



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58490434
ĐỀ CƯƠNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Câu 1: phân tích những đóng góp to lớn của Đảng cộng sản VN vào kho tàng lý luận của
Chủ nghĩa xã hội khoa học qua 35 năm đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép
hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là con đường chỉ rõ hiện thực dựa vào khoa học để loại bỏ
tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã mơ
ước nhưng không thể thực hiện được.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của ĐCS Việt Nam khởi xươngs và lãnh đạo từ đại hội
VI(1986) đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Sau 35 năm đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và còn có những
đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng, đó là:
• Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt Nam,
trong điều kiện thời đại ngày nay:
• độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa
xã hội độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong thời đại mới, chủ nghĩa
xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của
quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc,
đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội . Thực
tế, những thành tựu trong hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định rõ tính đúng đắn của lOMoAR cPSD| 58490434
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việt Nam đã đạt
được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng.
Điển hình nhất là công tác phòng, chống dịch COVID-19, bảo vệ sức khỏe của nhân
dân trong hơn 2 năm qua.
• Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với giữ vững ổn định và đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính trị : đảm bảo giữ vững sự
ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội; phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng Đảng là khâu then chốt ,phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội-> ba trụ cột cho sự phát triển nhanh và bền vững ở nước ta;
• Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng
cường vai trò kiến tạo, quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng
trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Xây dựng và phát triển
kinh tế phải đi đối với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái;
• Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đổi
mới và hoàn thiện hệ thống chính trị, từng bước xây dựng và hoàn thiện nên dân chủ xã hội
chủ nghĩa bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân;
• Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi giai
cấp và tầng lớp nhân dẫn mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công dân Việt Nam ở
trong nước hay ở nước ngoài, tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
• Mở rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện hội nhập quốc tế; tranh thủ tối đa sự đồng tình,
ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục lOMoAR cPSD| 58490434
tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại;
• Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quan
trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Từ thực tiễn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tính thân được chí niem thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đó, tiêm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây tự hào, là
động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn
diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong
10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến
động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến lOMoAR cPSD| 58490434
đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
LÝ LUẬN của ĐCS giúp bổ sung lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới
Đảng ta đã có những đóng góp to lớn vào xây dựng, củng cố phong trào cộng sản,
bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, chứng minh sức sống của chủ nghĩa Mác-
lênin trên con đường phát triển của dân tộc và của nhân loại. Việc giữ vững ổn định
chính trị, giữ vững định hướng tư tưởng, trung thành với lý tưởng Máclênin không
chệch hướng và miễn dịch với các tư tưởng độc hại của chủ nghĩa đế quốc trong
"diễn biến hòa bình" khẳng định những đóng góp của Đảng ta với chủ nghĩa Mác-
lênin và phong trào cộng sản quốc tế trên hành trình đi đến độc lập, tự do, ấm no
hạnh phúc của dân tộc
Câu 2: Vì sao ĐCS là nhân tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện thắng lợi
sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân?
Sứ mệnh lịch sử củ giai cấp công nhân do địa vị kinh tế-xã hội ủa giai cấp này quy
đinh nhưng để biến khả năng đó thành hiện thực thì phải thông qua yếu tố chủ
quan của giai cấp công nhân, trong đó Đảng công sản là yếu tố hàng đầu trong
việc thực hiên thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
*Quy luật hình thành của đảng cộng sản
- Khi lý luận khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác thâm nhập vào thực tiễn
phong trào công nhân thì đã được một bộ phận công nhân tiêu biểu tiếp thu. Từ
đó bộ phận này đã thành lập ra Đảng Cộng sản.
- lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hànhđộng.
- lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. lOMoAR cPSD| 58490434
-Sự xuất hiện Đcs chứng tỏ giai cấp công nhân sản xuất đã đạt được đến trình độ
cao nhất trong chính trị :
Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học (chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung) với phong trào công nhân. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản là một tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân *Mối
quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân :
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị, là hình thức tổ chức cao nhất, bộ phận tiên tiến
nhất của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động,.
*Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng
phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những người công
nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia
nhập đăng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu
cho đảng.Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sau cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp
công nhau. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản đóng một vai trò quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện
thắng lợi sử mệnh lịch sử của chính mình vì
+ Nhờ có Đảng Cộng sản mà bản chất mục đích của phong trào công nhân được
thay đổi phù hợp hơn
Trên thực tế, phong trào công nhận đã nhiều lần nổ ra khi chủ nghĩa tư bản hình
thành và phát triển. Ban đầu công nhân đứng lên đấu tranh chỉ vì mục đích kinh
về như: tăng lương, giảm giờ làm, nâng cao điều kiện lao động... Mặc dù phong
trào công nhân có thể phát triển về số lượng. quy mô đầu tranh có thể được mở lOMoAR cPSD| 58490434
rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một lý luận khoa học và cách mạng
soi đường. Khi nào giai cấp công nhân tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì
lúc đó phong trào đấu tranh của giai cấp này mới trở thành phong trào mang tinh
chất chính trị với mục đích là giành lại độc lập chính quyền.
+ Đảng Cộng sản làm thay đổi hình thức đấu tranh của phong trào công nhận từ
đấu tranh từ phát thành tự giác
Những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp công nhân nổ ra dưới nhiều hình thức
khác nhau như đình công, biểu tình, đập phá máy móc... Các phong trào này diễn
ra với quy mô nhỏ, không có tổ chức và đường lối chiến lược rõ ràng Nhưng từ
khi phong trào công nhân được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, được Đảng vạch
ra đường lối, đề ra cương lĩnh đấu tranh cách mạng thì hình thức đấu tranh của giai
cấp công nhân có sự thay đổi lớn. Họ biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang, phong trào diễn ra với quy mô lớn hơn, công nhận biết hoạt động một
cách có tổ chức và đoàn kết chặt chẽ với nhau
=> Đảng đóng vai trò là lãnh tụ chính trị
+Đảng cộng sản là tập hợp đội ngũ những người ưu tú nhất trong giai cấp công
nhân và các quần chúng lao động khác. Đó là tập hợp đội ngũ những người có trình
độ nhận thức chính trị, học văn, chuyên môn cao, lập trường giai cấp vững vàng;
những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học,
cách mạng và là những người được tôi luyện tử trong thực tiễn phong trào cách mạng
=> Đảng cộng sản trở thành bộ tham minh chiến đấu của giai cấp công nhân
Đảng đưa ra quyết định phong trào cahs mang đi lên, đặc biệc trong thời điểm lịch sử quan trọng lOMoAR cPSD| 58490434
+Đảng cộng sản là đại biểu trung thành cho quyền lợi, ý chí, nguyện vọng của
không chỉ giai cấp công nhân mà còn cho đại đa số ng lao động khác (bao gồm ca
giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác), nhờ đó. Đảng có thể tập hợp,
giác ngộ, huy động được quân chủng tham gia các phong trào cách mạng.
=> Đảng cộng sản là hạt nhân quy tụ lực lượng cách mạng, xây dựng khối liên minh
giữa các lực lượng cách mạng,trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị
và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
+Đảng cộng sản đem lại giác ngộ sức mạnh đoàn kết nghị lực cách mạng , trí tuệ
và hành động cách mạng và toàn bộ giai cấp công nhân
- Liên hệ với vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sản phẩm kết hợp của Lý luận
khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lenin với thực tiễn phong trào công
nhân và thực tiễn phong trào yêu nước.
+ Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò nhân tố chủ
quan hàng đầu đảm bảo cho cuộc cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN vì mục tiêu
dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn mình
*kết luận: như vậy , đảng cộng sản là yếu tố quyêt định hàng đầu trong việc thực
hiện sứ mện lịch sử GCCN. Đảng phải có cương lĩnh, đường lối ách mạng đúng
đắn và cách mạng sáng tạo theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Le Nin đảng phải xây
dựng được cơ sở chính trị xã hội rộng rãi, xác lập và cungr cố mối quan hệ mật
thiết với quần chúng, tập hợp và đoàn kêt rộng rãi các tầng lớp nhân dân , vì độc lOMoAR cPSD| 58490434
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Câu 3 :Chứng minh luận điểm : giai cấp CN hiện đại so vs g/c CN thế kỉ 19 có
những biến đổi và khác biệt nhưng lí luận về sứ mệnh lịch sử giai cấp CN vẫn
mang giá trị khoa học cách mạng?
* Khái niệm giai cấp công nhân:
- Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp
vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp
công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ
này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp
công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại
Giai cấp công nhân hiện nay đã có sự khác biệt về nhiều mặt so với giai cấp công
nhân thế kỉ XIX, thể hiện rõ ràng nhất ở hai khía cạnh sau:
- Thứ nhất, về kinh tế - xã hội: giai cấp công nhân hiện nay đã trải qua
thêm ba cuộc cách mạng công nghiệp:điện khí hóa, công nghệ thông
tin và trí tuệ nhân tạo. +Về mặt chất :
• Lao động với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại ( CM công nghệ 4.0)
• Họ không chỉ bao gồm những người lao động chân tay trực tiếp điều khiển
máy móc cơ khí mà còn bao gồm những người lao động với trình độ trí tuệ cao.
• Họ không chỉ gồm những người lao động công nghiệp trực tiếp tạo ra các
giá trị vật chất cho xã hội vậy mà còn gồm những người lao động dịch vụ công nghiệp’
Giai cấp công nhân hiện nay có xu hướng “trí thức hoá” ngày càng tăng, và cũng ngày
càng tiếp thu đông đảo thêm những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. + Về mặt lượng: lOMoAR cPSD| 58490434
• sự phát triển của khoa học công nghệ đã dẫnđến sự ra đời của nhiều ngành
nghề, lĩnh vực mới trong nền sảnxuất,đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ về nguồn nhân lực.
• Số lượng công nhân hiện nay vì vậy đã tăng lên rất nhiều lần so với số lượng
công nhân ở thế kỉ XIX. - Thứ hai, về chính trị - xã hội:
+ Giai cấp công nhân ở thế kỉ XIX là một lực lượng chính trịđộc lập, các phong trào
đấu tranh đó chưa có sức ảnh hưởng to lớn
+ Hiện nay các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp
lãnh đạo và Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền. Họ đã làm chủ tư liệu sản
xuất làm chủ nhà nước và xã hội thông qua Đảng Cộng sản.
+ Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, 1 bộ phận công nhân không còn “ vô sản”
( như Các Mác đã giải thích trước đây), họ đã có ít nhiều tư liệu sản xuất( trung lưu hóa).
* Bên cạnh đó, giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn những điểm tương đồng với
giai cấp công nhân ở thế kỉ XIX: Họ vẫn là lực lượng lao động chính tạo nên của
cải, vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, vẫn là lực lượng đi đầu trong các phong trào
đấu tranh vì hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội
- Ở các nước phát triển, sự phát triển của giai cấp công nhân tỉ lệ thuận với sựphát triển kinh tế.
- Công nghiệp hóa vẫn là cơ sở để giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ cả
sốlượng và chất lượng.
Dù diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại có thay đổi nhưng, nếu từ những biến
đổi đó mà đi đến dao động, phủ nhận khái niệm giai cấp công nhân, phủ nhận sựtồn
tại của giai cấp công nhân thì hàn toàn sai lầm.
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp có tính xã
hội hóa ngày càng cao, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại.
Thứ hai, do địa vị chính trị -xã hội của giai cấp công nhân quy định
Địa vị kinh tế -xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc điểm chính
trị -xã hội mà những giai cấp khác không thể có được:
+là giai cấp tiên phong cách mạng.
+là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.
