/58
lOMoARcPSD| 61265515
6. Đầu tư phát triển tác động đến KH_CN của mỗi quốc gia
Trang 49 Liên
hệ:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ, nhất là ở
các nước đang phát triển như Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu trong chính sách phát triển quốc gia.
Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước
Trên sở các quan điểm của Đảng Nhà nước, môi trường chính sách pháp luật điều
chỉnh hoạt động khoa học công nghệ trong những m qua liên tục được cải tổ đổi mới mạnh
mẽ. Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 ra đời, thay thế cho Luật Khoa học và công nghệ năm
2000.
Tiếp theo, là các nghị định, thông tư đã ra đời để cụ thể hóa Luật như: Thông tư liên tịch số
121/2014/TTLT-BTC- BKHCN ngày 25/8/2014 của liên bộ Tài chính - Khoa học và Công nghệ
hướng dẫn xây dựng dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường
xuyên theo chức năng của tổ chức khoa học công nghệ công lập; Thông liên tịch số
16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 hướng dẫn việc quản lý, xử tài sản được hình
thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà
nước; Thông liên tịch số 55/2015/TTLT-BTCBKHCN ngày 22/4/2015 hướng dẫn định mức xây
dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệsử dụng
ngân sách nhà nước; Thông liên tịch s27/2015/TTLT/BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 quy
định khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng Ngân sách nhà nước…
Hiện nay, hoạt động khoa học công nghệ phần lớn được đầu từ ngân sách nhà nước.
Điều này đã được cụ thể hóa nét Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính
phủ quy định về đầu chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ. Bình quân
hàng năm, đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ với mức kinh phí vào
khoảng 1,4 - 1,85% tổng chi ngân sách nhà nước, chiếm từ 0,4 đến 0,6 GDP.
Đầu từ ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ từ năm 2006 đến năm 2015 đều
có xu hướng tăng: Năm 2006 là 5.429 tỷ đồng, đến năm 2015 đạt 17.390 tỷ đồng, qua đó cho thấy
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
Trong tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ là
13.390,6 tỷ đồng thì đầu từ ngân sách nhà nước chiếm hơn một nửa: 7.591,6 tỷ đồng (tương
đương 56,7%), trong khi nguồn đầu từ doanh nghiệp là 5.597,3 tỷ đồng đạt 41,8%, còn lại chỉ
có 201,7 tỷ đồng (tương đương 1,5%) là từ nguồn vốn nước ngoài.
Nhìn chung, đầu từ ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ đóng vai trò hết sức
quan trọng, và trong tổng đầu tư cho khoa học và công nghệ chủ yếu đầu tư tập trung vào: (i) Đầu
tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật, các nhiệm vụ Nhà nước 50%; (ii) Con
người chiếm 25%; (iii) Đầu tư để hỗ trợ đề tài cấp Bộ, ngành
15%; Đầu để tăng cường sở vật chất chiếm 15%. Và đầu từ ngân sách nhà nước để phát
triển khoa học công nghệ được phân cấp: Ngân sách trung ương thường chiếm tỷ trọng từ 70-
lOMoARcPSD| 61265515
75% ngân sách địa phương chiếm tỷ trọng 25- 30% (theo báo cáo của Bộ Khoa học công
nghệ).
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ đã đạt được những kết
quả sau:
Thứ nhất, luôn nguồn đầu chủ yếu, bản cho hoạt động nghiên cứu khoa học; góp
phần quan trọng vào quá trình thúc đẩy phát triển đào đạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ
(bình quân hàng năm chi ngân sách nhà nước cho hoat động khoa học công nghchiếm khoảng
2% tổng chi của ngân sách nhà nước, tương đương 0,6 GDP và tăng bình quân mỗi năm là 19%).
Thứ hai, đã có sự thay đổi về cơ cấu, phân cấp để phù hợp với nhu cầu nguồn lực đầu tư hiện
tại, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ phát triển bền vững.
Thứ ba, sở pháp lý vđầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ngày càng
hoàn thiện hơn, chi tiết cụ thể hóa nét hơn. Cụ thể, gồm 38 văn bản cấp Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ (Nghị định, Quyết định), 88 văn bản cấp Bộ (Thông tư, Thông tư liên tịch).
Tuy nguồn đầu từ ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học công nghệ thời gian
qua đã có được những kết quả nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
Một là, hàng năm, mặc dù đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đã có tăng
nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ với nhu cầu phát triển, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới
khoa học công nghệ như hiện nay. So với các nước, nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước để
đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế, ở Việt Nam ngân sách nhà nước đầu
cho khoa học công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP, còn châu Âu năm 2013 2,01%, Nhật Bản
năm 2013 là 3,47%, Mỹ năm 2012 là 2,81%...
Hai là, việc phân bổ ngân sách nhà nước để phát triển khoa học và công nghệ còn phân tán,
dàn trải, thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên, chưa đảm bảo theo những tiêu chí ràng, thiếu
chế minh bạch (Chủ yếu tập trung chi cho bộ máy; Chi cho đào tạo cán bộ khoa học công
nghệ còn ở mức thấp khoảng 1.000USD/người/năm, trong khi mức chi trung bình ở các nước phát
triển 55.000USD/người/năm; Chi lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ cũng
còn thấp)… do đó dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp.
Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
còn thấp. Bởi hiện nay chưa xây dựng được một cơ chế thực sự phù hợp, từ đó để gắn kết phân bổ
ngân sách nhà nước cho các tổ chức khoa học và công nghệ với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể về
các sản phẩm khoa học và công nghệ mà các đơn vị nghiên cứu cần thực hiện.
7. Phân tích các tác động của hoạt động đầu tư đến môi trường
(Trang 51,52)
Liên hệ Việt Nam:
Ngoài vấn đề đem lại việc làm, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống thì hoạt động đầu
những tác động đến môi trường. Với sự phát triển ,đầu của khoa học thuật những
lOMoARcPSD| 61265515
nghiên cứu mới giúp chúng ta tìm ra được các giải pháp nhằm hạn chế sự thay đổi của môi trường.
Chúng ta đã biết cách đầu tư vào các công trình xây dựng, tận dụng các dạng năng lượng tự nhiên
mới thay thế cho các năng lượng truyền thống như: năng lượng gió, mặt trời, thủy triều, điều này
góp phần hạn chế việc khai thác sdụng các năng lượng cũ, giảm sự phát thải các chất khí gây
hiệu ứng nhà kính.
Có các chính sách đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khuyến lâm. Một diện tích rừng bị mất
trước kia nay đang được phục hồi dần dần,tuy các diện ch rừng trồng lại không nhiều giá trị
như rừng nguyên sinh, song nó cũng góp một phần vào việc phục hồi dần dần chất lượng của môi
trường hiện nay.
Tiêu cực: một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng, làm biến đổi
hệ sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong dư
luận nhân dân. Người ta đã đề cập rất nhiều về FDI “chưa sạch” tại Việt Nam liên quan đến vấn
đề xử lý nước thải, các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư
trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh
học, tài nguyên nước, thuỷ sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông… Điểm lại
hoạt động của nguồn vốn FDI trong thời gian qua cho thấy một số điểm đen như sự việc Công ty
Vedan phá hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm dụ điển hình để phân tích về
trách nhiệm hội của các doanh nghiệp. Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc
trốn nộp phí môi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho một cách tiết kiệm để tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan
chức năng của Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đó là Miwon sản xuất bột ngọt tại
Việt Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới 900 m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng. Và gần đây nhất,
đường ống xả thải của Công ty Formosa Tĩnh thuộc Tập đoàn Formosa (Đài Loan) với công
suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm chứa độc tố phê-non, xya-nua,… kết hợp hy-đrô-xít sắt, tạo
thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết
hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
– Huế, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiệt hại to lớn về kinh tế – xã hội, ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất, đời sống, tư tưởng của nhân dân
11.Tại sao nói đầu tư phát triển mang tính rủi ro? Nó đòi hỏi phải có ngtắc nào khi quản lí.
Những rủi ro nào có thể xảy ra?
