Đạo giáo là gì? Lịch sử hình thành và những đặc trưng cơ bản
1. Đạo giáo là gì?
Đạo giáo là một tôn giáo cổ xưa, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đạo giáo có hai nhánh phát triển chính: Đạo
giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy. Trong quá trình tồn tại và phát triển, mặc dù Đạo giáo chưa từng trở
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội Trung Quốc như Nho giáo, Phật giáo nhưng vai trò của nó trong đời
sống xã hội Trung Quốc rất to lớn. Đặc biệt trong tầng lớp người bình dân và được người Trung Quốc coi là
một tôn giáo “đặc sản” của dân tộc. Đạo giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, về thời điểm cụ thể
thì chưa có một nguồn sử liệu nào xác định chính xác. Nhưng, theo quan điểm được nhiều người thừa nhận
thì Đạo giáo được truyền bá vào nước ta sau Nho giáo và Phật giáo.
Đạo giáo được truyền bá vào Việt Nam đã có lúc trở thành một tôn giáo độc lập như dưới triều đại Lý, Trần.
Nhưng sau đó, hiện tượng dung hợp Đạo giáo với Phật giáo và Nho giáo đã diễn ra. Đến thời Lê, Đạo giáo
nhanh chóng kết hợp với Phật giáo, đa số đạo quán biến thành Phật tự, đạo sĩ, đạo kinh đều bị mai một.
Đến thời Nguyễn, khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, được nhà Nguyễn trọng dụng và
được tôn vinh là “quốc giáo” thì Đạo giáo gần như mất hẳn trong đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam,
danh từ Đạo giáo đã không còn được người đời nhắc đến nhiều. Trong suốt tiến trình phát triển của dân tộc,
cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tinh thần, truyền thống
và văn hóa của dân tộc ta, đặc biệt trong đời sống của những người dân lao động. Trong buổi đầu truyền bá
vào nước ta, Đạo giáo đã tìm thấy những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu. Sự sùng bái ma thuật, phù
phép, bùa chú… của người Việt cổ, đã trở thành mảnh đất mầu mỡ cho sự gieo mầm của Đạo giáo. “Vì vậy,
dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ
dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới”. “Nó như có sẵn miếng đất thân
thuộc, dân không học đã hay”. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu Đạo giáo; sự tồn tại của Đạo giáo ở
Việt Nam cũng như những biểu hiện của nó trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn khiêm tốn hơn so với
Phật giáo và Nho giáo. Do vậy, tình hình nghiên cứu Đạo giáo ở Việt Nam còn gặp khó khăn, khiến cho
không ít nhà nghiên cứu đã quy nhiều tín ngưỡng dân gian Việt Nam cho Đạo giáo; ngược lại những người
sính đồng bóng, bùa chú, ma thuật…lại không hiểu Đạo giáo là gì. Điều này đã tạo ra không ít trở ngại trong
việc nghiên cứu Đạo giáo ở Việt Nam, cũng như một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quan hệ với Đạo
giáo. Lịch sử văn hóa của dân tộc gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của người dân Việt. Khi
kinh tế ngày càng phát triển, các quốc gia trên thế giới càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng
trở thành trung tâm của sự chú ý. Văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định vai trò và tầm quan trọng của mục tiêu “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài: “Đạo giáo và những biểu hiện của nó trong tín ngưỡng dân gian Việt
Nam” tôi cho là cần thiết, để hiểu thêm về các quan niệm xã hội, các hiện tượng xã hội….Từ đó, hiểu thêm
về nguồn gốc, nét đặc thù của tư tưởng, tín ngưỡng dân gian Việt Nam; các giá trị văn hoá truyền thống mà
các bậc tiền nhân đã dày công xây dựng. Thông qua việc nghiên cứu này, đóng góp một phần vào việc
nhận thức thêm những nhân tố tích cực, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới.
2. Lịch sử hình thành của Đạo giáo
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá
trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhập nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời
Nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái,
tứ tượng, thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những
truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh
ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu
luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh
của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử
đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng
đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN. Đạo trong sự trình bày của Lão Tử (609 trước CN) là
một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: “Người thuận Đất, Đất thuận Trời,
Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên”. Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong
từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là
do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ
thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ.
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm
dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý,
công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương
cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu
đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần
tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên,
và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: “vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt”. Từ
đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không làm). Vô
vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái
quá thì theo luật âm dương “vật cực tắc phản”, kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì.
Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là “chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình”.
Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói
muốn dân yên ổn thì cai trị một nước phải “giống như kho một nồi cá nhỏ”: cá nhỏ nên để yên, không cạo
vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát. Đạo chẳng phải
cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên; còn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm
dương biến đổi. Khổng thì “nhập thế”, “hữu vi”, còn Lão thì “xuất thế”, “vô vi”. Hegel từng nhận xét rằng tư
tưởng của đạo Khổng thì nghèo nàn, còn Lão Tử mới xứng đáng là người đại diện cho tinh thần phương
Đông cổ đại. Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lý của
Lão Tử càng không thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn: “Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà
thiên hạ không ai hiểu, không ai làm”. Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử
mới lại được người đời chú ý. Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang
Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên nhiên, giữa phải và trái,
giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực đoan thành một thứ tương đối luận. Trong lĩnh vực
xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức không tán thành cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống
trị đến cực độ; ông không chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ trộm
lớn). Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử tới mức cực
đoan thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên thủy: “Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền,
muôn vật sống chung, làng xóm liên tiếp cùng ở với cầm thú”.
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang
Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái
độ phản ứng của Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo
rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa. Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm
giáo chủ, gọi là “Thái Thượng Lão Quân”, coi ông là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục
đích của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có
hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh;
Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo
giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng
sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển. Đạo giáo thần tiên
hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại
dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số
khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc
(nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần,
luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở
về với “Đạo”.
3. Những đặc trưng cơ bản của Đạo giáo
Hệ thống tư tưởng của Đạo Giáo đã được Lão Tử gói gọn chỉ trong cuốn sách Đạo Đức Kinh, dài 81
chương và có khoảng 5000 từ. Mặc dù ngắn gọn súc tích nhưng sách đã gây được tiếng vang lớn trong
cộng đồng triết gia phương Đông và phương Tây. Hệ thống tư tưởng của Đạo Giáo nhấn mạnh chủ trương
"vô vi". Đây cũng là điểm nhấn khác biệt giữa Đạo Giáo với các tôn giáo khác. Đạo giáo có hai đặc trưng cơ
bản là:
3.1. Quan niệm về vũ trụ và vạn vật
Đạo là thể vô hình và vô tướng tức là không sinh không diệt mà hằng hữu đời đời. Sở dĩ nhiều người không
thấy được Đạo là vì nó bao gồm các nguyên tố rời rạc và chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh ra một, một
lại sinh hai, hai tiếp tục sinh ba, ba lại sinh vạn vật. Một là Thái cực, hai là Âm Dương, ba là Tam Thiên Vị.
Âm và Dương sẽ thu nhận Sinh từ ngôi Thái cực, rồi xung đột và hòa hiệp để tạo thành trời đất, vũ trụ và
vạn vật. Cho nên theo Lão Tử, trong vạn vật đều có Âm Dương cụ thể đều cõng một Âm và bồng một
Dương. Do đó theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ được thành hình, trong khoảng không gian này là hư vô bao
la. Chỉ có duy nhất một chất sinh rất huyền diệu, đó là Đạo. Đạo biến hóa tạo ra Âm Dương rồi Âm Dương
xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật. Sau đó vạn vật được hóa sinh ra và tác động với nhau, có khi
phồn thịnh với nhau. Cuối cùng tan rã để trở về với trạng thái không vật không hình. Cũng tức là trở về
nguồn gốc của nó là Đạo.
3.2. Quan niệm về nhân sinh
Lão Tử quan niệm Đạo Trời không thân với ai mà cũng không sợ ai. Trời Đất đã sinh ra muôn vật gồm cây
cỏ, chim muông và nhân loại. Khi sinh ra không phải nhằm để chúng ăn thịt nhau mà là các sinh vật đều
khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng lẫn nhau và bổ trợ nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đạo giáo không coi
trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Đạo giáo không coi trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Lão
Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú và ông xem việc sống như một nghĩa vụ. Do đó không yếm thế, không lạc
quan đồng thời xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên. Lão Tử rất ghét những người ham mê
danh lợi và quá coi trọng cái xác thịt. Đây chỉ là cái xác thịt giả tạm không đáng quý nó còn là mối lo cho
người ta. Thứ đáng quý nhất là khi người ta đem thân ra phụng sự cho thiên hạ. Lão Tử khuyên người đời
không nên quá thiên về đời sống vật chất, phải biết tiết chế lòng ham muốn. Con người nên chú trọng tinh
thần và lấy cái tâm đè nén cái khí, thà rằng bỏ cái thân này mà giữ được Đạo và Đức còn hơn. Đạo giáo
không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng hay Địa ngục. Nhưng có nói một cách tổng quát về gốc
tích của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra rồi cuối cùng thì trở về là Đạo, hòa vào Đạo và tu trong Đạo.
