-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Trải qua nhiều thập kỉ, con người chúng ta đã đạt nhiều thành tựu về khoa học, kinh tế, văn hóa...và giờ chúng ta đang sống trong thời đại của sự phát triển. Tuy nhiên Con người vội vã chạy đua với thời gian, mà rồi nhiều khi lãng quên đi những thứ xung quanh mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Trải qua nhiều thập kỉ, con người chúng ta đã đạt nhiều thành tựu về khoa học, kinh tế, văn hóa...và giờ chúng ta đang sống trong thời đại của sự phát triển. Tuy nhiên Con người vội vã chạy đua với thời gian, mà rồi nhiều khi lãng quên đi những thứ xung quanh mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
------------------------- TIỂU LUẬN
HP2 ĐƯG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
ĐẤU TRANH PHONG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - LIÊN HỆ VẤN ĐỀ PHÒNG CHỐNG
VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI
SINH VIÊN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN TẠI
Hà Nội,ngày 10 tháng 12 năm 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường......................2
1.1 Khái niệm................................................................................................2
1.2.Vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường.........................2
1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.......................................4
2. Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...............5
2.1. Khái niệm...............................................................................................5
3. Thực trạng Pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam................................6
3.1 Những thành tựu đạt được.......................................................................6
3.2. Những hạn chế còn tồn đọng và nguyên do...........................................7
3.2.1. Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản, môi trường đô thị...........7
3.2.2. Lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học.........................8
3.2.3. Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, làng nghề..................................9
3.2.4. Lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu và quản lý chất thải nguy hại
.................................................................................................................10
3.2.5. Lĩnh vực môi trường y tế và an toàn vệ sinh thực phẩm...............11
4. Biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.............11
5. Trách nhiệm của sinh viên...........................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................15 1 MỞ ĐẦU
Trải qua nhiều thập kỉ, con người chúng ta đã đạt nhiều thành tựu về khoa
học, kinh tế, văn hóa...và giờ chúng ta đang sống trong thời đại của sự phát triển.
Tuy nhiên Con người vội vã chạy đua với thời gian, mà rồi nhiều khi lãng quên
đi những thứ xung quanh mình. Sự phát triển kèm theo đó là nhiều hệ luỵ, đơn
giản nhất đó chính là những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường. Hiện tại môi
trường toàn cầu và khu vực có chiều hướng biến đổi phức tạp. Chất lượng không
khí, nguồn nước, tài nguyên, hệ sinh thái... nhiều nơi ở mức báo động. Ô nhiễm
môi trường và áp lực với thiên nhiên đang diễn ra hàng ngày và ở nhiều quốc
gia, khu vực và toàn trái đất. Và nhận thức được điều đó, trong những năm qua,
đặc biệt là một số năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc
thực hiện các biện pháp khác nhau để bảo vệ môi trường.
Một trong những công cụ quan trọng trong việc bảo vệ môi trường luôn
được Đảng và Nhà nước ta coi trọng đó là hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường. Môi trường chính là ngôi nhà của chúng ta, mái nhà ấy có thể đẹp hay
không, vững chãi hay không, mãi trường tồn hay không chính là nhờ vào sự bảo
vệ của mỗi cá nhân chúng ta . 2 NỘI DUNG
1. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1 Khái niệm
Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối,
chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, các cấp,
các ngành, là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững và thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.Vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường
Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Môi
trường bị hủy hoại chủ yếu là do sự “tác động quá mức” của con người đối với
các thành phần cấu tạo nên môi trường tự nhiên. Chính con người trong quá
trình khai thác các yếu tố của môi trường đã làm mất sự cân bằng sinh thái, gây
ô nhiễm, suy thoái thậm chí hủy hoại môi trường. Vì vậy, muốn bảo vệ môi
trường trước hết phải có những chế tài nhất định để hạn chế các tác động của
con người. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi
xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn vì vậy vai trò của pháp luật trong bảo
vệ môi trường được thể hiện qua những khía cạnh sau:
- Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi
khai thác và sử dụng các tài nguyên của môi trường.