Nguyên tắc quản lí _ câu 20 đề cương
Rủi ro đầu tư tại việt nam
Theo đó, mặc Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings (Mỹ) hồi tháng 5 vừa qua đã
thông báo nâng xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “BB-
lên ”BB” với triển vọng “ổn định”. Tuy nhiên, điều này vẫn nghĩa Việt Nam đang dưới
mức an toàn để nhà đầu tư thể yên tâm “rót vốn”. Nghĩa thị trường đầu đang bị “cắm cờ
đỏ” cảnh báo về khả năng không trả được nợ của Việt Nam có. Mặc nhìn góc độ trong
lOMoARcPSD| 61265515
nước, Việt Nam có lịch sử trả nợ tín dụng rất tốt. Khi nhìn ở góc độ nhà đầu tư, đây vẫn là một chỉ
báo về rủi ro.
Thêm nữa, theo các nhà đầu tư, nền kinh tế Việt Nam “trẻ”, quy nhỏ, trong quá khứ đã
ghi nhận điều hành kinh tế đã tạo ra những vấn đề nhất định, và trong tương lai Việt Nam vẫn phải
chịu sự định hàng tín dụng thấp từ Quốc tế.
Ngoài ra, phân tích c độ pháp lý, Luật pháp Việt Nam cực kỳ phức tạp. Điều này được
thể hiện trong việc, khi nhà đầu tư muốn đầu vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư gặp nhiều
khó khăn về dịch vụ được bán, giấy phép đầu được cấp hay không, các rủi ro khác
đáng nhẽ doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. dụ như hợp đồng mua
bán điện trực tiếp giữa nđầu tư, doanh nghiệp đầu vào sản xuất điện Tập đoàn điện lực
Việt Nam (EVN). Theo đó, EVN quyền không mua điện từ các dự án này. Như vậy, trong trường
hợp EVN không thu mua điện từ dự án điện nhà đầu tư, doanh nghiệp đã bỏ một nguồn vốn
lớn để đầu tư như vậy rõ ràng cũng sẽ là rủi ro lớn.
Ngoài ra, việc người nước ngoài không được sở hữu, không được thế chấp đất đai, bất động
sản cũng được coi một trong những rủi ro nhà đầu thể gặp phải khi đầu vào Việt
Nam.
Bên cạnh đó còn là những rủi ro về mặt pháp lý khi mà luật pháp thay đổi một cách đột ngột,
không có độ trễ của chính sách, khiến các nhà đầu tư “không kịp trở tay”.
22. Phân tích đặc điểm của đầu phát triển. Những đặc điểm này đặt ra yêu cầu
cho công tác quản lý dự án.
* Yêu cầu đối với công tác quản lý dự án: (trang 23,24,25)
Để trả lời câu hỏi này, trước tiên ta phải trả lời các câu hỏi: đầu tư là gì?; đầu tư phát triển là
gì?. Sau đó mới tiến hành nghiên cứu các đặc điểm và sự quán triệt các đặc điểm đó trong quản lý
hoạt động đầu tư.
rất nhiều định nghĩa về đầu tư, trong đó, tầm mô, định nghĩa phù hợp nhất thường
được sử dụng là: Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế để tạo ra những lợi ích cho
nhà đầu tư và cho nền kinh tế quốc dân. Nguồn lực ở đây bao gồm cả: nhân lực, vật lực & tài lực.
Đầu phát triển một bộ phận trong Đầu i chung. Thật vậy, rất nhiều cách thức
phân loại Đầu tư, một trong những cách đó là phân Đầu tư ra làm 3 loại: Đầu tư phát triển, Đầu tư
tài chính & Đầu thương mại. Trong phạm vi của môn Kinh tế Đầu tư, ta thường chỉ xem xét đến
hoạt động Đầu tư phát triển. (Các bạn quan tâm, có thể xem thêm tài liệu “Đầu tư phát triển và các
loại đầu khác trong nền kinh tế” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai Trường ĐH Kinh tế Quốc
dân Hà Nội đã có trên mạng Internet, nếu không xem được bản download, hãy ấn vào mũi tên trên
đường link để xem Bản Lưu).
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng vốn trong hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản vật chất
và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới & duy trì những tài sản hiện có, nhằm tạo thêm việc làm &
vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển cũng là một phương thức đầu tư trực tiếp, quá trình đầu
làm gia tăng giá trị & năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản.
lOMoARcPSD| 61265515
Đầu phát triển nhiều đặc điểm đặc thù, rất khác so với Đầu tài chính & Đầu thương
mại. Tựu chung lại, hoạt động đầu tư này có 5 đặc điểm cơ bản. Việc hiểu rõ mỗi đặc điểm cơ bản
này giúp ta vận dụng nó, quán triệt vào trong quản hoạt động đầu tư. đây kiến thức
mang tính lý thuyết rất cao nên mình xin nêu hết sức ngắn gọn, như sau.
Thứ nhất, quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường
rất lớn. Điều này đòi hỏi phải giải pháp tạo vốn & huy động vốn hợp lý; xây dựng các chính
sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn; quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến
độ đầu tư; thực hiện đầu có trọng tâm, trọng điểm. Ngoài ra, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử
dụng & đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực
theo tiến độ đầu tư; hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án”
như: bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư…
Thứ hai, thời kỳ đầu tư kéo dài. Điều này đòi hỏi nhà quản lý phải tiến hành phân kỳ đầu tư,
bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt
chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Thứ ba, thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Nhà quản cần xây dựng cơ chế &
dự báo khoa học ở cả cấp vĩ mô & vi mô về nhu cầu thị trường sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến
khả năng cung ứng từng năm & toàn bộ vòng đời dự án. Đồng thời, quản lý tốt quá trình vận hành,
nhanh chóng đưa các thành quả đầu vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng
thu hồi vốn, tránh hao mòn hình. Ngoài ra, cần chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong
đầu tư.
Thứ tư, các thành quả của hoạt động đầu phát triển mà các công trình đầu tư xây dựng
thì thường phát huy tác dụng ngay tại nơi được tạo dựng lên, do đó, quá trình thực hiện đầu
tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên,
kinh tế, hội vung… Để thành quả đầu phát huy hiệu quả, cần các chủ trương đầu
quyết định đầu tư đúng đắn; lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý…
Thứ năm, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Vì vậy, nhà quản lý cũng cần chú ý đến các vấn đề
rủi ro trong dự án, phải tiến hành Nhận diện rủi ro, Đánh giá mức độ rủi ro & Xây dựng các biện
pháp phòng – chống rủi ro
25. Giải thích luận điểm “trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng là ĐTPT?” Trả
lương đúng và đủ cho người lao động cũng được xem là ĐTPT bởi vì lao động là yếu tố đặc biệt
hơn so với các yếu tố khác dành cho ĐT. Lao động sử dụng kỹ năng của mình tham gia vào đầu
tư,nhưng lại có một yếu tố khác thường xuyên chi phối chất lượng kỹ năng này của người lao
động là tâm lý và đời sống của người lao động,do vậy để giải thích cho luận điểm trên, chúng ta
có thể xem xét trên vài luận cứ như sau:
Thứ nhất,Người lao động khi nhận lương đúng và đủ sẽđược tâm trạng thoải mái khi
thành quả lao động của họ được ghi nhận,từ đó , người lao động sẽ tiếp tục duy trì phấn đấu
năng suất , chất lượng công việc tốt trong quá trình sản xuất họ tham gia. Thực tiễn cho thấy,các
vụ đình công của công nhân thời gian qua có rất nhiều vụ việc liên quan tới vấn đề trả lương chậm
của giới chủ,công nhân chán nản khi họ thường xuyên bị trả chậm lương dẫn đến tâm bi quan
lOMoARcPSD| 61265515
và xa rời công việc của họ,họ thường tổ chức các cuộc đình công tự phát,điều này trên tổng thể có
ảnh hưởng khá xấu tới vận hành các kết quả đầu tư của giới chủ do sản xuất bị đình trệ.
