lOMoARcPSD| 59908026
lOMoARcPSD| 59908026
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ............................................................................................................... 3
Chương I: Khái quát về tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản ................ 3
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ ............................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm tài sản ..................................................................................... 3
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ .......................................................................... 3
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tu ..................................................................... 4
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ ......................................................................... 5
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ .......................................................................... 5
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ ............................................................... 7
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ .......................................................... 7
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ .................................................... 8
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ.................................................. 8
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ ................................................ 9
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ ............................ 9
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ ............... 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 16
MỞ ĐẦU
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực chyếu bao gồm: Sở hữu công
nghiệp dùng để chquyền của chthể đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu ng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá, n thương mại, quyết
công nghệ Bản quyền (quyền tác giả) dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Để hiểu được về thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ, cần nắm rõ rằng tài sản
trí tuệ cũng như quyền sử dụng đất đai, tài sản nếu xét về khía cạnh tương đối thì
mỗi tài sản trí tuệ đều không định lượng, không có vật để so sánh. Việc xác định g
Hà Nội , 2022
lOMoARcPSD| 59908026
tài sản sở hữu trí tudựa trên các phương pháp chủ yếu là chi phí, thu nhập thặng
dư. Tuy nhiên, việc định giá tài sản trí tuệ khó khăn và có nhiều khác biệt hơn so với
tài sản hữu hình.
Xác định giá trị của một quyền sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào thời gian, địa điểm
và tính sinh lời của loại tài sản đặc biệt này. Ngay khi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ
thì người shữu cũng không tính hết được tính hữu dụng và khả năng sinh lời trong
tương lai của tài sản mà mình được sở hữu, nó ch được thhiện giá tr qua thời gian
và mức độ chấp nhận của xã hội.
Xuất phát từ do đó, việc lựa chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật Việt Nam
về định giá tài sản trí tuệ” nhằm nghiên cứu những vấn đề luận thực tiễn
liên quan đến pháp luật định giá tài sản trí tuệ, từ đó đề xuất hướng hoàn thiện các
quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ là việc làm cấp thiết.
NỘI DUNG
Chương I: Khái quát về tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ
1.1.1 Khái niệm tài sản
Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng ca quyền tài sản và các
lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm vật thực, vật đang tồn tại sẽ được chế tạo
theo mẫu và được thỏa thuận giữa các bên , tiền các giấy tờ trị giá được bằng tiền
và quyền tài sản.
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ
Tài sản được hình thành hại loại: Tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản
hữu hình gồm vật, trang thiết bị, tài chính, sở hạ tầng. Tài sản hình là các
nguồn nhân lực và bí quyết thuật đến ý tưởng, chiến lược, kế hoạch kinh doanh,
thương hiệu, kiểu dáng các kết quả hình khác được tạo ra bởi các tài năng sáng
tạo và đổi mới.
lOMoARcPSD| 59908026
Trong những năm gần đây, các tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuđang
càng ngày càng trở nên có giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Tài sản trí tuệ là một
loại do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động duy, sáng tạo trong các lĩnh
vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ thuật.
Theo đinh nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, sở hữu trí tuệ được phân
thành 2 dạng:
- Sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp
và chỉ dẫn đa lý.
- Bản quyền bao gồm những tác phẩm văn học, phim, âm nhạc, tác phẩm
nghệ thuật và thiết kế kiến trúc.
Như vậy, có thhiểu sở hữu trí tuệ là sở hữu các tài sản trí tuệ. Tuy nhiên vấn
đề cốt lõi là sở hữu phải hợp pháp và phải được Nhà nước thừa nhận. Quyền sở hữu
trí tuệ cho phép người sáng tạo hoặc người chủ sở hữu của sáng chế, nhãn hiệu hoặc
bản quyền khai thác các lợi ích thu được từ việc sử dụng hoặc đầu tư vào các tài sản
đó.
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản cố định vô hình, do đó cần có đầy đủ các đặc
điểm cơ bản của dạng tài sản cố định vô hình:
- Tính hình của tài sản trí tuệ tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin, tri
thức, do đó khó nhận thức được sự tồn tại của tài sản này bằng giác quan của con
người mà chỉ bằng nhận thức.
- Tính xác định của tài sản trí tuệ là loại tài sản hình khả năng nhận
diện được. Tài sản trí tuệ thường được thể hiện dưới hình thức vật chất xác định, do
đó con người có khả năng nhận biết, lan truyền không có giới hạn.
lOMoARcPSD| 59908026
Một tài sản trí tuệ có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể đem tài
sản đó cho thuê, mua bán và trao đổi hoặc thu lợi ích kinh tế cụ thể trong tương lai.
- Khả năng bị kiểm soát: Do tài sản trí tuệ khả năng được vật chất hóa
nên trở thành đổi tượng chịu tác động chủ đích của con người, như điều khiển,
sản xuất, khai thác, sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi,.. nhằm
mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra giá trị.
- Tính sáng tạo, đổi mới ca tài sản trí tuệ là kết quả của các hoạt động của
duy sáng tạo, sự đổi mới dựa trên những tri thức hiện có. Đó kết quả của
những cải tiến có sáng tạo từ cái đã hoạt động trong quá khứ, khoặc những thế hiện
mới có sáng tạo của những ý tưởng và quan niệm cũ.