Môi trường vừa là điều kiện sống, vừa là đối tượng tác động hàng ngày của
con người. Sự tác động đó làm thay đổi rất nhiều hiện trạng của môi trường theo
chiều hướng làm suy thoái môi trường, chính vì lý do đó mà con người cần phải
có ý thức trách nhiệm trong việc khai thác, sử dụng các tài nguyên của môi
trường có tính định hướng. Pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi
của các thành viên trong xã hội có tác dụng rất to lớn trong việc định hướng
quá trình khai thác và sử dụng môi trường. Các chế định hay điều luật cụ thể
quy định những quy tắc xử sự buộc mỗi cá nhân, tổ chức phải tuân theo những quy định đó.
- Pháp luật xây dựng hệ thống các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi
trường để bảo vệ môi trường. 3
Các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi trường này thực chất là những
quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật (dựa trên các thông số môi trường cụ thể đất,
nước, không khí,…) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành bằng các
văn bản pháp lý nên chúng trở thành tiêu chuẩn pháp lý (có tính bắt buộc áp
dụng) mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tuân thủ nghiêm ngặt khi khai
thác, sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường. Các quy chuẩn môi
trường, tiêu chuẩn môi trường là cơ sở pháp lý cho việc xác định có vi phạm
pháp luật về môi trường hay không, đồng thời cũng là cơ sở cho việc truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi vi
cụ thể về môi trường.
- Phát luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự buộc
các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đòi hòi pháp luật trong
việc khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
Việc xây dựng và đưa ra các tiêu chuẩn để định hướng quá trình khai thác, sử dụng
các thành phần của môi trường có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế không
phải tất cả các quy tắc, các tiêu chuẩn được quy định đều được tuân thủ một cách nghiêm
túc và triệt để. Quá trình tham gia khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường, con
người thường có xu hướng vi phạm vào các tiêu chuẩn đó ở các mức độ khác nhau, tùy
theo tính chất mức độ nhưng có xu hướng ngày càng đa dạng về hành vi, nghiêm trọng về
hậu quả tác hại. nếu ở đó có sự hiện diện mâu thuẫn giữa nhu cầu bức bách của cuộc
sống và yêu cầu bảo vệ môi trường.
- Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường là một công việc rất khó khăn và phức tạp, các thành
phần của môi trường rất phức tạp, có kết cấu đa dạng và phạm vi rộng mà một cơ
quan, tổ chức hay cá nhân không thể bảo vệ hoặc kiểm soát được mà đòi hỏi phải có
một hệ thống các cơ quan thích hợp. Pháp luật có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra
cơ chế hoạt động hiệu quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường. Cụ thể là thông qua
pháp luật, Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức trong
công tác bảo vệ môi trường.
- Giải quyết các tranh chấp liên quan đến bảo vệ môi trường. 4
Trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường thì giữa các
cá nhân, tổ chức có thể xảy ra những tranh chấp. Các tranh chấp đó có thể là giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với doanh nghiệp; giữa cá nhân, doanh nghiệp với Nhà
nước…và pháp luật với tư cách là “hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử
sự” sẽ giải quyết các tranh chấp đó trên cơ sở những quy định đã được ban hành.
1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Ở tầm Luật và Pháp lệnh, việc ả b o ệ v môi trường đượ c quy định bởi Luật
Bảo vệ môi trường (ban hành năm 1993 và được thay thế bởi Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 kể từ ngày 01/7/2006) và các văn bản có liên quan. Hiện nay
có 33 Luật và 22 Pháp lệnh có nội dung liên quan tới công tác bảo vệ môi
trường. Trong hệ thống các Luật, Pháp lệnh về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ
môi trường có thể coi là đạo luật trung tâm trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 gồm 136
điều được chia làm 15 chươ đị ng quy nh 14 nhóm vấ đề n quan trọng sau đây:
- Phạm vi, đối tượng điều chỉnh, nguyên tắc, chính sách về bảo vệ môi trường của Việt Nam;
- Tiêu chuẩn môi trường;
- Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam
kết bảo vệ môi trường;
- Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên;
- Các biện pháp bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;
- Các yêu cầu và biện pháp bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư;
- Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác; - Quản lý chất thải;
- Các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô
nhiễm và phục hồi môi trường;
- Quan trắc và thông tin về môi trường;
- Nguồn lực bảo vệ môi trường; 5
- Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường: thực hiện đ iều ước quốc tế ề v
môi trường; bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn
cầu hoá; mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường;
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ, Bộ Tài nguyên
và Môi trường, các Bộ, ngành khác, Ủy ban nhân dân các cấp), Mặt trận tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên về bảo vệ môi trường.
- Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại về môi trường.
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường còn có các đạo luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố
môi trường (còn gọi là các đạo luật, pháp lệnh về tài nguyên). Ngoài ra, quy định ề
v nghĩa vụ bảo vệ môi trường ặ
ho c nghĩa vụ tuân thủ các quy đị nh của
pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân còn nằm rải rác
trong nhiều đạo luật khác. Bên cạnh đó, một số đạo luật, pháp lệnh còn quy
định cụ thể việc xử lý vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường hay một số đạo luật, pháp lệnh có những nội dung quan trọng liên
quan đến vấn đề tài chính trong bảo vệ môi trường.
2. Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
2.1. Khái niệm
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy định của
Nhà nước về bảo vệ môi trường, xâm phạm đến các thành phần của môi trường
làm thay đổi trạng thái, tính chất của môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn
tại, phát triển con người và sinh vật, mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.
Như vậy, tội phạm về môi trường trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có tác động tiêu cực và gây tổn hại ở mức độ đáng kể đến các yếu tố của môi
trường, tài nguyên gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản của con người, đến sự sống của động vật, thực vật sống trong môi trường đó. 6
Thứ hai, tội phạm về môi trường phải xâm hại đến các quan hệ được luật
hình sự bảo vệ. Đó là sự trong sạch, tính tự nhiên của các thành phần môi
trường, sự cân bằng sinh thái, tính đa dạng sinh học,… tạo nên điều kiện sống,
tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
Ngoài ra, để phân biệt tội phạm về môi trường với các loại tội phạm khác cần
dựa vào yếu tố môi trường. Sự khác biệt đó thể hiện, tội phạm về môi trường tác
động đến các thành phần của môi trường dẫn đến làm thay đổi trạng thái, tính chất
của môi trường hoặc xâm phạm đến quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi
phạm các quy định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường do các cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm, theo quy
định phải bị xử lý vi phạm hành chính.
3. Thực trạng Pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam
3.1 Những thành tựu đạt được
Mặc dù bảo vệ môi trường là một vấn đề còn mới nhưng các văn bản
có liên quan đến bảo vệ môi trường cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường đã
từng bước được hoàn chỉnh và khẳng định là một vấn đề hệ trọng và ngày
càng được quan tâm, được thể chế hoá vào hầu hết các ngành luật
Từ những đánh giá tổng quan về pháp luật bảo vệ môi trường, khái
quát lại, thành tựu trong công tác xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường được thể hiện tập trung ở những điểm sau:
Một là, hệ thống pháp luật quy định về bảo vệ môi trường ở nước ta từ
năm 1993 đến nay đã phát triển cả nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh tương
đối đầy đủ các yếu tố tạo thành môi trường.
Hai là, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ
các thành phần môi trường, nội dung các quy định đã cụ thể hoá tương đối kịp
thời và đầy đủ các chủ trương của Đảng cũng như những cam kết quốc
tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên.
Ba là, bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia các điều ước quốc
tế về môi trường… Việc gia nhập các công ước này là tiền đề quan trọng 7
cho việc hội nhập của pháp luật Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy
phạm của pháp luật quốc tế.
Bốn là, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tập
trung vào một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường là đúng
hướng, tuy nhiên vẫn chưa triệt để. Bởi việc quản lý tài nguyên vẫn còn
nằm rải rác ở một số bộ, ngành, điều này dẫn tới cơ chế phối hợp trong
quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.
