài vẫn lưu trên mạng Internet.
2.3.2.3. Quay lưng với sự thật
Đây là hiện tượng nhà báo đóng bút trước những bức xúc của cuộc sống, bất
chấp lợi ích chung của cộng đồng nhằm bảo vệ an toàn cho bản thân. Họ thờ ơ,
nh đạm trước các vấn đề nóng hổi của cuộc sống, quay lưng không dám viết,
| 1/31

Preview text:

“Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay”
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay như thế
nào? Có những biểu hiện tích cực và tiêu cực gì? Đâu là nguyên
nhân và giải pháp để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Việt Nam? Để góp phần giải quyết những vấn đề nói trên. Sau đây AJC xin giới
thiệu đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành báo chí học “Đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Trường Giang
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, báo chí đã xác lập được một vai trò rất to lớn trong đời sống tinh thần.
Báo chí đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng và loại hình. Đời sống
báo chí ngày càng trở nên sống động, phong phú. Điều đó góp phần làm cho mọi
hoạt động của xã hội, của đất nước ngày càng cởi mở hơn. Tuy nhiên, sự tha hóa
của một bộ phận nhà báo - những người có nhiệm vụ tuyên truyền, định hướng
dư luận xã hội - có ảnh hưởng xấu và tác hại đến toàn xã hội. Đã có một số ít nhà
báo “đức không trong, tâm không sáng” lợi dụng nghề nghiệp của mình để
“đánh” người này, “cứu” người kia, đi ngược lại tôn chỉ, mục đích của nghề
báo và phá vỡ những nguyên tắc cơ bản của lao động báo chí là tôn trọng sự
thật, nói rõ sự thật và bảo vệ sự thật. Những câu hỏi đặt ra là: Đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay như thế nào? Có những biểu hiện tích
cực và tiêu cực gì? Đâu là nguyên nhân và giải pháp để nâng cao đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo Việt Nam? Đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành báo chí học
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” hướng vào giải quyết
những vấn đề nói trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống lại những nội dung, yêu cầu lý thuyết về vấn đề đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo, dựng lên một bức tranh đầy đủ, khái quát và toàn diện về thực trạng
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra
nguyên nhân và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án phải thực hiện những nhiệm vụ
sau: (1) Làm rõ những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của đề
tài. (2) Phân tích thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện
nay thông qua phân tích các tác phẩm báo chí; (3) Chỉ ra nguyên nhân và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt
Nam. Điều này được thể hiện thông qua các tác phẩm báo chí và hành vi, ứng xử
của họ trong khi hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động nghề nghiệp của
nhà báo chủ yếu thể hiện trong hoạt động sáng tạo tác phẩm, vì vậy, luận án đi sâu
nghiên cứu đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong quá trình tác nghiệp. Đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặc dù, tiêu
cực chỉ là thiểu số, song những năm gần đây vấn đề này đang ngày càng trở nên
nổi cộm. Vì vậy, luận án tuy đề cập cả hai mặt tích cực và tiêu cực, song đặc biệt
nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ 1998 đến 2008 ở Việt
Nam. Lý do chúng tôi chọn thời điểm 1998 để bắt đầu là vì từ đây, vấn đề
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trở thành vấn đề nổi cộm, những biểu hiện
tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trở nên nghiêm trọng hơn.
Trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả đã xác định đối tượng và
phạm vi khảo sát như sau: Đối tượng khảo sát của luận án là công chúng báo chí,
các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý báo chí, các nhà nghiên cứu lý luận báo
chí và các tác phẩm báo chí. (1). Về công chúng, chúng tôi dựa trên những điều
kiện về nhân khẩu học (tuổi, giới tính, nghề nghiệp, chỗ ở...) để phát bảng hỏi
cho 600 người, chia đều cho sáu tỉnh, thành sau: Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh Phúc,
Hà Tĩnh, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Tháp. Bên cạnh đó, chúng tôi tiến
hành lựa chọn để phỏng vấn sâu 5 người; (2). Về nhà báo, luận án tập trung chủ
yếu vào đối tượng nhà báo đang làm việc tại cơ quan báo chí trung ương và cơ
quan báo chí địa phương để phát 500 phiếu điều tra xã hội học.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu đối với 20 nhà báo chia thành
6 nhóm đối tượng: (1). Các nhà báo lão thành; (2). Các nhà quản lý báo chí; (3).
Cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; (4). Cán bộ Hội nhà báo Việt Nam; (5). Các nhà
nghiên cứu báo chí; (6). Biên tập viên, phóng viên.
Bên cạnh đấy, để làm rõ thực trạng đạo đức nghề báo, chúng tôi đã tiến hành
khảo sát Công tác báo chí của Vụ Báo chí thuộc Ban Tuyên Giáo Trung ương và
những báo cáo tổng kết hàng năm về báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông từ
năm 1998 đến 2008. Trong khuôn khổ luận án, tác giả chỉ tập trung khảo sát những
tác phẩm báo chí trên loại hình báo in được chọn lọc từ nhiều tờ báo khác nhau trong
suốt thời gian từ 1998 đến 2008 và không đi khảo sát sâu một tờ báo cụ thể nào mà
khảo sát theo thời điểm, vụ việc có tính chất nổi cộm được báo chí và dư luận xã hội
quan tâm. Tuy nhiên, trong luận án, tác giả cũng có khảo sát một số ví dụ trên các loại
hình báo chí khác để so sánh, làm rõ thêm các nhận định.
4. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
- Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là một vấn đề quan trọng, có tác động trực
tiếp, sâu sắc và quyết định tới chất lượng của tác phẩm báo chí.
- Sự xuống cấp về mặt đạo đức nghề nghiệp của một số nhà báo Việt
Nam hiện nay đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh
dự của đội ngũ nhà báo và nghề báo.
- Mặc dù những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo chỉ
là thiểu số so với mặt tích cực, song nó lại đang ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng
đến đời sống của nhân dân và để lại những hậu quả khôn lường cho sự phát triển lâu dài của xã hội.
- Những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Việt Nam hiện nay xuất phát từ một hệ thống những nguyên nhân khách quan và
chủ quan, cần phải được làm rõ để từ đó có thể đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện trên nền tảng khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về công tác tư tưởng và báo chí. Cụ thể đó là những lý thuyết về
nhiệm vụ, vai trò, chức năng và các nguyên tắc hoạt động của báo chí; lý thuyết về
đạo đức nghề nghiệp báo chí và sự tác động qua lại giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Dùng để xem xét, phân tích các thông tin
có sẵn trong các tài liệu, từ đó rút ra những thông tin cần thiết phục vụ cho mục
đích nghiên cứu của đề tài.
+ Phương pháp phân tích nội dung: Dùng để phân tích nội dung các tác phẩm
báo chí, các đoạn băng ghi âm, ghi hình, những buổi phát thanh, truyền hình,
những câu trả lời thu được qua trưng cầu ý kiến hay phỏng vấn sâu. Để trợ giúp
cho phương pháp này, tác giả cũng kết hợp sử dụng phần mềm xử lý thông tin định tính Nvivo.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Được sử dụng dùng để phỏng vấn một số
phóng viên, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, nghiên cứu báo chí, công chúng
nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo cũng như nhận thức của họ về vấn đề này. Tác giả cũng sử dụng
phần mềm xử lý thông tin định tính Nvivo nhằm rút ra những dữ liệu nghiên cứu đa dạng.
+ Phương pháp trưng cầu trực tiếp(an-két): Được dùng để lấy ý kiến của 600
công chúng, 500 nhà báo. Mục đích sử dụng phương pháp này là để thu nhận các ý
kiến, nhận xét, đánh giá của công chúng và nhà báo về vấn đề đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo. Trong phương pháp này, tác giả đã sử dụng phần mềm xử lý thông tin
định lượng SPSS nên kết quả thu được hết sức khách quan, phong phú và đa dạng.
+ Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê tài liệu, con số, sự kiện, dữ
liệu... có được trong quá trình khảo sát.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để phân tích, đánh giá và tổng hợp
những kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những luận cứ, luận điểm khái quát…
Nguyễn Trường Giang - Trình bày “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay”
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, hệ thống và phát triển tương đối cơ bản, toàn diện và sâu rộng lý luận
về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam: (1) Xây dựng khái niệm đạo đức
nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và một số khái niệm khác có liên
quan; so sánh Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam với các quy
ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia và tổ chức báo chí quốc tế để thấy
những điểm tương đồng và một số nét đặc thù; khẳng định tầm quan trọng của đạo
đức nghề báo. (2) Khái quát các điểm chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng, Nhà nước và của các nhà báo hiện nay về đạo đức nghề báo Việt
Nam. (3) Chỉ ra những mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và các
chuẩn mực đạo đức ứng xử trong từng mối quan hệ. Qua kết quả khảo sát, luận án
đánh giá thực trạng các mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, khẳng định tính tích cực là khuynh hướng chủ đạo trong đạo đức nghề
báo Việt Nam, đồng thời chỉ ra những biến đổi tiêu cực mang tính tha hoá của một
bộ phận nhà báo hiện nay. Luận án khái quát và phân tích toàn diện các biểu hiện
tích cực và tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay,
chú trọng vạch rõ những hạn chế, yếu kém, biểu hiện suy thoái đạo đức nghề
nghiệp và nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện đó, từ đó đưa ra một hệ thống
các giải pháp nhằm góp phần nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu, tác giả luận án đã xây dựng một Bộ quy ước đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam gồm 16 điều; đề xuất 7 bước để xây dựng bộ
quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong từng cơ quan báo chí.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, quy mô,
toàn diện về thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể vừa là tài liệu tham khảo cho
những người đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực báo chí vừa là cơ sở
khoa học phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành
báo chí và những ai quan tâm đến đề tài.
8. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu,Tổng quan nghiên cứu của đề tài, Kết luận, Danh mục
các công trình của tác giả, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
những nội dung chính của luận án được bố trí thành 3 chương, 7 tiết, 162 trang.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên thế giới, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo đã được nhiều tác giả đề
cập đến. Trong quá trình đi tìm tư liệu cho luận án, tác giả đã tìm được trên mạng
Internet hàng trăm mẩu tin giới thiệu về các cuốn sách, bài báo của các học giả, nhà
báo nước ngoài viết về vấn đề đạo đức nghề báo. Nhưng những mẩu tin đó chỉ ghi
tóm tắt sơ lược hoặc không ghi gì cả. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho tác
giả. Tuy nhiên, thông qua tên và phần giới thiệu tóm tắt có thể thấy các tác giả đã đề
cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Ở nước ta, những nghiên cứu hiện nay mới chỉ đề cập và tiếp cận vấn đề đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo chủ yếu từ những góc độ riêng lẻ, cụ thể mà chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc vấn đề thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo ở Việt Nam hiện nay. Đến nay vẫn chưa có công trình
nào chỉ ra toàn cảnh thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện
nay, trong đó chỉ ra những điểm tích cực và tiêu cực cũng như chỉ ra nguyên nhân
và giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo Việt Nam. Đấy chính là
khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề này mà tác giả luận án hy vọng sẽ lấp đầy. Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
1.1. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHƯ MỘT CƠ CHẾ TỰ ĐIỀU
TIẾT TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
1.1.1. Nhận thức chung về đạo đức nghề báo
1.1.1.1. Quan niệm chung về đạo đức
Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá
hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và
phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được làm, cái nên làm và cái
không nên làm… Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dư
luận xã hội. Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “toà án lương tâm” có khả năng
tự phê phán, đánh giá và suy xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi
cá nhân. Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa
chọn của mỗi người. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức còn
thể hiện trong thái độ, hành vi và sự tự ứng xử của bản thân mỗi con người.
