-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương Chương 1 Triết - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại cáctrung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại (phương Đông: Ấn độ và Trung hoa,phương Tây: Hy Lạp). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Đề cương Chương 1 Triết - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại cáctrung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại (phương Đông: Ấn độ và Trung hoa,phương Tây: Hy Lạp). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
CHƯƠNG 1 I.
1.nguồn gốc ra đời của TH : nguồn gốc nhận thức (tr12) và nguồn gốc xh (tr15)
- Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại các
trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại (phương Đông: Ấn độ và Trung hoa, phương Tây: Hy Lạp).
- Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
❖ Nguồn gốc nhận thức:
+ Trước khi triết học xuất hiện, thế giới quan thần thoại chi phối hoạt động
nhận thức của con người.
+ Tư duy của con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ
thống hóa để xây dựng nên các quan điểm chung nhất về thế giới và về vai trò
của con người trong thế giới đó.
+ Hình thành vốn hiểu biết nhất định, phát triển tư duy trừu tượng, năng lực khái quát +Rút ra được cái chung
Nguồn gốc nhận thức: Triết học ra đời khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân
tay, tầng lớp trí thức ra đời. Những người lao động trí óc có điều kiện nghiên cứu, hệ
thống hóa các quan điểm thành học thuyết lý luận. Thời kỳ này, nhiều triết gia xuất
hiện và triết học đã hình thành. Như vậy, triết học ra đời khi con người đạt đến trình
độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng các học thuyết lý luận. ❖ Nguồn gốc xã hội:
+ Triết học ra đời khi loài người xuất hiện phân chia giai cấp, lao động trí óc
tách khỏi lao động chân tay.
+ Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, triết học ra đời bản thân nó đã mang
“tính đảng” (nhiệm vụ của nó là luận chứng và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xác định).
+ Phân công lao động xã hội
+ Của cải dư thừa, tư hữu hóa tư liệu sản xuất
+ Giai cấp, nhà nước ra đời
+ Lao động trí óc, nhà thông thái
Nguồn gốc xã hội là sự xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu
tiên của nhân loại. Thời kỳ này, chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và
nhà nước lần lượt ra đời, làm cho triết học tự nó mang tính giai cấp sâu sắc.Từ khi ra
đời, triết học mang tính giai cấp, nghĩa là phục vụ lợi ích giai cấp và những lực lượng xã hội nhất định
1.1.giải thích tại sao th ra đời từ thế kỉ thứ 8 đến tk thứ 6 trước Công nguyên? sao k sớm hơn hay muộn hơn?
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VI TCN khi chế độ chiếm hữu nô lệ được xác lập trên cơ sở
phát triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự phát triển kinh tế
thúc đẩy sự ra đời, phát triển của khoa học và triết học.
1.2.Khái niệm th theo QUAN ĐIỂM MÁC-LÊNIN: tr.22
1.2.1.đặc trưng tri thức triết học mác (th là tri thức nhưng k phải mọi tri thức đều là
th: khác ở tính hệ thống, tính khái quát, tính lý luận). tr22
TH là tri thức khi tri thức ấy mang 3 tính:
+Tính hệ thống: nền tảng cho tri thức sau đó. Các nhà triết học và khoa học tự nhiên đã sử
dụng khái niệm “hệ thống" để chỉ tổng số các tri thức và tổng số các vật thể của thế giới hiện thực
+Tính khái quát: Khái quát là thâu tóm những cái có tính chất chung cho một loạt sự vật, hiện tượng.
+Tính lý luận: hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh
mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt
bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù
1.2.2 So sánh tri thức th với tri thức của toán học,tri thức khoa học...
Giữa Khoa học và Triết học có những điểm khác biệt mặc dù chúng có một số điểm chung.
Các nhà khoa học hiếm khi chú ý đến các nghiên cứu triết học và tham gia vào nghiên cứu
của họ. Mặt khác, những phát hiện khoa học trong các lĩnh vực như siêu hình học, vật lý
lượng tử, thuyết tiến hóa, tâm lý học thực nghiệm, thuyết tương đối, nghiên cứu não bộ, v.v.
có ý nghĩa sâu sắc đối với nghiên cứu và tư duy triết học. Các nhà khoa học không tin
tưởng và không thích triết học mặc dù thực tế là triết học có một vị trí quan trọng trong bức
tranh ghép các nỗ lực của con người. Có một thực tế là thế giới được định hình bởi các
nghiên cứu trong khoa học chứ không phải trong triết học, nhưng cũng đúng là triết học có
ảnh hưởng đến các nỗ lực khoa học. Qua bài viết này, chúng ta hãy cùng so sánh nhanh
giữa khoa học và triết học.
Triết học có thể được định nghĩa là nghiên cứu về bản chất cơ bản của tri thức, thực tế và
sự tồn tại. Từ những nền văn minh cổ đại, chính Triết học đã giải thích mọi thứ trên thế giới.
Nếu một người nghiên cứu việc giải thích một hiện tượng đơn lẻ của một triết gia, rõ ràng là
người ta không cần bất kỳ trí thông minh hoặc sự đào tạo đặc biệt nào để hiểu diễn ngôn.
Mọi thứ đều được triết học giải thích bằng ngôn từ và logic hàng ngày mà bất cứ ai có trí
thông minh trung bình cũng có thể hiểu được. Định nghĩa triết học không đơn giản như vậy.
Nó là một hoạt động sử dụng lý trí để khám phá và hiểu các vấn đề bản chất của thực tại
(siêu hình), tư duy duy lý (logic), giới hạn hiểu biết của chúng ta (nhận thức luận), đạo đức
tốt (đạo đức), bản chất của cái đẹp (mỹ học), v.v.