Thứ 2, người lao động trong phạm vi nền kinh tế quốc dân còn được xem xét như là những
người tiêu dùng, họ luônxu hướng duy trì và nâng cao đời sống của họ thông qua việc mua các
hàng hóa,việc trả lương đúng đủ sẽ điều kiện tốt để người lao động mua hàng,qua đó tăng
sức mua của nền kinh tế,hàng hóa tiêu thụ nhiều lại đòi hỏi cung hàng hóa ,từ đó lại tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động,vấn đề này xét trên tổng thể nền kinh tế là có lợi.
vậy trong hoạt động ĐTPT cần chú trọng đến vấn đề trả lương đúng,đủ cho người công
nhân một cách đúng mức:
+Tiền lương phù hợp khuyến khích nhân viên làm việc , duy trì nhân viên giỏi thu hút
nhân tài cho doanh nghiệp. Nhân thức rõ vai trò của tiền lương tới cung cách, thái độ
hiêu quả làm việ c của người lao độ ng các doanh nghiệ p đều đưa ra những chiến lược
phù hợp
trong viêc trả lương cho lao độ ng. Tùy vào điều kiệ n cụ thể vào chiến lược phá triển và điều kiên
làm việ c của lao độ ng để từng DN đề đưa ra mức lương cụ thể phù hợp
với cả người lao động và
doanh nghiệp.
+Bên cạnh viêc xác định mức lương phù hợp cho lao độ ng thì điều quan trọng phảị trả
lương đúng đủ cho người lao động. Tăng lương hợp thể coi biện pháp kích cầu lành
mạnh để thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tiền lương
và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế có tăng trưởng thì tiền lương
mới tăng và ngược lại thu nhập tăng kích thích nền kinh tế tăng trưởng.
31.1. đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế làm chuyển dịch cơ cấu
ngành
Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1 hệ
quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp
lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách chiến lược
phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước có thể tăng cường
khuyến khích hoặc hạn chế đầu đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Dẫn đến sự tăng đầu vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy
sự phát triển của các ngành, các khu vực liên quan. vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung
của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu vào ngành nào tính chất quyết định sự phát
triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu
có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển
khu vực công nghiệp dịch vụ. Do đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng
không thể nằm ngoài sự phát triển.
Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế.
Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự
phân hoá cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế do có tác động của đầu tư. Sự phân hoá này
cũng một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành, đầu lại hướng
lOMoARcPSD| 61265515
vào các ngành điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của ngành đó làm điểm
tựa cho các ngành khác cùng phát triển.
Thứ 3: Nhờ đầu quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường.
Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều cần
đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu nâng cao chất
lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng
mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm
1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường, nhờ vậy
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ
Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ
Một số vùng lãnh thổ khi nguồn vốn đầu vào sẽ thể nhiều cơ hội để sản xuất
kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế củanh. Tác động này của đầu thể xem xét
trên 2 khía cạnh như sau:
Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của
vùng.
Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng lãnh thổ sẽ có những thế mạnh
kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý
sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải
nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu thích đáng các vùng sẽ điều kiện để xây dựng sở
hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng,
phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii núi cao ( Sơn La Hoà
Bình ) trước khi được đầu tư vùng không công trình nào lớn mạnh thực sự, nhưng nhờ đầu
khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng, góp phần làm phát
triển nền kinh tế của vùng.
Thứ hai là: Đầu góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng lãnh thổ
được đầu tư.
Như phân tích trên đầu giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của nh, tạo đà cho sự
phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng
sẽ cao hơn so với trước kia.
Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư nhiều
hơn sẽcơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác
Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Nhờ nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng
các nhà máy, sở htầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu
mới đang được xây dựng thì đã là hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng, thu hút lao
lOMoARcPSD| 61265515
động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút được nhiều
lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây dựng đã thu hút
công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó.
Đầu giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế
tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu thu hút lao động, tạo việc m, người dân có thể
thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình.
Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh Hoá Trước khi có nhà
máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán với giá
quá rẻ, nhiều người dân không có việc làm. Nhưng sau khi có nhà máy đường ở tại đó, người dân
trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên người dân đã có thu nhập cao hơn, nhiều người
dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình.
Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc
đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, đến lượt mình những vùng phát triển
này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm được
đầu phát huy thế mạnh của nh, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nước, kéo
con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới điều kiện để phát
triển.
Đầu cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh
lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp họ
thể đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc về tài
chính, sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm giảm
bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác.
Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch
cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được thế
mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức độ
đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn có sự khác
nhau, chênh lệch nhau.
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các
thành phần kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm qua cơ cấu thành phần
kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế vốn đầu trực tiếp của
nước ngoài FDI cũng ngày càng những đóng góp ch cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả
nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh tế nhà nước,
tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nước
lOMoARcPSD| 61265515
phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản
của nhà nước theo định hướng XHCN.
Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư
Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế nguồn
vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang
kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây là kinh tế nhà nước
kinh tế tập thể đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh tế nhân, kinh tế
thể, kinh tế vốn đầu nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này sự đa dạng về nguồn vốn
đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới đã bổ sung một lượng
vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu của toànhội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để
phát triển kinh tế. Việc thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn
lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh
tế.
Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư đến
hoặc không đủ vốn để đầu tư. Chính vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn một yếu tố không
thể thiếu được trong đầu tư phát triển
lOMoARcPSD| 61265515
lOMoARcPSD| 61265515
Đến ngành dịch vụ
lOMoARcPSD| 61265515
Câu 31.2: đầu phát triển vừa làm hại vừa bào vệ môi trường. Vn đã làm để hạn
chế tác ddoognj tiêu cực đó
a) Các nhiệm vụ cụ thể trước mắt:
(1) Khẩn trương xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia làm căn cứ thẩm định, phêduyệt
các dự án đầu tư của từng vùng phù hợp yêu cầu BVMT, định hướng ưu tiên lĩnh vực, công nghệ
đầu phù hợp với quy hoạch môi trường. Xây dựng ban hành quy chế ứng phó sự cố môi
trường, trong đó các quy định về chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các Bộ, ngành, Trung
lOMoARcPSD| 61265515
ương và địa phương bảo đảm nguyên tắc Trung ương chỉ đạo thống nhất và địa phương xây dựng
năng lực tự ứng phó theo phương châm 3 tại chỗ đã được xây dựng trong phòng chống thiên tai.
(2) Ban hành hệ thống các tiêu chí đánh giá, sàng lọc, lựa chọn ưu tiên các dự áncông
nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, bảo đảm theo đúng định hướng tăng trưởng xanh,
phát triển bền vững; các quy định về phòng ngừa, ứng phó khắc phục sự cố môi trường, trong
đó các quy định về chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các quan Trung ương địa
phương trong công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường.
Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống hàng năm về môi trường trong hệ thống các chỉ tiêu
thống kê phát triển kinh tế - xã hội quốc dân, bảo đảm phản ánh đầy đủ các nội dung quản lý môi
trường, phát triển bền vững, trong đó có các chỉ tiêu theo dõi về nguồn vốn đầu tư của Nhà nước
và xã hội cho BVMT.
(3) Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường; cụ thể hóa các chế chínhsách
thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải, phát triển công nghệ xử lý nước thải, tái chế chất thải.
(4) Sửa đổi, bổ sung các quy định về đánh giá môi trường chiến lược đánh giá
tácđộng môi trường, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; về kiểm tra công tác thẩm định,
phê duyệt, chấp thuận điều chỉnh báo cáo ĐTM, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, bảo
đảm kiểm soát chặt chẽ công tác BVMT. Xây dựng hệ thống phòng ngừa, cảnh báo sớm sự cố môi
trường.
(5) Thực hiện tổng điều tra các nguồn thải, nguồn gây ô nhiễm trên phạm vi cả
nước,xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh để quản thống nhất, chế chia sẻ thông tin cảnh báo đồng bộ từ
Trung ương đến địa phương.
(6) soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường bảo đảm kiểmsoát
chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực khả năng gây ô nhiễm môi trường cao, quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải nghiêm ngặt hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường
nói chung, đặc biệt chú trọng các ngành nhuộm, thuộc da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng...,
tiếp cận với quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các nước tiên tiến.
(7) soát quy hoạch, xây dựng các khu xử lý, chôn lấp rác thải sinh hoạt, rác thảicông
nghiệp, chất thải nguy hại đáp ứng nhu cầu theo quy mô phát sinh các loại chất thải này tại các địa
phương, các khu vực kinh tế trọng điểm, nơi các dự án lớn. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ hoạt
động phát sinh, thu gom, vận chuyển, xử lý, thải bỏ, chôn lấp các loại chất thải, nhất chất thải
nguy hại. Đầu tư và có các chính sách thu hút đầu tư của khối tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài
vào hoạt động xử lý chất thải, cung cấp các dịch vụ BVMT; phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ
BVMT.