1.1.1.2. Các khái niệm có liên quan
+ Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong
một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp
bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực trong
lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên
trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội.
+ Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ
và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Hiện nay, đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi là đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo. Trong luận án này, chúng tôi
sử dụng ba cách gọi: Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề báo
chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì còn có những chuẩn mực
đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng cơ quan báo chí phụ thuộc
vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. So
với các quy ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia và tổ chức báo chí
quốc tế, thì Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam có những
điểm tương đồng và một số nét mang tính đặc thù.
+ Các khái niệm khác: Nhà báo, nhân dân, công chúng, nguồn tin, nhân vật
trong tác phẩm, ban biên tập, cộng tác viên, thông tin viên.
1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo
Ngày nay, vị trí và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được
nâng lên, nó trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của con người, ở một khía cạnh nào đó nó còn tham gia vào tiến trình
lịch sử của thời đại, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người, nhiều tầng lớp,
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Chính vì vậy, những người làm nghề này trong
mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân
nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối với xã
hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm
ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả.
1.1.2. NHỮNG YÊU CẦU VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nghề báo
Những tư tưởng của Người về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
được tập trung ở những điểm chính sau:
+ Trung thành với lý tưởng của đất nước, nhân dân và Đảng Cộng sản
+ Phản ánh chân thật, khách quan + Gần dân, yêu dân
+ Có tinh thần phê bình và tự phê bình
+ Rèn luyện, học tập suốt đời
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về đạo đức nghề báo
Trong các Văn kiện và nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng rất coi trọng
bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà báo như Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết số 197 của Bộ Chính trị (khoá
III) năm 1972, Chỉ thị 15, ngày 21-9-1987 của Ban Bí thư, Chỉ thị 22-
CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII)… Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước trong các thời kỳ khác nhau cũng đều quan tâm nhắc nhở cán bộ báo
chí phải rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2.3 Một số quan điểm của các nhà báo hiện nay về yêu cầu đạo
đức nghề báo Việt Nam trong tình hình mới
Từ những quan điểm trên của các nhà báo, các nhà quản lý, nghiên cứu
báo chí, chúng tôi nhận thấy rằng nhìn chung đều là những chuẩn mực, tiêu
chí có trong 9 điều “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt
Nam”. Tuy nhiên, đối với mỗi nhà báo, trật tự ưu tiên giữa các tiêu chí có sự
thay đổi và nhiều tiêu chí được đưa ra cụ thể hơn. Các nguyên tắc trên được
nhà báo thể hiện thông qua các tác phẩm báo chí và hành vi, ứng xử của họ
trong từng mối quan hệ cụ thể khi hoạt động nghề nghiệp.
1.2. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NHIỆP TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA NHÀ BÁO
1.2.1. Các mối quan hệ nền tảng
1.2.1.1. Nhà báo với Tổ quốc, đất nước
Với tư cách là thành viên của một đất nước, được nuôi dưỡng bằng văn hoá vật
chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó còn là thái độ và trách nhiệm của
nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước.
1.2.1.2. Nhà báo với nhân dân
Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, là diễn
đàn tin cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông
tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và
ngoài nước, làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Qua đó, nhà báo tham gia vào việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây
dựng thế giới quan khoa học, thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội.
1.2.1.3. Nhà báo với Đảng
Từ khi ra đời đến nay, những người làm báo cách mạng luôn luôn gắn bó và
là người hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con
đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Đa số nhà báo Việt Nam không
chỉ phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền bá mà họ còn góp
phần làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
1.2.2. Các mối quan hệ trong môi trường xã hội
1.2.2.1. Nhà báo với công chúng
Mối quan hệ giữa nhà báo và công chúng là mối quan hệ mang tính liên kết
trong các hành vi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Trong khi làm nhiệm vụ
cung cấp thông tin, nhằm thoả mãn đầy đủ các nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích
của công chúng, nhà báo phải đối mặt với một loạt các câu hỏi mang tính đạo
đức. Không chỉ có thế, việc cân nhắc, tính đến mức độ hiệu quả thông tin cũng là
trách nhiệm đạo đức của nhà báo đối với công chúng. Khi viết bài, nhà báo còn
phải trả lời một loạt các câu hỏi nhằm xem xét, phân tích đầy đủ các khía cạnh,
suy xét nghiêm túc trọn vẹn mọi mặt để cung cấp thông tin tốt nhất cho công chúng.