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản kinh doanh giá trị của doanh nghiệp thể
nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp. Gía trị của tài sản trí tuệ thường không
được đánh giá đầy đủ tiềm năng của tài sản trí tuệ trong việc tạo ra các hội
mang lại lơi ích trong tương lai, dường như chưa được các doanh nghiệp nhận thức
đúng mức. Tuy vậy, khi tài sản trí tuệ được bảo hpháp quyền shữu ttuệ,
thì khi đó tài sản trí tuệ sẽ trở thành một tài sản kinh doanh có giá trị. Tài sản trí tuệ
có thể tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp thông qua chuyển giao quyền sử dụng, bán
hoặc thương mại hóa sản phậm hoặc định vụ được bảo hộ quyền sở hữu ttuệ
những sản phẩm đó có thể nâng cao thị phần hoặc lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng như giá
trị của doanh nghiệp và ca toàn bộ nền kinh tế ca một quốc gia.
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ được xem xét dưới 2 góc đọ giá thị trường giá
phi thị trường được xác định theo những căn cứ khác với giá trị thị trường như mua
bán, trao đổi theo cá mức giá không phản ánh giá thị trường như giá trị tài sản trong
quá trình sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá trị đặc biệt, giá trị thanh lý.
lOMoARcPSD| 59908026
Trong kinh tế thị trường, giá trị của tài sả, hàng hóa, dịch v được tạo và duy
trì bởi mối quan hệ giữa bốn yếu tố gắn liền với nhau
- Tính hữu ích
- Tính khan hiếm
- Tính có nhu cầu
- Tính có thể chuyển giao
Tình trạng pháp của quyền sở hữu trí tuệ: Tài sản trí tuệ khi đăng ký
được pháp luật bảo hsẽ mang lại cho doanh nghiệp quyền sở hữu trí tuệ. Nhìn
chung thì việc bảo hộ quyền sở hữu ttuệ góp phần nâng cao giá trị của tài sản trí
tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm hco tài sản trí tuệ sở trở nên hữu hình bằng
cách biến chúng thành các tài sản độc quyền giá trị thể trao đổi bằng thương
mại trên thị trường. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền được sự độc
quyền đối với mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế
theo đó làm giảm khả năng sao chép bắt chước của đối thủ cạnh tranh làm tăng
hội thực tế trong việc thương mại a sản phẩm mới cải tiến, giải quyết một
cách có hiệu quả xung đột bất kỳ liên quan đến tài sản trí tuệ.
Khi được pháp luật công nhận bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu tài sản
trí tuệ có thể có nhiều cơ hội thương mại tài sản trí tuệ hơn so với chủ sở hữu các tài
sản hình khác. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thể hưởng được các lợi ích
kinh tế từ việc cấp phép, liên doanh, hoặc khai thác và phát triển các hoạt động hợp
tác khác trong việc thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc ứng dụng vào
hoạt động kinh doanh.
Các quyền sở hữu trí tuệ nói chung hưởng tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có
giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác.
lOMoARcPSD| 59908026
Thời hạn bảo hộ hay tuổi thọ pháp của quyền sở hữu trí tuệ: Trong khi nhiều
tài sản vô hình không quy định về thời hạn bảo hộ thì hầu hết các quyền shữu
trí tuệ có quy định về thời hạn bảo hộ. Trong thời hạn đó, quyền sở hữu trí.
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ
Định gtài sản trí tuệ là hoạt động chuyên môn mang tính kinh tế - kthuật,
tính pháp và mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại phát triển
gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường.
Từ khái niệm trên có hiểu được định giá tài sản trí tuệ là hoạt động giá trị và
đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại mt thời điểm xác định, làm căn cứ
cho các hoạt động giao dch, mua bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường.
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
doanh nghiệp trong nhiều trường hợp giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn rất
nhiêu giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Do đó, định giá tài sản trí tuviệc làm
hết sức quan trọng, giúp doanh nghiêp biết được giá trị tài sản trí tuệ của mình, từ
đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.
Tài sản trí tuệ của một doanh nghiêp thường được định giá theo các mục tiêu
sau đây:
- Mục tiêu giao dịch đàm phán mua bán tài sản trí tuệ, xác định chi
phí bán;
- Mục tiêu tài chính: hạnh toán và khấu hao tài sản trí tuệ;
- Mục tiêu thông tin: đánh giá quá trình phát tiển, hoạch định chiến
lược nguồn lực, bổ sung báo cáo minh bạch tài tài chính;
- Mục tiêu pháp lý: xxâm phạm bản quyền, xử vi phạm hợp
đồng, phân chia tài sản.
lOMoARcPSD| 59908026
Với mỗi mục đích khác nhau cần xác định khi nào thì định giá liên quan
đến toàn bộ một doanh nghiệp, khi nào chỉ định giá liên quan đến các giao dịch tài
sản trí tuệ.