Khoa học, như một nghiên cứu về hiện tượng tự nhiên, đã ở đó không quá ba thế kỷ. Trên
thực tế, cái mà chúng ta gọi là khoa học ngày nay được coi là triết học tự nhiên khi bắt đầu
cuộc hành trình của nó. Tuy nhiên, khoa học đã tự phát triển đến mức không còn khả thi,
cũng như không khả thi, khi cố gắng tìm ra những kết thúc lỏng lẻo để kết hợp khoa học với
triết học. Khoa học nỗ lực tìm hiểu các hiện tượng khác nhau. Giải thích khoa học đòi hỏi sự
trợ giúp từ các khái niệm và phương trình đòi hỏi sự giải thích và nghiên cứu thích hợp, và
không thể hiểu được bởi một người không thuộc dòng khoa học. Văn bản khoa học là kỹ
thuật, phức tạp hơn nhiều và đòi hỏi sự hiểu biết về các khái niệm toán học để hiểu rõ hơn.
Khoa học không tự đứng vững, và không có khoa học nào không có hành trang triết học.
Khoa học liên quan đến nghiên cứu và hiểu biết về hiện tượng tự nhiên theo cách thức thực
nghiệm, trong đó các giả thuyết nâng cao về hiện tượng tự nhiên có thể kiểm tra và xác minh được.
Sự khác biệt giữa Triết học và Khoa học là gì?
● Khoa học có thể được định nghĩa là nghiên cứu kiến thức về thế giới vật chất
và tự nhiên dựa trên quan sát và thí nghiệm trong khi Triết học có thể được
định nghĩa là nghiên cứu về bản chất cơ bản của tri thức, thực tế và tồn tại.
● Khoa học, với tư cách là một ngành nghiên cứu về hiện tượng tự nhiên, đã tồn
tại chưa quá ba thế kỷ, trong khi triết học để giải thích mọi thứ kể từ các nền văn minh cổ đại.
● Mọi thứ đều được triết học giải thích bằng ngôn từ và logic hàng ngày mà bất
cứ ai có trí thông minh trung bình cũng có thể hiểu được. Mặt khác, giải thích
khoa học đòi hỏi sự trợ giúp từ các khái niệm và phương trình đòi hỏi sự giải
thích và nghiên cứu thích hợp, và không thể hiểu được bởi một người không thuộc dòng khoa học. 1.2.3.Vai trò tri thức th?
Thế giới quan khoa học là thế giới quan phản ánh một cách đúng đắn, chân thực hiện
thực khách quan bên ngoài.
Vai trò quan trọng của việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học thông qua các tri thức triết học, thể hiện:
Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng sẽ nâng cao năng lực tư duy lý luận cho học viên
Người cán bộ mà dừng lại ở tư duy kinh nghiệm, tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm sẽ rơi
vào bệnh kinh nghiệm, như vậy sẽ không thể không rơi vào thế giới quan duy vật tầm
thường và phương pháp tư duy siêu hình, tuyệt đối hóa cái cụ thể, cái đơn nhất đem áp
dụng nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn thể.
Chỉ có trên cơ sở trang bị thế giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng cao
được trình độ, năng lực tư duy của mình. Từ kinh nghiệm phát triển lên lý luận khoa học,
mới có đủ điều kiện đảm bảo để khám phá, đi sâu vào bản chất sự vật, quy luật vận động
phát triển của nó. Đồng thời, nâng cao tư duy lý luận sẽ giúp người cán bộ quản lý tránh
khỏi lúng túng, bất lực, nắm bắt được tình hình nhanh chóng, ra được quyết định nhanh đúng và trúng.
Các chuyên đề thuộc bộ môn triết học trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị -
hành chính đã cung cấp những tri thức cơ bản về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy thông qua hai nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù của phép biện chứng. Đó được
coi là tri thức nền tảng xây dựng thế giới quan biện chứng khoa học cho học viên để tiếp tục
nghiên cứu các phần học sau. Đó là kim chỉ nam, đóng vai trò định hướng cho hoạt động
của đội ngũ cán bộ, tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân về mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Thứ hai, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho học viên có được niềm tin vào sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối chính trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân.
Có được thế giới quan đúng đắn, giảng viên sẽ củng cố cho học viên niềm tin khoa học
vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con
đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Hiện nay, kẻ thù sử dụng nhiều
chiêu thức “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Người
cán bộ được trang bị thế giới quan khoa học sẽ nhận thức được những diễn biến phức tạp
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, nâng cao tinh thần cảnh giác. Những tri thức lý luận giúp
cán bộ, học viên có được sự kiên định trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái,
cơ hội, phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giữ vững và tăng cường trận địa tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của kẻ thù.
Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đã có những cán bộ không giữ được mình, dẫn đến tình trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa”
ở một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên. Có người thay đổi lập trường, tư tưởng, lối sống,
thiếu niềm tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, nhiệm vụ giáo dục lý luận
chính trị của nhà trường lúc này càng trở nên cần thiết hơn nữa. Niềm tin vào con đường
Đảng đã lựa chọn sẽ tạo lập cho người cán bộ có lập trường vững vàng, có lý tưởng cao
đẹp. Từ đó dẫn đến hành động đúng đắn như mạnh dạn đấu tranh chống tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ,
chủ nghĩa cá nhân, tệ tham nhũng, những biểu hiện tiêu cực của xã hội ngày nay.
Thứ ba, thế giới quan khoa học góp phần nâng cao ý thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học viên.
Khi có tri thức, niềm tin, lý tưởng, học viên sẽ xác định cho mình động cơ đúng đắn để
rèn luyện và học tập. Trên cơ sở thế giới quan khoa học, mỗi học viên sẽ nhận thức rõ trình
độ, năng lực của bản thân và xác định được phương hướng phấn đấu. Khi đó, niềm tin, lý
tưởng sẽ trở thành động lực để học viên trau dồi kiến thức chuyên môn, phấn đấu trở thành
những cán bộ ưu tú, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Không chỉ thế, người cán bộ có
lý tưởng cũng sẽ tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo chuẩn mực đạo đức chung của người
cán bộ, thực sự vươn lên thành người vừa hồng, vừa chuyên.