1.2.2.2. Nhà báo với nguồn tin
Có ba kiểu nguồn tin, thứ nhất là tài liệu, thứ hai là môi trường (hoặc hiện
trường) và thứ ba là con người. Khi nói đến mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp
giữa nhà báo và nguồn tin là nói đến mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và
kiểu nguồn tin thứ ba – con người. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định
những chuẩn mực khi nhà báo tiếp xúc, thu thập, sử dụng thông tin và tài liệu do nguồn tin cung cấp.
1.2.2.3. Nhà báo với nhân vật trong tác phẩm của mình
Nhân vật trong tác phẩm báo chí là nhân vật có thật, vì vậy nhà báo cần
phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nên đưa thông tin gì và không nên đưa thông tin
gì để không gây hại cho nhân vật. Nhà báo phải tự đặt ra các câu hỏi như: Viết
như thế này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống, lợi ích, nhân phẩm của nhân vật
không? Đưa bứa ảnh này, chi tiết này, tính cách này có gây hại gì cho nhân
vật không? Nếu công bố mối quan hệ này có làm phức tạp cuộc sống hàng
ngày của nhân vật không? Công chúng liệu có hiểu đúng về nhân vật của mình không?...
1.2.3. Các mối quan hệ nghề nghiệp
1.2.3.1. Nhà báo với Ban biên tập
Mối quan hệ này đòi hỏi nhà báo phải tuân theo những quy định, chấp hành
những đường lối, chủ trương của Ban biên tập, đi đúng tôn chỉ, mục đích của tờ
báo. Đấy chính là quan hệ đạo đức giữa cá nhân nhà báo với Ban biên tập của mình.
Nền tảng của mối quan hệ này là sự thống nhất quan điểm tư tưởng. Nhà báo phải
trung thành với toà soạn của mình, phải có bổn phận giữ bí mật của toà soạn. Tuy
nhiên, sự chấp hành này không đồng nghĩa với sự mù quáng mà là sự nhất trí trên
nguyên tắc của sự sáng tạo.
1.2.3.2. Nhà báo với các đồng nghiệp trong và ngoài toà soạn
Trong mối quan hệ với các đồng nghiệp đòi hỏi nhà báo phải có nghĩa vụ thực
hiện tình đồng chí, đồng nghiệp, nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức dung nạp và
độ lượng với những chính kiến, bất đồng của đồng nghiệp. Mối quan hệ này
không chỉ bó hẹp trong từng cơ quan báo chí mà ý thức cố kết, tình đoàn kết, sự
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau còn phải được thể hiện trong toàn thể cộng đồng nhà báo.
Nguyễn Thị Trường Giang và các nhà khoa học đều đánh giá “Đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” là vấn đề có vai trò rất quan trọng góp
phần phát triển của xã hội nói chung và của ngành truyền thông đại chúng nói riêng.
1.2.3.3. Nhà báo với cộng tác viên, thông tin viên
Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là phải có thái độ trân trọng
và không được cố tình im lặng, tảng lờ trước những tư liệu, bài vở của các tác
giả gửi về toà soạn. Nhà báo phải có thái độ tôn trọng suy nghĩ, lập luận, bố
cục, văn phong của tác giả. Nhà báo phải có sự bàn bạc, trao đổi, thảo luận
với tác giả khi có sự thay đổi (dù là nhỏ) trong bài viết. Đương nhiên, nhà
báo cũng có chính kiến, không thể đồng ý với tất cả những gì mà tác giả đề xuất.