4. Đạo giáo có ở những đâu, ảnh hưởng như thế nào?
Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ
thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa lý. Vì xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt
và sự khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm được số người theo Đạo
giáo. Đặc biệt có nhiều người theo Đạo giáo sinh sống tại Đài Loan, nơi nhiều trường phái Đạo gia đã lánh
nạn Cách mạng văn hoá tại Trung Quốc lục địa. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng hơn 400 triệu tín đồ, chủ yếu
tập trung tại các nước như là Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải
ngoại. Trong tín ngưỡng Đạo Giáo cũng thường hay nhắc tới các vị Tiên và việc thờ cúng các vị Tiên là thể
hiện sự kính trọng với họ. Tuy nhiên, ở trong lý luận triết học Đạo giáo thì lại không quan trọng về vấn đề
này.
5. Đạo giáo như một hệ thống Triết học
Sự phân biệt triết học Đạo giáo và tín ngưỡng Đạo giáo là một cách nhìn từ phương Tây và về mặt khái
niệm thì nó cũng không đủ rõ ràng. Nó có vẻ như là một phương tiện của nền Hán học châu Âu, được áp
dụng để có thể nắm bắt và miêu tả được những khía cạnh lịch sử Đạo giáo lâu dài một cách dễ dàng hơn.
Nhìn kĩ thì người Trung Quốc cũng đã có sự phân biệt vi tế trong cách gọi tên trào lưu này. Khi dùng từ Lão
Trang hoặc Đạo gia người ta liên tưởng đến khía cạnh triết học và từ Đạo giáo hoặc Hoàng Lão được dùng
để chỉ đến khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Đạo giáo cũng là một hiện tượng nhiều khía cạnh như
những tôn giáo khác. Trong dòng thời gian hơn hai nghìn năm qua, nhiều hệ thống và chi phái rất khác
nhau đã được hình thành. Do vậy mà sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo ở đây là một sự giản hoá quá
mức và trong giới học thuật người ta cũng không nhất trí có nên phân biệt như vậy nữa hay không, bởi vì nó
không tương thích với sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu. Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên
cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Đạo giáo vốn là chỗ tu-
hành, giáo dục và rèn luyện con người thành Tiên. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân
biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.

Preview text:

Đạo giáo là gì? Lịch sử hình thành và những đặc trưng cơ bản
1. Đạo giáo là gì?
Đạo giáo là một tôn giáo cổ xưa, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đạo giáo có hai nhánh phát triển chính: Đạo
giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy. Trong quá trình tồn tại và phát triển, mặc dù Đạo giáo chưa từng trở
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội Trung Quốc như Nho giáo, Phật giáo nhưng vai trò của nó trong đời
sống xã hội Trung Quốc rất to lớn. Đặc biệt trong tầng lớp người bình dân và được người Trung Quốc coi là
một tôn giáo “đặc sản” của dân tộc. Đạo giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, về thời điểm cụ thể
thì chưa có một nguồn sử liệu nào xác định chính xác. Nhưng, theo quan điểm được nhiều người thừa nhận
thì Đạo giáo được truyền bá vào nước ta sau Nho giáo và Phật giáo.
Đạo giáo được truyền bá vào Việt Nam đã có lúc trở thành một tôn giáo độc lập như dưới triều đại Lý, Trần.
Nhưng sau đó, hiện tượng dung hợp Đạo giáo với Phật giáo và Nho giáo đã diễn ra. Đến thời Lê, Đạo giáo
nhanh chóng kết hợp với Phật giáo, đa số đạo quán biến thành Phật tự, đạo sĩ, đạo kinh đều bị mai một.