3.2. Những hạn chế còn tồn đọng và nguyên do
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường diễn biến rất phức tạp, phổ biến trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Tội
phạm môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí
hậu, chất lượng môi trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Trên một số địa bàn, lĩnh
vực, hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường gây phức tạp tình
hình an ninh trật tự, trong đó điển hình ở một số lĩnh vực sau: 3.2.1.
Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản, môi
trường đô thị
- Cả nước hiện có khoảng 223 khu công nghiệp (trong đó có 171 khu đã
hoạt động, 52 khu đang trong quá trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật) và khoảng
trên 1000 khu/cụm công nghiệp do UBND các tỉnh, thành phố quyết định thành
lập. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chỉ có khoảng
43% số khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập
trung (kể cả các hệ thống hoạt động chưa hiệu quả).
+ Nguyên nhân chính của tình hình trên là do các chủ doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất không thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về môi trường,
không lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) theo quy định; Không
lập Báo cáo ĐTM bổ sung khi thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất; Không xử lý
chất thải, các chất độc hại để giảm thiểu ô nhiễm trước khi xả thải vào môi
trường; Không đầu tư hệ thống xử lý nước thải công nghiệp theo quy định hoặc
có nhưng không vận hành hoặc chỉ vận hành để đối phó.
- Ô nhiễm môi trường ở khu vực đô thị ngày càng gia tăng, chủ yếu là ô
nhiễm không khí do phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng và chất thải 8
sinh hoạt. Tại nhiều dự án xây dựng khu đô thị, khu chung cư, công tác đánh giá
tác động môi trường chỉ mang tính thủ tục.
+ Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do việc chấp hành pháp luật
bảo vệ môi trường trong lĩnh vực xây dựng cơ bản gần như bị xem nhẹ trong
thời gian dài, các yêu cầu bảo vệ môi trường trong quá trình triển khai dự án hầu
như chỉ mang tính thủ tục, thiếu cơ chế giám sát thực hiện. 3.2.2.
Lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học
- Tình hình vi phạm pháp luật môi trường trong lĩnh vực khoáng sản diễn ra
nghiêm trọng. Hiện cả nước có trên 1.500 tổ chức tham gia hoạt động thăm dò,
khai thác khoáng sản, nhưng hầu hết đều không chấp hành nghiêm túc quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường. Các hành vi vi phạm phổ biến là: không thực
hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam
kết bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản; không
thực hiện việc xây dựng công trình xử lý nước thải hoặc thực hiện không đúng
những nội dung xây dựng công trình xử lý chất thải trong bản đăng ký đạt tiêu
chuẩn môi trường; Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép; không phục hồi,
hoàn thổ hoàn nguyên môi trường sau khai thác...
+ Nguyên nhân của tình trạng trên, một mặt do các cơ sở khai thác, kinh
doanh khoáng sản không chấp hành nghiêm túc pháp luật bảo vệ môi trường,
dùng nhiều phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm; mặt khác do điều
kiện các điểm khai thác đều nằm ở các vùng sâu, vùng xa, trong khi công tác
quy hoạch mỏ, quản lý nhà nước về lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức.
- Trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, theo thống kê sơ
bộ, mỗi năm bình quân xảy ra 7.000 – 8.000 vụ phá rừng, làm mất gần 6.000
ha/năm; khoảng gần 20.000 vụ vận chuyển, chế biến lâm sản trái phép. Phương
thức thủ đoạn vi phạm phổ biến như: Thuê người dân địa phương khai thác, vận
chuyển gỗ, thu gom, tập kết gỗ tại những điểm bí mật rồi tổ chức vận chuyển
đến nơi tiêu thụ; dùng hóa chất, chặt, đốt cho cây chết dần để khai thác; thường
xuyên thay đổi phương tiện vận chuyển; sử dụng giấy tờ hợp pháp để quay vòng
nhiều lần; làm giả dấu búa kiểm lâm; vận chuyển với khối lượng dưới mức bị 9
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu bị bắt giữ, tịch thu hàng hóa thì tìm cách mua thanh lý…
+ Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do lợi nhuận rất cao từ việc
buôn bán lâm sản, động vật hoang dã quý hiếm, nên các đối tượng lợi dụng các
sơ hở trong chính sách pháp luật, những khó khăn trong cơ chế quản lý của
chính quyền và cơ quan chuyên ngành các cấp để thực hiện các hành vi vi phạm.