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ
nhiều do dẫn đến nhu cầu định giá tài sản trí tuệ trong các hoạt động
kinh tế, pháp lý như thế chấp vay vốn và ký quỹ, bảo hiểm, tái cấu doanh nghiệp,
giải quyết tranh chấp, hạch toán lập bảng tài chính doanh nghiệp.
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ dựa trên lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận trong tương
lai, vì vậy việc xác định giá trị của tài sản trí tuệ khó khăn phức tạp hơn so với
các dạng tài sản vô hình khác. Các nhà kinh thế đã nghiên cứu để tìm ra các phương
pháp định gphù hợp, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thể kết luận về phương
pháp định gđược cho phù hợp chính xác nhất. 3 phương pháp định giá
sau đây được công nhận phổ biến trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ;
- Phương pháp dựa trên chi phí: là phương pháp định giá dựa trên cơ sở chi
phí tạo ra một tài sản trí tuệ tương tự tài sản cần định giá để ước tính gtrị thị trường
của tài sản cần định giá.
- Phương pháp thu thập: phương pháp định giá dựa trên sở chuyển đổi
các dòng thu nhập ròng trong tương laithể nhận được từ việc khai thác tài sản trí
tuệ cần định giá thnahf gtrị vốn hiện tại của tài sản để ước tính giá trị thị trường
của tài sản trí tuệ cần định giá.
- Phương pháp thị trường: phương pháp định giá dựa trên sở phân
tích mức giá của các tài sản trí tuệ tương tự với tài sản cần định giá đã giao dịch
thành công hoặc đang mua, bán trên thị trường vào thời điểm định giá hoặc gần với
thời điểm định giá để ước tính giá tr thị trường của tài sản cần định giá.
lOMoARcPSD| 59908026
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Đối với cá doanh nghiệp, tài sản trí tuệ càng trở thành một loại tài sản hình
giá trị, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sức cạnh tranh stăng trưởng
nhanh chóng của doanh nghiêp. Định giá tài sản trí tuệ giúp doanh nghiệp nhận biết
các giá tr hình mà doanh nghiệp đang sở hữu, có chiến lược quản phát triển
các tài sản trí tuệ phù hợp cũng như xây dựng được các phương án kinh doanh dựa
trên tài sản trí tuệ có tính khả thi.
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ một vấn đề phức tạp còn khá mới Việt Nam.
Pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này chưa được pháp điền hóa nằm rải
rác nhiều văn bản pháp luật khác nhau, dàn trải trên các lĩnh vực doanh nghiệp, tài
chính, khoa học công nghệ,… . Với tính chất một chế định kiểm soát giá trị
của tài sản trí tuệ, pháp luật về định giá tài sản t tuệ đã quy định các vấn đề cơ bản
trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ, bước đầu tạo lập cơ sở pháp lý để điều chỉnh
hoạt động định giá tài sản trí tunhư: khi nào phải định giá, định giá như thế nào, ai
định giá.
Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ bao gồm:
- Nhóm quy định định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản trí tuệ :
Trên thực tiễn, có rất nhiều lý do dẫn đến nhu cầu xác định giá trị tài sản t
tuệ. Vì vậy, pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp cần định giá tài sản trí
tuệ cũng khá phong phú, bao gồm: xác định giá trị tài sản góp vón, xác đinh giá tr
tài sản của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế toán, xác định doanh nghiệp cổ phần
hóa, xác định giá trị tài sản trí tuệ thuộc sở hữu Nhà nước khi giao quyền sở hữu.
Các trường hợp định giá tài sản trên quy định tại các văn bản pháp luật về thành lập
doanh nghiệp, các chuẩn mực kế toán, các văn bản quy định về cổ phần hóa doanh
nghiệp, các văn bản pháp luật về khoa học công nghệ. Mỗi trường hợp định giá lại
có quy định riêng về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ và các đi
tượng tài sản trí tuệ được định giá.
lOMoARcPSD| 59908026
- Nhóm quy định pháp luật về các phương pháp định giá tài sản trí tuệ :
Các phương pháp luật về định giá tài sản trí tuệ được quy định ở hệ thống các
tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 về thẩm định
giá tài sản hình đã nêu ra cách tiếp cận trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ,
bao gồm: các tiếp cận lại bao gồm nhiều phương pháp định giá. Tùy thuộc vào đặc
điểm của đối tượng tài sản định giá, mục đích định giá mà chủ thể định giá thể
lựa chọn phương pháp đnh giá phù hợp.
- Nhóm quy định pháp luật về tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ định giá
tài sản trí tuệ:
Dịch vụ định giá tài sản trí tuệ một ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Việt Nam. Tổ chức, cá nhân muốn cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuphải tuân
thủ các điều kiện vthành lập và hoạt động quy định tạic văn bản pháp luật trong
các lĩnh vực thẩm định và khoa học và công nghệ. Có hai mô hình tổ chức định giá
tài sản trí tuệ: doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định
giá và trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ theo mô hình hoạt động, tổ chức định
giá tài sản trí tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Pháp luật cũng
quy định rõ điều kiện hành nghề đối với các thẩm định viên về giá và những quy tắc
đạo đức hành nghề trong quá trính định giá tài sản. Các quy định này đã tạo lập
sở pháp lý cho việc phát triển loại hình dịch vụ định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ
Hiện nay, những quy định về định giá tài sản trí tuệ còn tồn nhiều bất cập, cụ
thể:
Thứ nhất, các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm
từ “tài sản trí tuệ”.
Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở
hữu trí tuệ tại Việt Nam. Theo đó, các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại B
luật này bao gồm: Các đối tượng quyền tác giả (tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
lOMoARcPSD| 59908026
học); Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng
khác do pháp luật quy định). Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được ban
hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định của
Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài sản trí
tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu
hàng hoá.
Thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền sáng chế”
dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về ch sở hữu sáng chế, tên tác
giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng độc quyền
sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình
của DN.
Những “sáng chế” được pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô hình chứ
không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến sáng chế
được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn là “bằng
sáng chế”, như vậy nếu được bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích hoặc chưa
đăng ký bảo hộ sáng chế, DN sẽ khó có cơ sở để tính toán giá trị của các tài sản
này.
Thứ hai, các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân loại tài sản
trí tuệ thành tài sản c định vô hình để định giá và tính vào giá trị DN.
Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ được coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu
(trong trường hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn
hiệu đó được mua lại). Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC
lOMoARcPSD| 59908026
của Bộ Tài chính quy định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đều được
coi là tài sản cố định vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị DN.
Như vậy, Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 45/2013/TT-BTC coi chỉ
dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN, là mâu thuẫn với quy định tại
Khoản 4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý ca Việt Nam
Nhà nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình
của DN. Bên cạnh đó, theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao
gồm nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị DN khi cổ phần hóa. Tuy
nhiên, trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố
định để được định giá và tính vào giá trị DN.
Thứ ba, quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán.
Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá
trị tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo
và phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp
luật hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa DN Nhà nước (DNNN), giá trị tài sản trí
tuệ chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá
khứ).
Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển
cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối
với tài sản trí tuệ đó. Chẳng hạn, giá tr bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi
phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; Giá trị nhãn hiệu là
các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; Giá trị thương hiệu
bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên
thương mại” của DN.
Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành
lập DN, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn
lOMoARcPSD| 59908026
trước hoạt động của DN mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu… không
được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ.
Trong khi đó, theo quy định của Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương
hiệu của DN cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo
dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của DN, bao
gồm: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên
truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty...
Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các
văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong
việc vận dụng phương pháp chi phí để đnh giá tài sản trí tuệ của DN trong quá
trình kinh doanh.
Thứ tư, thiếu các quy định về định gtài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn
thành lập DN bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp
vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật.
Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam
thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các DN trong nước.
Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa DN Việt Nam với các DN nước
ngoài cho thấy, DN Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài
sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Đến nay vẫn
chưa có quy định hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu, vì hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết,
đánh giá được hết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.
Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ, góp vốn liên
doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các DN thuộc mọi thành phần
kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng trống.
lOMoARcPSD| 59908026
Thứ năm, các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp
cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 quy định về tài sản cố định vô hình đã
hướng dẫn cách xác định nguyên giá và nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài
sản trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình của DN, bao gồm: nhãn hiệu hàng
hóa, phần mm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa
được hình thành trong nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình.
Việc không có quy định về tên thương mại và các loại tài sản trí tuệ khác,
cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do DN tạo ra là tài sản cố định vô hình đã
gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho DN trong quá trình định giá, mua bán sáp nhập
DN và khi phát hành chứng khoán. Trên thực tế, đối với nhiều DN, tên thương mại
và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu
hình của DN và đi tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp
nhập của DN nước ngoài trong các thương vụ với DN Việt đa phần chính là vì
những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những DN này.
Như vậy, giữa các quy định về kế toán DN và cổ phần hóa DNNN có sự
không thống nhất trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương
mại. Điều này khiến cho mỗi DN, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử
khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí
tuệ sẽ gây thiệt hại cho các DN sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong các
hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần a DN.
Thứ sáu, thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao
dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.
Pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn
khá sơ lược và chưa thực sự tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài
sản bảo đảm là tài sản trí tuệ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền
tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều
322 Bộ luật Dân sự quy định:Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
lOMoARcPSD| 59908026
bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng… đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa v
dân sự”.
Mặc dù Điều 322 của Bộ luật Dân sự liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ
được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 lại không đề cập tới
việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này.
Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của
giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3
Thông tư 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số
vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo
việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện
tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch
bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu
trí tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký
Quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí
tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
Xác định giá trị tài sản bảo đảmmột vấn đề liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng
tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005
quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân
sự, nếu có giá tr tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tng giá trị các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác”.
Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “Các
bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá
lOMoARcPSD| 59908026
trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về xác
định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.
Vì vậy, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng,
việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được
thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về đnh giá một cách cụ thể và p
hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm.
Trong tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các
ngân hàng ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của mình. Như
vậy, một DN sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận vốn thì các DN
sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ càng khó tiếp cận vốn hơn.