Đến thời Nguyễn, khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, được nhà Nguyễn trọng dụng và
được tôn vinh là “quốc giáo” thì Đạo giáo gần như mất hẳn trong đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam,
danh từ Đạo giáo đã không còn được người đời nhắc đến nhiều. Trong suốt tiến trình phát triển của dân tộc,
cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tinh thần, truyền thống
và văn hóa của dân tộc ta, đặc biệt trong đời sống của những người dân lao động. Trong buổi đầu truyền bá
vào nước ta, Đạo giáo đã tìm thấy những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu. Sự sùng bái ma thuật, phù
phép, bùa chú… của người Việt cổ, đã trở thành mảnh đất mầu mỡ cho sự gieo mầm của Đạo giáo. “Vì vậy,
dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ
dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới”. “Nó như có sẵn miếng đất thân
thuộc, dân không học đã hay”. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu Đạo giáo; sự tồn tại của Đạo giáo ở
Việt Nam cũng như những biểu hiện của nó trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn khiêm tốn hơn so với
Phật giáo và Nho giáo. Do vậy, tình hình nghiên cứu Đạo giáo ở Việt Nam còn gặp khó khăn, khiến cho
không ít nhà nghiên cứu đã quy nhiều tín ngưỡng dân gian Việt Nam cho Đạo giáo; ngược lại những người
sính đồng bóng, bùa chú, ma thuật…lại không hiểu Đạo giáo là gì. Điều này đã tạo ra không ít trở ngại trong
việc nghiên cứu Đạo giáo ở Việt Nam, cũng như một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quan hệ với Đạo
giáo. Lịch sử văn hóa của dân tộc gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của người dân Việt. Khi
kinh tế ngày càng phát triển, các quốc gia trên thế giới càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng
trở thành trung tâm của sự chú ý. Văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định vai trò và tầm quan trọng của mục tiêu “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài: “Đạo giáo và những biểu hiện của nó trong tín ngưỡng dân gian Việt
Nam” tôi cho là cần thiết, để hiểu thêm về các quan niệm xã hội, các hiện tượng xã hội….Từ đó, hiểu thêm
về nguồn gốc, nét đặc thù của tư tưởng, tín ngưỡng dân gian Việt Nam; các giá trị văn hoá truyền thống mà
các bậc tiền nhân đã dày công xây dựng. Thông qua việc nghiên cứu này, đóng góp một phần vào việc
nhận thức thêm những nhân tố tích cực, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới.
2. Lịch sử hình thành của Đạo giáo
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá
trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhập nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời
Nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái,
tứ tượng, thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những
truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh
ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu
luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh
của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử
đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng
đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN. Đạo trong sự trình bày của Lão Tử (609 trước CN) là
một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: “Người thuận Đất, Đất thuận Trời,
Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên”. Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong
từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là
do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ
thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ.
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm
dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý,
công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương
cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu
đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần
tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên,
và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: “vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt”. Từ
đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không làm). Vô
vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái
quá thì theo luật âm dương “vật cực tắc phản”, kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì.
Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là “chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình”.
Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói
muốn dân yên ổn thì cai trị một nước phải “giống như kho một nồi cá nhỏ”: cá nhỏ nên để yên, không cạo
vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát. Đạo chẳng phải
cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên; còn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm
dương biến đổi. Khổng thì “nhập thế”, “hữu vi”, còn Lão thì “xuất thế”, “vô vi”. Hegel từng nhận xét rằng tư
tưởng của đạo Khổng thì nghèo nàn, còn Lão Tử mới xứng đáng là người đại diện cho tinh thần phương
Đông cổ đại. Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lý của
Lão Tử càng không thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn: “Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà
thiên hạ không ai hiểu, không ai làm”. Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử
mới lại được người đời chú ý. Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang
Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên nhiên, giữa phải và trái,
giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực đoan thành một thứ tương đối luận. Trong lĩnh vực
xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức không tán thành cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống
trị đến cực độ; ông không chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ trộm
lớn). Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử tới mức cực
đoan thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên thủy: “Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền,
muôn vật sống chung, làng xóm liên tiếp cùng ở với cầm thú”.
Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang
Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái
độ phản ứng của Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo
rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa. Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm
giáo chủ, gọi là “Thái Thượng Lão Quân”, coi ông là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục
đích của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có
hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh;
Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo
giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng
sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển. Đạo giáo thần tiên
hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại
dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số
khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc
(nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần,
luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
3. Những đặc trưng cơ bản của Đạo giáo
Hệ thống tư tưởng của Đạo Giáo đã được Lão Tử gói gọn chỉ trong cuốn sách Đạo Đức Kinh, dài 81
chương và có khoảng 5000 từ. Mặc dù ngắn gọn súc tích nhưng sách đã gây được tiếng vang lớn trong
cộng đồng triết gia phương Đông và phương Tây. Hệ thống tư tưởng của Đạo Giáo nhấn mạnh chủ trương
"vô vi". Đây cũng là điểm nhấn khác biệt giữa Đạo Giáo với các tôn giáo khác. Đạo giáo có hai đặc trưng cơ bản là:
3.1. Quan niệm về vũ trụ và vạn vật
Đạo là thể vô hình và vô tướng tức là không sinh không diệt mà hằng hữu đời đời. Sở dĩ nhiều người không
thấy được Đạo là vì nó bao gồm các nguyên tố rời rạc và chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh ra một, một
lại sinh hai, hai tiếp tục sinh ba, ba lại sinh vạn vật. Một là Thái cực, hai là Âm Dương, ba là Tam Thiên Vị.
