Đề cương chính sách công | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Vận dụng phương pháp phân tích chi phí – lợi ích vào phân tích một chính sách công mà em quan tâm? 92 -295 sách mới. Vận dụng những đặc trưng của vấn đề chính sách vào phân tích 1 vấn đề chính sách cụ thể? Trang 90. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính sách công
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
II/ Vận dụng
1. Vận dụng phương pháp phân tích chi phí – lợi ích vào phân tích một chính
sách công mà em quan tâm? 92 -295 sách mới
Chính sách phát triển giao thông đường bộ
Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích (CBA)
- So sánh các phương án CS trên cơ sở làm rõ lợi ích và các chi phí thông qua thang đo tiền tệ.
- Dựa trên sự hợp lý về kinh tế - Điểm mạnh của CBA:
+ Tính toán mọi lợi ích chi phí ra đơn vị tiền tệ
+ Có thể so sánh được chi phí CS ở mọi lĩnh vực (y tế, giao thông, giáo dục,…) - Hạn chế của CBA:
+ Chỉ tập trung vào hiệu quả kinh tế là chưa đủ và trở nên vô nghĩa.
+ Thang đo tiền tệ không đo lường được tính đáp ứng nhu cầu
+ Nhiều yếu tố rất khó đo lường bằng đơn vị tiền tệ (không khí sạch, mạng người, …)
Đầu tư của NN vào xây dựng các con đường cao tốc sẽ làm giảm chi phí vận
chuyển cho khách hàng và thời gian, tiết kiệm xăng dầu và giảm thiểu những rủi ro khác.
*)Nêu một chính sách công mà em quan tâm
Một chính sách công mà tôi quan tâm là chính sách về y tế công bằng và tiếp cận
các dịch vụ y tế đầy đủ cho mọi công dân.
*)Vận dụng phương pháp phân tích chi phí – lợi ích vào phân tích chính sách này
Chính sách này nhằm đảm bảo rằng mọi người, bao gồm cả những người có thu
nhập thấp, sẽ có quyền truy cập vào dịch vụ y tế chất lượng cao.
Để phân tích chi phí - lợi ích của chính sách này, ta có thể sử dụng phương pháp
phân tích chi phí - lợi ích để đánh giá chi phí và lợi ích của chính sách này. Việc
làm này sẽ giúp quyết định liệu chính sách này có phải là một giải pháp kinh tế
hiệu quả để cải thiện sức khỏe của người dân hay không.
Để phân tích chi phí, ta cần tính toán chi phí của việc phát triển khai chính sách
này, bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng y tế mới, mua sắm trang thiết bị y tế,
tăng cường đào tạo cho nhân viên y tế tế, chi phí cho việc thu thập dữ liệu và phân
tích các thông tin liên quan đến dịch vụ y tế.
Để phân chia lợi ích, ta cần tính toán giá trị của các lợi ích mà chính sách này được
trả lại. Lợi ích có thể bao gồm tăng cường sức khỏe của người dân, giảm tỷ lệ bệnh
tật và tử vong, tăng cường năng suất lao động, giảm chi phí y tế cá nhân và gia
đình, tăng cường sự hài lòng của công dân về dịch vụ y tế.
Từ đó, ta có thể so sánh giữa chi phí và lợi ích để đưa ra quyết định chính sách này
có đáng đầu tư hay không. Nếu lợi ích lớn hơn chi phí, thì chính sách này có thể
được khai thác và đảo ngược.