+là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
+có bản chất quốc tế lOMoAR cPSD| 58490434
Điều kiện chủ quan
Sự phát triển của bản thân giai cắp công nhân cả về sổ lượng và chất lượng.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình
có sự liên minh giai cấp giữa giai cắp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác
Theo chủ nghĩa Mác Lê nin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân là thông
qua chính Đảng tiên phong, GCCN tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao đọng đấu tranh xóa
bỏ các chế dộ bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng GCCN, nhân dân lao
động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội Cộng sản, chủ
nghĩa văn minh ta khẳng định Lý luận về sứ mệnh gc công nhân hiện đại vẫn mang gt khoa học:
- giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của XHhiện
đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao.
- Nội dung kinh tế :
ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh tình trạng bóc lột này vẫn tồn tại.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có nhiều những điều chỉnh nhất định
Liên hệ thực tế: (Thực hiện các chính sách đãingộ cho nhân viên, ví dụ như: Bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế; tăng lương,tăng lợi ích phụ trợ; giảm giờ làm, thêm
ngày nghỉ và ngày phép; miễn phí các khóa đào tạo phát triển chuyên môn; hỗ trợ
về môi trường và trang thiết bị làm việc...), nhưng trong thực tế, chủ nghĩa tư bản
đang triệt để tận dụng sức lao động của người làm thuê, bóc lột giá trị thặng dư
của giai cấp công nhân, vì vậy vẫn còn tồn tại xung đột về lợi ích cơ bản giữa hai
giai cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu tranh giai cấp trong
xã hội hiện đại ngày nay.
=>Do đó Giai cấp công nhân hiện đại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã
hội tư bản hiện đại.
-Nội dung chính trị - xã hội: lOMoAR cPSD| 58490434
+ Ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công
nhân là chống bất công và bất bình đẳng xã hội, đòi quyền dân sinh, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Mục tiêu lâu dài là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Điều đó được nêu rõ trong Cương lĩnh chính trị của các đảng
cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay.
+ Ở các nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp
công nhân tiếp tục sự nghiệp cải cách, đổi mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
=> xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức bóc
lột, nghèo nàn lạc hậu.
- Nội dung văn hóa, tư tưởng:
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải không ngừng đấu tranh
về ý thức hệ giá trị của giai cấp công nhân với hệ giá trị của giai cấp tư sản, đấu
tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản, giáo dục nhận thức và củng
cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, giáo dục và thực hiện chủ nghĩa quốc tế chân
chính của giai cấp công nhân trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân tiến hành cải tạo cái cũ, lỗi
thời, lạc hậu, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và tàn dư còn sót lại của
hệ tư tưởng cũ. Xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tưtưởng, trong
tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội; Xây dựng vàcủng cố ý thức hệ
tiên tiến của giai cấp công nhân – chủ nghĩa Mác-Lênin.
-> xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản văn minh
- là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát
triển,vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xh và cnxh.
Từ những điểm tương đồng đó và biến đổi khác biệt đó của công nhân hiện đại
so với công nhân thế kỷ XIX, =>Có thể khẳng định: “Lý luận về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách lOMoAR cPSD| 58490434
mạng, vẫn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay
của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và quần chúng lao động, chống chủ
nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của thế
giới ngày nay.”Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử
Liên hệ với sứ mệnh của giai cấp công nhân VN:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng xã
hộichủ nghĩa là nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
- Sứ mệnh của giai cấp công nhân VN là giải phóng dân tộc và phát triển đất
ngước theo doanh nghiệp xã hội chủ nghĩa, qua đó giải phóng giai cấp, giải
phóng người lao động, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng dân
chủ Nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH là sự phát triển quá độ
văn minh Câu 4: lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa?
Chủ nghĩa xã hội là hình thức chính trị Việt Nam theo đuổi,Được phản ánh với tính chất
tiến bộ và phù hợp trong thực hiện quản lý và hiệu quả cho phát triển đất nước.
