



















Preview text:
1. Anh chị hãy làm rõ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất – ý thức ? Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ đó trong hoạt động thực tiễn ?
*Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất – ý thức:
Nắm vững phép biện chứng duy vật, các thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khắc
phục những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và đưa ra kết luận: “Vật chất và ý
thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất”
-Vật chất quyết định ý thức:
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức •
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não người – cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,
sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên •
Ý thức là chức năng của bộ não con người với tư cách là một tổ chức tinh vi, phức tạp, hoàn thiện.
Vậy nếu không có con người, không có bộ não thì cũng không có ý thức
+ Thứ 2, vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức luôn là sự phản ánh hiện thực khách quan (thế
giới vật chất) vào bộ não con người Do đó nội dung của ý thức luôn bị quy định bởi hiện thực khách quan.
Vậy nên nếu không có thế giới vật chất thì cũng không thể có ý thức.
+ Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: •
Bản chất của ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não con người. •
Con người có thể phản ánh năng động, sáng tạo được là do hoạt động vật chất (hoạt động thực tiễn) •
Thông qua hoạt động thực tiễn, con ng phản ánh sáng tạo về thế giới, và cũng thông qua hoạt
động thực tiễn, con người quay trở lại cải tạo xã hội, hoạt động thực tiễn ấy chính là hoạt động vật chất
+ Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Ý thức là sự phản ánh lại hiện thực khách quan mà hiện thực khách quan (thế giới vật chất) từ tự nhiên
đến xã hội đều vận động, phát triển không ngừng, vì thế ý thức của con người cũng vận động và phát triển không ngừng.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
+ Thứ nhất, tuy ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người, bị thế giới vật chất quy
định nhưng nó vẫn có quy luật vận động và phát triển riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất. Ý
thức tác động trở lại thế giới vật chất và thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
+ Thứ hai, ý thức có thể quay trở lại cải biến thế giới vật chất, phục vụ cuộc sống của con người thông
qua hoạt động thực tiễn. Con người dựa vào tri thức, hiểu biết để đề ra mục tiêu, phương hướng, biện
pháp để thực hiện mục tiêu đã xác định. Điều đó được minh chứng bằng toàn bộ sự phát triển của nền
văn minh nhân loại. Con người đã tạo ra giới tự nhiên thứ hai là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần của nhân loại. Nền văn minh vật chất, tinh thần của con người tiến lên từ thời đại này qua thời đại khác.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời thay thế sức
kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng; điện thoại di động ra đời thay thế thư từ
truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng
lên,… + Thứ ba, vai trò của ý thức thể
hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. •
Nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ có tác động tích cực đến hoạt động của con người. •
Nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực thì sẽ tác động tiêu cực đến nhận thức và hành động của con người
VD: Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,... + Thứ tư, xã hội càng phát triển thì
vai trò của ý thức càng to lớn, đặc biệt trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Trong bối cảnh ấy, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của tri thức
là cực kỳ quan trọng, tri thức có tác dụng to lớn đối với sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
*Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất – ý thức trong thực tiễn: - Tôn trọng khách quan:
+ Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cơ sở cho các hoạt động của mình.
+ Khi nhận thức sự vật phải phản ánh chân thực đúng đắn, tránh bóp méo, làm sai lầm bản chất của sự vật.
+ Đồng thời cần tránh bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở cho
hoạt động sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.+ Phát huy tính năng động
chủ quan là phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức hay là vai trò tích cực của nhân tố con người.
+ Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể hiện ngay từ khi con người xác định đối tượng, mục
tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.
+ Cần phải chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, thiếu sáng tạo; tăng cường giáo dục, trau dồi tri thức,
bồi dưỡng đạo đức rèn luyện ý chí cách mạng.
- Trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
+ Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn, xét cho cùng là giải
quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần.
+ Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại
đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng tạo.
2. Anh chị hãy phân tích nội dung, tính chất và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật? *Khái niệm:
Là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau giữa các
mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
*Nội dung và tính chất phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến: –
Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động
lại là phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan. •
Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. •
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính
thống nhất vật chất của thế giới. –
Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất
là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải
phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ
bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, v.v..
Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt trong toàn bộ mối
liên hệ phổ biến nói chung. –
Phép bi ệ n ch ứ ng duy v ật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của
thế giới khách quan. Còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiến cứu của các ngành khoa học cụ thể.
*Ý ngh ĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến: –
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. •
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật
đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó
mới có thể nhận thức đúng về sự vật. •
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết
chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên,
và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. •
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ
của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát
huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu
hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Quy lu ậ t ph ủ đị nh c ủ a ph ủ đị nh
Quy lu ậ t l ượ ng v à ch ất –
Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời
gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể. •
Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải
chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại
và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều
kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. •
Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ
xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như
bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện
đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
3. Anh (chị) hãy phân tích vị trí, nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại?
Lượng của sự vật là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện
tượng; biểu thị số lượng, quy mô, trình tự, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng cũng như các thuộc tính của nó.
Giữa chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau bởi bất kì chất nào cũng có một lượng nhất định và
bất kỳ lượng nào cũng là lượng của một chất nhất định. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động
qua lại lẫn nhau một cách biện chứng.
Mặt khác, trong sự thống nhất đó cũng luôn tồn tại những mâu thuẫn, đối lập nhau vì chất của sự vật thì
tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra theo hai
hướng: sự tăng lên hay giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay hay biến đổi dần dần về chất. Tuy
nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Ở một
giới hạn nhất định nào đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật.
*Nội dung phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại:
-Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không
tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự
chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng
dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về
chất. Giới hạn đó được gọi là Độ.
-Trong giới hạn của độ, sự vật hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác.
Sự biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một
giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó được gọi là Điểm nút. Sự thay đổi
về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Đây chính là Bước nhảy trong qúa trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
-Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho
một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong qúa trình vận động, phát triển liên tục của sự vật. Trong thế
giới luôn luôn diễn ra qúa trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường
nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát
tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành
những sự khác nhau về chất”.
-Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ nhưng cũng mang trong mình tính mâu
thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì thường xuyên biến đổi còn chất có xu thế ổn định. Do đó, khi lượng
phát triển đến một mức độ nhất định nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất yếu là phải thay đổi
chất cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất, điễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động trở lại lượng của sự vật
trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
->Tóm lại: “Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong
khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới
ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Qúa trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng phát triển, biến đổi.
*Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại:
Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất ta có thể
rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác
động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần coi trọng cả hai chỉ tiêu về
phương diện chất và lượng để nhận thức một cách toàn diện về sự vật. Phương pháp này giúp ta tránh
được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Vì những thay đổi về lượng có khả năng tất yếu dẫn đến những thay đổi về chất của sự vật và ngược lại,
do đó, trong nhận thức và thực tiễn tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể
làm thay đổi về chất của sự vật. Đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay
đổi về lượng của sự vật.
Do sự thay đổi về lượng chỉ có thể làm thay đổi về chất của sự vật với điều kiện lượng phải tích lũy tới
giới hạn điểm nút; mặt khác theo tính tất yếu của quy luật thì khi lượng đã tích lũy đến điểm nút tất yếu
sẽ xảy ra bước nhảy của sự vật, vì vậy trong thực tiễn cần ta cần đồng thời khắc phục tư tưởng nôn nóng
tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh.
Bước nhảy của sự vật vô cùng đa dạng, phong phú cho nên, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự
vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể.
4. Anh (chị) hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường biện
chứng và ý nghĩa phương pháp luận của quá trình nhận thức chân lý?
Nhận định của V.I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý:
Theo V.I. Lênin, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách
quan là: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
*Phân tích khái quát quan điểm đó
Theo sự nhận định nói trên, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức sự phản ánh
đúng đắn đối với hiện thực khách quan) là một quá trình. Đó là quá trình bắt đầu từ “trực quan
sinh động” (còn gọi là nhận thức cảm tính) tiến đến “tư duy trừu tượng” (còn gọi là nhận thức lý
tính). Nhưng tư duy trừu tượng không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức mà nhận
thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng
minh tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng
chính là quy luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
+ Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận thức mà
con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật
khách quan, mang tính chất cụ thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối
quan hệ với sự quan sát của con người, ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ phản ánh được cái
hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính trong hiện thực khách quan mà
chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được.