2. Vận dụng những đặc trưng của vấn đề chính sách vào phân tích 1 vấn
đề chính sách cụ thể? Trang 90
*) Khái niệm vấn đề chính sách
-Vấn đề chính sách là vấn đề xã hội, xong không phải vấn để xã hội nào cũng là
vấn đề chính sách. một vấn đề xã hội trở thành vấn đề chính sách khi có đủ ba điều kiện
+ vấn đề đó thu hút sự quan tâm, chú ý của người dân, đòi hỏi cần có hành động
+ vấn đề đó thuộc phạm vi quan tâm của các cơ quan nhà nước
+ các cơ quan nhà nước có đủ năng lực để giải quyết vấn đề
*)Nêu đặc trưng của vấn đề chính sách
-Sự phụ thuộc lẫn nhau của các vấn đề chính sách.
trên thực tế các vấn đề chính sách không phải là những thực thể Độc Lập. chúng
là một phần của hệ thống các vấn đề với những phụ thuộc phức tạp và rất khó giải
quyết bằng cách tiếp cận phân tích Độc Lập.
- các vấn đề chính sách là sản phẩm của sự phán xét chủ quan của con người
các vấn đề chính sách không tồn tại tách rời với các cá nhân và nhóm người đã
xác định chúng. trạng thái tự nhiên của xã hội không tự tạo nên các vấn đề chính
sách mà chúng là sự phản ánh môi trường khách quan của tư duy con người.
- sự năng động của vấn đề chính sách
do có nhiều giải pháp cũng như cách thức xác định khác nhau cho cùng một vấn
đề. cũng như giải pháp đối với vấn đề có thể trở nên không phù hợp ngay khi vấn
đề mà các giải pháp đó nhằm vào vẫn giữ nguyên tính bức xúc.
3. Sơ đồ hóa quy trình hoạch định chính sách công?
4. Vận dụng các yêu cầu đối với mục tiêu chính sách vào xây dựng mục tiêu
của một chính sách cụ thể?
- Khái quát về mục tiêu chính sách: Mục tiêu chính sách (policy target) là cái đích
vạch ra mà việc thực hiện hướng tối và cần phải đạt được (được thể hiện về số
lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu và thời hạn)
- Yêu cầu xác định mục tiêu chính sách:
+ Mục tiêu phải rõ ràng, cụ thể, tường mình
+ Mục tiêu phải đo lường được
+ Không nên đề ra quá nhiều mục tiêu
+ Mục tiêu phải có tính hiện thực, khả thi
+ Mục tiêu đề ra phải có tính thời gian
+ Mục tiêu chính sách phải hài hòa, không được mâu thuẫn với những mục tiêu chính sách khác
+ Phải có sự thống nhất giữa mục tiêu và biện pháp
- Vận dụng: CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN ĐÓNG HỌC PHÍ, CHI PHÍ
SINH HOẠT ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM
(theo quy định của Nghị định 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ)
5. Vận dụng lý thuyết về phương pháp kinh tế để phân tích phương pháp thực
hiện cho một chính sách công cụ thể?
- Đặc trưng: Tác động có chủ đích lên đối tượng thực hiện chính sách bằng lợi ích.
- Ưu điểm Do liên quan trực tiếp đến lợi ích của đối tượng chính sách nên đây là
một phương pháp có tác dụng mạnh. Phương pháp này thường được dùng cho các
chính sách phát triển kinh tế của một quốc gia.
Ví dụ: Muốn huy động một nguồn tài chính lớn trong thời gian ngắn cho chương
trình phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng khó khăn, nhà nước sử dụng phương
pháp tăng lãi suất gửi có kỳ hạn; hoặc để thu hút đầu tư phát triển kinh tế ở những
ngành có nhiều rủi ro, NN thường sử dụng các phương pháp miễn, giảm thuế, cho vay ưu đãi....
- Hạn chế: Mặc dù được sử dụng phổ biến, nhưng phương pháp kinh tế không thể
thay thế cho các phương pháp khác. Có nhiều đối tượng chính sách không thể tác
động bằng chính sách kinh tế như huy động lực lượng quân đội ra trận... Với
những đối tượng này phải cần dùng đến phương pháp thuyết phục. Bên cạnh đó khi
chủ thể quản lý phải biết tạo ra những tình huống những điều kiện để lợi ích cá
nhân và phù hợp với lợi ích chung của cả hệ thống.