Nhu cầu về sử dụng các loại lâm sản, sản phẩm từ động vật rừng là rất lớn, nên
đó cũng là điều kiện thuận lợi cho các đối tượng vi phạm.
3.2.3. Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, làng nghề
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cùng với việc phát triển chăn
nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản, cây lượng thực, hoa màu kéo theo
tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là ô nhiễm nguồn nước tại các
sông, kênh, hồ, mương, đồng ruộng, ô nhiễm không khí ở khu vực nông thôn.
+ Nguyên nhân của tình trạng trên là do phần lớn lượng chất thải từ chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản không được xử lý mà thải trực tiếp ra kênh mương,
đồng ruộng; lạm dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật; vỏ bao thuốc bảo vệ
thực vật không được thu gom, xử lý triệt để. Công tác quy hoạch vùng chăn
nuôi, quản lý môi trường ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm
đúng mực, gần đây mới chỉ chú trọng đến việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm đối với hàng nông sản thực phẩm.
- Hiện nay, cả nước có 98 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, trong đó
chỉ có khoảng 1/3 tổng số cơ sở nằm trong các khu công nghiệp tập trung, còn
lại nằm rải rác bên ngoài, xen kẽ trong các khu dân cư gây khó khăn cho công
tác quản lý, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Cả nước hiện có 260 kho
thuốc bảo vệ thực vật, chủ yếu là các loại thuốc quá hạn sử dụng là tang vật của
một số vụ việc vi phạm chưa được xử lý, có từ kết quả công tác thanh tra, kiểm
tra, điều tra xác minh theo thủ tục tố tụng hình sự, hành chính còn tồn đọng,
phần lớn số thuốc này chưa được tiêu huỷ theo đúng quy định, công tác lưu giữ,
bảo quản chưa được quan tâm đúng mức, gây tác động xấu đến môi trường, ô
nhiễm nặng tới môi trường đất và nguồn nước. Trong đó có 14 kho thuốc bảo vệ
thực vật nằm trong diện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng". 10
+ Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do là do công nghệ sản xuất ở
các làng nghề rất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ thường là hộ cá thể, không đủ
năng lực tài chính, kỹ thuật để đầu tư công nghệ xử lý chất thải, một phần do
hiểu biết và ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân còn hạn chế, do tập quán,
lịch sử để lại, một mặt khác có không ít cơ sở tại các làng nghề chỉ chạy theo lợi
nhuận, cố tình không xử lý chất thải nhằm giảm thiểu chi phí; Chưa có cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường ở các làng nghề hoặc công tác quản lý môi
trường lĩnh vực này còn lỏng lẻo, hạn chế và chồng chéo. 3.2.4.
Lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu và quản
lý chất thải nguy hại
- Tình trạng nhậu khẩu trái phép rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại,
phế liệu chưa được làm sạch vào Việt Nam diễn biến phức tạp. Mỗi năm có
hàng trăm nghìn tấn rác thải, phế liệu được nhập khẩu vào nước ta như nhựa phế
liệu, sắt phế liệu, thiết bị máy tính cũ, ắc quy chì cũ... Có dấu hiệu hình thành
các băng, ổ nhóm, đường dây vận chuyển, kinh doanh rác. Tình trạng trên xảy ra
phổ biến ở các cảng biển lớn như Hải Phòng, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh,
chưa kể lượng hàng hóa được nhập lậu qua cửa khẩu, đường biên giới, nhất là
khu vực biên giới Tây Nam. Phương thức, thủ đoạn mà đối tượng vi phạm
thường sử dụng là khai báo gian dối, ngụy trang tinh vi, lợi dụng chính sách tạm
nhập tái xuất, nhập nguyên liệu sản xuất, khi bị phát hiện thì từ chối nhận hàng
với lý do gửi nhầm, lập công ty ma... Điển hình các vụ của Công ty cổ phần
Cửu Long Vinashin, Công ty TNHH Thế kỷ mới, Công ty cổ phần Kim khí Sài
Gòn, Công ty TNHH Anh Trang...
+ Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do các tổ chức, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực trên thu được lợi nhuận rất cao từ việc nhập khẩu, kinh
doanh rác thải nên thường xuyên cố tình vi phạm; Hệ thống văn bản pháp luật
có liên quan đến lĩnh vực này chưa rõ ràng, cụ thể, do đó dẫn đến khó khăn,
vướng mắc trong công tác quản lý, công tác điều tra, xử lý; Công tác quản lý
nhà nước của các cơ quan chức năng tại một số địa phương có phần còn buông lỏng.
- Trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại, số lượng chất thải nguy hại
phát sinh từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, lĩnh vực y tế, từ các vụ
vi phạm pháp luật trong nhập khẩu phế liệu... rất lớn (tính riêng lượng chất thải 11
nguy hại từ các làng nghề trên toàn quốc ước đạt trên 2800 tấn/ngày) nhưng
chưa được xử lý đúng quy định pháp luật.
+ Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do nhiều doanh nghiệp, cá
nhân chỉ chạy theo lợi nhuận, cố tình không xử lý chất thải nguy hại nhằm giảm
chi phí; do nhu cầu mưu sinh từ trước đến nay nhiều nơi trở thành nghề có thu
nhập; năng lực xử lý chất thải nguy hại chưa đáp ứng đủ nhu cầu; hệ thống pháp
luật và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này chưa chặt chẽ, có nơi thiếu sự quan tâm thỏa đáng. 3.2.5.
Lĩnh vực môi trường y tế và an toàn vệ sinh thực phẩm
- Hiện nay, trên toàn quốc có khoảng 13.640 cơ sở khám chữa bệnh các
loại với tổng số hơn 220.000 giường bệnh (trong đó có khoảng 1.300 cơ sở
khám chữa bệnh tuyến Trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành). Với số lượng
như trên, tổng lượng chất thải rắn y tế phát sinh khoảng 500 tấn/ngày, trong đó
tỷ lệ chất thải y tế nguy hại chiếm khoảng 20%, chưa tính hàng triệu m3 nước thải y tế3.
+ Nguyên nhân của tình trạng trên là do công tác quản lý chất thải y tế chưa
được chú trọng, bị buông lỏng trong một thời gian dài trước khi có những vụ
việc mang tính cảnh báo; Nhu cầu khám chữa bệnh tăng cao trong khi kinh phí
đầu tư hạ tầng của các cơ sở khám chữa bệnh chưa đáp ứng, có tình trạng vừa
hoạt động vừa xây dựng; Một số bệnh viện, cơ sở y tế và nhân viên coi thường
pháp luật, cố tình thực hiện hành vi vi phạm vì động cơ vụ lợi.
- Trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, tình hình vi phạm diễn ra rất
nghiêm trọng, nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua đường thực
phẩm, số người mắc bệnh và tử vong do ăn phải thực phẩm không an toàn ngày một tăng cao.
+ Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do sự suy giảm đạo đức kinh
doanh của một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, chỉ chú trọng lợi nhuận, bất chấp
sức khỏe người tiêu dùng; Thói quen, ý thức tiêu dùng, mức sống của một bộ
phận nhân dân, nhất là khu vực nông thôn còn thấp, thường không đề cao chất
lượng, chủ yếu chỉ chú ý giá cả… 12
4. Biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phối hợp với các cơ quan có liên
quan tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân
nâng cao nhận thức và trách nhiệm, tham gia tích cực vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; Đa
dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ
trương, pháp luật, các thông tin về môi trường và phát triển bền
vững cho mọi người, đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên; đưa
nội dung giáo dục về bảo vệ môi trường vào chương trình, sách
giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân. Tạo thành dư luận
xã hội lên án nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường đi đôi với việc áp dụng các chế tài,
xử phạt nghiêm các vi phạm.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi
trường, trước mắt hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự; xây dựng
và ban hành quy định giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường gây ra.
Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan, ban ngành có
liên quan trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện cơ chế tổ chức và đảm bảo thực hiện pháp
luật về bảo vệ môi trường.Tăng cường nắm bắt tình hình, thanh
tra kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp luật môi
trường.Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở, địa bàn có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh
phòng chống tội phạm về tài nguyên môi trường, tập trung xử lý các cơ sở sản
xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tăng cường giám sát công khai đầy
đủ, kịp thời thông tin về chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu công
nghiệp tập trung, khu đông dân cư. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi
trường ở các cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn. 13
Xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi ,
trường xác định rõ trách
nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước, cá nhân, tổ chức và cộng
đồng, đặc biệt đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các
doanh nghiệp, nhà máy, các cơ sở sản xuất và dịch vụ trong công tác . bảo vệ môi trường
Áp dụng các biện pháp kinh tế trong phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường,
thực hiện nguyên tắc người có hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường, gây thiệt hại đối với môi trường phải khắc phục hậu
quả, bồi thường thiệt hại.
Tăng cường nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ
và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cho công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
5. Trách nhiệm của sinh viên
- Nắm vững các quy định của pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường;
- Xây dựng ý thức trách nhiệm trong các hoạt động bảo vệ môi trường như
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên (nước, năng lượng,…);
- Tham ra tích cực trong các phong trào về bảo vệ môi trường;
- Xây dựng văn hóa ứng xử, ý thức thức trách nhiệm với môi trường như
sống thân thiện với môi trường xung quanh; tích cực trồng cây xanh; hạn chế sử
dụng các phương tiện giao thông cá nhân để bảo vệ môi trường không khí; tham
gia thu gom rác thải tại nơi sinh sống. 14 KẾT LUẬN
Bảo vệ môi trường, bảo vệ ngôi nhà của chúng ta, không có môi trường ta
sẽ không có chốn ăn chốn ở, không thể có sự sống nếu thiếu môi trường. Môi
trường tốt, đời sống chúng ta cũng đẹp. Chỉ khi môi trường tồn tại ta mới tồn tại.
Bởi thế bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta. Ngày nay, đứng trước nguy
cơ ô nhiễm môi trường, con người đã và đang có những biện pháp tích cực khắc
phục hậu quả đã gây ra và tránh những tác động xấu sẽ đến. Chính phủ đã ban
hành hàng loạt các văn bản về bảo vệ môi trường nhằm xử lý, rác thải; răn đe
những tổ chức, cá nhân có hành vi làm tổn hại đến môi trường. Chúng ta có
ngày “Giờ Trái đất 24/3”, có những chương trình chung tay góp sức bảo vệ trái
đất xanh sạch đẹp, có những hoạt động nhặt rác, thu gom rác trên biển, trong
rừng,… Nhiều đất nước đề ra những khoản luật cấm vứt rác, cấm hút thuốc,… 15
để bảo vệ môi trường. Nhiều nước khuyến khích người dân đi xe đạp, đi bộ
giảm tải khói bụi từ các loại xe sử dụng xăng. Toàn thế giới đang chung tay giữ
gìn một thế giới xanh đẹp, không có ô nhiễm môi trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Huy Hiệp và các cộng sự (2017), Giáo trình Giáo dục Quốc phòng –
An ninh (Tập một), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
2. Luận văn “ Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6193/1/00050000681.p df
3. Thực trạng tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường trong giai đoạn
hiện nay, một số nguyên nhân và giải pháp (tapchicongthuong.vn)
4. Một số vấn đề về môi trường ở Việt Nam hiện nay- thực trạng và giải pháp (hdll.vn)
5. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay (luatduonggia.vn) 16