Do đó, đây chính là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được
thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu
tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Đây là
giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có
tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình
thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
+ Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên
thực tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức, song chúng có
những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự
tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính
khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của
sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối
tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa
thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực
hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực
tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình
nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở
lại phục vụ thực tiễn.
+ Quy luật chung của quá trinh phát triển nhận thức:
Từ việc phân tích trên đây có thể thấy: quy luật chung của quá trình phát triển nhận thức là: … từ
thực tiễn đến nhận thức – từ nhận thức (đã có) lại trở về với thực tiễn (mới) – từ thực tiễn này lại
tiếp tục quá trình phát triển của nhận thức (mới), ….
Quá trình này lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trong đó, trình độ của nhận thức và
thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới
những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan, tiến dần tới chân lý ngày càng đầy đủ hơn. *Ý nghĩa
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó là các hoạt
động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một cách
tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình
này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ
có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về
thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lỷ là một trong những
điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận
động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát
triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một
quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn
để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó
5. Anh (chị) hãy phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất? ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ nói trên?
*Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất: -
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng
(phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực
lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của
quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để
tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình
thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời
sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với
nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương
ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản
xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và
phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và không
ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử
dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. -
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng nhưng
trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan:
quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn
lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản
xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có khả
năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo
chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ
sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù
hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực. -
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả năng
chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục
phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất của xã hội được
bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất
càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả
năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh
tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần
thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển
đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu
khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thông nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải
phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.
Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản
xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một
quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát
huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng
(tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ
không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh
tế thích hợp cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao
hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.
Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80 của thế kỷ XX,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo thật đúng yêu
cầu của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất hiện có không được bảo
tồn, tái tạo và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng
hoảng kinh tế lớn, buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải ách, đổi mới theo hướng
tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản suất, nhờ
đó lực lượng sản xuất của xã hội từng bước được phục hồi và phát triển.
6. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ nói trên?
*Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm các
yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý dân số …
trong đó phương thức sản xuất là quan trọng nhất.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng
cùng những tình cảm, tâm trạng…của cộng đồng, xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội, trong những
giai đoạn xã hội nhất định.
Vai trò quyết định tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội, tồn tại xã hội có trước, ý
thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. C-Mác và Ănghen đã
chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống
vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không
thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của 1 thời đại
nào đó cũng không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Chẳng hạn
trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người
còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế dộ công xã
nguyên thủy tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc
lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu,
ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn,
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư
tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô
dần dần bị xóa bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay
thế thì vị trí dặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xóa bỏ,
được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là
phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội nhất là phương thức
sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp
quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác
nhau thì đó là những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Bởi vậy, khi xã hội
phong kiến mất đi thì tư tưởng “vua bảo bề tôi chết, bề tôi phải chết”, ý thức phục tùng cũng không còn nữa.
Quan điểm duy vật lịch sử còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải 1
cách đơn giản trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Nghĩa là không phải bất cứ
quan điểm, tư tưởng, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
những quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những
mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Như vậy, triết học Mác-Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại
xã hội của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định nhưng ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối thể hiện ở:
-Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:
+ Lịch sử co thấy rằng nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu nhưng ý thức xã
hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại day dẳng, đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý xã hội ( truyền
thống, tập quán, thói quen…). Trong xã hội XHCN, nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa
trong xã hội cũ vẫn tồn tại như một lối sống ăn bám, lười lao động, tham nhũng….
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau :
5. Sự biến đổi tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể
không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
6. Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái ý thức xã hội.
7. Ý thức xã hội luôn gắn với những nhóm, những tập quán người, những giai cấp nhất định, vì
vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng phán tiến bộ lưu giữ và truyền
bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Vì vậy mà trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, chúng ta phải thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các lực lượng thù
địch, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tốt đẹp.
-Ý thức xã hội có thể vượt trội trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiến bộ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng
tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết
những nhiệm vụ mới do sự phát triển chin muồi của đời sống vật chất, của xã hội đặt ra.