Tư bản chủ nghĩa được tính từ cuộc cách mạng tư sản Hà Lan vào giữa thế kỷ 16,được
hiểu đơn giản là hệ tư tưởng về chính trị, kinh tế, xã hội mà ở đó phần lớn tài sản thuộc về tư nhân. lOMoAR cPSD| 58490434
-Đảng ta đã nhận thức được rằng chế độ TBCN chỉ mang thêm khổ đau cho nhân
dân nếu ko bỏ qua nó, tuy rằng nó có những thành tựu to lớn cần kế thừa nhưng
bên cạnh đó vẫn tồn tại cảnh lầm than, cơ cực.
+ ở XHTBCN, giai cấp công nhân vẫn bị bốc lột sức lao động, vẫn còn phân hóa
giàu nghèo, nhân dân vẫn nghèo đói, dân làm dân vẫn ko được hưởng công sức
chính mình,xã hội vẫn còn bất công, ko tiến bộ, ko có dân chủ thì việc trải qua chế
độ TBCN là ko cần thiết.
- Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá
độlên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về
conđường đi lên CNXH. bỏ qua TBCN là con đường cách mạng tất yếu khách
quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Quy định bởi: Điều kiện lịch sử của dân tộc, xu thế của thời đại, thực tiễn CM đấu
tranh giải phóng dân tộc. Tư tưởng này cần được hiểu đầy đủ với những n i dungộ sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua vi
c xác l p vị trệ ậ í thống trị của quan h sản xuất vệ à kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 58490434
+trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản tư bản chủ nghĩa không
chiếm vai trò chủ đạo
+thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối theo lao động vẫn là
chủ đạo , phân phối theo mức độ đóng góp và quĩ phúc lợi xã hội
+ thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan h bệ óc l t tư bảnộ chủ
nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc bi tệ
là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát triển xã hội,
quản lý phát triển xã hội, đặc bi t lệ à xây dựng nền kinh tế hi n đại, phát triệ ển nhanh
lực lượng sản xuất.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghi p ệ rất khó khăn, phức tạp, lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá đ đòi hộ
ỏi phái có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân Đảng
ta chỉ rõ cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như sau:
Không được phủ nhận sạch trơn tất cả những gì mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa. Cần phải xác định rõ cái gì cần bỏ qua và cái gì cần
phải kế thừa có chọn lọc.
Cần phải hiểu thực chất của bước quá độ “ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
không phải là sự nhảy cóc, đốt cháy giai đoạn và phủ nhận sạch trơn yêu cầu
khách quan của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, kế thừa những
yếu tố hợp lí của chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là đi lên chủ nghĩa tư bản, bởi
vì mục đích của chúng ta là sử dụng các yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa nhằm
phục vụ mục tiêu xây dựng các yếu tố này phải giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản chi phối đời sống xã hội.
Thực chất của việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là bỏ qua: lOMoAR cPSD| 58490434
Sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội, bỏ qua việc xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
bởi vì những yếu tố này sẽ sinh ra áp bức, bóc lột, phân biệt giàu nghèo.
Phải tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí kinh tế,
trình độ giáo dục... mà loài người đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Bởi vì, đây
không phải là thành tựu của riêng chủ nghĩa tư bản mà là của chung nhân loại.
Mặt khác, sinh thời V.I.Lenin đã chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội= Chính quyền xô viết +
trật tự ở đường sắt Phổ + kĩ thuật và cách tổ chức các tờ rớt ở Mỹ quản lí kiểu +
ngành giáo dục quốc dân Mỹ... và Người nhấn mạnh: Người cộng sản phải biết
sử dụng các chuyên gia tư sản...
Như vậy quan điểm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Đảng ta chính là sự kế
thừa và phát triển lí luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội mà học thuyết Mác – Leenin đã đề cập.
Câu 5:Giải thích luận điểm của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh
nhân loại , là trái tim của TG ko có trái tim, là trạng thái tinh thần của TG ko có tinh thần”?