6. Vận dụng lý thuyết về phương pháp giáo dục, thuyết phục để phân tích
phương pháp thực hiện cho một chính sách công cụ thể?
- Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục , tức là giúp con người phân
biệt được phải trái, đúng sai, lợi – hại, xấu – đẹp, thiện – ác, từ đó giúp cho các đối
tượng nâng cao tính tự giác và nhiệt tình, tham gia một cách tự nguyện vào việc
thực hành mục tiêu chung. - Ưu điểm:
+ Phương pháp dễ tiếp cận thực hiện nên đối tượng dễ tiếp thu, tiếp nhận kiến thức
một cách dễ dàng. Ngoài ra, chủ thể hành chính còn có thể linh hoạt trong việc lựa
chọn không gian, thời gian sử dụng phương pháp. Nếu sử dụng phương pháp này
thành công còn tạo môi trường thân thiện, tích cực giữa chủ thể và đối tượng.
- Nhược điểm: Vì với mỗi nhóm đối tượng thì có độ tuổi, trình độ học vấn khác
nhau nên cần áp dụng các phương pháp khác nhau. Chúng ta không thể áp dụng đại
trà một phương pháp nhất định cho toàn nhóm đối tượng. Vì vậy phương pháp đòi
hỏi chủ thể cần bỏ công sức nghiên cứu về nhóm đối tượng cần áp dụng phương
pháp. Tiếp đó, đề ra những nội dung cơ bản, thiết thực nhất với đối tượng sẽ tiếp xúc.
+ Chủ thể hành chính vẫn còn chưa đưa ra những kiến thức thực tiễn để đối tượng
hành chính có thể nhận thức và áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Đôi lúc, chủ
thể hành chính vẫn còn khá bảo thủ trong việc áp dụng hình thức đổi mới, dẫn đến
tình trạng đối tượng hành chính không thể hiểu được chủ thể hành chính muốn
truyền đạt gì, gây khó khăn cho cả hai bên, làm giảm tiến độ công việc.
+ Ngược lại với ưu điểm, nếu áp dụng phương pháp thất bại, sẽ tạo ra môi trường
làm việc kém thân thiện, hiệu quả, làm tăng khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng hành chính.
7. Vận dụng lý thuyết về phương pháp hành chính để phân tích phương
pháp thực hiện cho một chính sách công cụ thể?
- Đặc trưng: Tác động lên đối tượng chính sách bằng quyền lực (cưỡng chế)
- Ưu điểm: Tác động hành chính có hiệu lực ngay sau khi ban hành, đòi hỏi mọi
người phải chấp hành nghiêm ngặt. Được xem là cần thiết trong TH hệ thống rơi
vào tình huống khó khăn, phức tạp.
- Ví dụ: Ông A tiếp tục không chịu rời khỏi khu đất sinh sống lâu năm.
Chính quyền buộc lòng cưỡng chế khu đất.
- Hạn chế: Đòi hỏi năng lực NN cao.
8. Vận dụng hình thức đánh giá chính sách thông qua thăm dò ý kiến của
các đối tượng chính sách vào đánh giá một chính sách công cụ thể?
- Đánh giá thông qua thăm dò ý kiến các đối tượng chính sách: Căn cứ đánh
giá là nguyện vọng hay các mục tiêu mà các ĐT CS mong muốn đạt được. Hình
thức thể hiện nhận định của ĐT CS về mục tiêu và giá trị CS. Nó tạo ra các thông
tin về việc thực hiện CS theo quan điểm CS của ĐT CS: Người dân có ủng hộ CS
này không? Nếu phản đối thì tại sao>
Phương pháp đánh giá: phỏng vấn, phiếu thăm dò, điều tra nhanh, phân tích điều
tra, phân tích luận chứng,…
9. Vận dụng các tiêu chí đánh giá chính sách công vào đánh giá một chính sách công cụ thể?
- Khái niệm đánh giá chính sách công: ĐGCS là việc xem xét, nhận định về giá
trị các kết quả đạt được khi thực hiện một chính công
- Tiêu chí đánh giá chính sách công: a. Tính hiệu lực:
• Tác dụng hiện hữu của chính sách gây ra.