VD: Ngày nay con người đã có ý thức tìm ra những hành tinh mới có sự sống ngoài Trái Đất như Sao Hỏa.
-Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
+ Ý thức xã hội mới có tính kế thừa ý thức xã hội cũ sau đó bổ sung và hoàn chỉnh cho phù hợp
với tồn tại xã hội đang phát triển. Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn
hung thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật….nhiều khi không phù hợp hoàn
toàn với những giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế, bởi vậy mà chúng ta cũng có thể
giải thích được một nước tuy có trình độ kinh tế phát triển kém nhưng tư tưởng lại phát triển ở
trình độ cao. VD: Ở nửa đầu thế kỷ XIX so với nước Pháp thì Đức có trình độ kinh tế lạc hậu hơn
nhưng đứng ở trình độ cao về triết học.
+ Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.
Một khi giai cấp nào lên cầm quyền thì xã hội đó chỉ kế thừa những gì phục vụ cho quyền lợi của
giai cấp đó và những giai cấp tiên tiến sẽ tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ
để lại. VD: Khi tiến lên XHCN, chúng ta cũng vẫn kế thừa những tư tưởng tốt đẹp của xã hội
phong kiến như truyền thống tôn sư trọng đạo, tinh thần yêu nước, những phong tục cưới xin
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc…nhưng bên cạnh đó thì những tư tưởng lạc hậu như “nhất
nam viết hữu thập nữ viết vô” hoặc những hủ tục lạc hậu sẽ dần bị bài trừ.
+ Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa XHCN. Văn hóa XHCN cần phải phát huy những thành tựu, truyền
thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác xít. Bởi
vậy trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm bản sắc dân tộc, luôn luôn tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm
giàu thêm cho nền văn hóa Việt Nam nhưng phải trên tinh thần hòa nhập nhưng không hòa tan.
-Sự tác dộng qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
+ Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ
thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác
động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt,
những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các
điều kiện vật chất. Các hình thái ý thức xã hội như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật có
tác động qua lại với nhau, trong đó ý thức chính trị có vai trò quan trọng nhất. Thông thường ở
mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên
hang đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
+ Chẳng hạn thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt, thời Trung Cổ ở
Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp truyền…Ngày nay thì
hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
-Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những tồn tại quan điểm duy tâm tuyết đối hóa vai trò của ý
thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng Ghen viết: “ Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật,
triết học ,tôn giáo, văn học, nghệ thuật..…đều dựa vào sự phát triển kinh tế. nhưng tất cả chúng
cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế “.
+ Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử
cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch
sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.
Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII,
XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xóa
bỏ chế độ tư bản. Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua 2 chiều
hướng.Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã
hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội nếu phản ánh sai tồn tại xã
hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội thông qua hoạt dộng của con người, trong đó thực
tiễn đóng vai trò quyết định.
->Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lấp tương đối của ý thức xã hội
chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình,
máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là 2 phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì
vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả 2
mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất
để thay đổi ý thức xã hội, mặt khác cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã
hội mới tất yếu dẫn đến những thay ddoooir to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà
ngược lại,những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội
Trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta, một mặt chúng ta phải coi trọng cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá
trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, phải tránh phạm
sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng
chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống của tinh thần xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để
phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương
thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Anh (chị) hãy trình bày: Giai cấp và nguồn gốc của giai cấp? vai trò cơ bản của đấu
tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp?
*Giai cấp và nguồn gốc của giai cấp
-Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp như sau: "Người ta gọi
là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng". Theo đinh nghĩa trên đây, thực chất của
sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập
nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định, do đó tất yếu dẫn tới việc "tập đoàn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập đoàn khác".
-Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: giai cấp nào nắm dược tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì
cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội, thực hiện được việc
chiếm đoạt lao động của giai cấp khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội
trong điều kiện có đối kháng giai cấp. -
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và tồn tại
của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và
tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn tới
khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác. Tuy nhiên, chỉ
có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuât vẫn chưa đủ để làm phát sinh giai cấp trong xã
hội nếu chưa có sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao
động tăng lên, do đó làm xuất hiện thời gian lao động thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự
dư thừa của cải tương đối của xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay
cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất không phải theo ý muốn chủ quan mà là tuân theo quy luật
khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển
nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã
đạt trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó đẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu
tranh giai cấp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của xã hội
xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. -
Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra với những hình thức,
mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của
các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển của mỗi cộng đồng
người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng
người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ
yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực về sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu
với sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng
đồng xã hội. Ngoài ra, trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
*Vai trò cơ bản của đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp
-Theo V.I.Lênin khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống
những người hữu sản hay giai cấp tư sản". Theo khái niệm này, thực chất của đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị
- xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề
mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm
vi và mức độ khác nhau.
-Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể
được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như:
đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị... Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu
tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể
có nhiều hình thức đa dạng khác.
-Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối
kháng giai cấp. Khi cái mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu
giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội trong vòng một "trật tự"
theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải
quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết
được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm qua đã từng tồn tại các kiểu nhà nước nhà nước chủ nô
thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời
cận đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức là công cụ bạo lực
có tổ chức nhằm khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao động. Cho dù
các hình thức của mỗi kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ
tập quyền hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị, cộng hòa
tổng thống, v.v.) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một - đó là công cụ chuyên chính giai
cấp của các giai cấp bóc lột trong lịch sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với các kiểu
nhà nước nói trên, nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới. là "nửa nhà nước",
"nhà nước không còn nguyên nghĩa đen cùa nó", tồn tại trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
-Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức. động lực của sự tiến bộ, phát
triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
->Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể
thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối
kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp
không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
-Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ,
phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền
sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn
đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị
- xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết
được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội.
Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải
quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
8. Anh (chị) hãy trình bày khái niệm, nguyên nhân, vai trò và ý nghĩa của cách mạng xã
hội đối với sự vận động và phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp? *Khái niệm
Cách mạng xã hội là khái niệm dùng để chỉ bước chuyển biến lớn của lịch sử xã hội loài người -
đó là bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội ở trình độ thấp lên một hình thái kinh tế - xã hội
ở trình độ cao hơn, được tiến hành trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...của xã hội. *Nguyên nhân
-Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản
xuất vật chất của xã hội, tức là mâu thuẫn giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng
sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách
kinh tế hay chính trị nào giải quyết được. Biểu hiện về mặt chính trị xã hội của mâu thuẫn đó là
đấu tranh giai cấp, đẫn đến bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội
-Nguyên nhân chủ quan là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức giai
cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, từ đó tạo ra phong trào đấu tranh giai
cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ
quan, tức tạo được thời cơ cách mạng thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ. *Vai trò, ý nghĩa
-Cách mạng xã hội là phương thức của sự vận động, phát triển xã hội có đối kháng giai cấp.
Thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội mà xã hội có giai cấp đối kháng không
ngừng vận động theo chiều hướng đi lên.
-Cách mạng xã hội là động lực của sự vận động, phát triển xã hội nhằm thay đổi chế độ xã hội
đã lỗi thời chuyển lên chế độ xã hội mới cao hơn
-Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể thay thế hình thái kinh tế -
xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Theo C.Mác, cách mạng xã hội là đầu tàu
của lịch sử. Chính nhờ cách mạng xã hội mà mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội được giải
quyết triệt để, tạo động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
-Nhận thức về vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội là cơ sở để nhận
thức tính khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời thấy rõ vai trò to lớn của cách
mạng vô sản trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
9. Anh (chị) hãy trình bày sản xuất hàng hóa là gì? phân tích điều kiện ra đời, đặc
trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa? *Khái niệm
Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm sản xuất ra nhằm thỏa mãn
nhu cầu của chính bản thân người sản xuất.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm sản xuất ra nhằm mục đích
trao đổi, mua bán trên thị trường.