Âm và Dương sẽ thu nhận Sinh từ ngôi Thái cực, rồi xung đột và hòa hiệp để tạo thành trời đất, vũ trụ và
vạn vật. Cho nên theo Lão Tử, trong vạn vật đều có Âm Dương cụ thể đều cõng một Âm và bồng một
Dương. Do đó theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ được thành hình, trong khoảng không gian này là hư vô bao
la. Chỉ có duy nhất một chất sinh rất huyền diệu, đó là Đạo. Đạo biến hóa tạo ra Âm Dương rồi Âm Dương
xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật. Sau đó vạn vật được hóa sinh ra và tác động với nhau, có khi
phồn thịnh với nhau. Cuối cùng tan rã để trở về với trạng thái không vật không hình. Cũng tức là trở về
nguồn gốc của nó là Đạo.
3.2. Quan niệm về nhân sinh
Lão Tử quan niệm Đạo Trời không thân với ai mà cũng không sợ ai. Trời Đất đã sinh ra muôn vật gồm cây
cỏ, chim muông và nhân loại. Khi sinh ra không phải nhằm để chúng ăn thịt nhau mà là các sinh vật đều
khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng lẫn nhau và bổ trợ nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đạo giáo không coi
trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Đạo giáo không coi trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Lão
Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú và ông xem việc sống như một nghĩa vụ. Do đó không yếm thế, không lạc
quan đồng thời xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên. Lão Tử rất ghét những người ham mê
danh lợi và quá coi trọng cái xác thịt. Đây chỉ là cái xác thịt giả tạm không đáng quý nó còn là mối lo cho
người ta. Thứ đáng quý nhất là khi người ta đem thân ra phụng sự cho thiên hạ. Lão Tử khuyên người đời
không nên quá thiên về đời sống vật chất, phải biết tiết chế lòng ham muốn. Con người nên chú trọng tinh
thần và lấy cái tâm đè nén cái khí, thà rằng bỏ cái thân này mà giữ được Đạo và Đức còn hơn. Đạo giáo
không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng hay Địa ngục. Nhưng có nói một cách tổng quát về gốc
tích của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra rồi cuối cùng thì trở về là Đạo, hòa vào Đạo và tu trong Đạo.
4. Đạo giáo có ở những đâu, ảnh hưởng như thế nào?
Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ
thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa lý. Vì xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt
và sự khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm được số người theo Đạo
giáo. Đặc biệt có nhiều người theo Đạo giáo sinh sống tại Đài Loan, nơi nhiều trường phái Đạo gia đã lánh
nạn Cách mạng văn hoá tại Trung Quốc lục địa. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng hơn 400 triệu tín đồ, chủ yếu
tập trung tại các nước như là Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải
ngoại. Trong tín ngưỡng Đạo Giáo cũng thường hay nhắc tới các vị Tiên và việc thờ cúng các vị Tiên là thể
hiện sự kính trọng với họ. Tuy nhiên, ở trong lý luận triết học Đạo giáo thì lại không quan trọng về vấn đề này.
5. Đạo giáo như một hệ thống Triết học
Sự phân biệt triết học Đạo giáo và tín ngưỡng Đạo giáo là một cách nhìn từ phương Tây và về mặt khái
niệm thì nó cũng không đủ rõ ràng. Nó có vẻ như là một phương tiện của nền Hán học châu Âu, được áp
dụng để có thể nắm bắt và miêu tả được những khía cạnh lịch sử Đạo giáo lâu dài một cách dễ dàng hơn.
Nhìn kĩ thì người Trung Quốc cũng đã có sự phân biệt vi tế trong cách gọi tên trào lưu này. Khi dùng từ Lão
Trang hoặc Đạo gia người ta liên tưởng đến khía cạnh triết học và từ Đạo giáo hoặc Hoàng Lão được dùng
để chỉ đến khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Đạo giáo cũng là một hiện tượng nhiều khía cạnh như
những tôn giáo khác. Trong dòng thời gian hơn hai nghìn năm qua, nhiều hệ thống và chi phái rất khác
nhau đã được hình thành. Do vậy mà sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo ở đây là một sự giản hoá quá
mức và trong giới học thuật người ta cũng không nhất trí có nên phân biệt như vậy nữa hay không, bởi vì nó
không tương thích với sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu. Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên
cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Đạo giáo vốn là chỗ tu-
hành, giáo dục và rèn luyện con người thành Tiên. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân
biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.