• Phản ánh sự tác động của chính sách lên đối tượng của nó
• Bao gồm hiệu lực lý thuyết và hiệu lực thực tế
– Hiệu lực lý thuyết là hiệu lực được nhà nước công nhận để đưa
chính sách vào cuộc sống
– Hiệu lực thực tế: xuất hiện khi chính sách tác động đến thực tế.
* Hiện tượng kém hiệu lực hay vô hiệu lực có nguyên nhân
bắt nguồn từ quy luật vòng đời chính sách. b. Tính hiệu quả
* Xem xét mức độ đạt tới mực tiêu và thành công của một chính sách.
• So sánh các kết quả đạt được của chính sách với chi phí và công sức bỏ ra
• Được xác định bằng công thức:
c. Tính hữu dụng của chính sách d. Tính công bằng
• Trong lịch sử phát triển kinh tế, các quốc gia đều trải qua 3 giai đoạn khác nhau: (theo Simon Kuznets)
– Khi kinh tế chưa phát triển, thu nhập và phân phối tương đối đồng đều (công bằng trong nghèo khổ)
– Khi kinh tế thị trường phát triển, sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối
tăng. Người giàu càng trở nên giàu có, người nghèo càng nghèo khó.
– Khi đó, Chính phủ phải dùng chính sách để phân phối thu nhập để hạn chế bất bình đẳng xã hội.
10. Ý nghĩa của chính sách “ngụ binh ư nông” trong lịch sử phong kiến
Việt Nam và vận dụng trong giai đoạn hiện nay?
- Chính sách xây dựng LL quân đội gắn với nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
- Thời bình, binh lính chia nhau vừa sản xuất nông nghiệp ở địa phương, vừa luyện tập ở doanh trại.
- Triều đình có được lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo mà vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp.
Cách thức tuyển binh
Điểm chính thứ nhất trong chính sách ngụ binh ư nông là cách thức tuyển binh.
Theo đó, hình thức tuyến binh sẽ phụ thuộc vào: giai đoạn tuyển, loại quân. Các
quan võ sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp tuyển binh theo sổ hộ tịch được xã quan lập
ra trước đó. Ở thời nhà Lý, đinh năm trên 18 tuổi đủ tuổi gọi vào binh dịch.
Việc tuyển quân được trong chính sách ngụ binh ư nông do quan võ phụ trách
Để tuyển binh hiệu quả và tránh tình trạng trốn lính, quân luật được thực hiện rất
nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, triều đình thường xuyên thực hiện điều tra, thanh tra
tình hình tuyển quân ở địa phương. Dưới thời nhà Trần, người đào ngũ được phán
vào tội phản quốc có thể bị chặt ngón chân, thậm chí tử hình.
Phiên cấp quân đội
Phiên cấp trong quân đội là một điểm chính quan trọng trong chính sách ngụ binh
ư nông. Phiên cấp giúp xác định việc chia phiên và thời gian luyện tập trong quân
đội, thời gian tham gia làm nông. Sau khi tuyển binh, quân lính được chia thành nhiều phiên.
Mỗi phiên là một đơn vị quân đội, số lượng quân trong phiên tùy theo từng địa
phương. Mỗi tháng, quân đội sẽ tiến hành thay phiên 1 lần thường vào mồng một
hoặc ngày rằm. Điều này sẽ luôn đảm bảo, tất cả binh lính đều có thời gian tập
luyện ở doanh trại vừa và tham gia sản xuất nông nghiệp ở địa phương.
Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông
Đáp ứng ngay lực lượng sản xuất nông nghiệp
Bản chất ngụ binh ư nông là đưa quân lính về làm sản xuất nông nghiệp. Do đó,
chính sách đã nhanh chóng giải quyết được vấn đề làm thế nào để tăng lực lượng
sản xuất, sản lượng trong nông nghiệp. Thời bình, quân ở nhà làm nông. Nhưng
khi thời chiến đến, dân lại trở thành binh lính tinh nhuệ trong quân đội.
Trong thời bình, quân đội chỉ cần một số lượng binh lính nhất đỉnh để ổn định trật
tự. Ngược lại thời chiến, số lượng binh càng nhiều càng tốt. Chính sách này có tác
dụng phân bổ đồng đều lực lượng vừa đảm bảo được vấn đề quân sự vừa phát triển nông nghiệp hiệu quả.
Tạo sự cân đối nông nghiệp và quân đội
Lương thực là nhu cầu thiết yếu của xã hội ở mọi tầng lớp. Do đó, nông nghiệp là
ngành nghề quan trọng cần được quan để tạo nên sự cân bằng trong xã hội.
Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông là tạo nên sự liên kết chặt chẽ, cân đối
giữa nông nghiệp và quân đội. Đất nước vừa có nhu cầu cần một lực lượng quân
đội hùng hậu nhưng cũng cần có nhân lực để sản xuất nông nghiệp phục vụ đời
sống. Ngụ binh ư nông tạo ra một lực lượng đồng thời vừa là quân đội vừa là nhân
lực sản xuất. Binh lính trong quân đội được luân phiên đưa về địa phương làm
nông vừa tham gia huấn luyện chiến đấu trong quân đội.
Như vậy, ngụ binh ư nông đảm bảo xây dựng quân đội ổn định với số lượng binh
lính đông đảo. Bên cạnh đó, chính sách cũng giúp hỗ trợ ổn định và phát triển nông nghiệp.
Giảm lương thực trong quân đội
Nuôi một lượng lớn binh lính trong quân đội cần nhiều lương thực. Nhưng việc
tuyển dụng lực lượng quân đội lớn sẽ khiến nhân lực làm nông bị thiếu hụt. Trong
khi đó, triều đình lại tiêu tốn một lượng lương thực rất lớn để nuôi quân không
trong thời bình. Chính vì thế giảm lương thực nuôi quân được xem là tác dụng của
chính sách ngụ binh ư nông.
Theo chính sách này, một phần binh lĩnh trong quân đội sẽ luân phiên trở về làm
nông. Khi đó, lượng lương thực nuôi quân hành tháng sẽ giảm đáng kể. Không chỉ
vậy trong thời gian ở nhà làm nông, lực lượng quân đội vẫn giữ được sức mạnh và giá trị chiến đấu.
Cân bằng quan hệ xã hội
Chính sách ngụ binh ư nông là đưa quân vào trong dân. Điều này đã giúp triều đình
phong kiến thể hiện rõ quan điểm nông binh bất phân. Nhân dân hay quân sĩ đều
không có sự phân biệt. Mối quan hệ xã hội giữa nông và binh được cân bằng.
Bên cạnh đó, chính sách cũng khiến hiện tình quân dân thắm thiết. Thời bình, họ
hỗ trợ nhau trong sản xuất nông nghiệp. Thời chiến, họ giúp đỡ bao bọc bảo vệ lẫn
nhau. Điều này sẽ tạo nên sức mạnh đoàn kết trong dân tộc, sức mạnh có thể chiến
thắng bất kỳ đội quân xâm lược nào.
Tạo nguồn dự trữ
Ngụ binh ư nông được đánh giá chính sách thông minh. Trong giai đoạn thời binh,
binh sĩ tập trung vào sản xuất nông nghiệp tạo ra nguồn lương thực lớn. Nguồn
lương thực này không chỉ đáp ứng nhu cầu của xã hội mà còn tạo ra nguồn dự trữ.