Chính trong quá trình học tập lý luận chính trị ở trường, học viên hình thành khả năng tư
duy biện chứng và vận dụng vào hoạt động thực tiễn. Việc nắm bắt sâu sắc tri thức lý luận
cho phép họ phát huy được năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, chủ động trong
việc nắm bắt và đưa ra các giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề thực tiễn của địa
phương mình, gắn lý luận với thực tiễn. Thực tế đã chứng minh, nhiều học viên sau khi kết
thúc chương trình đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, trở về đơn vị công tác đã vận dụng
những kiến thức được học để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý. Nhờ đó, hoạt động
lãnh đạo, quản lý của họ tốt hơn, tầm nhìn xa hơn, gắn với thực tiễn hơn, đem lại hiệu quả
cao trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương.
Áp dụng thực tiễn nâng cao vai trò: Xác định được tầm quan trọng của tri thức triết
học trong việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học cho học viên, các giảng viên của khoa Lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ luôn ý thức tự
giác nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy để có
thể truyền đạt đầy đủ, dễ hiểu, dễ tiếp thu các nội dung, nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đến người học.
Chính vì vậy, trong những năm qua, nhiệm vụ giáo dục lý luận chính trị của Nhà trường thực
sự đem lại hiệu quả trong việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học cho cán bộ, từng bước
nâng cao năng lực tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ của tỉnh./.
1.2.4.đối tượng của th (tr23)
-Thời cổ đại, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học khác thành của khoa học
độc lập. Trong khi triết học Trung Hoa gắn với chính trị - xã hội, thì triết học Ấn Độ lại gắn
với tôn giáo. Triết học Hy lạp từ khi mới ra đời đã gắn liền với khoa học tự nhiên nên gọi là
triết học tự nhiên. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây là
nguyên nhân sâu xa về sau dẫn đến quan niệm cho rằng triết học là khoa học của các khoa
học. Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, hệ thống các quan điểm triết
học đã ra đời và ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển của các thời đại sau đó, thậm trí ảnh
hưởng đến cả sự phát triển của toán học, vật lý học, hóa học, thiện văn học....“... từ các
hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu
hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Thời trung cổ (từ thế kỷ V - XV) ở Tây Âu, do sự thống trị của Giáo hội Thiên
Chúa giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội, triết học không còn là một khoa học độc
lập mà trở thành bộ môn của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý giải và
chứng minh tính đúng đắn của những nội dung trong Kinh thánh. Triết học thời kỳ này
gọi là triết học kinh viện, luận giải và thuyết phục người ta tin vào chúa trời. Triết học
tự nhiên được thay thế bằng triết học kinh viện. Thời kỳ trung cổ, triết học đã phát
triển hết sức khó khăn, chậm chạp trong môi trường rất chật hẹp.
Vào thế kỷ XV-XVI, trong lòng xã hội phong kiến các nước Tây Âu xuất hiện
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khoa học tự nhiên phát triển, cùng với sự phục
hồi tư tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần dần tách khỏi thần học và các khoa
học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể luận,
vũ trụ luận, tri thức luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức học...
Sự phát triển xã hội được thúc đẩy bời sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu
khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra thời kỳ mới cho triết
học phát triển. Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã
phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đồng
thời đạt đến đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII ở Anh, Pháp, Hà
Lan, với những đại biểu xuất sắc như Phranxi Bêcơn, Tômát Hốpxơ (Anh), Điđrô,
Henvêtiút (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát
triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu
xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các môn khoa học độc lập chuyên ngành củng từng bước làm
phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò khoa học của các khoa học. Triết
học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Hêghen đã coi triết
học của mình là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức, trong đó những ngành khoa
học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên thời kỳ đó, triết học Mác ra đời. Triết học
Mác đã đoạn tuyệt triệt để quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, đồng
thời xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất với ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trên cơ sở đó, triết học Mác định hướng
cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã nảy sinh những mâu thuẫn
mới trong xã hội tư bản, đồng thời xuất hiện nhiều trào lưu triết học khác nhau gọi là
triết học phương Tây hiện đại. Đó là các trào lưu triết học khoa học, trào lưu triết học
nhân bản phi lý tính, trào lưu triết học tôn giáo,..
2.TGQ là gì? cấu trúc? vai trò của tgq với con người và bản thân em *Đ/n: tr.28
*Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. (tr29)
- Thế giới quan hình thành gồm những yếu tố thuộc về tất cả thuộc hình thái ý thức xã hội: + Quan điểm triết học
+ Quan điểm khoa học, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ
+ Quan điểm tôn giáo: sản phẩm của tâm thức, mô tả kiến thức qua trực giác cảm nhận.
+ Kiến thức Khoa học nhằm đến mục tiêu phương hướng thực tiễn trực tiếp cho con người
trong tự nhiên và xã hội dựa theo quan sát và dữ kiện từ thực tiễn, phân tích tổng hợp chặt
chẽ và có kiểm nghiệm đối sách khách quan lại với thực tiễn.
+ Các nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức đóng vai trò điều chỉnh những quan hệ qua lại và hành vi của con người.
+ Những quan điểm thẩm mỹ quy định những quan hệ với môi trường xung quanh, với
những hình thức, mục tiêu và kết quả của hoạt động.
Quan điểm và niềm tin triết học tạo nên nền tảng cho thế giới quan đúng đắn. *Chức năng tgq: tr.99
*Nguồn gốc: Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống; là kết quả trực tiếp của quá trình
nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là kết quả của cả hoạt động thực tiễn với
hoạt động nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
*Nội dung phản ánh: Thế giới quan phản ánh thế giới từ ba góc độ, đó là:
1) Các khách thể nhận thức.
2) Bản thân chủ thể nhận thức.
3) Mối quan hệ giữa khách thể với chủ thể nhận thức.
Ba góc độ này của thế giới quan vừa thể hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể
hiện ý thức của con người về chính bản thân mình.
*Hình thức biểu hiện: có thể là các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể là hệ thống lý luận chặt chẽ
*Vai trò với con ng (còn bản thân thì vd13 giấy vd): là “la bàn” soi đường, chỉ hướng cho
con người thực hiện các hoạt động tích cực để phát triển xã hội. Thế giới quan là trụ cột
trong hệ tư tưởng của nhân cách, hành vi, đạo đức và chính trị.