KẾT LUẬN
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá tr của sản phẩm, dịch vụ cũng như giá
trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Tài sản trí tuệ
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kết cấu giá trị của doanh nghiệp. Do đó, định
giá tài sản trí tuệ là công việc hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết được giá
trị tài sản trí tuệ ca mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh
doanh phù hợp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59908026 lOMoAR cPSD| 59908026 Hà Nội , 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ............................................................................................................... 3
Chương I: Khái quát về tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản ................ 3
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ ............................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm tài sản ..................................................................................... 3
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ .......................................................................... 3
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tuệ ..................................................................... 4
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ ......................................................................... 5
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ .......................................................................... 5
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ ............................................................... 7
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ .......................................................... 7
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ .................................................... 8
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ.................................................. 8
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ ................................................ 9
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ ............................ 9
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ ............... 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 16 MỞ ĐẦU
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực chủ yếu bao gồm: Sở hữu công
nghiệp dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá, tên thương mại, bí quyết
công nghệ và Bản quyền (quyền tác giả) dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Để hiểu được về thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ, cần nắm rõ rằng tài sản
trí tuệ cũng như quyền sử dụng đất đai, tài sản nếu xét về khía cạnh tương đối thì
mỗi tài sản trí tuệ đều không định lượng, không có vật để so sánh. Việc xác định giá lOMoAR cPSD| 59908026
tài sản sở hữu trí tuệ dựa trên các phương pháp chủ yếu là chi phí, thu nhập và thặng
dư. Tuy nhiên, việc định giá tài sản trí tuệ khó khăn và có nhiều khác biệt hơn so với tài sản hữu hình.
Xác định giá trị của một quyền sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào thời gian, địa điểm
và tính sinh lời của loại tài sản đặc biệt này. Ngay khi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ
thì người sở hữu cũng không tính hết được tính hữu dụng và khả năng sinh lời trong
tương lai của tài sản mà mình được sở hữu, nó chỉ được thể hiện giá trị qua thời gian
và mức độ chấp nhận của xã hội.
Xuất phát từ lý do đó, việc lựa chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật Việt Nam
về định giá tài sản trí tuệ” nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan đến pháp luật định giá tài sản trí tuệ, từ đó đề xuất hướng hoàn thiện các
quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ là việc làm cấp thiết. NỘI DUNG
Chương I: Khái quát về tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản
1.1 Khái quát về tài sản trí tuệ
1.1.1 Khái niệm tài sản
Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các
lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại sẽ được chế tạo
theo mẫu và được thỏa thuận giữa các bên , tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản.
1.1.2 Khái niệm tài sản trí tuệ
Tài sản được hình thành hại loại: Tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản
hữu hình gồm vật, trang thiết bị, tài chính, cơ sở hạ tầng. Tài sản vô hình là các
nguồn nhân lực và bí quyết kĩ thuật đến ý tưởng, chiến lược, kế hoạch kinh doanh,
thương hiệu, kiểu dáng và các kết quả vô hình khác được tạo ra bởi các tài năng sáng tạo và đổi mới. lOMoAR cPSD| 59908026
Trong những năm gần đây, các tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuệ đang
càng ngày càng trở nên có giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Tài sản trí tuệ là một
loại do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh
vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ thuật.
Theo đinh nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, sở hữu trí tuệ được phân thành 2 dạng: -
Sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý. -
Bản quyền bao gồm những tác phẩm văn học, phim, âm nhạc, tác phẩm
nghệ thuật và thiết kế kiến trúc.
Như vậy, có thể hiểu sở hữu trí tuệ là sở hữu các tài sản trí tuệ. Tuy nhiên vấn
đề cốt lõi là sở hữu phải hợp pháp và phải được Nhà nước thừa nhận. Quyền sở hữu
trí tuệ cho phép người sáng tạo hoặc người chủ sở hữu của sáng chế, nhãn hiệu hoặc
bản quyền khai thác các lợi ích thu được từ việc sử dụng hoặc đầu tư vào các tài sản đó.
1.1.3 Đặc điểm của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản cố định vô hình, do đó cần có đầy đủ các đặc
điểm cơ bản của dạng tài sản cố định vô hình: -
Tính vô hình của tài sản trí tuệ tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin, tri
thức, do đó khó nhận thức được sự tồn tại của tài sản này bằng giác quan của con
người mà chỉ bằng nhận thức. -
Tính xác định của tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình có khả năng nhận
diện được. Tài sản trí tuệ thường được thể hiện dưới hình thức vật chất xác định, do
đó con người có khả năng nhận biết, lan truyền không có giới hạn. lOMoAR cPSD| 59908026
Một tài sản trí tuệ có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể đem tài
sản đó cho thuê, mua bán và trao đổi hoặc thu lợi ích kinh tế cụ thể trong tương lai. -
Khả năng bị kiểm soát: Do tài sản trí tuệ có khả năng được vật chất hóa
nên trở thành đổi tượng chịu tác động có chủ đích của con người, như điều khiển,
sản xuất, khai thác, sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi,.. nhằm
mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra giá trị. -
Tính sáng tạo, đổi mới của tài sản trí tuệ là kết quả của các hoạt động của
tư duy sáng tạo, là sự đổi mới dựa trên những tri thức hiện có. Đó là kết quả của
những cải tiến có sáng tạo từ cái đã hoạt động trong quá khứ, khoặc những thế hiện
mới có sáng tạo của những ý tưởng và quan niệm cũ.