(8) Tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên và môitrường
trên phạm vi cả nước. Xây dựng cơ chế chia sthông tin, số liệu quan trắc, đánh giá về chất lượng
môi trường làm sở phục vụ công tác thẩm định, xét duyệt các dự án đầu tư, đồng thời, để các
cơ quan, Bộ, ngành, địa phương và người dân thực hiện kiểm soát, giám sát về môi trường.
lOMoARcPSD| 61265515
(9) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát đảm bảo việc tuân thủ quyđịnh
về BVMT đối với những dự án đã đi vào hoạt động, trước hết là các dự án có nguồn thải ra sông,
ra biển. Tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế
chất thải, hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chất thải thông thường, trong đó có nội dung quy
định về sử dụng chất thải làm nguyên liệu, nhiên liệu, coi chất thải là tài nguyên.
(10) Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc quản lý, sử dụng nguồn chi sựnghiệp
môi trường tại các Bộ, ngành, địa phương bảo đảm tiết kiệm, hỗ trợ và thực hiện có hiệu quả các
hoạt động quản môi trường tại địa phương. Trước mắt, điều chỉnh tái cấu đầu cho công
tác BVMT ngay trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, tập trung ưu tiên cho
các dự án tiết kiệm năng lượng, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các dự án
theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. b) Các giải pháp lâu dài:
(1) Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, phápluật
về BVMT, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung, bám sát thực tế và
theo kịp tiến trình phát triển hội nhập quốc tế của đất nước, diễn biến nhanh mức độ phức
tạp của các vấn đề môi trường. Thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện nghiêm các quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT; chú trọng nâng cao nhận
thức đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành; tăng cường sự phối hợp, chặt chẽ, đồng bộ
giữa các ngành, giữa Trung ương địa phương. các giải pháp phát huy hiệu quả hoạt động
của lực lượng cảnh sát môi trường. Bộ TN&MT chịu trách nhiệm tổng thvề kiểm tra, giám sát,
bảo đảm thực hiện đúng trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.
(2) Tăng cường năng lực của quan quản nhà nước về BVMT từ Trung ương
đếnđịa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVMT ngày càng lớn, phức tạp. Rà soát, phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực quản của đội ngũ
cán bộ quản lý môi trường các cấp, nhất là ở các địa phương, ưu tiên cấp huyện, xã, bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến sở. Xây dựng chế tham vấn, phối hợp
trong công tác bổ nhiệm, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cơ quan chuyên môn về tài nguyên
và môi trường ở địa phương.
(3) Tăng cường và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho BVMT, nhất là đầu tư xử lýchất
thải; xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái do trước đây để
lại. Tăng chi ngân sách cho sự nghiệp BVMT, tập trung giải quyết vấn đề môi trường bức xúc, tồn
đọng kéo dài. Tăng cường vai trò điều phối, phân bổ nguồn lực đầu tư, chi ngân sách cho hoạt
động BVMT của quan quản nhà nước về BVMT. Các nguồn thu từ thuế, phí BVMT phải
được đầu tư trở lại cho các hoạt động BVMT. Có cơ chế thực hiện ký quỹ BVMT trước khi dự án
đi vào vận hành thử nghiệm đối với các dự án đầulớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; thu
hút mạnh đầu nhân, đầu nước ngoài vào phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ BVMT trên
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “người hưởng lợi từ môi trường phải chi trả”.
(4) soát, chấn chỉnh, tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ,
biệnpháp quản nhà nước về BVMT; sớm đưa các chế tài hình sự về môi trường vào áp dụng;
hoàn thành kế hoạch xử triệt để sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trước năm 2020.
Tổ chức đánh giá, xếp hạng công tác BVMT của các địa phương từ năm 2017.
lOMoARcPSD| 61265515
(5) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phát triển khoa học công nghệ về BVMT. Tiếp tụcquan
tâm xây dựng các dự án ưu tiên về BVMT nhằm kêu gọi hỗ trợ từ nguồn vốn ODA. Nghiên cứu,
kiến nghị chế cử cán bộ đại diện ngoại giao về môi trường tại các nước nhằm tăng cường
hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về BVMT.
(6) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ng cao nhận thức về BVMT,
tăngtrưởng xanh, phát triển kinh tế xanh theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng a hình thức
tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, các vùng miền; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động đào
tạo, truyền thông về môi trường.
Câu 34: đặc điểm của đầu tư phát triển. Các đặc điểm ảnh hưởng đến coogn tác quản
lí hđ đầu tư ntn
lOMoARcPSD| 61265515
lOMoARcPSD| 61265515
lOMoARcPSD| 61265515
Câu 10. Tại sao nói" tình hình kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến mọi quyết định đầu tư"
liên hệ .(Trang 106)
lOMoARcPSD| 61265515
+Giữ ổn định giá trị tiền tệ với việc kiềm chế lạm phát, kiểm soát mức thâm hụt ngân sách
+Đảm bảo sự ổn định ,phù hợp của lãi suất và tỉ giá hối đoái
+Coi trọng các hoạt động kế toán,kiểm toán,tư pháp hỗ trợ đảm bảo kinh doanh lành
mạnh,chống tham nhũng
Liên hệ
Ổn định tăng trưởng kinh tế năm 2018 đem lại những mặt tích cực: tăng trưởng
GDP mức cao kỷ lục (7,08%); lạm phát được kiểm soát trong ngưỡng mục tiêu (3,54%) trong
bối cảnh CSTT xu hướng thắt chặt dần (tín dụng tăng ~14%); tỷ giá hối đoái được giữ vững
(USD/VND tăng ~2,8%); lãi suất giảm phù hợp với diễn biến lạm phát cán cân ngân sách
ghi nhận thặng sau nhiều năm thâm hụt ,tổng thu NSNN vượt dự toán 5,9%, góp phần làm giảm
bội chi NSNN xuống còn 3,48% GDP, nợ công còn 61,2% GDP tạo điều kiện môi trường kinh
doanh được cải thiện, tình hình chính trị ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, trong
khi lạm phát được duy trì ở mức ổn định so với các nền kinh tế mới nổi khác, qua đó thu hút dòng
vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ…
Cùng với ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện với kết quả xếp
hạng môi trường kinh doanh tăng 14 bậc, từ thứ 82 lên thứ 68/190; năng lực cạnh tranh tăng 5
bậc, từ thứ 60 lên thứ 55/137 quốc gia, vùng lãnh thổ; đánh giá triển vọng của hệ thống ngân
hàng Việt Nam được nâng lên, từ “ổn định” lên “tích cực”. Quyết tâm đổi mới của Việt Nam và
những kết quả quan trọng đạt được đã tạo không khí phấn khởi trong đầu tư kinh doanh và toàn
xã hội, củng cố niềm tin nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp. Việc tổ chức thành công Năm
APEC 2017 cũng đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế.
Câu 40: Các điều kiện huy động có hiệu quả vốn đầu tư là gì?
Thu hút vốn ĐTNN luôn được Đảng và Nhà nước trú trọng đẩy mạnh, đặc biệt là trong điều
kiện các đối thủ cạnh tranh trong khu vực nhiều điểm hấp dẫn các nhà đầu nước ngoài như
Trung Quốc, Ấn Độ, …. Tuy nhiên, để các nhà ĐTNN biết đến Việt Nam, thấy được hội kinh
doanh tại Việt Nam, được lòng tin đối với đất nước, Đảng va Nhà nước ta phải xác định
những điều kiện cơ bản, tiên quyết để tăng khả năng cạnh tranh với nước bạn về việc thu hút vốn
ĐTNN. Dưới đây là một số điều kiện cần thiết để huy động vốn ĐTNN
- Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh, bền vững cho nền kinh tế.