-Thế giới quan đóng vai trò định hướng đối với toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực
tiễn cho đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận thức bản thân, xác định lý
tưởng, hệ giá lối sống cũng như nếp sống của mình.
Sống trong thế giới loài người, con người cần phải nhận thức thế giới và nhận thức bản
thân mình. Trong mối liên kết chung giữa thế giới và con người đã giúp chúng ta tạo nên
những định hướng về lý tưởng sống thông qua các mục tiêu và định hướng phương pháp hoạt động cụ thể.
-Bên cạnh đó thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận
thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như một “thấu kính”, qua đó con người nhìn nhận thế
giới xung quanh cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích,
ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như
vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát
triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như
của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
*Lý do có vai trò quan trọng: tr.31
*Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng
khác nhau, nên được phân loại theo nhiều cách khác nhau. + Thế giới quan tôn giáo + Thế giới quan khoa học
+ Thế giới quan triết học
+ Thế giới quan huyền thoại
+ Thế giới quan kinh nghiệm
+ Thế giới quan thông thường
-Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và
trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
*Thông tin về các hình thức tgq:
- Thế giới quan huyền thoại có nội dung pha trộn giữa thực với ảo, giữa người với thần
đặc trưng cho tư duy nguyên thuỷ giải thích các lực lượng tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng.
- Thế giới quan tôn giáo có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối
với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo
vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức
những lực lượng siêu trần thế. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào
một thế giới khác hoàn mỹ làm giảm nỗi khổ trần gian.
- Thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học. Thế giới quan khoa học phản
ánh thế giới và định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người
trên cơ sở tổng kết những thành tựu của nghiên cứu, thực nghiệm và dự báo khoa học. Thế
giới quan khoa học không ngừng được bổ sung và hoàn thiện và phát triển; thông qua hoạt
động thực tiễn của con người, thế giới quan khoa học được hiện thực hoá, trở thành sức
mạnh vật chất. Thế giới quan phản khoa học, ngược lại do không phản ánh đúng bản chất
của thế giới nên dễ làm cho con người rơi và thế giới quan duy tâm.
- Thế giới quan triết học thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái niệm, phạm trù,
quy luật. Thế giới quan triết học không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người
về thế giới, mà còn chứng minh chúng bằng lý luận. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, là bộ phận quan trọng nhất của triết học bởi vì nó chi phối các quan điểm, quan niệm
còn lại của thế giới quan như quan điểm, quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hoá,...
*Thế giới quan duy vật triết học và thế giới quan duy tâm triết học là hai hình thức của thế giới quan triết học. Thế giới quan duy tâm
- Định nghĩa: Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất thế giới là tinh thần và thừa nhận
vai trò quy định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con
người và xã hội loài người nói riêng.
- Các hình thức của thế giới quan duy tâm được hình thành bởi các quan niệm khác nhau
về tinh thần, ý thức của những người có thế giới quan này; nếu tinh thần, ý thức của con
người tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan, còn tinh thần, ý thức ở bên ngoài con người
tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan. Cấp độ của thế giới quan duy tâm phụ thuộc vào
trình độ nhận thức của con người; có cấp độ thế giới quan thô sơ, tôn giáo hay triết học.
- Giá trị và hạn chế của thế giới quan duy tâm. Thế giới quan duy vật.
- Định nghĩa: Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất và thừa nhận vai
trò quy định của các vật chất đối với tinh thần, ý thức nói chung, đối với con người và xã hội loài người nói riêng.
- Giá trị của thế giới quan duy vật.
- Cơ sở để phân biệt giữa thế giới quan duy tâm với thế giới quan duy vật là xem thế giới
quan đó quan niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng như thế nào.
*Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
Thế giới quan duy vật chất phác
- Thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, nhưng quy vật chất nói chung vào một hay
một số dạng cụ thể đầu tiên sản sinh ra vũ trụ. Trong triết học phương Đông và phương
Tây, chất đầu tiên ấy là những vật thể cụ thể như ngũ hành Trung Quốc), Anu (Nyaya), đất,
nước, lửa, không khí v.v (Lokayata), nước (Ta-lét), lửa (Hêraclít), nguyên tử (Đêmôcrít,
Lơxíp) v.v. Con người được tạo nên từ âm dương, ngũ hành, là sản phẩm của khí, là sự kết
hợp của các nguyên tử v.v.
- Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật chất phác.
Nhận thức mang nặng tính trực quan, phỏng đoán. Đồng nhất chất hay một số chất với vật
chất. Duy vật không triệt để. Chỉ giải thích thế giới mà chưa cải tạo thế giới.
Thế giới quan duy vật cổ đại đánh dấu bước chuyển từ dựa vào thần linh sang dựa vào tự
nhiên để giải thích thế giới. Là cơ sở và đã đặt ra nhiều vấn đề để thế giới quan duy vật ở
các giai đoạn sau tiếp tục hoàn thiện, phát triển.
Thế giới quan duy vật siêu hình
- Thế giới quan duy vật siêu hình xuất hiện từ thời cổ đại với đặc điểm tuyệt đối hóa mặt vận
động, phát triển hay tuyệt đối hóa mặt tĩnh tại, đứng im của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Thế giới quan duy vật siêu hình thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII – XVIII. Do sự phát triển
của khoa học chuyên ngành còn hạn chế; chỉ coi các định luật cơ học là duy nhất đúng với
hoạt động nhận thức; tuyệt đối hoá phương pháp phân tích để tách cái toàn thể thành cái bộ
phận để nghiên cứu và chính phương pháp đó đã mang lại những thành tựu to lớn trong
những lĩnh vực cụ thể nên hầu hết các nhà triết học tây Âu thời kỳ này chịu ảnh hưởng của
phương pháp tư duy này. Thế giới quan duy vật siêu hình coi thế giới do vô số những sự vật
cụ thể tồn tại cạnh nhau trong không gian trống rỗng, vô tận.
- Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật siêu hình.
Tư duy máy móc, không nhận thức được thế giới là kết quả của quá trình phát triển của vật
chất trong các mối liên hệ phức tạp, đa dạng và trong trạng thái vận động không ngừng.