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư
ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã
hội trở thành siêu nhiên, thần bí... Ph.Ăngghen cho rằng: “... tất cả mọi tôn giáo lOMoAR cPSD| 58490434
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những
lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ.
chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn
hoá do con người sáng tạo ra.vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ,
nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật
chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn giáo. Do đó, mọi quan niệm về
tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản
xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo những thay
đổi của cơ sở kinh tế.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện
thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có điều
kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại.
Trong phê phán triết học pháp quyền của Heghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của
tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống
sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái
tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trật tự không
có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” .
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn
giáo trên lập trường duy vật lịch sử
Nguồn gốc: Luận điểm trên của C.Mác đã chỉ rõ: tôn giáo là sản phẩm của sự bất
lực của con người trước những tác động của tự nhiên và xã hội, nói về nguyên nhân
nhận thức: xã hội có sự phân chia giai cấp, áp bức bóc lột, một bộ phận nhân dân
cùng quẫn, bất lực trước các thế lực. Họ sợ hãi, lo lắng và mất cảm giác an toàn.
Các yếu tố tự phát, rủi ro nằm trong ý muốn cũng ảnh hưởng không ít. Nói về
nguyên nhân tâm lý, C.Mác từng viết: “quần chúng nhân dân không thể đoán trước
được, vì bất cứ lúc nào những người vô sản, những tiểu thương, tiểu chủ cũng bị
đe dọa phá sản đột ngột, bất ngờ, ngẫu nhiên, làm cho họ phải trở thành người ăn
xin, kẻ bần cùng, dồn họ vào cảnh chết đói”. Họ bất lực trước các hiện tượng nảy
sinh trong lòng xã hội, là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức lOMoAR cPSD| 58490434
Nó là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật tự không có tinh thần
. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả
đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa
tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện
thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực
trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và
âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ không thể
tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim”
trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở
che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh những bất lực, bế tắt của
con người trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo phản ánh sự đau khổ của hiện thực.
Khi nhân dân bi bóc lột, bị ép tới đường cùng, họ không thể phản kháng, chống cự,
quần chúng nhân dân bất lực. Đó là lúc họ tìm tới tôn giáo như một niềm hy vọng
cho cuộc sống của họ, đó là nơi họ có thể quên đi những nỗi đau của cuộc sống
thực tại để hy vọng, cầu nguyện tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những hy vọng,
những lời cầu nguyện ấy là sự phản kháng yếu ớt chống lại sự khổ đau hiện thực.
Về chức năng, C.Mác đã nhìn nhận vai trò khách quan của tôn giáo trong đời sống
xã hội: hợp thức hóa trật tự xã hội đã được thiết lập với hoàn cảnh xã hội giành cho
nó. Có thể hiểu theo cách của Mác, tôn giáo là cách để họ tạm thời lấy lại được sự
sống sau những giờ lao động mệt mỏi và căng thẳng. . Bởi lẽ nếu không có tôn giáo
thì nhân dân lao động sẽ không còn là con người, họ sẽ bị biến thành những cái
máy vô hồn, làm việc trong các băng truyền hay con Rô-bốt không có trái tim. Chính
trong xã hội đó - một xã hội mà đời sống tinh thần nghèo nàn thì tôn giáo lại món
ăn tinh thần duy nhất mà họ bởi vậy mới là tinh thần của trật tự không có tinh thần.
Có thể nói chỉ ở nơi tôn giáo, con người lao động mới tìm thấy được phần “người”
ít ỏi còn sót lại ở trong cuộc sống và trong các mối tương quan của họ. Nhờ tôn
giáo, họ hiểu rằng, bản thân họ không phải là những cỗ máy vô cảm, nhưng là một
con người đích thực, có lý trí, có ý chí, có nhận thức, có tình cảm và là một nhân vị lOMoAR cPSD| 58490434
hoàn hảo, độc nhất vô nhị giữa cuộc đời. Những điều mà một con Rô-bốt không
thể tìm thấy trên băng chuyền sản xuất hay những người công nhân cũng vậy.
Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác
không phê phán thế giới mà phê phán cái hình thức làm nảy sinh tôn giáo, tức là
phê phán áp bức, bóc lột, bất công… Trong xã hội, con người phải tìm đến và ru
ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhìn thấy rất rõ quan hệ
Nhân quả: vì tôn giáo là một hiện tượng tin thần có nguyên nhân từ trong đời
sống nên muốn xóa bỏ nó phải xóa bỏ cái hình thức làm nó nảy sinh.Như vậy,
.Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con người
khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người
khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình
độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng
người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Giải thích câu nói: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”?
Dường như nhiều người nghe đến câu nói này sẽ nghĩ ngay đến Marx đang ám chỉ
tôn giáo là một thứ tiêu cực, giống như thuốc phiện vậy. Tôn giáo là sự “ru ngủ”
những hạnh phúc ảo tưởng, làm tê liệt ý chí đấu tranh của nhân dân và vì vậy, tôn
giáo hay thuốc phiện cũng không thể nào xóa bỏ đi nỗi đau thực tế. Thực chất,
Marx lại muốn ám chỉ rằng vào thời đó là lúc mà con người còn cảm thấy họ là một
con người và họ có thể tìm được bản thân mình ở những thú vui tinh thần còn lại
duy nhất này mà không phải là máy móc hay con vật. Marx không hề phê phán tôn
giáo là thứ hại nhân dân, trái lại ông đang mô tả thực sự đó là liều thuốc tính thần
còn lại duy nhất để giúp người dân tìm lại được chính họ còn là con người trong
một xã hội vốn không có tình người, là liều thuốc giảm đau duy nhất đối với những
đau khổ mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu trong chính xã hội Tư bản. Thực
tế là, đến tận bây giờ các bác sĩ vẫn sử dụng một liều lượng thuốc phiện nhất định
để giúp họ vượt qua cơn đau về thể xác.
Trước đó, trên một số diễn đàn khoa học ở Đức, cũng có một số người thường ví
tôn giáo là thuốc phiện bởi thời bấy giờ, thuốc phiện được coi là thứ thuốc giảm
đau mà các bác sĩ thường sử dụng để trị bệnh. Song, ở Đức khi đó, nhà nước đã lợi
dụng tôn giáo để đàn áp nhân dân và chống lại những xu hướng tiến bộ. Vì vậy,
C.Mác mong muốn: “ Nhất thiết không để cho người Đức có một phút nào ảo tưởng
và nhẫn nhục, cần phải làm cho ách áp bức nặng nề hơn nữa bằng cách gắn vào nó
cái ý thức về ách áp bức, cần phải làm cho sự ô nhục này càng ô nhục hơn bằng lOMoAR cPSD| 58490434
cách công bố nó lên… cần phải dạy cho dân khiếp sợ để tiêm vào họ dũng khí đấu tranh”.