1.1.4 Vai trò của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản kinh doanh có giá trị của doanh nghiệp có thể
nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp. Gía trị của tài sản trí tuệ thường không
được đánh giá đầy đủ và tiềm năng của tài sản trí tuệ trong việc tạo ra các cơ hội
mang lại lơi ích trong tương lai, dường như chưa được các doanh nghiệp nhận thức
đúng mức. Tuy vậy, khi tài sản trí tuệ được bảo hộ pháp lý – quyền sở hữu trí tuệ,
thì khi đó tài sản trí tuệ sẽ trở thành một tài sản kinh doanh có giá trị. Tài sản trí tuệ
có thể tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp thông qua chuyển giao quyền sử dụng, bán
hoặc thương mại hóa sản phậm hoặc định vụ được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà
những sản phẩm đó có thể nâng cao thị phần hoặc lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng như giá
trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
1.1.5 Gía trị của tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ được xem xét dưới 2 góc đọ là giá thị trường và giá
phi thị trường được xác định theo những căn cứ khác với giá trị thị trường như mua
bán, trao đổi theo cá mức giá không phản ánh giá thị trường như giá trị tài sản trong
quá trình sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá trị đặc biệt, giá trị thanh lý. lOMoAR cPSD| 59908026
Trong kinh tế thị trường, giá trị của tài sả, hàng hóa, dịch vụ được tạo và duy
trì bởi mối quan hệ giữa bốn yếu tố gắn liền với nhau - Tính hữu ích - Tính khan hiếm - Tính có nhu cầu
- Tính có thể chuyển giao
Tình trạng pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Tài sản trí tuệ khi đăng ký và
được pháp luật bảo hộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp quyền sở hữu trí tuệ. Nhìn
chung thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ góp phần nâng cao giá trị của tài sản trí tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm hco tài sản trí tuệ sở trở nên hữu hình bằng
cách biến chúng thành các tài sản độc quyền có giá trị có thể trao đổi bằng thương
mại trên thị trường. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền có được sự độc
quyền đối với bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế và
theo đó làm giảm khả năng sao chép và bắt chước của đối thủ cạnh tranh làm tăng
cơ hội thực tế trong việc thương mại hóa sản phẩm mới và cải tiến, và giải quyết một
cách có hiệu quả xung đột bất kỳ liên quan đến tài sản trí tuệ.
Khi được pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu tài sản
trí tuệ có thể có nhiều cơ hội thương mại tài sản trí tuệ hơn so với chủ sở hữu các tài
sản vô hình khác. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể hưởng được các lợi ích
kinh tế từ việc cấp phép, liên doanh, hoặc khai thác và phát triển các hoạt động hợp
tác khác trong việc thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc ứng dụng vào hoạt động kinh doanh.
Các quyền sở hữu trí tuệ nói chung hưởng tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có
giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác. lOMoAR cPSD| 59908026
Thời hạn bảo hộ hay tuổi thọ pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Trong khi nhiều
tài sản vô hình không có quy định về thời hạn bảo hộ thì hầu hết các quyền sở hữu
trí tuệ có quy định về thời hạn bảo hộ. Trong thời hạn đó, quyền sở hữu trí.
1.2 Khái quát về đinh giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ là hoạt động chuyên môn mang tính kinh tế - kỹ thuật,
tính pháp lý và mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển
gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường.
Từ khái niệm trên có hiểu được định giá tài sản trí tuệ là hoạt động giá trị và
đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định, làm căn cứ
cho các hoạt động giao dịch, mua bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường.
1.2.1 Sự cần thiết định giá tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn rất
nhiêu giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Do đó, định giá tài sản trí tuệ là việc làm
hết sức quan trọng, giúp doanh nghiêp biết được giá trị tài sản trí tuệ của mình, từ
đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.
Tài sản trí tuệ của một doanh nghiêp thường được định giá theo các mục tiêu sau đây: -
Mục tiêu giao dịch đàm phán mua bán tài sản trí tuệ, xác định chi phí bán; -
Mục tiêu tài chính: hạnh toán và khấu hao tài sản trí tuệ; -
Mục tiêu thông tin: đánh giá quá trình phát tiển, hoạch định chiến
lược nguồn lực, bổ sung báo cáo minh bạch tài tài chính; -
Mục tiêu pháp lý: xử lý xâm phạm bản quyền, xử lý vi phạm hợp
đồng, phân chia tài sản. lOMoAR cPSD| 59908026
Với mỗi mục đích khác nhau cần xác định rõ khi nào thì định giá liên quan
đến toàn bộ một doanh nghiệp, khi nào chỉ định giá liên quan đến các giao dịch tài sản trí tuệ.
1.2.2 Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ
Có nhiều lý do dẫn đến nhu cầu định giá tài sản trí tuệ trong các hoạt động
kinh tế, pháp lý như thế chấp vay vốn và ký quỹ, bảo hiểm, tái cơ cấu doanh nghiệp,
giải quyết tranh chấp, hạch toán lập bảng tài chính doanh nghiệp.