Chống thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Trong những lĩnh vực hẹp, cụ thể thế giới quan duy
vật siêu hình góp phần giúp đạt hiệu quả cao.
Thế giới quan duy vật BIỆN CHỨNG (xem thêm tr. 99)
-Được coi là đỉnh cao của các loại tgq đã từng có trong lịch sử.
- Nguồn gốc của thế giới quan duy vật biện chứng: Kế thừa tinh hoa các quan điểm duy vật
về thế giới trong các học thuyết triết học trước đó. Sử dụng các thành tựu khoa học tự nhiên
để chứng minh những mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên; chuyển khoa học từ
kinh nghiệm sang khoa học lý luận. Tổng kết các sự kiện diễn ra ở các nước tây Âu, khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển và bộc lộ những mặt mạnh, mặt hạn chế của nó.
- Nội dung, bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng đem lại bức tranh trung thực về
thế giới; giúp định hướng, tạo phương pháp tư duy khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. CHỐT:
+Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của con người và xã hội loài người.
+ Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc thế giới quan.
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực.
2.1.Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan (tr30)
3.Vấn đề cơ bản của th. Mqh giữa +vc và yt giải quyết 2 mặt bản thể luận
+nhận thức luận: khả tri, bất khả tri,...
Vấn đề cơ bản của triết học (tr.33)
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại,
của ý thức đối với vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
*Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt: - Mặt thứ nhất (tr.34)
Cách giải quyết mặt bản thể luận:
+ VC có trước - YT có sau ; VC quyết định YT (Chủ nghĩa duy vật)
Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại.
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII- XVIII.
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ YT có trước - VC có sau , YT quyết định VC (Chủ nghĩa duy tâm) . Chủ nghĩa duy tâm
lại được thể hiện qua hai trào lưu chính: Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
+VC - YT song song tồn tại (Nhị nguyên) (tr.39): Thuyết nhị nguyên, hay nhị nguyên luận,
là một học thuyết triết học thừa nhận sự tồn tại độc lập của hai thực thể. Có nhiều dạng nhị
nguyên, một trong số đó là thuyết nhị nguyên về triết học xem vật chất và ý thức (hay tinh
thần), tạo thành hai nguồn gốc của thế giới.
(- Khái niệm vật chất: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con
người thông qua lao động và ngôn ngữ.
- Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất là cái có trước, nó quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não, cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, sự tác động của thế giới xung quanh vào bộ não người tạo thành nguồn gốc tự
nhiên. Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cũng với
nguồn gốc tự nhiên, quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
+ Sự tác động trở lại của ý thức:
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối
của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh
sáng tạo và chủ động, vì vậy nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên ý thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Vì thế ý thức tác động đến nhận
thức thông qua 2 hướng chủ yếu.
Tóm lại, vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau, trong
đó vật chất quyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại
thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.
Ví dụ về vật chất quyết định ý thức:
1.Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có quyết
định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của
cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, con người sẽ biết
những hành động, cư xử đúng mực.
2.Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất, như khi
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
Ví dụ về ý thức quyết định vật chất:
1. Khi ý thức được việc cây xanh là lá phổi của Trái Đất thì con người đã ra sức
trồng trọt, chăm sóc để có một môi trường sống lành mạnh, tốt đẹp hơn
2. Tiết kiệm, sử dụng tiền bạc đúng mức lâu ngà- Khái niệm vật chất: Vật chất là
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.) - Mặt thứ hai (tr.35)
Cách giải quyết mặt nhận thức luận:
+Quan điểm 1: Thuyết khả tri:Thừa nhận khả năng nhận thức TG của con người.
+Quan điểm 2: Thuyết bất khả tri: Phủ nhận khả năng nhận thức TG của con người.
+Quan điểm 3: Hoài nghi luận: Nghi ngờ khả năng nhận thức TG của con người. Cho rằng
con người chỉ nhận thức được bề ngoài chứ không phải bản chất của SVHT
Câu: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
1) Khái niệm thế nào là nhận thức?
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và
những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như là
tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải
quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập đối
với cảm giác, tư duy và ý thức của con người – Hiện thực khách quan là đối tượng của nhận thức.
Hai là, công nhận cảm giác, tri thức, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan; thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc
không có cái gì là không thể biết. Dứt khoát là không có và không thể có đối tượng nào mà
con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa biết, nhưng trong
tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết được. Với khẳng
định trên đây, lý luận nhận thức mác xít khẳng định sức mạnh của con người trong việc
nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra
theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém
sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là
mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá
trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan
trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội.
3.Chủ thể và khách thể nhận thức
Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức
Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là loài người nói chung. Hay cụ thể hơn
đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các nhà bác học.v.v.. Nhưng
không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể
nhận thức khi tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Do
vậy, con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích
cực, sáng tạo của nhận thức.
Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm
chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh
hưởng đến kết quả nhận thức.
Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng
tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy,
khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan, phạm vi của
khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học.
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức
và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai trò quyết
định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo nên hình ảnh nhận thức
về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một quá trình sáng tạo, trong đó chủ
thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể.
Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử – xã hội.
3.1.chia thành các trường phái th: chủ nghĩa duy tâm vs cn duy vật (TR35)
3.1.1.Chủ nghĩa duy vật là quan điểm coi vật chất tự nhiên có trước và quyết định ý thức,
tinh thần con người. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng thế giới vật chất tồn
tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người; ý thức xét cho cùng chỉ là sự phản
ánh thế giới vật chất khách quan vào trong đầu óc con người.
Trong quá trình hình thành, phát triển của lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật có ba hình
thức biểu hiện cơ bản sau:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác ( thời cổ đại) thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đồng
nhất với một hay một số chất cụ thể của vật chất, đưa ra những kết luận mà về sau con
người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chấc phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận
thức thời đại về vật chất và cấu trúc vât chất, nhưng về cơ bản là đúng vì nó lấy bản than
giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến Thần linh, Thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.
+Ra đời từ thời cổ đại
+ Đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất: Không khí, nước, lửa….
+ Ưu điểm: Lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng Đế.
+ Hạn chế: Những lý giải về thế giới còn mang nặng tính trực quan nên những kết luận về
thế giới về cơ bản còn mang tính ngây thơ, chất phác.
+ Ví dụ: Quan niệm của Talet, Hêraclit, Đêmôcrit
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, nhìn thế giới như một cổ máy
khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là trong trạng thái biệt lập và tĩnh lại.
Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã
góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
- Chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới: nhìn thế giới trong
trạng thái biệt lập và tĩnh tại.
-Những nhà triết học tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật siêu hình là - Spinôza - Điđơrô. - Đêcáctơ
– Tích cực: Góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất
là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu
– Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển
– Ví dụ: Các quan niệm của Newton, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mac và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40
của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin phát triển. Đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện
thực đúng như chính bản than nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
– Tích cực: Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, là công cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạ hiện thực ấy – Hạn chế: – Ví dụ: [ ]
Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua các
hình thức lịch sử của nó, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao
nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Bên cạnh những mặt khác nhau, cả 3 hình thức
trên đều thống nhất ở cùng một đặc điểm đó là: Khi giải quyết các vấn đề cơ bản của triết
học đều khẳng định vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.
3.1.2.Chủ nghĩa duy tâm là quan điểm coi ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên, thế
giới vật chất. Trong quá trình hình thành, phát triển của lịch sử triết học.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản sau:
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách
quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,…
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi
phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi
sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
3.2.tại sao những cái trên là vấn đề cơ bản của th
-Lịch sử đấu tranh triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy
vật. Có thể nói, chính các vấn đề cơ bản của triết học được xem là “chuẩn mực” để phân
biệt giữa hai chủ nghĩa triết học này.
-Trên thực tế, các hiện tượng mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống chỉ gói gọn
trong hai loại: hiện tượng vật chất (tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta) hoặc hiện tượng tinh
thần (tồn tại bên trong chúng ta).
-Ăngghen viết:” Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hay giữa tồn tại và tư duy”.
-Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa
vật chất và ý thức, nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để
giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch
sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
3.3.cơ sở nào để chia thành các trường phái th? (duy vật, duy tâm hay nhị nguyên)
Dựa vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, từ trong lịch sử
triết học đã được phân chia thành những trường phái lớn sau đây:
Trường phái 1: Những nhà triết học cho rằng vật chất, giới tự nhiên có trước và giữ vai trò
quyết định được gọi là các nhà duy vật và học thuyết của học hợp thành chủ nghĩa duy vật.
Trường phái 2: Những người cho rằng tinh thần là cái có trước, quyết định VẬT CHẤT
được gọi là các nhà triết học duy tâm và học thuyết của học được tập hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
Trường phái 3: Những nhà triết học cho rằng VẬT CHẤT và Ý THỨC là hai nguyên thể
song song tồn tại không cái nào quyết định cái nào, cả hai cùng là nguồn gốc tạo ra thế giới
được gọi là các nhà nhị nguyên và học thuyết của học hợp thành học thuyết nhị nguyên luận (Đêcáctơ)
* Trường phái triết học duy vật có lịch sử hình thành, phát triển thông qua 3 hình thái chủ yếu:
Khi giải quyết mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) nếu trả lời VẬT CHẤT có trước, Ý THỨC có
sau, Ý THỨC được sản sinh từ kết cấu VẬT CHẤT nhất định và VẬT CHẤT giữ vai trò quyết
định Ý THỨC thì hợp thành chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ và trong khi thừa nhận tính
thứ nhất của VẬT CHẤT đã đồng nhất VẬT CHẤT với 1 hay 1 số chất cụ thể và những kết
luận của nó chủ yếu dựa trên quan sát trực tiếp, cảm tính chưa có cơ sở khoa học. Họ cho
rằng VẬT CHẤT, thế giới tự nhiên là cái có trước, Ý THỨC, linh hồn con người là cái có sau
cho dù quan điểm còn mộc mạc, giản đơn nhưng nó chứa đựng những phỏng đoán thiên
tài, là cơ sở cho thế giới quan triết học sau này. Họ đã cố gắng lấy thế giới để giải thích thế
giới mang tính trực quan cảm tính, chưa dựa trên cơ sở khoa học nào. (âm dương ngũ
hành ở Trung quốc - Đất, nước, lửa, khí ở ấn độ -Khí ...phương Tây)
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc ở thế kỷ 17, thế kỷ 18. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ
điểm thu thập được những thành tựu rực rỡ nên khi tiếp tục ptriển quan điểm của CHỦ
NGHĨA DUY VẬT thời cổ đại, CHỦ NGHĨA DUY VẬT thời kỳ này đã chịu tác động mạnh mẽ
của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc nó xem xét, quan niệm thế giới như một hệ
thống máy móc phức tạp bao gồm nhiều bộ phận không có liên hệ với nhau, không vận
động không phát triển, bất biến, ngưng đọng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng có đặc điểm nổi bật: là CHỦ NGHĨA DUY VẬT có sự thống
nhất, kết hợp chặt chẽ với phép biện chứng, đồng thời khái quát được thành tựu của các
khoa học chuyên ngành. Đây là hình thức cao nhất do Mác – Ăngghen sáng lập và Lênin
phát triển được hình thành vào n năm 40 của thế kỷ 19, nó khắc phục những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật trước nó, nó xem xét thế giới trong tính chỉnh thể, thống nhất trong sự tác
động qua lại biện chứng với nhau, nó là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để nghiên
cứu và tìm hiểu thế giới. Ngoài ra trong lịch sử phát triển của CHỦ NGHĨA DUY VẬT còn có
hình thái chủ nghĩa duy vật tầm thường (đồng nhất vật chất với Ý THỨC và xem nhẹ vai trò
của Ý THỨC), và hình thái chủ nghĩa CHỦ NGHĨA DUY VẬT kinh tế (trong đó xem kinh tế là
nhân tố duy nhất quyết định ạư tồn tại và phát triển của xã hội). Điều nay được Đảng cộng
sản VN khẳng định con đường đi lên xây dựng CNXH là không coi kinh tế là quyết định tất cả.
* Trường phái triết học duy tâm tồn tại và phát triển dưới hai hình thức sau đây:
Chủ nghĩa duy tâm xuất hiện ngay từ khi triết học ra đời. Sở dĩ gọi là duy tâm vì nó trả lời Ý
THỨC là cái có trước, VẬT CHẤT, thế giới khách quan là cái có sau, Ý THỨC quyết định VẬT CHẤT.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM khách quan (Platon, Heghen) cho rằng có một thực thể tinh thần
hay ý niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài độc lập với con người có trước con người đã sinh ra
vạn vật, quyết định sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM chủ quan (Béccli) cho rằng cảm giác và Ý THỨC của con người là
cái có trước và tồn tại sẵn có trong con người, mọi sự vật hay thế giới vật chất chỉ là kết quả
của sự phức hợp của cảm giác mà thôi. Do đó, toàn bộ cái thế giới khách quan bên ngoài
chỉ là “phức hợp” của những cảm giác do cái “Tôi” sinh ra. (ĐH VI của Đảng phân tích sự chủ quan duy ý chí....)
Tóm lại, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho dù có những biến thái, cách giải
quyết khác nhau về mặt thứ nhất song nó giống nhau ở chỗ đều coi Ý THỨC, tinh thần là
cái có trước, quyết định VẬT CHẤT, nó thường là đồng minh của tôn giáo, là vũ khí của giai
cấp thống trị trong việc nô dịch quần chúng nhân dân, nó chống lại khoa học và những tư tưởng tiến bộ.
* Ngoài ra còn có trường phái nhị nguyên luận, họ cho rằng cả VẬT CHẤT và tinh thần đều
tồn tại song song, chúng độc lập với nhau, VẬT CHẤT sinh ra VẬT CHẤT, tinh thần sản sinh
ra các hiện tượng tinh thần. Đại biểu của nó chính là Đêcáctơ.
3.4.Các bạn lựa chọn trường phái nào ? vì sao? (lựa chọn DUY VẬT) nêu ưu điểm của CNDV
3.5. Thuyếtkhảtri,bấtkhảtrivàhoàinghiluận(tr39)
- Thuyết khả tri (thuyết có thể biết): Thừa nhận khả năng nhận thức của con người. Về
nguyên tắc, con người có thể nhận thức được mọi sự vật, hiện tượng ở xung quanh mình.
Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được
về sự vật về nguyên tắc, là phù hợp với bản thân sự vật.
- Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): Phủ nhận khả năng nhận thức của con
người. Về nguyên tắc con người không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả con
người mà loài người có được chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng do
giác quan của con người mang lại không bảo đảm tính chân thực.
- Thuyết hoài nghi (hoài nghi luận) xuất hiện từ thời cổ đại, nghi ngờ khả năng nhận thức
của con người. Cho rằng con người không thể nhận thức được sự vật, hiện tượng xung
quanh mình, nếu có thì chỉ là sự nhận thức bên ngoài chứ không nhận thức được bản chất.
4.pp biện chứng vs siêu hình. ( tr43 + SLIDES )
biện chứng là gì? phép bc là gì? các hình thức cơ bản của phép bc (3: phép bc chất
phác thời kì cổ đại, phép bc duy tâm thuộc th cổ điển đức, phép bc duy vật thuộc th
mac lenin. nói ưu, nhược của mỗi hình thức)
Khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Khái niệm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất; còn biện chứng chủ quan
là chỉ biện chứng của ý thức.
Có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc giải quyết vấn đề về
mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Theo quan niệm duy
tâm: biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan; còn theo quan điểm duy
vật: biện chứng khách quan là cơ sở của biện chứng chủ quan. Ph. Ăngghen khẳng định:
“Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là
chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên...”.
Sự đối lập nhau trong quan niệm đó là cơ sở phân chia phép biện chứng thành: phép biện
chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. - Phép biện chứng là gì?
Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới.
Với tư cách là học thuyết triết học, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến
và những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các nguyên tắc phương pháp luận
chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn.
Các hình thức của phép biện chứng
- Phép biện chứng tự phát ở thời cổ đại: Thời kỳ này, các nhà triết học nhận thức các mối
liên hệ, sự vận động và phát triển của thế giới ở dạng chỉnh thể, nặng về trực quan; chưa
đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích và chưa được chứng minh bằng những thành tựu của khoa
học nên phép BC của họ nặng tính ngây thơ, chất phác.
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc,
Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc
là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ)
và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản
thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư
tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm biện chứng của Heraclit.
- Phép biện chứng duy tâm: là học thuyết duy tâm về các mối liên hệ, về các quy luật chi
phối sự vận động và phát triển. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ
điển Đức, người khởi đầu là Canto và người hoàn thiện là Hê-ghen. Các nhà triết học đã
trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện
chứng. Biện chứng theo họ bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực
chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm.
+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng
trong triết học của I. Kant và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã
nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ
lý luận sâu sắc và có tính hệ thống chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát
triển. Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được
xây dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa
phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong
giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
- Phép biện chứng duy vật là học thuyết khoa học về các mối liên hệ phổ biến, về những quy
luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.được C.MÁc
và Awngghen xây dựng sau đó được V.I. Lê nin và các nhà triết học hậu thế phát triển.
C.Mác và Ph.Awngghen đã gạt bỏ tính thần bí, tự biện của triết học cổ điển Đức, kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong
lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn
chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ
sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập trường duy vật mới. 4.1.1.so sánh 2 cái này? -
Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức
Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong việc
nhận thức thế giới là ở chỗ: phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật,
hiện tượng trong các mối liên hệ phổ biến, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển;
còn phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng không trong
mối liên hệ, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; nó tuyệt đối hóa tính chất ổn
định, cô lập của các sự vật, hiện tượng. Do đó, phương pháp siêu hình chỉ có giá trị trong
một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp biện chứng mới có thể cho phép nhận thức sự
vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực tế.
4.1.2.lựa chọn pp nào trong tư duy nhận thức của em (chọn BIỆN CHỨNG) (tr45,46)
-Phương pháp siêu hình chỉ có giá trị trong một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp biện
chứng mới có thể cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực tế.
- Phương pháp biện chứng thể hiện được sự tư duy linh hoạt, trong trường hợp cần
thiết thì nó sẽ thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó và vừa không phải là nó,
nói cách khác là thừa nhận cái phụ định và cái khẳng định vừa loại trừ nhau nhưng lại vừa
có sự gắn bó mật thiết với nhau. II.
5.1.Ptich điều kiện tiền đề dẫn đến sự ra đời của th mac lenin. (th mác lênin ra đời
trong bối cảnh kte xh cuối tk 19, tiền đề lý luận, tiền đề khoa học tự nhiên và vai trò nhân tố quan) tr 48
a) Điều kiện kinh tế-xã hội
Những năm 40 (XIX) cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ (chuyển từ nền sản
xuất thủ công sang nền sản xuất đại công nghiệp).
- Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và lan
rộng ra các nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế
độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết là
sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất ngày càng sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản diễn ra từ thấp cho đến cao, đỉnh cao là cuộc cách mạng xã hội.
Trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đến một lúc nào đó
đòi hỏi cần có hệ thống lý luận khoa học dẫn đường.
Từ nhu cầu này mà triết học Mác-Lênin ra đời.
b) Tiền đề lý luận và tiền đề khtn:
Tiền đề lý luận: Kế thừa toàn bộ giá trị tư tưởng của nhân loại, trực tiếp nhất là triết học
cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, CNXH không tưởng Pháp.
- Tiền đề lý luận trực tiếp dẫn đến sự ra đời của triết học Mác-Lênin là triết học cổ điển
Đức. Mác và Ăngghen đã kế thừa PBC duy tâm trong triết học của Hêghen kết hợp với quan
điểm duy vật vô thần trong triết học của Phoi-ơ-bách để hình thành nên chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng duy vật. Đặc biệt là Hêghen và Phoiơbắc đã ảnh hưởng
đến sự hình thành TGQ và PPL của chủ nghĩa Mác.
- Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị
thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy
luật khách quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ
thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu. Hình thành quan niệm duy vật về
lịch sử của chủ nghĩa Mác (A.Xmít, Ricácđô)
- Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư
tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng đại biểu đối với những
hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn
chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các
ông xây dựng nên một lý luận mới - lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. Tiền đề lý luận ra
đời CNXHKH (Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen)
Tiền đề khoa học tự nhiên: Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên
phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy
biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng (Julius Robert Mayer) đã dẫn đến kết
luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những
hình thức vận động của chúng. Chứng minh về sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau và luôn
được bảo toàn của các hình thức vận động của VC.
- Thuyết tế bào (Charles Darwin) xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức
giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát
triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa
thực vật với động vật. Charles Darwin đã CM quá trình phát triển của giới hữu sinh tuân
theo các quy luật khách quan; về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền - biến dị
- chọn lọc tự nhiên và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực, động vật..
- Thuyết tiến hoá: (Theodor Schwann) cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa
dạng và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài động, thực vật. Cho thấy tính thống nhất trong đa
dạng của sinh giới, tất cả các sinh vật hiện tại đều được tạo ra từ một tế bào đầu tiên. CM
sinh giới được tạo ra từ ngẫu sinh hóa học và tiến hóa lâu dài, chứ không phải do bất kỳ
một lực lượng siêu nhiên nào.
c) Nhân tố chủ quan trong sự ra đời triết học Mác
5.2.vai trò của tiền đề khtn trong th mác ? (nói thêm tại sao th là khxh mà lại sử dụng
các tiền đề khtn (bút chì tr 55)? Mác đã sử dụng tiền đề khtn nào để luận giải đc nội
dung nào và nêu vd (nêu từng nd từng thuyết)
-Cùng với nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là tiền đề cho sự ra
đời của triết học Mác. Từ đó, sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do
các khoa học cụ thể đem lại
-Vì thế, như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: Mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh mang
tính vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức của nó.
-Trong những thập niên đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng. Và từ đó, những thành tựu về khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế
và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời
cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của
phép biện chứng cổ đại, thoát khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy tâm Hình thành
phép biện chứng duy vật.
-Trong đó , ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết học
duy vật biện chứng là (3 cái định luật, thuyết trên) phát minh này góp phần 1 cách toàn diện
thế giới quan biện chứng từ tự nhiên đến xã hội.
-ĐL bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi
mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác hay chuyển từ vật này sang vật khác. Đã vạch
ra mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau của thế giới.
-Thuyết tế bào: một căn cứ khoa học chứng minh sự thống nhất về mặt nguồn gốc,
hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và quá
trình phát triển sự sống trong mối liên hệ của chúng. Phá tan quan niệm sai lầm của phương
pháp siêu hình về thế giới sinh vật, nó chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật.
Thuyết tiến hóa: là cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi
tính di truyền, biến bị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình
chọn lọc tự nhiên. Chống lại quan điểm duy tâm về nguồn gốc của sự sống, nó lý
giải về tính biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh.
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiến hóa là những
thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm duy tâm tôn giáo về vai trò của
Đấng sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về thế giới vật chất là vô cùng, vô tận,
tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng định
tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức và thực tiễn.
5.3.đối tượng, chức năng, kniem th mac lênin 5.3.1. kniem thm (TR95)
-Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự khái quát hóa những thành tựu quan trọng
nhất của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn xã hội.
-Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư
duy – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
-Trong triết học Mác- Lênin chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
5.3.2.đối tượng: nghiên cứu mqh vc và yt trên lập trường duy vật bc (tr96 + slides)
-Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những vấn đề chung nhất
của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư
duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
-Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên,
xã hội hoặc tư duy. Triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến
nhất, tác động đến cả ba lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy. Giữa triết học Mác - Lênin với
các khoa học cụ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Các
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề mới làm tiền đề, cơ sở cho
triết học phát triển. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng, nhưng phải
dựa vào thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học. Quan hệ giữa quy luật của