Tiểu kết chương 1: Những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của
luận án đã được giải quyết trong chương này. (1) Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, nó giữ một vai trò quan trọng nhằm cân bằng trật tự xã hội, tạo
ra sức mạnh cộng đồng. (2) Người làm báo mà không có đạo đức sẽ làm hại
nhiều người (nguồn tin, tờ báo, lợi ích xã hội và chính mình). (3) Những nội
dung và yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được
xác lập trên cơ sở thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn
hoạt động báo chí Việt Nam, vì vậy có những điểm tương đồng và một số nét
mang tính đặc thù. (4) Có thể khẳng định rằng trong các mối quan hệ đạo
đức nghề nghiệp đa số nhà báo Việt Nam luôn ứng xử đúng mực, luôn bám
sát các quy định đạo đức nghề nghiệp. Song kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra
một thực trạng đáng buồn. Có tới gần 1/4 số nhà báo được hỏi đã vi phạm
các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp trong các mối quan hệ đạo đức. Tuy
những nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp chỉ là một bộ phận nhỏ nhưng
hậu quả của những hành vi đó lại có tác hại rất lớn đến đời sống của nhân
dân, sự bình yên của xã hội, đến uy tín, danh dự của người cầm bút. Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NHÀ BÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. NHÀ BÁO VIỆT NAM SAU 10 NĂM THỰC HIỆN QUY ƯỚC,
QUY ĐỊNH ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
2.1.1. Tính tích cực là khuynh hướng chủ đạo trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam
Phải khẳng định một điều rằng đại bộ phận nhà báo Việt Nam đã thực hiện tốt
những nội dung cơ bản nhất, cốt lõi nhất của các tiêu chuẩn về đạo đức nghề
nghiệp của báo chí Việt Nam. Trong những năm qua, những người làm báo việt
Nam đã thực sự trở thành những con chim báo bão, góp phần dự báo, đón đầu
các sự kiện và xu thế phát triển của xã hội. Điều này được thể hiện rõ nét qua
chất lượng nội dung thông tin báo chí hàng ngày, hàng giờ đăng tải trên các loại
hình báo chí; báo chí phản ánh, bám sát toàn diện mọi mặt của cuộc sống và đáp
ứng rất tốt, rất kịp thời mọi nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú của xã hội.
2.1.2. Những biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề báo Việt Nam
Có thể nhận thấy những biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề báo Việt Nam
đang diễn ra ngày càng phức tạp và cho thấy dấu hiệu của sự tha hoá, lưu
manh hoá trong một bộ phận nhà báo Việt Nam. Đó là: Hiện tượng nhà báo
thông tin sai sự thật, thiếu trách nhiệm, không kiểm chứng, chụp giật, thiếu khách
quan, thổi phồng sự thật và bóp méo sự thật; hiện tượng thương mại hoá tờ báo
bằng việc đưa tin bài, hình ảnh giật gân, câu khách, kích động, kích dục, thiếu văn
hoá, thiếu tính thẩm mỹ và phản giáo dục; tình trạng nhà báo lạm quyền và cửa
quyền ngày càng gia tăng; biểu hiện thiếu tính nhân văn trên báo chí; hiện tượng
nhà báo lợi dụng nghề nghiệp, danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí, lợi dụng vị trí
và công việc của mình để vụ lợi cá nhân, kiếm chác cho riêng mình và làm trái pháp luật.
2.2. NHỮNG BIỂU HIỆN TÍCH CỰC TRONG ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
2.2.1. Trung thành với các lợi ích của đất nước, nhân dân
Thể hiện trên tác phẩm báo chí, phần đông người làm báo dù trong hoàn
cảnh nào cũng đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, một lòng theo
Đảng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Họ tích cực tham gia
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xuất phát từ lợi ích giai
cấp, dân tộc và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để chọn lựa và đăng tải
thông tin đúng mức độ, khách quan, đúng bản chất sự thật.