*Điều kiện ra đời -
Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội: Là sự chuyên môn hóa người sản xuất
vào những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một vài loại sản
phẩm nhưng nhu cầu của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy, để thỏa mãn nhu
cầu người ta phải trao đổi sản phẩm cho nhau. -
Điều kiện thứ hai, sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất hàng
hóa: Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, là cho họ độc lập với nhau,
sản phẩm họ sản xuất ra là quyền thuộc sở hữu của họ. Mặt khác, phân công lao động xã hội lại
kéo con người ta xích lại gần nhau, phục vụ lẫn nhau. Từ đó dẫn đến sự ra đời của sản xuất hàng hóa *Đặc trưng -
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Theo chủ nghĩa MarxLenin thì trong
lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự cấp (tự túc,
tự cấp) và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản
phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất
như sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông
dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến... Trong khi đó, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế
trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thông qua việc trao đổi, mua bán. -
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội,
đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì
lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái
gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có
thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa. Theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã
hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa. *Ưu thế
So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa mang lại nhiều ưu thế vượt trội như:
-Thứ nhất, sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất.
+ Khai thác lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất,…
+ Thúc đẩy sự phát triển mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng mở rộng.
+ Phá vỡ tính tự cung tư cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm tăng năng
suất lao động và nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
+ Khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
-Thứ hai, quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính khép kín của
mỗi cá nhân, gia đình…..
+ Mở rộng quy mô lớn dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội phù hợp với xu thế thời đại.
+ Tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất… + Thúc đẩy sản xuất phát triển.
-Thứ ba, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị,
cung – cầu, cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, biết tính toán….
+ Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
+ Giảm chi phí sản xuất đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. -Thứ tư, sự phát triển
của sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước…
+ Nâng cao đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần.
Bên cạnh mặt tích cực của sản xuất hàng hóa cũng tồn tại nhiều mặt trái như phân hóa giàu-
nghèo, khủng hoảng kinh tế-xã hội, phá hoại môi trường sinh thái xã hội….
10. Anh (chị) hãy phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa? *Hai thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng:
+ Là công cụ hay tính có ích của vật thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
+ Số lượng giá trị sử dụng của 1 hàng hóa không phải ngay 1 lúc phát hiện ra được hết, mà
nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển khoa học kỹ thuật. Với ý nghĩa này, giá trị
sử dụng được xem có tính lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào sự phát triển của KH-KT.
+ Giá trị sử dụng hay công dụng của hang hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể, hang
hóa quyết định giúp thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Vói ý nghĩa này, giá trị sử dụng là 1 phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dung, nó là nội dung vật chất
của cải, không thể hình thức xã hội của cải đó như thế nào. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng
của tiêu dung đối với sản xuất.
+ Giá trị của hang hóa là giá trị sử dụng của xã hội vì giá trị sử dụng của hang hóa không phải
là giá trị sử dụng của người sản xuất trực tiếp mà là cho 1 người khác, cho xã hội thông qua trao
đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu
của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.
+ Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất
cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn như không khí rất cần cho cuộc
sống nhưng không phải hàng hóa. Như vậy, trong kinh tế hàng hóa, vật mang giá trị sử dụng
đồng thời cũng là vật mang giá trị trao đổi do lao động cụ thể làm ra. -Giá trị:
+ Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là 1 quan hệ về
số lượng, là tỉ lệ theo đó 1 giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
VD: 1m vải = 5kg thóc. Tức 1m vải có giá trị trao đổi = 5kg thóc
+ Hai hàng hóa khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có 1 cơ sở
chung nào đó. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm chung của lao động đều có 1
lượng lao động kết tinh ở đó. Chính vì thế mà nó trao đổi được với nhau. Vì vậy người ta trao
đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là traoddooir lao động hao phí của mình ẩn dấu trong hàng
hóa. -> Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. •
Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữ những người sản xuất hàng hóa •
Giá trị 1 phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hóa •
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện
của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
*Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa
C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là
lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây không phải là hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là
lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động
cụ thể, vừa là lao động trừu tượng. - Lao động cụ thể
+ Khái niệm : Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương
tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao
động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục; phương tiện
được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
+ Đặc trưng của lao động cụ thể: *
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng
nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. *
Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó
phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. *
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật phẩm, nó là một
điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. *
Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát
triển và sự áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm gương phản chiếu
trình độ phát triển kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời đại. *
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản giờ cũng
do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình
thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
- Lao động trừu tượng