Đặt trong bối cảnh tổng quát và dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan
trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng
ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong
nước nước ngoài. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu
hút vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Với năng
lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ khả năng gia tăng, đồng thời
triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài của nước sở tại
- Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
lOMoARcPSD| 61265515
+ Ổn định giá trị tiền tệ bao gồm kiềm chế lạm phát khắc phục hậu quả của tình trạng
giảm phát nếu xảy ra đối với nền kinh tế; ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái
+ Thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - hội của nhà nước
trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn vốn đầu tư. Cần phải nâng cao chất
lượng quy hoạch tổng thể, có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn, phù hợp với quy hoạch
ngành, lãnh thổ lĩnh vực ưu tiên. Nâng cao ng lực hiệu quả quản đầu gắn liền với
việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, đơn giản hoá các thủ tục hành chính về đầu tư xây dựng. Các
cơ chế chính sách đầu tư phải thống nhất, đồng bộ, dễ hiểu, dễ thực hiện
+ Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác
các nguồn vốn đầu phát triển trong các thành phần kinh tế. Coi trọng các hoạt động kế toán,
kiểm toán, pháp hỗ trđảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng. Tiếp tục xây
dựng hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế
- Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả:
Các chính ch giải pháp huy động vốn cho đầu phải gắn liền với chiến lượcphát triển
kih tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính
quốc gia.
Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồnvốn đầu
tư nước ngoài
Đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn
Chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biệnpháp thực
hiện
- Duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địabàn đầu
an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư.
Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng
mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địaphương
tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí
sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho
việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư phải được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành,nhiều cấp,
trong nước nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp
cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động
đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch
- Xây dựng cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng để khuyếnkhích
nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61265515
6. Đầu tư phát triển tác động đến KH_CN của mỗi quốc gia Trang 49 Liên hệ:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ, nhất là ở
các nước đang phát triển như Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu trong chính sách phát triển quốc gia.
Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước, môi trường chính sách và pháp luật điều
chỉnh hoạt động khoa học và công nghệ trong những năm qua liên tục được cải tổ và đổi mới mạnh
mẽ. Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 ra đời, thay thế cho Luật Khoa học và công nghệ năm 2000.
Tiếp theo, là các nghị định, thông tư đã ra đời để cụ thể hóa Luật như: Thông tư liên tịch số
121/2014/TTLT-BTC- BKHCN ngày 25/8/2014 của liên bộ Tài chính - Khoa học và Công nghệ
hướng dẫn xây dựng dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường
xuyên theo chức năng của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Thông tư liên tịch số
16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 hướng dẫn việc quản lý, xử lý tài sản được hình
thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà
nước; Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTCBKHCN ngày 22/4/2015 hướng dẫn định mức xây
dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng
ngân sách nhà nước; Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT/BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 quy
định khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng Ngân sách nhà nước…
Hiện nay, hoạt động khoa học và công nghệ phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Điều này đã được cụ thể hóa rõ nét ở Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính
phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ. Bình quân
hàng năm, đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ với mức kinh phí vào
khoảng 1,4 - 1,85% tổng chi ngân sách nhà nước, chiếm từ 0,4 đến 0,6 GDP.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ từ năm 2006 đến năm 2015 đều
có xu hướng tăng: Năm 2006 là 5.429 tỷ đồng, đến năm 2015 đạt 17.390 tỷ đồng, qua đó cho thấy
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
Trong tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ là
13.390,6 tỷ đồng thì đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm hơn một nửa: 7.591,6 tỷ đồng (tương
đương 56,7%), trong khi nguồn đầu tư từ doanh nghiệp là 5.597,3 tỷ đồng đạt 41,8%, còn lại chỉ
có 201,7 tỷ đồng (tương đương 1,5%) là từ nguồn vốn nước ngoài.
Nhìn chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức
quan trọng, và trong tổng đầu tư cho khoa học và công nghệ chủ yếu đầu tư tập trung vào: (i) Đầu
tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật, các nhiệm vụ Nhà nước 50%; (ii) Con
người chiếm 25%; (iii) Đầu tư để hỗ trợ đề tài cấp Bộ, ngành
15%; Đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất chiếm 15%. Và đầu tư từ ngân sách nhà nước để phát
triển khoa học và công nghệ được phân cấp: Ngân sách trung ương thường chiếm tỷ trọng từ 70- lOMoAR cPSD| 61265515
75% và ngân sách địa phương chiếm tỷ trọng 25- 30% (theo báo cáo của Bộ Khoa học và công nghệ).
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ đã đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, luôn là nguồn đầu tư chủ yếu, cơ bản cho hoạt động nghiên cứu khoa học; góp
phần quan trọng vào quá trình thúc đẩy phát triển đào đạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ
(bình quân hàng năm chi ngân sách nhà nước cho hoat động khoa học công nghệ chiếm khoảng
2% tổng chi của ngân sách nhà nước, tương đương 0,6 GDP và tăng bình quân mỗi năm là 19%).
Thứ hai, đã có sự thay đổi về cơ cấu, phân cấp để phù hợp với nhu cầu nguồn lực đầu tư hiện
tại, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ phát triển bền vững.
Thứ ba, cơ sở pháp lý về đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ngày càng
hoàn thiện hơn, chi tiết và cụ thể hóa rõ nét hơn. Cụ thể, gồm 38 văn bản cấp Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ (Nghị định, Quyết định), 88 văn bản cấp Bộ (Thông tư, Thông tư liên tịch).
Tuy nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ thời gian
qua đã có được những kết quả nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
Một là, hàng năm, mặc dù đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đã có tăng
nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ với nhu cầu phát triển, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới
khoa học công nghệ như hiện nay. So với các nước, nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước để
đầu tư cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế, ở Việt Nam ngân sách nhà nước đầu
tư cho khoa học và công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP, còn châu Âu năm 2013 là 2,01%, Nhật Bản
năm 2013 là 3,47%, Mỹ năm 2012 là 2,81%...
Hai là, việc phân bổ ngân sách nhà nước để phát triển khoa học và công nghệ còn phân tán,
dàn trải, thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên, chưa đảm bảo theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu
cơ chế minh bạch (Chủ yếu tập trung chi cho bộ máy; Chi cho đào tạo cán bộ khoa học và công
nghệ còn ở mức thấp khoảng 1.000USD/người/năm, trong khi mức chi trung bình ở các nước phát
triển là 55.000USD/người/năm; Chi lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng
còn thấp)… do đó dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp.
Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
còn thấp. Bởi hiện nay chưa xây dựng được một cơ chế thực sự phù hợp, từ đó để gắn kết phân bổ
ngân sách nhà nước cho các tổ chức khoa học và công nghệ với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể về
các sản phẩm khoa học và công nghệ mà các đơn vị nghiên cứu cần thực hiện.
7. Phân tích các tác động của hoạt động đầu tư đến môi trường (Trang 51,52) Liên hệ Việt Nam:
Ngoài vấn đề đem lại việc làm, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống thì hoạt động đầu
tư có những tác động đến môi trường. Với sự phát triển ,đầu tư của khoa học kĩ thuật và những lOMoAR cPSD| 61265515
nghiên cứu mới giúp chúng ta tìm ra được các giải pháp nhằm hạn chế sự thay đổi của môi trường.
Chúng ta đã biết cách đầu tư vào các công trình xây dựng, tận dụng các dạng năng lượng tự nhiên
mới thay thế cho các năng lượng truyền thống như: năng lượng gió, mặt trời, thủy triều, điều này
góp phần hạn chế việc khai thác sử dụng các năng lượng cũ, giảm sự phát thải các chất khí gây hiệu ứng nhà kính.
Có các chính sách đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khuyến lâm. Một diện tích rừng bị mất
trước kia nay đang được phục hồi dần dần,tuy các diện tích rừng trồng lại không có nhiều giá trị
như rừng nguyên sinh, song nó cũng góp một phần vào việc phục hồi dần dần chất lượng của môi trường hiện nay.
Tiêu cực: một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng, làm biến đổi
hệ sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong dư
luận nhân dân. Người ta đã đề cập rất nhiều về FDI “chưa sạch” tại Việt Nam liên quan đến vấn
đề xử lý nước thải, các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư
trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh
học, tài nguyên nước, thuỷ sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông… Điểm lại
hoạt động của nguồn vốn FDI trong thời gian qua cho thấy một số điểm đen như sự việc Công ty
Vedan phá hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về
trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc
trốn nộp phí môi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan
chức năng của Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đó là Miwon – sản xuất bột ngọt tại
Việt Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới 900 m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng. Và gần đây nhất,
đường ống xả thải của Công ty Formosa Hà Tĩnh thuộc Tập đoàn Formosa (Đài Loan) với công
suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm chứa độc tố phê-non, xya-nua,… kết hợp hy-đrô-xít sắt, tạo
thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết
hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
– Huế, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiệt hại to lớn về kinh tế – xã hội, ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất, đời sống, tư tưởng của nhân dân
11.Tại sao nói đầu tư phát triển mang tính rủi ro? Nó đòi hỏi phải có ngtắc nào khi quản lí.