2.2.2. Dũng cảm phát hiện, biểu dương cái tốt và đấu tranh chống lại cái xấu
Trong những năm qua, đội ngũ nhà báo đã đi đầu trong việc thông tin và ủng
hộ, tôn vinh các cá nhân, tập thể anh hùng, gương người tốt, việc tốt, gương điển
hình tiên tiến, những tấm lòng nhân ái, những sáng kiến hay, những kinh nghiệm
tốt, những phương pháp làm việc hiệu quả… góp phần nhân lên trong xã hội ngày
càng nhiều điều tốt. Bên cạnh đó, họ còn dũng cảm, tích cực đi đầu trong cuộc đấu
tranh, phê phán, có hiệu quả, đúng pháp luật chống lại những tiêu cực và các tệ
nạn xã hội, góp phần thúc đẩy tiến trình dân chủ hoá đời sống xã hội.
2.2.3. Luôn có ý thức giữ gìn bản sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Hàng nghìn bài viết của các nhà báo đã giúp cho việc mở mang dân trí, nâng
cao trình độ văn hóa, thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí của người
dân, bảo vệ, phục hồi và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc nước nhà. Với ý thức
giữ gìn bản sắc văn hoá và lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các
nhà báo Việt Nam tuyên truyền giáo dục, cung cấp cho nhân dân năng lực thẩm
mỹ đủ trình độ đấu tranh loại trừ và miễn dịch với những xâm lăng văn hóa độc
hại từ bên ngoài, trái với bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc, bồi đắp tinh thần
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu quý những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
2.2.4. Yêu nghề, lăn lộn trong thực tiễn
Đa số nhà báo luôn tự rèn luyện mình, hướng ngòi bút vào trách nhiệm xã
hội lớn lao, luôn đẫm mình trong cuộc sống và trưởng thành từ môi trường của
nhân dân. Nhiều nhà báo đến tận những nơi khó khăn, gian khổ như: biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công trình trọng điểm, vùng thiên tai,
lũ lụt, tai nạn nặng nề… lựa chọn được các chủ đề, đề tài trúng với đòi hỏi của
tình hình chính trị từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và chủ trương của
Đảng và Nhà nước, trình bày đầy đủ và rõ nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
2.2.5. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện
Trong những năm qua báo chí rất tích cực tổ chức, tham gia các hoạt động
xã hội, từ thiện góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng khó khăn của đất nước. Nhiều cơ
quan báo chí, nhà báo đã tổ chức, duy trì các hoạt động từ thiện có hiệu quả,
động viên được nhiều nhà hảo tâm đóng góp với số tiền lên đến hàng trăm tỷ
đồng. Các hoạt động từ thiện của báo chí đạt hiệu quả cao, có tác dụng và ý
nghĩa thiết thực nhằm tiếp thêm niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Đây là
biểu hiện nổi bật, có ý nghĩa về đạo đức sâu sắc giúp nâng cao uy tín của báo chí.
2.3. NHỮNG BIỂU HIỆN VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
2.3.1. Chạy theo những thông tin tiêu cực
2.3.1.1 Đăng tải quá nhiều về các vụ án mạng và mặt trái của xã hội
Có thể nói, trên mặt báo hiện nay la liệt các vụ án khiến cho người đọc xem
đâu cũng thấy bi kịch, nhìn đâu cũng thấy tiêu cực làm họ có ấn tượng nặng nề,
bi quan về xã hội. Thậm chí, họ còn rút tít, miêu tả một cách chi tiết, rõ ràng
khiến người đọc ớn lạnh, sởn gai gà và tạo cho dư luận một thái độ không đúng
về tình hình an ninh trật tự của đất nước.
2.3.1.2 Lợi dụng đưa tin, bài về đề tài giới tính, tình yêu, hôn nhân, tình
dục nhằm câu khách, khêu gợi trí tò mò, kích dục
Một số tờ báo, tạp chí lạm dụng chủ đề này, thông tin dung tục, không phù hợp
với thuần phong mỹ tục Việt Nam, phần nào làm ảnh hưởng tới lối sống của xã hội,
đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong biểu hiện này nổi lên là việc đi sâu khai thác vào đời tư,
tình cảm của những người nổi tiếng, của giới nghệ sỹ, những chuyện hậu trường,
đời tư của các chính khách nước ngoài.