Chúng sẽ được sử dụng đề phòng thiên tai, bão lũ, chiến tranh… Các nguồn dự trữ
cần thiết sẽ giúp đất nước vượt qua các giai đoạn khó khăn trong tương lai.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn
phải đương đầu với giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước. Trong quá trình dựng nước
và giữ nước đó, dân tộc ta đã tạo dựng nên truyền thống quý báu: “Ngụ binh ư
nông”, “trăm họ đều là lính”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “động viên toàn
dân, vũ trang toàn dân” để giết giặc cứu nước.
Kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của
dân tộc; vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, từ khi mới ra đời Đảng ta đã đề ra chủ
trương về “Vũ trang cho công nông” (Luận cương Chính trị của Đảng Cộng sản
Đông Dương). Khi phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, Đảng ta đã thành lập lực lượng Dân quân tự vệ
(DQTV) làm lực lượng nòng cốt trong phong trào chiến tranh nhân dân. Đây là lực
lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là bộ phận của lực
lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quan tâm,
điều hành của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống
nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
11. Ý nghĩa của chính sách dân tộc trong lịch sử phong kiến Việt Nam và
vận dụng trong giai đoạn hiện nay? Chính sách dân tộc:
- Khuyến khích tạo điều kiện cho đồng bào bám đất, bám rừng.
- Ban phát bổng lộc, trao chức tước danh dự, tôn trọng tập quán của dân tộc. - Chính sách hôn nhân
TCCS - Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc của Việt Nam luôn
được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát
triển của đất nước. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc, quan điểm
cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy
mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Nhận thức mới, tư duy mới về vấn đề dân tộc của Đảng
Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Có thể khẳng định, chính sách dân tộc
của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong suốt hơn
90 năm qua theo nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ trên tinh thần tôn
trọng, giúp đỡ lẫn nhau, hướng tới mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân
tộc tại xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk, năm 2018 _Ảnh: TTXVN
Tìm hiểu chính sách dân tộc của Việt Nam trong hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong
thời kỳ đổi mới, có thể thấy một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính
chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng
thời kỳ đổi mới đều xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lớn’’, “luôn luôn
có vị trí chiến lược’’, “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước
ta"... Việc xác định vị trí chiến lược lâu dài của công tác dân tộc chính là xuất phát
từ đặc điểm của cộng đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề
giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong
điều kiện của một quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đó
là một đặc điểm lớn, là đặc trưng, diện mạo lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Nếu
các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh nguyên tắc
“Đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc’’, thì từ lần thứ VI đến lần thứ XI, nguyên
tắc này tiếp tục được khẳng định và bổ sung là: “Đoàn
kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn
nhau’’ (Đại hội VI, VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X), “Bình đẳng, đoàn
kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” (Đại hội XI), “Bình đẳng, đoàn kết, giải quyết hài
hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển” (Đại hội XII). Đến Đại
hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược của chính sách đoàn kết các
dân tộc trên cơ sở “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”.
Đảng ta luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nhân tố
quan trọng, có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nhấn mạnh: “Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự
bình đẳng, giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”(1).
Chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta không chỉ hướng tới mục tiêu
xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, mà còn phát huy các giá trị truyền thống quý báu của từng dân tộc, của mỗi
thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, tạo thành sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc. Đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng, là động lực mạnh mẽ của tiến trình phát triển đất nước hiện nay.
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không
phân biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là
bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm
bằng pháp luật. Theo đó, bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trước hết ở sự bảo
đảm và tạo mọi điều kiện để các dân tộc có cơ hội phát triển ngang nhau. Điều này
được Đảng ta khẳng định nhất quán trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới. Do đó, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội chung cho cả nước, đồng thời cũng ban hành những đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù cho các dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số.