1.2.3 Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Gía trị của tài sản trí tuệ dựa trên lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận trong tương
lai, vì vậy việc xác định giá trị của tài sản trí tuệ khó khăn và phức tạp hơn so với
các dạng tài sản vô hình khác. Các nhà kinh thế đã nghiên cứu để tìm ra các phương
pháp định giá phù hợp, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thể có kết luận về phương
pháp định giá được cho là phù hợp và chính xác nhất. Có 3 phương pháp định giá
sau đây được công nhận phổ biến trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ; -
Phương pháp dựa trên chi phí: là phương pháp định giá dựa trên cơ sở chi
phí tạo ra một tài sản trí tuệ tương tự tài sản cần định giá để ước tính giá trị thị trường
của tài sản cần định giá. -
Phương pháp thu thập: là phương pháp định giá dựa trên cơ sở chuyển đổi
các dòng thu nhập ròng trong tương lai có thể nhận được từ việc khai thác tài sản trí
tuệ cần định giá thnahf giá trị vốn hiện tại của tài sản để ước tính giá trị thị trường
của tài sản trí tuệ cần định giá. -
Phương pháp thị trường: Là phương pháp định giá dựa trên cơ sở phân
tích mức giá của các tài sản trí tuệ tương tự với tài sản cần định giá đã giao dịch
thành công hoặc đang mua, bán trên thị trường vào thời điểm định giá hoặc gần với
thời điểm định giá để ước tính giá trị thị trường của tài sản cần định giá. lOMoAR cPSD| 59908026
1.3 Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Đối với cá doanh nghiệp, tài sản trí tuệ càng trở thành một loại tài sản vô hình
có giá trị, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sức cạnh tranh và sự tăng trưởng
nhanh chóng của doanh nghiêp. Định giá tài sản trí tuệ giúp doanh nghiệp nhận biết
các giá trị vô hình mà doanh nghiệp đang sở hữu, có chiến lược quản lý và phát triển
các tài sản trí tuệ phù hợp cũng như xây dựng được các phương án kinh doanh dựa
trên tài sản trí tuệ có tính khả thi.
1.3.1 Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ
Định giá tài sản trí tuệ là một vấn đề phức tạp và còn khá mới ở Việt Nam.
Pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này chưa được pháp điền hóa mà nằm rải
rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, dàn trải trên các lĩnh vực doanh nghiệp, tài
chính, khoa học và công nghệ,… . Với tính chất là một chế định kiểm soát giá trị
của tài sản trí tuệ, pháp luật về định giá tài sản trí tuệ đã quy định các vấn đề cơ bản
trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ, bước đầu tạo lập cơ sở pháp lý để điều chỉnh
hoạt động định giá tài sản trí tuệ như: khi nào phải định giá, định giá như thế nào, ai định giá.
Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ bao gồm: -
Nhóm quy định định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản trí tuệ :
Trên thực tiễn, có rất nhiều lý do dẫn đến nhu cầu xác định giá trị tài sản trí
tuệ. Vì vậy, pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp cần định giá tài sản trí
tuệ cũng khá phong phú, bao gồm: xác định giá trị tài sản góp vón, xác đinh giá trị
tài sản của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế toán, xác định doanh nghiệp cổ phần
hóa, xác định giá trị tài sản trí tuệ thuộc sở hữu Nhà nước khi giao quyền sở hữu.
Các trường hợp định giá tài sản trên quy định tại các văn bản pháp luật về thành lập
doanh nghiệp, các chuẩn mực kế toán, các văn bản quy định về cổ phần hóa doanh
nghiệp, các văn bản pháp luật về khoa học công nghệ. Mỗi trường hợp định giá lại
có quy định riêng về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ và các đối
tượng tài sản trí tuệ được định giá. lOMoAR cPSD| 59908026 -
Nhóm quy định pháp luật về các phương pháp định giá tài sản trí tuệ :
Các phương pháp luật về định giá tài sản trí tuệ được quy định ở hệ thống các
tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 về thẩm định
giá tài sản vô hình đã nêu ra cách tiếp cận trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ,
bao gồm: các tiếp cận lại bao gồm nhiều phương pháp định giá. Tùy thuộc vào đặc
điểm của đối tượng tài sản định giá, mục đích định giá mà chủ thể định giá có thể
lựa chọn phương pháp định giá phù hợp. -
Nhóm quy định pháp luật về tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ:
Dịch vụ định giá tài sản trí tuệ là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện ở
Việt Nam. Tổ chức, cá nhân muốn cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ phải tuân
thủ các điều kiện về thành lập và hoạt động quy định tại các văn bản pháp luật trong
các lĩnh vực thẩm định và khoa học và công nghệ. Có hai mô hình tổ chức định giá
tài sản trí tuệ: doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định
giá và trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ theo mô hình hoạt động, tổ chức định
giá tài sản trí tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Pháp luật cũng
quy định rõ điều kiện hành nghề đối với các thẩm định viên về giá và những quy tắc
đạo đức hành nghề trong quá trính định giá tài sản. Các quy định này đã tạo lập cơ
sở pháp lý cho việc phát triển loại hình dịch vụ định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ
Hiện nay, những quy định về định giá tài sản trí tuệ còn tồn nhiều bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm
từ “tài sản trí tuệ”.
Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở
hữu trí tuệ tại Việt Nam. Theo đó, các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ
luật này bao gồm: Các đối tượng quyền tác giả (tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa lOMoAR cPSD| 59908026
học); Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng
khác do pháp luật quy định). Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được ban
hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định của
Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài sản trí
tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá.
Thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền sáng chế”
dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng chế, tên tác
giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng độc quyền
sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình của DN.
Những “sáng chế” được pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô hình chứ
không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến sáng chế
được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn là “bằng
sáng chế”, như vậy nếu được bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích hoặc chưa
đăng ký bảo hộ sáng chế, DN sẽ khó có cơ sở để tính toán giá trị của các tài sản này.
Thứ hai, các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân loại tài sản
trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị DN.
Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ được coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu
(trong trường hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn
hiệu đó được mua lại). Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC lOMoAR cPSD| 59908026
của Bộ Tài chính quy định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đều được
coi là tài sản cố định vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị DN.
Như vậy, Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 45/2013/TT-BTC coi chỉ
dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của DN, là mâu thuẫn với quy định tại
Khoản 4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là
Nhà nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình
của DN. Bên cạnh đó, theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao
gồm nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị DN khi cổ phần hóa. Tuy
nhiên, trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố
định để được định giá và tính vào giá trị DN.
Thứ ba, quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán.
Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá
trị tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo
và phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp
luật hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa DN Nhà nước (DNNN), giá trị tài sản trí
tuệ chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá khứ).
Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển
cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối
với tài sản trí tuệ đó. Chẳng hạn, giá trị bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi
phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; Giá trị nhãn hiệu là
các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; Giá trị thương hiệu
bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại” của DN.
Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành
lập DN, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn lOMoAR cPSD| 59908026
trước hoạt động của DN mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu… không
được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ.
Trong khi đó, theo quy định của Thông tư 127/2014/TT-BTC, giá trị thương
hiệu của DN cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo
dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của DN, bao
gồm: chi phí thành lập DN, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên
truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty...
Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các
văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong
việc vận dụng phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của DN trong quá trình kinh doanh.
Thứ tư, thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn
thành lập DN bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp
vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật.
Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam
thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các DN trong nước.
Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa DN Việt Nam với các DN nước
ngoài cho thấy, DN Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài
sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Đến nay vẫn
chưa có quy định hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng nhãn hiệu, vì hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết,
đánh giá được hết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.
Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản trí tuệ, góp vốn liên
doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các DN thuộc mọi thành phần
kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng trống. lOMoAR cPSD| 59908026
Thứ năm, các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp
cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 quy định về tài sản cố định vô hình đã
hướng dẫn cách xác định nguyên giá và nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài
sản trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình của DN, bao gồm: nhãn hiệu hàng
hóa, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa
được hình thành trong nội bộ DN không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình.
Việc không có quy định về tên thương mại và các loại tài sản trí tuệ khác,
cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do DN tạo ra là tài sản cố định vô hình đã
gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho DN trong quá trình định giá, mua bán sáp nhập
DN và khi phát hành chứng khoán. Trên thực tế, đối với nhiều DN, tên thương mại
và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu
hình của DN và đối tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp
nhập của DN nước ngoài trong các thương vụ với DN Việt đa phần chính là vì
những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những DN này.
Như vậy, giữa các quy định về kế toán DN và cổ phần hóa DNNN có sự
không thống nhất trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương
mại. Điều này khiến cho mỗi DN, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử
khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí
tuệ sẽ gây thiệt hại cho các DN sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong các
hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần hóa DN.
Thứ sáu, thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao
dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.
Pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn
khá sơ lược và chưa thực sự tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài
sản bảo đảm là tài sản trí tuệ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền
tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều
322 Bộ luật Dân sự quy định: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm lOMoAR cPSD| 59908026
bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng… đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Mặc dù Điều 322 của Bộ luật Dân sự liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ
được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 lại không đề cập tới
việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này.
Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của
giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3
Thông tư 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số
vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo
việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện
tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch
bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu
trí tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký
Quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí
tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
Xác định giá trị tài sản bảo đảm là một vấn đề liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng
tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005
quy định: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân
sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “Các
bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá lOMoAR cPSD| 59908026
trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về xác
định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.
Vì vậy, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng,
việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được
thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về định giá một cách cụ thể và phù
hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm.
Trong tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các
ngân hàng ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của mình. Như
vậy, một DN sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận vốn thì các DN
sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ càng khó tiếp cận vốn hơn. KẾT LUẬN
Tài sản trí tuệ đem lại sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ cũng như giá
trị của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Tài sản trí tuệ
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kết cấu giá trị của doanh nghiệp. Do đó, định
giá tài sản trí tuệ là công việc hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết được giá
trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.