2.3.1.3 Khai thác các thông tin, đề tài mê tín dị đoan, trong đó “đời sống
tâm linh” của con người được bàn luận, đề cập nhiều nhất
Thời gian qua nhiều tờ báo, nhà báo cố tình đi sâu vào vấn đề này, khai thác
với dung lượng quá nhiều làm cho người đọc hư hư thực thực, mô hồ trong nhận
thức nhiều vấn đề, ảnh hưởng đến lòng tin và tinh thần lạc quan của xã hội.
Không những thế, những thông tin đó còn góp phần, tiếp tay cho các thế lực
phản động tuyên truyền mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu.
2.3.1.4 “Chạy” quảng cáo, quảng cáo thiếu trung thực
Có một thực trạng đang diễn ra trên nhiều báo đó là tình trạng quảng cáo
vượt số trang cho phép, quảng cáo trên trang nhất, quảng cáo trái với truyền
thống, lịch sử văn hoá, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, quảng cáo mặt hàng
không được phép quảng cáo, quảng cáo không cần quan tâm đến độ xác thực,
chính xác của thông tin trong nội dung quảng cáo...
2.3.2. Xa rời nguyên tắc khách quan, chân thật của báo chí
2.3.2.1. Viết sai sự thật, gây hậu quả nghiêm trọng
+ Thông tin sai gây tổn hại đến đời sống, sản xuất của nhân dân
Nhiều thông tin sai của báo chí đã ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến
đời sống, lợi ích của nhân dân, gây tâm lý hoang mang trong dư luận như
những thông tin liên quan đến giá lúa, đến kháng sinh, hoá chất trong thuỷ
sản, thực phẩm, lương thực; thông tin về rau nhiễm độc, về bưởi, sầu riêng
gây ung thư; về tăng giá xăng dầu...
+ Làm tổn hại đến uy tín, lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp
Nhiều thời điểm, tình trạng thông tin ở một số báo thiếu căn cứ, suy diễn,
thổi phồng, khoét sâu vào những thiếu sót, khuyết điểm của một số tổ chức,
doanh nghiệp; đặt tiêu đề không đúng với nội dung tin, bài hoặc tô đậm mặt
trái, những hiện tượng tiêu cực...
+ Gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm cá nhân
Trong những thông tin sai sự thật bị cơ quan quản lý báo chí xử lý, nổi lên
là những thông tin xâm phạm bí mật đời tư, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của công dân. Thậm chí, một số tờ báo, nhà báo bới móc đời tư của người khác theo kiểu
mà thái độ vẫn bình thản, dửng dư
“đánh tiêu diệt” ng.
2.3.2.2. Viết sai không cải chính
Có một thực tế là hiện nay nhiều tờ báo, khi biết mình làm sai, gây tổn hại
đến uy tín, danh dự, lợi ích, sinh mạng của người khác nhưng lại cố tình lờ
đi, cửa quyền, không chịu thừa nhận còn tìm cách cãi “cùn”; hoặc viện lý do
để trì hoàn việc cải chính, xin lỗi. Cũng có báo cải chính, xin lỗi nhưng
không đúng quy định, tìm chỗ khuất nhất, nhỏ nhất trong tờ báo để đăng cải
chính vào. Đáng lưu ý, có nhiều trường hợp những thông tin sai do báo in
đăng rồi các báo mạng điện tử và trang tin điện tử đăng lại, nhưng khi báo in
đăng cải chính thì hầu như các báo mạng điện tử và trang tin điện tử lại
không hề cải chính, thậm chí có những bài vẫn lưu trên mạng Internet.
2.3.2.3. Quay lưng với sự thật
Đây là hiện tượng nhà báo đóng bút trước những bức xúc của cuộc sống, bất
chấp lợi ích chung của cộng đồng nhằm bảo vệ an toàn cho bản thân. Họ thờ ơ,
lãnh đạm trước các vấn đề nóng hổi của cuộc sống, quay lưng không dám viết,