Khi nêu lên luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác đã coi tôn
giáo như một liều thuốc xoa dịu những nỗi đau thực tại. Thực tế là, đến tận bây giờ
các bác sĩ vẫn sử dụng một liều lượng thuốc phiện nhất định để giúp họ vượt qua
cơn đau về thể xác. Theo nghĩa khác, tôn giáo là sự “ru ngủ” những hạnh phúc ảo
tưởng, làm tê liệt ý chí đấu tranh của nhân dân và vì vậy, tôn giáo hay thuốc phiện
cũng không thể nào xóa bỏ đi nỗi đau thực tế.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn
khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự
tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa
dịu những nỗi đau trần thế. Thật vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta
bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó
chính là lí do để lí giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như
chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc
Đặt câu nói của Marx trong bối cảnh thế giới chúng ta đang sống là thế kỷ phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì chúng cần được xem xét ở góc độ khác. Bởi lẽ
thực chất dù khoa học phát triển đến đâu thì vẫn có những lỗ hổng mà khoa học
không thể giải quyết được. Chính vì thế, khoa học cần đến tôn giáo, và con người
tìm đến tôn giáo như một điểm tựa quan trọng cho đời mình. Khoa học soi sáng
cho tôn giáo và tôn giáo chỉ lối cho khoa học đi đúng đường. Khoa học và tôn giáo
như là đôi cánh chắp cho nhau để cả hai cùng bay xa và bay cao hơn trên bầu trời
tri thức và chân lý. Do đó, Marx hay bất kỳ triết gia nào, nhà khoa học nào cũng
không thể nhân danh khoa học để phủ định sạch trơn tôn giáo, nhưng phải nhớ
rằng tôn giáo và khoa học đều là hai mặt của một thể thống nhất, luôn có sự khác
biệt, nhưng lại thống nhất và bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, xóa bỏ tôn giáo cũng
đồng nghĩa xóa bỏ cả khoa học, vì khi tôn giáo không còn nữa thì khoa học cũng coi
như bị hủy diệt. Sự tồn tại của tôn giáo là điều tất yếu để khoa học tồn tại và phát triển.
nhìn sâu vào sự sống, giáo lý dạy người ta hành động một cách nhân bản, giúp thăng
tiến xã hội và nâng cao nhân phẩm con người. Đức tin đòi hỏi người ta phải đón
nhận nó một cách trưởng thành và có ý thức, nghĩa là một đức tin thông hiểu, một
đức tin với sự trải nghiệm. Chỉ khi đó, người ta mới có thể lý giải câu nói trên của
Marx một cách hợp lý được. lOMoAR cPSD| 58490434
Cách nói tôn giáo như thuốc phiện của Mác thời ấy không hoàn toàn mang tính lên
án, bôi nhọ, ngược lại nó xuất hiện trong bối cảnh nước Đức như là đỉnh cao của
một loạt những lập luận thực chứng về tôn giáo. Có người cho rằng: “Thật thú vị
câu nói trên nằm trong một đoạn văn rất sâu sắc về tư duy triết học kết hợp với
hồn thơ phơi phới được diễn tả một cách rất tài tình
Nhiều nhà tư tưởng đã đồng thuận với nhau rằng, không có khổ đau nào lớn hơn
những khổ đau vô nghĩa, là phải khổ mà không biết tại sao, là không giữ được
tài sản cuối cùng là lòng hy vọng. Tôn giáo cho chúng ta niềm tin, nơi ấy mỗi khổ
đau đều có giá trị tích cực, như vòng nguyệt quế trên đầu các chiến binh. Bản chất
cốt lõi thực sự của mọi tôn giáo là hướng thiện, là tốt đẹp chắc chắn tồn tại mãi
mãi với loài người, chứ không phải là liều thuốc ru ngủ nhân dân như người ta xưa nay vẫn nghĩ.
Câu 6: Vì sao dân chủ XHCN tiến bộ hơn về chất so vs các nền dân chủ trong lịch
sử (dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản)?
Trả lời: Theo C. Mác và Ph.Ăng-ghen, dân chủ là phương tiện tất yếu để con người
đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, tức
quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ. Đặc trưng cơ bản của dân chủ
là tất cả các công dân đều có quyền tham dự đời sống chính trị, quyền lực cao nhất
của đất nước thuộc về đại diện của nhân dân; mọi công dân đều có quyền bình
đẳng trước pháp luật.
Lịch sử phát triển của loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: hình
thái kinh tế xh cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.
Thế nhưng chỉ trải qua 3 nền dân chủ:
• Nền dân chủ chủ nô (nền dân chủ đầu tiên của loài người gắn liền vs chế độ
chiếm hữu nô lệ): Theo quy định của gc cầm quyền thì dân chỉ gồm giai cấp
chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự do(tăng lữ,thương gia và 1 số
tri thức). Đa số còn lại ko phải là "dân" mà là "nô lệ". Họ ko được tham gia
vào công việc nhà nước. Như vậy ,về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực