



















Preview text:
1. Trình bày những giá trị và hạn chế lịch sử của các tư tưởng XHCN phê phán đầu
thế kỷ XIX................................................................................................................2
5. Trình bày vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân............................................................................................3
6. Trình bày đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội- giai đoạn thấp của hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa......................................................................7
8. Trình bày các đặc điểm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa..........................9
9. Trình bày đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ.....................................12
13. Trình bày chức năng của tôn giáo.....................................................................12
15. Trình bày chức năng xã hội của gia đình..........................................................14
18. Phân tích thực trạng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.................................................18
19. Phân tích vai trò của từng tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.........................................................................21
24. Chứng minh rằng: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam
đã hội đủ các tiền đề, điều kiện khách quan và chủ quan để cách mạng xã hội chủ
nghĩa nổ ra và giành được thắng lợi........................................................................31
25. Phân tích các đặc điểm của dân tộc Việt Nam..................................................36
27. Phân tích đặc điểm và tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam..................37
29. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam hiện nay................40
30. Phân tích thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay.............................................42 1
36. Qua nghiên cứu môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, anh/chị thấy vai trò và
trách nhiệm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong việc bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay như thế nào?.......................46 BÀI LÀM
CÂU 1: Trình bày những giá trị và hạn chế lịch sử của các tư tưởng XHCN
phê phán đầu thế kỷ XIX.
a. Những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là
những ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền
thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã hội – chính trị. Cống hiến lớn lao của chủ
nghĩa xã hội không tưởng:
- Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê
phán kịch liệt và ngày càng gay gắt các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ quân
chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những
người lao động trước tình trạng bị áp bức, bóc lột ngày càng nặng nề.
- Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ,
khát vọng của những giai cấp lao động về một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái.
Nó chứa đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương con
người, thông cảm, bênh vực những người lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải
phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
- Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô hình xã hội
tương lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau
này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và
chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. 2
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là
của chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
b. Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
- Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của
các chế độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất của chế độ tư
bản chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của
các chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ ra được con đường,
biện pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã
hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản – lực lượng xã hội đã được sinh ra, lớn
lên và phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đó là giai cấp công nhân.
- Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng muốn cải tạo xã hội bằng con đường
cải lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
CÂU 5: Trình bày vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này
quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông
qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì
việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công
nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tuởng và tổ chức là nhân tố giữ vai 3
trò quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
a) Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân
- Trong thực tế lịch sử, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai
cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy
luật có áp bức có đấu tranh.
- Mặc dù phong trào công nhân có thể phát triển về số lượng, quy mô cuộc đấu
tranh có thể được mở rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một lý luận
khoa học và cách mạng soi đường. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt đến trình độ
tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì lúc đó phong trào đấu
tranh của giai cấp này mới thật sự là phong trào mang tính chất chính trị.
- Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ khi đi vào phong trào công nhân mới được
biến thành sức mạnh vật chất để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới.
=> Như vậy, đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
- Khi đảng cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của đảng, giai cấp công nhân
nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện
pháp đấu tranh cách mạng
=> Từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật
đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội và tổ chức
xây dựng xã hội mới về mọi mặt. 4
Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phả luôn
luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho đảng vững
mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng nhân
dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
b) Mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân
- Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: "Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các
đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích
của toàn thể giai cấp vô sản" .
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung
lực lượng phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những
người công nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự
giác gia nhập đảng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
giới thiệu cho đảng. Trong hàng ngũ của đảng có những đảng viên không phải là
công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và luôn luôn phải đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp công nhân.
Với một đảng cộng sản chân chính thi sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với
giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân
tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy
đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp công nhân. 5
Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
đảng cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sơ lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách
mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương tĩnh, đường lối cách mạng phù hợp
với mỗi giai đoạn cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm được quan điểm, đường
lối của đảng để phổ biến tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua
hành động tiên phong gương mẫu mà lôi kéo quần chúng và các phong trào cách mạng.
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm,
đường lối của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ
hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản" . Cán
bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các
tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động
gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ
quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được
quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách
mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng
mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.
Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân
tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đầu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra
những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng.
Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiên lên, 6
ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở
thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những
người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách
mạng và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng.
6. Trình bày đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội- giai đoạn thấp của hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản)
là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây.
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công
nghiệp được phát triển lên từ những tiền đề vật chất - kỹ thuật của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
- Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó,
phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ
công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa. Nên đại công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội
phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó
phải là nền sản xuất đại công nghiệp phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ
thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn so với
trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen có
nhận định rằng: sau khi giành được chính quyền nhà nước, "giai cấp vô sản
sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để tìm từng bước một đoạt lấy toàn 7
bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản
xuất vào trong tay nhà nước.
- Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu
sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vào trong tay
nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội xã hội chủ
nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới.
- Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa,
không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho
ngựời lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ
chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của đảng cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại
công nghiệp ở trình độ phát triển cao, do vậy đòi hỏi một kỷ luật lao động
chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội theo
những quy định chung của luật pháp.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
- Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có
những hạn chế nhất định, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động là tất yếu. Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng
sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu
quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội. Ngoài phương thức phân phối theo 8
lao động là phương thức cơ bản nhất, người lao động còn được phân phối
theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà
nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường
giao thông. V.V..Đó là những công trình phúc lợi, phục vụ cho mọi người
trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội trong xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Thư năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản
chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo
điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
8. Trình bày các đặc điểm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- KN: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự cải biến xã hội một cách căn bản về
chất nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, kết
thúc bằng việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản.
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai giai đoạn: cách mạng
về chính trị với nội dung là giành chính quyền, thiết lập nhà nước chuyên chính vô
sản; tiếp theo là giai đoạn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội cho đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm của cách mạng xã hội chủ nghĩa 9
Mọi cuộc cách mạng xã hội đều diễn ra trên một phạm vi hết sức rộng lớn và toàn
diện của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt
để nhạt trong lịch sử, do vậy, nó phải được tiến hành cải tạo xã hội một cách căn
bản trên mọi lĩnh vực xã hội; trong đó vừa cải tạo cái cũ vừa xây dựng cái mới mà
xây dựng cái mới là căn bản.
Trên lĩnh vực chính trị:
- Nội dung trước tiên của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thực hiện là
đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân, nhân dân lao động, đưa những người lao động từ địa vi nô lệ làm
thuê lên địa vị làm chủ xã hội. Bước tiếp theo là cần phải tạo điều kiện làm
sâu rộng thêm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà thực chất của quá trình đó
là ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào
quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
- Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào các
công việc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo nâng cao kiến thức về mọi mặt
cho người dần, đặc biệt là văn hoá chính trị. Bên cạnh việc nâng cao trình độ
tri thức cho người dân, Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải quan tâm
tới xây dựng hệ thống luật pháp, hoàn thiện cơ chế, có những biện pháp để
cho nhân dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Trên lĩnh vực kinh tế:
- Những cuộc cách mạng trước đây về thực chất chỉ là cuộc cách mạng chính
trị, bởi vì, về căn bản nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai
cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa, về thực chất là có tính chất kinh tế. Việc giành chính quyền về tay giai 10
cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ trọng
tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
phải là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao nâng suất lao động, cải
thiện đời sống nhân dân.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết phải thay đổi
vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, thay thế
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ
sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp; thực hiện những
biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.
- Cùng với cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội
chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực lượng
sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó từng bước
cải thiện đời sống nhân dân.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
- Trong điều kiện xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với
nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra các giá trị tư tưởng - văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa với những nội dung cơ bản sau:
- Làm cho hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư
tưởng chính thống trong đời sống tư tưởng - văn hoá của toàn xã hội; trở
thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học phổ biến định hướng mọi
hoạt động sáng tạo của Đảng và quần chúng nhân dân.
- Trên cơ sở phê phán và kế thừa, nâng cao các giá trị tư tưởng - văn hoá
truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị tư tưởng - văn hoá tiên tiến của
thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá thực
hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua xây
dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, 11
hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước
thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết, có khả
năng giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.
9. Trình bày đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- KN: DCXHCN là hình thức tổ chức nhà nước của GCCN với hệ thống
chính trị tương ứng mà đặc trưng cơ bản là thừa nhận quyền lực chính trị
của GCCN, của quảng đại quần chúng nhân dân ld.
- Nền DCXHCN là 1 tập hợp các thiết chế nhà nước , xã hội được xác lập,
vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế,
ngày càng đầy đủ các quyền lực ctri của GCCN , của các giai cấp và các
tầng lớp nhân dân khác và của toàn xh.
* Đặc trưng cơ bản của nền DCXHCN
Thứ nhất, nền dcxhcn là nền dân chủ mang tính lịch sử.
Thứ hai, nền dcxhcn là nền dân chủ mang bản chất gc của gccn , đồng thời
là nền dân chủ đại chúng, dân chủ cho đại đa số.
Thứ ba, nền dcxhcn là nền dân chủ có tính chất dân tộc , đồng thời mang
lại tính nhân loại.
Thứ tư, nền dcxhcn là nền dân chủ cuối cùng trong lsu – là nền dân chủ tự tiêu vong.
13. Trình bày chức năng của tôn giáo.
Chức năng đền bù hư ảo
Luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã
làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. Giống như thuốc phiện, tôn 12
giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ
của con người, an ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt của con người trong cuộc sống.
Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng chủ yếu, đặc thù mà còn là
chức năng phổ biến của tôn giáo. Ở đâu có tôn giáo ở đó có chức năng đền bù hư ảo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó không chỉ thực hiện một chức
năng mà gồm một hệ thống chức năng xã hội. Mặc dù là chức năng chủ yếu
nhưng chức năng đền bù hư ảo không thể tách rời các chức năng khác của tôn giáo.
Chức năng thế giới quan
Khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn giáo có tham vọng tạo ra một bức
tranh của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người
dưới một hình thức phi hiện thực. Bức tranh tôn giáo ấy bao gồm hai bộ phận:
thế giới thần thánh và thế giới trần tục và trên cơ sở đó mà tôn giáo giải thích
các vấn đề của tự nhiên cũng như xã hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới
nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên , thần thánh, do đó nó đã xem nhẹ đời
sống hiện thực. Quan niệm này có thể tác động tiêu cực đến ý thức giáo dân,
đến thái độ của họ đối với xung quanh.
Chức năng điều chỉnh
Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh
hành của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không
chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày
trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn mực,
giá trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng quan 13
trọng đến mọi hoạt động của con người. Tất nhiên ở đây chúng ta cần phải chú
ý rằng những chuẩn mực, giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những đặc
trưng khách quan và phụ thuộc vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo.
Chức năng giao tiếp
Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có
chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu trong hoạt
động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao.
Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn có
sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày,
liên hệ trong gia đình... Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố,
tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
Chức năng liên kết
Trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là bộ phận tất yếu trong cấu
trúc thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân tố liên kết xã hội, nghĩa là
nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên những hệ thống
giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm một
cách sai lầm rằng tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố liên kết xã hội chủ yếu, bảo
đảm sự thống nhất của xã hội. Sự thống nhất của xã hội trước hết được bảo đảm
bởi hệ thống sản xuất vật chất xã hội chú không phải bằng cộng đồng tín
ngưỡng. Hơn nữa trong những điều kiện xã hội nhất định, tôn giáo có thể biểu
hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống đối lại xã hội, chống lại chế độ phản tiến bộ đương thời.
Trên đây là hệ thống chức năng của tôn giáo, trong đó mỗi chức năng lại hàm
chứa các chức năng khác.
15. Trình bày chức năng xã hội của gia đình. 14
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức
năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế.
Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
Với tư cách là tế bào của xã hội, gia đình có các chức năng xã hội cơ bản sau:
Chức năng sinh đẻ (sinh sản)
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống chung của xã hội loài người mà
trong đó diễn ra quá trình tái sản xuất sinh học nhằm duy trì và phát triển nòi
giống. Các quốc gia đều quan tâm đến việc điều tiết chức năng sinh đẻ của gia
đình. Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh đẻ của gia đình phụ thuộc
vào yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế-xã hội khác. Ở
Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gĩa đình: “Mỗi gia đình chỉ
nên có từ một đến hai con”.
3.2 Chức năng giáo dục
Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp bắt đầu từ khi
mỗi thành viên được sinh ra cho đến khi trưởng thành và thậm chí cho đến suốt
đời. Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách cá nhân, cần kết họp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà
trường và giáo dục ngoài cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ.
Các yếu tố tác động tới thực hiện chức năng giáo dục của gia đình 15
Gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng. Sự thay đổi của
gia đình ở các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: kinh
tế, chính trị, văn hóa, pháp luật…
Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có những
tác động tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn
phong kiến khi trình độ kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị
trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm
giàu và tự do đầu tư vào các hoạt động theo nhu cầu. Nhờ đó chức năng giáo
dục của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều
được tới trường học tập và được chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực
hiện giáo dục tại gia đình.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội tiếp
xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biển internet, điện thoại di động… đã có
những tác động không nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình
nói riêng. Tuy nhiên, việc lạm dụng các ứng dụng công nghệ ảnh hưởng tới sức
khỏe, tâm lý của cá nhân. Điều này gây những khó khăn không nhỏ cho việc
thực hiện chức năng giáo dục của gia đình bởi thời gian các thành viên bên
nhau ngày càng thu hẹp, sự gắn bó giữa các cá nhân bị suy giảm đáng kể.
Về mặt chính trị, sự ổn định của môi trường chính trị là một yếu tố góp phần
phát triển mọi mặt của xã hội. Khi môi trường sống có trật tự, ổn định thì việc
thực hiện các chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được
đầu tư hơn về mặt thời gian, công sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như
mong đợi. Ngược lại, khi tình hình chính trị bất ổn, môi trường sinh hoạt không
ổn định thì tâm lý, thời gian đều bị chi phối và việc tập trung cho bất cứ một
hoạt động cụ thể nào là điều không dễ dàng. 16
Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán có
những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội cũng
như của mỗi thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng
sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình, sự giáo dục thường được
thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn
chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngoài gia đình.
Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngoài xã
hội người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo
dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các quy tắc,
chuẩn mực trong quan hệ gia đình mà còn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã
hội, các kiến thức chung về xã hội, khoa học…
Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền
lợi của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng
giáo dục của gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia
đình, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối
quan hệ giữa gia đình và pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân – công dân.
Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia
đình cũng chính là một trong các cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Sự ảnh hưởng của các yếu tố trên không diễn ra một cách riêng lẻ và một chiều
mà có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các yếu tố. Khi một trong các yếu tố có
sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một số yếu tố khác. Như khi
nền kinh tế xã hội có những thay đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống
chính trị, trong lối sống, trong phong tục…khi đó, yếu tố pháp luật cũng có
những thay đổi và tách động tới thói quen, đời sống của mỗi công dân. Sự thay
đổi của pháp luật có thể theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại, trong phạm 17
vi giáo dục tại gia đình, điều đó có thể dẫn tới việc mở rộng hoặc thu hẹp các
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
3.3 Chức năng kinh tế
Mỗi gia đình phải tự tổ chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia
đình, thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên đó.
Trong điều kiện phúc lợi xã hội của quốc gia còn hạn chế thì việc thực hiện
chức năng kinh tế của gia đình rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của mỗi cá nhân.
18.Phân tích thực trạng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiê … n nay,
vấn đề liên minh công nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của
khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”, để lực lượng này
thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Kh ng đ椃⌀nh vai tr quan tr漃⌀ng c a c愃Āc bô
phân trong s nghiêp c愃Āch m愃⌀ng
dư"i s l$nh đ愃⌀o c a Đ&ng
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của
GCCN đối với cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã khẳng
định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mê …
nh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đô …
i tiền phong là Đảng Cô … ng sản Viê … t Nam;...; lực 18
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đô … i
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không trở thành
hiện thực, nếu không có nền nông nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ
sở, và điều đó không thể tách rời vai trò của GCND. Giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách thức đối với tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết
chuyên đề về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã chỉ rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”.
Cùng với liên minh công nông là nòng cốt của cách mạng, Đảng ta luôn
coi trọng, đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh
cách mạng cũng như trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Sức mạnh của
khối liên minh giai cấp trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức không thể tách rời vai trò của đội ngũ trí thức. Quá
trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới trong khi cuộc cách mạng
khoa học công nghệ lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng
cao của đội ngũ trí thức: “Đô …
i ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tô … c, tự tôn dân tô …
c sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiê … p cách
mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hô … i công bằng,
dân chủ, văn minh. Bằng hoạt đô …
ng sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to
lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vê …
Tổ quốc”. Mọi nguồn lực, mọi 19
tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, trong đó có công nhân, nông dân và trí thức,
cần được khai thác và phát huy để xây dựng và bảo vệ đất nước.
T(ng bư"c nâng cao đ)i s Āng vât ch Āt, tinh th-n c a c愃Āc bô phân trong liên minh Viê … c thực hiê …
n các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiê … p, khuyến
khích và trợ giúp nông dân trong tiến trình thực hiê …
n nghị quyết các đại hô … i
đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hô …
i được tăng cường; bô … mă …
t nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vâ …
t chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiê …
n. Xóa đói, giảm ngh†o đạt kết quả to lớn. Hê … thống chính trị
ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trâ … t tự an toàn xã hô …
i được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp
nông dân ngày càng được nâng cao”. Tuy nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi
tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước. Các biện pháp kinh tế - kỹ
thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người nông
dân vẫn chưa được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông
dân và trong cả những giai cấp, tầng lớp khác...
Cùng với quá trình đổi mới, quá trình công nghiê … p hóa, hiê … n đại hóa đất
nước, “giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành
ngày càng đông đảo bô … phâ …
n công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò
là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đô …
i tiền phong là Đảng Cô … ng sản Viê … t
Nam... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hô …
i của đất nước, viê … c làm và đời
sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiê …
n”(11). Tuy nhiên, vấn đề
phát triển GCCN ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Trình độ
học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp 20