Theo quan điểm của Đảng, thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc là cơ
sở để bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc. Thực hiện chính sách bình đẳng
giữa các dân tộc phải trải qua một quá trình lâu dài, còn thực hiện công bằng xã hội
giữa các dân tộc có thể đạt được trong một thời gian nhất định, bởi tiêu chí công
bằng xã hội luôn gắn với từng giai đoạn lịch sử. Công bằng xã hội không có nghĩa
là cào bằng, dàn đều, mà thể hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất và phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người, mọi cộng đồng, dân tộc có cơ
hội phát triển và sử dụng tốt năng lực, tiềm năng, thế mạnh của mình.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của
Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Trong việc phát
triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể
hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân
tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể”(2). Với
góc nhìn và tư duy mới, vấn đề dân tộc được đặt trong xây dựng quan hệ giữa các
dân tộc và con đường phát triển của các dân tộc; chính sách dân tộc được gắn với
đường lối chính trị, với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, với các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm cũng như hằng năm. Để xây dựng quan hệ
dân tộc theo những mục tiêu trên, đòi hỏi phải thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vì vậy, Đảng ta chủ trương: “Đầu tư
thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động viên tinh
thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và phát triển
thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy mạnh
công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào, trước hết
ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”(3).
Điều này thể hiện rõ mục tiêu trong chính sách dân tộc của Đảng ta là không
ngừng nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của từng dân tộc; làm
cho mỗi dân tộc được phát triển một cách toàn diện và bền vững; đồng thời, qua
đó, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.
Nhờ có các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế dành cho đồng bào dân tộc
thiểu số của Đảng và Nhà nước, nhiều mô hình kinh tế đã triển khai đem lại hiệu
quả kinh tế cao, giúp đồng bào thoát nghèo và phát triển bền vững_Ảnh: TTXVN
Thứ tư, chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Tại Đại hội VII (tháng
6-1991), Đảng ta quan tâm cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển
kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng
của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển
kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm
của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác
được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.”(4). Cũng tại Đại hội VII, xuất phát từ tình hình thực
tế của đồng bào người Hoa và đồng bào người Khmer, Đảng ta đã có quan điểm cụ
thể về vấn đề này: “Bảo đảm cho người Hoa quyền và nghĩa vụ công dân, tôn trọng
văn hoá, chữ viết, tạo điều kiện để bà con người Hoa yên tâm làm ăn, góp phần xây
dựng đất nước Việt Nam và vun đắp quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt
- Trung. Tôn trọng văn hoá, tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer, có chính sách
giúp đỡ bà con người Khmer về đời sống, nhất là ở những vùng đồng bào có nhiều khó khăn”(5).
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhất quán về chính sách dân tộc, đồng
thời chỉ ra phương hướng, mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cụ thể hóa chủ trương này của Đại hội, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đề ra quan điểm phát triển
kinh tế - xã hội cũng như phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng đồng bào dân tộc
thiểu số phải căn cứ điều kiện và đặc điểm của từng vùng.
Nhằm cụ thể hóa chính sách dân tộc của Đại hội IX, tại Hội nghị Trung ương 7
khóa IX, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về
công tác dân tộc”. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng ta về công tác
dân tộc trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở đánh giá toàn diện về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và xuất
phát từ yêu cầu của tình hình mới, Nghị quyết khẳng định: “Vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp
bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Đây là luận điểm rất quan trọng, thể hiện
tầm nhìn chiến lược và tư duy đổi mới của Đảng trong bối cảnh, tình hình trong
nước và quốc tế có nhiều chuyển biến, thay đổi.
Từ thực tế vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
khẳng định: “Tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển”(6). Đại hội XIII,
trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong thực
hiện chính sách về dân tộc, Đảng ta đề ra chủ trương: “Huy động, phân bổ, sử
dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản
về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc
thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của
đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa
chiều, bền vững”(7). Việc áp dụng các chính sách cụ thể cho từng vùng đồng bào
dân tộc thiểu số là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự đổi mới trong nhận thức
của Đảng về sự công bằng trong phát triển giữa các dân tộc và các vùng, miền nói