Những rủi ro nào có thể xảy ra?
Nguyên tắc quản lí _ câu 20 đề cương
Rủi ro đầu tư tại việt nam
Theo đó, mặc dù Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings (Mỹ) hồi tháng 5 vừa qua đã
thông báo nâng xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “BB-
” lên “”BB” với triển vọng “ổn định”. Tuy nhiên, điều này vẫn có nghĩa Việt Nam đang ở dưới
mức an toàn để nhà đầu tư có thể yên tâm “rót vốn”. Nghĩa là thị trường đầu tư đang bị “cắm cờ
đỏ” cảnh báo về khả năng không trả được nợ của Việt Nam là có. Mặc dù nhìn ở góc độ trong lOMoAR cPSD| 61265515
nước, Việt Nam có lịch sử trả nợ tín dụng rất tốt. Khi nhìn ở góc độ nhà đầu tư, đây vẫn là một chỉ báo về rủi ro.
Thêm nữa, theo các nhà đầu tư, nền kinh tế Việt Nam “trẻ”, quy mô nhỏ, trong quá khứ đã
ghi nhận điều hành kinh tế đã tạo ra những vấn đề nhất định, và trong tương lai Việt Nam vẫn phải
chịu sự định hàng tín dụng thấp từ Quốc tế.
Ngoài ra, phân tích ở góc độ pháp lý, Luật pháp Việt Nam cực kỳ phức tạp. Điều này được
thể hiện trong việc, khi nhà đầu tư muốn đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư gặp nhiều
khó khăn về dịch vụ được bán, giấy phép đầu tư có được cấp hay không, và các rủi ro khác mà
đáng nhẽ doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Ví dụ như hợp đồng mua
bán điện trực tiếp giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất điện và Tập đoàn điện lực
Việt Nam (EVN). Theo đó, EVN có quyền không mua điện từ các dự án này. Như vậy, trong trường
hợp EVN không thu mua điện từ dự án điện mà nhà đầu tư, doanh nghiệp đã bỏ một nguồn vốn
lớn để đầu tư như vậy rõ ràng cũng sẽ là rủi ro lớn.
Ngoài ra, việc người nước ngoài không được sở hữu, không được thế chấp đất đai, bất động
sản cũng được coi là một trong những rủi ro mà nhà đầu tư có thể gặp phải khi đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó còn là những rủi ro về mặt pháp lý khi mà luật pháp thay đổi một cách đột ngột,
không có độ trễ của chính sách, khiến các nhà đầu tư “không kịp trở tay”.
22. Phân tích đặc điểm của đầu tư phát triển. Những đặc điểm này đặt ra yêu cầu gì
cho công tác quản lý dự án.
* Yêu cầu đối với công tác quản lý dự án: (trang 23,24,25)
Để trả lời câu hỏi này, trước tiên ta phải trả lời các câu hỏi: đầu tư là gì?; đầu tư phát triển là
gì?. Sau đó mới tiến hành nghiên cứu các đặc điểm và sự quán triệt các đặc điểm đó trong quản lý hoạt động đầu tư.
Có rất nhiều định nghĩa về đầu tư, trong đó, ở tầm vĩ mô, định nghĩa phù hợp nhất thường
được sử dụng là: Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế để tạo ra những lợi ích cho
nhà đầu tư và cho nền kinh tế quốc dân. Nguồn lực ở đây bao gồm cả: nhân lực, vật lực & tài lực.
Đầu tư phát triển là một bộ phận trong Đầu tư nói chung. Thật vậy, có rất nhiều cách thức
phân loại Đầu tư, một trong những cách đó là phân Đầu tư ra làm 3 loại: Đầu tư phát triển, Đầu tư
tài chính & Đầu tư thương mại. Trong phạm vi của môn Kinh tế Đầu tư, ta thường chỉ xem xét đến
hoạt động Đầu tư phát triển. (Các bạn quan tâm, có thể xem thêm tài liệu “Đầu tư phát triển và các
loại đầu tư khác trong nền kinh tế” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai – Trường ĐH Kinh tế Quốc
dân Hà Nội đã có trên mạng Internet, nếu không xem được bản download, hãy ấn vào mũi tên trên
đường link để xem Bản Lưu).
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng vốn trong hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản vật chất
và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới & duy trì những tài sản hiện có, nhằm tạo thêm việc làm &
vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển cũng là một phương thức đầu tư trực tiếp, quá trình đầu tư
làm gia tăng giá trị & năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản. lOMoAR cPSD| 61265515
Đầu tư phát triển có nhiều đặc điểm đặc thù, rất khác so với Đầu tư tài chính & Đầu tư thương
mại. Tựu chung lại, hoạt động đầu tư này có 5 đặc điểm cơ bản. Việc hiểu rõ mỗi đặc điểm cơ bản
này giúp ta vận dụng nó, quán triệt nó vào trong quản lý hoạt động đầu tư. Vì đây là kiến thức
mang tính lý thuyết rất cao nên mình xin nêu hết sức ngắn gọn, như sau.
Thứ nhất, quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường
rất lớn. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn & huy động vốn hợp lý; xây dựng các chính
sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn; quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến
độ đầu tư; thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Ngoài ra, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử
dụng & đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực
theo tiến độ đầu tư; hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án”
như: bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư…
Thứ hai, thời kỳ đầu tư kéo dài. Điều này đòi hỏi nhà quản lý phải tiến hành phân kỳ đầu tư,
bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt
chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Thứ ba, thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Nhà quản lý cần xây dựng cơ chế &
dự báo khoa học ở cả cấp vĩ mô & vi mô về nhu cầu thị trường sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến
khả năng cung ứng từng năm & toàn bộ vòng đời dự án. Đồng thời, quản lý tốt quá trình vận hành,
nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng
thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình. Ngoài ra, cần chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư.
Thứ tư, các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình đầu tư xây dựng
thì thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng lên, do đó, quá trình thực hiện đầu
tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên,
kinh tế, xã hội vung… Để thành quả đầu tư phát huy hiệu quả, cần có các chủ trương đầu tư và
quyết định đầu tư đúng đắn; lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý…
Thứ năm, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Vì vậy, nhà quản lý cũng cần chú ý đến các vấn đề
rủi ro trong dự án, phải tiến hành Nhận diện rủi ro, Đánh giá mức độ rủi ro & Xây dựng các biện
pháp phòng – chống rủi ro
25. Giải thích luận điểm “trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng là ĐTPT?” Trả
lương đúng và đủ cho người lao động cũng được xem là ĐTPT bởi vì lao động là yếu tố đặc biệt
hơn so với các yếu tố khác dành cho ĐT. Lao động sử dụng kỹ năng của mình tham gia vào đầu
tư,nhưng lại có một yếu tố khác thường xuyên chi phối chất lượng kỹ năng này của người lao
động là tâm lý và đời sống của người lao động,do vậy để giải thích cho luận điểm trên, chúng ta
có thể xem xét trên vài luận cứ như sau:
Thứ nhất,Người lao động khi nhận lương đúng và đủ sẽ có được tâm trạng thoải mái khi mà
thành quả lao động của họ được ghi nhận,từ đó , người lao động sẽ tiếp tục duy trì và phấn đấu
năng suất , chất lượng công việc tốt trong quá trình sản xuất mà họ tham gia. Thực tiễn cho thấy,các
vụ đình công của công nhân thời gian qua có rất nhiều vụ việc liên quan tới vấn đề trả lương chậm
của giới chủ,công nhân chán nản khi họ thường xuyên bị trả chậm lương dẫn đến tâm lý bi quan lOMoAR cPSD| 61265515
và xa rời công việc của họ,họ thường tổ chức các cuộc đình công tự phát,điều này trên tổng thể có
ảnh hưởng khá xấu tới vận hành các kết quả đầu tư của giới chủ do sản xuất bị đình trệ.
Thứ 2, người lao động trong phạm vi nền kinh tế quốc dân còn được xem xét như là những
người tiêu dùng, họ luôn có xu hướng duy trì và nâng cao đời sống của họ thông qua việc mua các
hàng hóa,việc trả lương đúng và đủ sẽ là điều kiện tốt để người lao động mua hàng,qua đó tăng
sức mua của nền kinh tế,hàng hóa tiêu thụ nhiều lại đòi hỏi cung hàng hóa ,từ đó lại tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động,vấn đề này xét trên tổng thể nền kinh tế là có lợi.
Vì vậy trong hoạt động ĐTPT cần chú trọng đến vấn đề trả lương đúng,đủ cho người công
nhân một cách đúng mức:
+Tiền lương phù hợp khuyến khích nhân viên làm việc , duy trì nhân viên giỏi và thu hút
nhân tài cho doanh nghiệp. Nhân thức rõ vai trò của tiền lương tới cung cách, thái độ ̣ và
hiêu quả làm việ c của người lao độ ng các doanh nghiệ p đều đưa ra những chiến lược ̣ phù hợp
trong viêc trả lương cho lao độ ng. Tùy vào điều kiệ n cụ thể vào chiến lược pháṭ triển và điều kiên
làm việ c của lao độ ng để từng DN đề đưa ra mức lương cụ thể phù hợp ̣ với cả người lao động và doanh nghiệp.
+Bên cạnh viêc xác định mức lương phù hợp cho lao độ ng thì điều quan trọng là phảị trả
lương đúng và đủ cho người lao động. Tăng lương hợp lý có thể coi là biện pháp kích cầu lành
mạnh để thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tiền lương
và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế có tăng trưởng thì tiền lương
mới tăng và ngược lại thu nhập tăng kích thích nền kinh tế tăng trưởng.
31.1. đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế làm chuyển dịch cơ cấu ngành
Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1 hệ
quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp
lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và chiến lược
phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước có thể tăng cường
khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy
sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung
của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát
triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu
có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở
khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng
không thể nằm ngoài sự phát triển.
Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế.
Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự
phân hoá cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. Sự phân hoá này
cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành, đầu tư lại hướng lOMoAR cPSD| 61265515
vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của ngành đó và làm điểm
tựa cho các ngành khác cùng phát triển.
Thứ 3: Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường.
Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều cần
đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất
lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng
mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm
là 1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường, nhờ vậy mà
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ
Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ
Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất
kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu tư có thể xem xét
trên 2 khía cạnh như sau:
Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng.
Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế mạnh
kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý
sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải
có nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu tư thích đáng các vùng sẽ có điều kiện để xây dựng cơ sở
hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng,
phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii núi cao ( Sơn La – Hoà
Bình ) trước khi được đầu tư vùng không có công trình nào lớn mạnh thực sự, nhưng nhờ đầu tư
khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng, góp phần làm phát
triển nền kinh tế của vùng.
Thứ hai là: Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng – lãnh thổ được đầu tư.
Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự
phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng
sẽ cao hơn so với trước kia.
Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư nhiều
hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác
Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng
các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu tư
mới đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng, thu hút lao lOMoAR cPSD| 61265515
động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút được nhiều
lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây dựng đã thu hút
công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó.
Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế
tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút lao động, tạo việc làm, người dân có thể có
thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình.
Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh Hoá Trước khi có nhà
máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán với giá
quá rẻ, nhiều người dân không có việc làm. Nhưng sau khi có nhà máy đường ở tại đó, người dân
trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên người dân đã có thu nhập cao hơn, nhiều người
dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình.
Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc
đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng phát triển
này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm được
đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nước, kéo
con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển.
Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh
lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp họ có
thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc về tài
chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm giảm
bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác.
Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được thế
mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức độ
đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn có sự khác nhau, chênh lệch nhau.
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các
thành phần kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm qua cơ cấu thành phần
kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả
nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh tế nhà nước,
tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nước lOMoAR cPSD| 61265515
phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN.
Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư
Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế và nguồn
vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang
kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây là kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế
cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa dạng về nguồn vốn
đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới đã bổ sung một lượng
vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để
phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn
lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư đến
hoặc không có đủ vốn để đầu tư. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn là một yếu tố không
thể thiếu được trong đầu tư phát triển lOMoAR cPSD| 61265515 lOMoAR cPSD| 61265515
Đến ngành dịch vụ lOMoAR cPSD| 61265515
Câu 31.2: đầu tư phát triển vừa làm hại vừa bào vệ môi trường. Vn đã làm gì để hạn
chế tác ddoognj tiêu cực đó
a) Các nhiệm vụ cụ thể trước mắt: (1)
Khẩn trương xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia làm căn cứ thẩm định, phêduyệt
các dự án đầu tư của từng vùng phù hợp yêu cầu BVMT, định hướng ưu tiên lĩnh vực, công nghệ
đầu tư phù hợp với quy hoạch môi trường. Xây dựng và ban hành quy chế ứng phó sự cố môi
trường, trong đó có các quy định về cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các Bộ, ngành, Trung lOMoAR cPSD| 61265515
ương và địa phương bảo đảm nguyên tắc Trung ương chỉ đạo thống nhất và địa phương xây dựng
năng lực tự ứng phó theo phương châm 3 tại chỗ đã được xây dựng trong phòng chống thiên tai. (2)
Ban hành hệ thống các tiêu chí đánh giá, sàng lọc, lựa chọn ưu tiên các dự áncông
nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, bảo đảm theo đúng định hướng tăng trưởng xanh,
phát triển bền vững; các quy định về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường, trong
đó có các quy định về cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa
phương trong công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường.
Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê hàng năm về môi trường trong hệ thống các chỉ tiêu
thống kê phát triển kinh tế - xã hội quốc dân, bảo đảm phản ánh đầy đủ các nội dung quản lý môi
trường, phát triển bền vững, trong đó có các chỉ tiêu theo dõi về nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và xã hội cho BVMT. (3)
Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường; cụ thể hóa các cơ chế chínhsách
thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải, phát triển công nghệ xử lý nước thải, tái chế chất thải. (4)
Sửa đổi, bổ sung các quy định về đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá
tácđộng môi trường, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; về kiểm tra công tác thẩm định,
phê duyệt, chấp thuận điều chỉnh báo cáo ĐTM, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, bảo
đảm kiểm soát chặt chẽ công tác BVMT. Xây dựng hệ thống phòng ngừa, cảnh báo sớm sự cố môi trường. (5)
Thực hiện tổng điều tra các nguồn thải, nguồn gây ô nhiễm trên phạm vi cả
nước,xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh để quản lý thống nhất, có cơ chế chia sẻ thông tin và cảnh báo đồng bộ từ
Trung ương đến địa phương. (6)
Rà soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường bảo đảm kiểmsoát
chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao, quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải nghiêm ngặt hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường
nói chung, đặc biệt chú trọng các ngành nhuộm, thuộc da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng...,
tiếp cận với quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các nước tiên tiến. (7)
Rà soát quy hoạch, xây dựng các khu xử lý, chôn lấp rác thải sinh hoạt, rác thảicông
nghiệp, chất thải nguy hại đáp ứng nhu cầu theo quy mô phát sinh các loại chất thải này tại các địa
phương, các khu vực kinh tế trọng điểm, nơi có các dự án lớn. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ hoạt
động phát sinh, thu gom, vận chuyển, xử lý, thải bỏ, chôn lấp các loại chất thải, nhất là chất thải
nguy hại. Đầu tư và có các chính sách thu hút đầu tư của khối tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài
vào hoạt động xử lý chất thải, cung cấp các dịch vụ BVMT; phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ BVMT. (8)
Tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên và môitrường
trên phạm vi cả nước. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc, đánh giá về chất lượng
môi trường làm cơ sở phục vụ công tác thẩm định, xét duyệt các dự án đầu tư, đồng thời, để các
cơ quan, Bộ, ngành, địa phương và người dân thực hiện kiểm soát, giám sát về môi trường. lOMoAR cPSD| 61265515 (9)
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát đảm bảo việc tuân thủ quyđịnh
về BVMT đối với những dự án đã đi vào hoạt động, trước hết là các dự án có nguồn thải ra sông,
ra biển. Tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế
chất thải, hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chất thải thông thường, trong đó có nội dung quy
định về sử dụng chất thải làm nguyên liệu, nhiên liệu, coi chất thải là tài nguyên. (10)
Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc quản lý, sử dụng nguồn chi sựnghiệp
môi trường tại các Bộ, ngành, địa phương bảo đảm tiết kiệm, hỗ trợ và thực hiện có hiệu quả các
hoạt động quản lý môi trường tại địa phương. Trước mắt, điều chỉnh tái cơ cấu đầu tư cho công
tác BVMT ngay trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, tập trung ưu tiên cho
các dự án tiết kiệm năng lượng, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các dự án
theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. b) Các giải pháp lâu dài: (1)
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, phápluật
về BVMT, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung, bám sát thực tế và
theo kịp tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, diễn biến nhanh và mức độ phức
tạp của các vấn đề môi trường. Thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện nghiêm các quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT; chú trọng nâng cao nhận
thức và đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành; tăng cường sự phối hợp, chặt chẽ, đồng bộ
giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương. Có các giải pháp phát huy hiệu quả hoạt động
của lực lượng cảnh sát môi trường. Bộ TN&MT chịu trách nhiệm tổng thể về kiểm tra, giám sát,
bảo đảm thực hiện đúng trách nhiệm của các cơ quan có liên quan. (2)
Tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT từ Trung ương
đếnđịa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVMT ngày càng lớn, phức tạp. Rà soát, phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ quản lý môi trường các cấp, nhất là ở các địa phương, ưu tiên cấp huyện, xã, bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng cơ chế tham vấn, phối hợp
trong công tác bổ nhiệm, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cơ quan chuyên môn về tài nguyên
và môi trường ở địa phương. (3)
Tăng cường và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho BVMT, nhất là đầu tư xử lýchất
thải; xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái do trước đây để
lại. Tăng chi ngân sách cho sự nghiệp BVMT, tập trung giải quyết vấn đề môi trường bức xúc, tồn
đọng kéo dài. Tăng cường vai trò điều phối, phân bổ nguồn lực đầu tư, chi ngân sách cho hoạt
động BVMT của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT. Các nguồn thu từ thuế, phí BVMT phải
được đầu tư trở lại cho các hoạt động BVMT. Có cơ chế thực hiện ký quỹ BVMT trước khi dự án
đi vào vận hành thử nghiệm đối với các dự án đầu tư lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; thu
hút mạnh đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ BVMT trên
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “người hưởng lợi từ môi trường phải chi trả”. (4)
Rà soát, chấn chỉnh, tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ,
biệnpháp quản lý nhà nước về BVMT; sớm đưa các chế tài hình sự về môi trường vào áp dụng;
hoàn thành kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trước năm 2020.
Tổ chức đánh giá, xếp hạng công tác BVMT của các địa phương từ năm 2017. lOMoAR cPSD| 61265515 (5)
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phát triển khoa học công nghệ về BVMT. Tiếp tụcquan
tâm xây dựng các dự án ưu tiên về BVMT nhằm kêu gọi hỗ trợ từ nguồn vốn ODA. Nghiên cứu,
kiến nghị cơ chế cử cán bộ đại diện ngoại giao về môi trường tại các nước nhằm tăng cường cơ
hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về BVMT. (6)
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về BVMT,
tăngtrưởng xanh, phát triển kinh tế xanh theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức
tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, các vùng miền; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động đào
tạo, truyền thông về môi trường.
Câu 34: đặc điểm của đầu tư phát triển. Các đặc điểm ảnh hưởng đến coogn tác quản lí hđ đầu tư ntn lOMoAR cPSD| 61265515 lOMoAR cPSD| 61265515 lOMoAR cPSD| 61265515
Câu 10. Tại sao nói" tình hình kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến mọi quyết định đầu tư"
liên hệ .(Trang 106) lOMoAR cPSD| 61265515
+Giữ ổn định giá trị tiền tệ với việc kiềm chế lạm phát, kiểm soát mức thâm hụt ngân sách
+Đảm bảo sự ổn định ,phù hợp của lãi suất và tỉ giá hối đoái
+Coi trọng các hoạt động kế toán,kiểm toán,tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh,chống tham nhũng Liên hệ
Ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô năm 2018 đem lại những mặt tích cực: tăng trưởng
GDP ở mức cao kỷ lục (7,08%); lạm phát được kiểm soát trong ngưỡng mục tiêu (3,54%) trong
bối cảnh CSTT có xu hướng thắt chặt dần (tín dụng tăng ~14%); tỷ giá hối đoái được giữ vững
(USD/VND tăng ~2,8%); lãi suất có giảm phù hợp với diễn biến lạm phát và cán cân ngân sách
ghi nhận thặng dư sau nhiều năm thâm hụt ,tổng thu NSNN vượt dự toán 5,9%, góp phần làm giảm
bội chi NSNN xuống còn 3,48% GDP, nợ công còn 61,2% GDP tạo điều kiện môi trường kinh
doanh được cải thiện, tình hình chính trị ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, trong
khi lạm phát được duy trì ở mức ổn định so với các nền kinh tế mới nổi khác, qua đó thu hút dòng
vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ…
Cùng với ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện với kết quả xếp
hạng môi trường kinh doanh tăng 14 bậc, từ thứ 82 lên thứ 68/190; năng lực cạnh tranh tăng 5
bậc, từ thứ 60 lên thứ 55/137 quốc gia, vùng lãnh thổ; đánh giá triển vọng của hệ thống ngân
hàng Việt Nam được nâng lên, từ “ổn định” lên “tích cực”. Quyết tâm đổi mới của Việt Nam và
những kết quả quan trọng đạt được đã tạo không khí phấn khởi trong đầu tư kinh doanh và toàn
xã hội, củng cố niềm tin nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp. Việc tổ chức thành công Năm
APEC 2017 cũng đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Câu 40: Các điều kiện huy động có hiệu quả vốn đầu tư là gì?
Thu hút vốn ĐTNN luôn được Đảng và Nhà nước trú trọng đẩy mạnh, đặc biệt là trong điều
kiện các đối thủ cạnh tranh trong khu vực có nhiều điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài như
Trung Quốc, Ấn Độ, …. Tuy nhiên, để các nhà ĐTNN biết đến Việt Nam, thấy được cơ hội kinh
doanh tại Việt Nam, và có được lòng tin đối với đất nước, Đảng va Nhà nước ta phải xác định
những điều kiện cơ bản, tiên quyết để tăng khả năng cạnh tranh với nước bạn về việc thu hút vốn
ĐTNN. Dưới đây là một số điều kiện cần thiết để huy động vốn ĐTNN
- Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh, bền vững cho nền kinh tế.
Đặt trong bối cảnh tổng quát và dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan
trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng
ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong
nước và nước ngoài. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu
hút vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Với năng
lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng, đồng thời
triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài của nước sở tại
- Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô lOMoAR cPSD| 61265515
+ Ổn định giá trị tiền tệ bao gồm kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng
giảm phát nếu xảy ra đối với nền kinh tế; ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái
+ Thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước
trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn vốn đầu tư. Cần phải nâng cao chất
lượng quy hoạch tổng thể, có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn, phù hợp với quy hoạch
ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý đầu tư gắn liền với
việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, đơn giản hoá các thủ tục hành chính về đầu tư và xây dựng. Các
cơ chế chính sách đầu tư phải thống nhất, đồng bộ, dễ hiểu, dễ thực hiện
+ Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác
các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Coi trọng các hoạt động kế toán,
kiểm toán, tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng. Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế
- Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả:
• Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lượcphát triển
kih tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia.
• Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồnvốn đầu tư nước ngoài
• Đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn
• Chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biệnpháp thực hiện
- Duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địabàn đầu
tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư.
Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng
mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địaphương
tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí
sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho
việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư phải được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành,nhiều cấp,
ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp
cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động
đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch
- Xây dựng cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng để khuyếnkhích
nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư.