Đề cương cuối kỳ - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng

Khi XH có sp thặng dư -> Xuất hiện ng giàu ng nghèo -> Sự phân hóa giai cấp. Ngườigiàu để bảo vệ địa vị cũng như tài sản đang có đã lập ra 1 tổ chức gọi là NN để thốngtrị, đàn áp các giai cấp khác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Các đặc trưng cơ bản của nhà nước
1. Khái niệm
Khi XH có sp thặng dư -> Xuất hiện ng giàu ng nghèo -> Sự phân hóa giai cấp. Người
giàu để bảo vệ địa vị cũng như tài sản đang có đã lập ra 1 tổ chức gọiNN để thống
trị, đàn áp các giai cấp khác. Một lý do khác cùng với sự tan của thị tộc, những ng
cùng huyết thống k còn sinh sống trên địa bàn nhất định nữa họ đã di chuyển
thực hiện những công việc khác nhau. Thị tộc tan rã đòi hỏi có một tổ chức khác thay
thế thị tộc để vừa quản lý xã hội vừa điều hòa các mâu thuẫn giai cấp đang căng thẳng
=> Sự ra đời NN: “NN 1 tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng đặc biệt nhằm duy trì trật
tự xã hội và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền.
VD1: NNPK khi xuất hiện sẽ sử dụng quyền lực chính trị, bộ máy chuyên chế cưỡng
chế nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của gc địa chủ, phong kiến
VD2: NNTBCN ra đời sau cũng sử dụng quyền lực chính trị để bảo vệ địa vị thống trị
của gc tư sản
1. Đặc trưng nhà nc
Mặc dù khác nhau về bản chất (tính giai cấp và tính hội) tuy nhiên các NN đều
những điểm chung nhất quán, đó là những đặc trưng cơ bản của NN. Những đặc trưng
giúp cho phân biệt NN với các tổ chức XH khác, đồng thời giúp NN giữ vị trí trung
tâm trong hệ thống chính trị, có thể tác động toàn diện mạnh mẽ đến các mặt của đời
sống xã hội. Các đặc trưng đó bao gồm
- Đặc trưng 1: NN thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt kh hòa nhập với dân
xư, hầu như tách khỏi XH. Do NN dc hình thành để củng cố quyền lực cho giai
cấp thống trị nên NN sẽ thiết lập các quyền lực công cộng đặc biệt.Quyền lực
công cộng gì? Trước hết đó quyền áp đặt cho toàn bộ XH thông qua 1 hệ
thống pháp luật để điều tiết các hđ XH. VD: ng tham gia giao thông bị phạt tiền
nếu trong ng có nồng độ cồn, ng tàng trữ ma túy sẽ bị truy tố. K có tổ chức nào
ngoài NN dc quyền đưa ra pháp luật. Cùng với hệ thống PL, quyền lực công
cộng đặc biệt còn được thể hiện qua vai trò của các cơ quan cưỡng chế thi hành
pháp luật như: cảnh sát, quân đội, nhà tù… Chỉ NN mới quyền sử dụng
khí tính cưỡng chế, răn đe để duy trì địa vị thống nhất giai cấp bắt
buộc giai cấp khác phải phục tùng
- Đặc trưng 2: NN phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ, k phụ thuộc
vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hay giới tính (khác với tổ chức thị
tộc, bộ lạc phân chia theo huyết thống). Việc phân chia này giúp NN dễng
quản XH trên phạm vi rộng, tạo nên 1 bộ máy quản NN từ cao đến thấp,
hình thành các quan quản nhà nước. NN chia dân theo đơn vị hành
chính, tổ chức chính quyền địa phương tương ứng với các đơn vị hành chính và
quản hoạt động dân theo đơn vị hành chính đó. MQH giữa nhân với
NN dc quy định bởi luật quốc tịch. Trong mối quan hệ này, NN là tổ chức công
quyền thực hiện việc quản lý cá nhân bằng pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền
và nghĩa vụ của cá nhân được thực hiện và không bị xâm hại. NN quy định các
quyền và nghĩa vụ của nhân trong pháp luật, đòi hỏi nhân phải thực hiện
đầy đủ và chính xác quyền và nghĩa vụ đó.
- Đặc trưng 3: NN chủ quyền quốc gia. NN 1 tổ chức quyền lực chủ
quyền, chủ quyền quốc gia này mang tính chính trị pháp lý. 1 quốc gia chủ
quyền 1 quốc gia thể tự quyết định để giải quyết mọi vấn đề trong các
quan hệ đối nội, đối ngoại của quốc gia k một quốc gia nào khác thể
tham gia, can thiệp. NN đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp cho
toàn hội về mặt đối nội đối ngoại. Xu hướng toàn cầu hóa cho thấy hầu
hết các quốc gia đều tham gia vào các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế
cùng chia sẻ lợi ích , cùng gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. VD: VN tham
gia vào ASEAN, WHO, APEC… Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự
chung sức của nhiều quốc gia: Covid-19, AIDS, nạn khủng bố…
- Đặc trưng 4: NN ban hành pháp luật thực hiện sự quản bắt buộc đối với
mọi công dân, mọi tổ chức trong XH. NN là ng đại diện cho toàn bộ XH,tổ
chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng bộ máy
cưỡng chế NN. Các quy định pháp luật do NN ban hành mang tính bắt buộc
chung đối với mọi công dân, mọi tổ chức trong XH.
- Đặc trưng 5: NN quyền quy định các loại thuế tiến hành vệc thu thuế
dưới hình thức bắt buộc. Để đảm bảo cho bộ máy NN thể hđộng để duy trì
trật tự trong XH, NN cần phải có ngân sách để thực hiện mục tiêu. Thuế là đòn
bẩy và có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế của NN. Bằng việc đánh thuế
theo các mức thuế, NN thể điều tiết sự hoạt động hoặc tăng giảm của các
loại mặt hàng, các ngành sản xuất trong nền kinh tế nhằm mục đích đảm bảo
cho sự phát triển của nền kinh tế. VD: NN VN đánh thuế cao các mặt hàng
không khuyến khích như xuất nhập khẩu rượu, ô tô…NN giảm thuế nhập khẩu
xăng dầu để bình ổn giá xăng dầu trong nc. Thuế là do ND đóng góp để tạo nên
ngân sách NN, từ đó phục vụ trở lại cho lợi ích công cộng của toàn bộ dân cư.
NN có quyền áp đặt và bắt buộc mọi thành viên trong XH phải trách nhiệm
đóng thuế
Câu 3: Chức năng nhà nước: khái niệm, phân loại, các hình thức phương pháp thực
hiện chức năng của nhà nước.
Về , chức năng của nhà nước là các chủ yếu,khái niệm phương diện hoạt động
cơ bản của nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phù hợp với bản
chất, vai trò, trách nhiệm của nhà nước, nhằm thực hiện những đặt ra trướcnhiệm vụ
nhà nước. Chức năng của nhà nước gắn liền với hoạt động của nhà nước; do bản chất,
sở kinh tế - hội, nhiệm vụ chiến lược mục tiêu lâu dài của nhà nước quyết
định.
Về phân loại, tùy theo mỗi tiêu chí nhất định có nhiều cách thức phân loại
chức năng nhà nước. Chẳng hạn: dựa vào ý nghĩa của chức năng nhà nước có thể phân
chia thành dựa vào nguyên tắccác chức năng chủ yếu các chức năng phái sinh;
phân chia quyền lực thể chia thành chức năng hành pháp, lập pháp, pháp; dựa
vào các kiểu nhà nước thể phân chia thành chức năng nhà nước chiếm hữu lệ,
chức năng nhà nước phong kiến, bản, hội chủ nghĩa. Còn dựa vào các lĩnh vực
hoạt động cơ bản của nhà nước thì phân định thành các chức năng đối nội các chức
năng đối ngoại. Đây là cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học pháp lý. Cụ thể:
Các chức năng đối nội: những phương diện hoạt động chủ yếu thể hiện
hoạt động của nhà nước đối tượng tác động, mục tiêu nhiệm vụ của các hoạt
động này chủ yếu nằm trong phạm vi nhà nước đó. Về bản, các chức năng đối nội
chủ yếu của nhà nước là: 1) chức năng chính trị; 2) chức năng kinh tế; 3) chức năng xã
hội; 4) chức năng môi trường; 5) chức năng ghi nhận, bảo vệ, đảm bảo và thúc đẩy các
quyền con người, quyền công dân; 6) chức năng bảo vệ giữ gìn trật tự an toàn
hội.
Các chức năng đối ngoại: những phương diện hoạt động chủ yếu thể hiện
thông qua các hoạt động của nhà nước đối tượng tác động, mục tiêu nhiệm vụ
của các hoạt động này vượt ra ngoài phạm vi nhà nước đó nằm trong mối quan hệ
mật thiết với cộng đồng quốc tế, giao lưu quốc tế. Các chức năng đối ngoại chủ yếu
bao gồm: 1) chức năng quốc phòng; 2) chức năng bảo vệ trật tự, hòa bình thế giới,
tham gia giải quyết các vấn đề tính chất khu vực quốc tế; 3) chức năng hợp tác
và hội nhập quốc tế.
Ngoài chức năng kể như trên, cần quan tâm đến chức năng kinh tế cũng như
chức năng xã hội của nhà nước.
*Chức năng kinh tế của nhà nước: tổ chức, quản lý, điều tiết nền kinh tế
thông qua việc thiết lập và thực hiện các cơ chế, chính sách. Ở đây, nhà nước chỉ đóng
vai trò nhân tố trung gian: thực hiện điều tiết mô, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, mang tính kiến tạo phát triển. Và mức độ, cách thực thực
hiện phụ thuộc vào nhận thức của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển.
*Chức năng hội của nhà nước: thiết lập chế, chính sách tổ chức
thực hiện chế, chính sách. Cụ thể đảm bảo việc lao động, việc làm, bảo trợ
hội, xóa đói giảm nghèo các vấn đề an sinh hội khác; chăm sóc sức khỏe nhân
dân; giáo dục đào tạo; giữ gìn phát triển các giá trị văn hóa, truyền thống của dân
tộc; đảm bảo sự phát triển hài hòa trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo…
Về các hình thức và phương pháp chủ yếu thực hiện của nhà nước:
Có hai loại các hình thức pháphình thức thực hiện chức năng của nhà nước:
lý và các hình thức khác.
Các hình thức pháp các hình thức thực hiện chức năng của nhà nước khi
nhà nước ban hành các văn bản pháp luật thiết lập cácchế pháp lý và theo đó thực
hiện các các chức năng của mình. Có các hình thức pháp lý sau: 1) bằng hoạt động lập
pháp; 2) bằng hoạt động hành pháp; 3) bằng hoạt động tư pháp; 4) bằng các hình thức
thỏa thuận để thực hiện chức năng nhà nước.
Các hình thức khác tất cả những hình thứckhông hoàn toàn gắn liền với
các hoạt động ban hành, tổ chức thực hiện bảo vệ pháp luật. Chẳng hạn, các
hình thức liên quan đến tổ chức, sắp xếp cấu lại thiết chế, tổ chức, quan; các
hình thức tham gia của các chủ thể xã hội khác nhưng có liên quan đến thực hiện chức
năng nhà nước.
Còn các được hiểu các phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước
cách thức, phương tiện được sử dụng để thực hiện các chức năng của nhà nước. Về cơ
bản, có các phương pháp sau được sử dụng để thực hiện các chức năng của nhà nước:
Giáo dục: sự tác động định hướng làm thay đổi nhận thức của chủ thể
hoặc làm phong phú thêm những tri thức của chủ thể được tác động.dụ, giáo dục
người dân về tác hại của thuốc lá, tổ chức giáo dục, cung cấp kiến thức về Cộng đồng
ASEAN,...
Khuyến khích: sự tác động nhằm cho chủ thể khác nghe theo thực hiện
theo sự hướng dẫn, chỉ dẫn của nhà nước trong thực hiện chức năng của nhà nước.
dụ: nhà nước khuyến khích người Việt dùng hàng Việt.
Thuyết phục: sự tác động lên các chủ thể nhất định với mục đích hướng họ
theo những hoạt động mà nhà nước mong muốn.
Cưỡng chế: việc bắt buộc chủ thể nhất định dừng, chấm dứt hoặc thực hiện
các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước. dụ: xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng, cưỡng chế thu hồi đất, cưỡng chế di dời tránh bão…
Câu 4 : Nội dung bản của chức năng kinh tế các chức năng hội của nhà
nước Việt Nam
Định nghĩa chức năng nhà nước CHXHCNVN: những hoạt động chủ yếu, thường
xuyên có tính tương đối ổn định, trực tiếp thực hiện bản chất, nhiệm vụ chiến lược, mục
tiêu lâu dài trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mục tiêu dân giàu
nước mạnh xh công bằng dân chủ văn minh.
Chức năng kinh tếnhững phương diện hoạt động của nhà nước trong tổ chức điều tiết
quản lí nền kinh tế của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất cho nhân dân, về
cơ bản cnkt gồm những nội dung :
Thứ nhất : nhà nước định hướng sự phát triển kinh tế điều tiết nền kinh tế thị trường
theo hướng XHCN
Mục tiêu của hệ thống kinh tế này cải thiện lực lượng sản xuất của nền kinh tế, phát
triển svật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của chủ nghĩa hội cho phép
Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới.
Thứ 2: nhà nước thiết lập khuôn khổ luật pháp, đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị,
xã hội
Nhà nước tạo ra khung pháp cho các chủ thể tự do hoạt động, quy định cách chủ
thể, ngăn ngừa các yếu tố tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, định ra các
phương thức nhằm duy trì và đảm bảo trật tự kinh tế. Ví dụ: Nhà nước quản lý vĩ mô nền
kinh tế bằng các công cụ quản lý kinh tế như Chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách quản
lý và sử dụng đất đai,…
Thứ 3: nhà nước cần hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực của chế thị trường,
thực hiện công bằng xh
chế thị trường là hệ thống thị trường tự do, các doanh nghiệp tham gia thị trường
thể thoải mái kinh doanh, sản xuất không phải chịu bất kỳ giới hạn nào. Tuy nhiên,
chính sự tự do trong cơ chế thị trường có thể gây ra những mặt tiêu cực như sự phân hóa
giàu nghèo lớn, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, …. Nhà nước cần phải những
biện pháp ,chính sách để phát huy những mặt tích cựchạn chế những tiêu cực của
chế thị trường, để tạo nên những chuyển biến nét hơn về tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, ổn định kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội
Chức năng xã hội là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức,
điều tiết và quản lý xã hội nhằm thiết lập một xã hội ổn định, phát triển trên mọi lĩnh
vực.
Nhà nước quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực bao gồm: văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ, ghi nhận, đảm bảo thực hiện quyền con người và các lĩnh vực khác (môi trường,
trật tự xã hội, về sinh an toàn thực phẩm…) thông qua xây dựng cơ chế, chính sách (văn
bản quy phạm pháp luật) điều chỉnh các quan hệ trong đời sống xã hội và tổ chức thực
hiện các quy phạm pháp luật và có cơ chế giám sát.
NN XHCN có nhiệm vụ quan trọng là giải quyết tốt những đòi hỏi, nhu cầu xuất phát từ
đời sống, hướng tới việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tất cả vì giá
trị con người. Nền kinh tế thị trường được thiết lập trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa
đã mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đã đặt ra nhiều vấn đề như: văn hoá, giáo dục,
chăm sóc sức khỏe, việc làm... đòi hỏi phải giải quyết. Chính vì vậy, một trong những
chức năng quan trọng của NN XHCN là giải quyết các nhiệm vụ mà xã hội đặt ra,hướng
tới sự phát triển bền vững trong đó con người là trung tâm.
Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể khái quát ở
các hướng chính sau:
Về văn hoá Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Nhà nước thực hiện các hoạt
động: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; Bảo vệ, tôn tạo
các di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh, phát triển các lễ hội để góp phần nâng cao sự
hiểu biết cho nhân dân, làm cho nhân dân ý thức được trách nhiệm của mình trước cộng
đồng; Quan tâm đặc biệt đến việc làm hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa,…
Về giáo dục: Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Với phương
châm ‘nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’, Nhà nước cần: Dành phần
ngân sách đầu tư thỏa đáng cho giáo dục, đào tạo; Mở rộng và hoàn thiện hệ thống giáo
dục phổ thông; thực hiện giáo dục toàn diện, trước hết là giáo dục nhân cách, đạo đức;
Không ngừng hiện đại hoá nội dung chương trình; gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội;
Mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo; tôn vinh nghề dạy học, chú trọng chất
lượng nhà giáo…
Về khoa học, công nghệ: Nhà nước xác định khoa học - công nghệ giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với nước ta, khoa học, công
nghệ còn động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Do đó, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm chính sách đúng đắn,
đảm bảo phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ.
Về y tế: Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhà
nước đãđang mở rộng mạng lưới y tế, chú trọng đào tạo đội ngũ thầy thuốc; hiện đại
hoá các sở khám chữa bệnh, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm… Xây dựng thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần đối với những người có công, người về hưu, người già yếu cô
đơn… Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như ma tuý,
mại dâm...
Về dân số, lao động, việc làm, thu nhập: Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều
có việc làm, khuyến khích mở rộng sản xuất, thu hút sức lao động; tích cực trong việc
giải quyết vấn đề thất nghiệp…Xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu
nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các
chính sách về thuế.
Nhà nước có chính sách dân số hợp lý, tránh gia tăng dân số quá nhanh, nhưng phải đảm
bảo mức sinh thay thế; đảm bảo việc làm đồng thời cải thiện điều kiện làm việc cho
người lao động; giải quyết đúng đắn vấn đề thu nhập của người lao động; thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội toàn dân...
Về vấn đề dân tộc, tôn giáo: Nhà nước chính sách tôn giáo, dân tộc hợp lí, đảm bảo
sự phát triển hài hoà của mọi vùng miền trong cả nước. Đặc biệt chính sách ưu tiên
phát triển ở những vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của nhiều đồng bào thiểu số.
Tóm lại, chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản, chủ yếu, thể hiện rõ nét
bản chất của Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích của thực hiện
chức năng này là mang lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động.
6. Nhà nước pháp quyền: khái niệm và đặc điểm cơ bản
Nhà nước pháp quyền là một khái niệm được hiểu theo 2 mức độ khác nhau với
phương diện tính cách là học thuyết và tư tưởng hoặc thực tiễn tổ chức thực hiện
quyền lực.
Thứ nhất, từ phương diện học thuyết và tư tưởng, Nhà nước pháp quyền là tư
tưởng tiến bộ về tôn trọng, bảo vệ quyền con người và các giá trị dân chủ, công bằng,
công lý, bình đẳng trên cơ sở xác lập những cách thức cầm quyền tốt cho người dân,
thượng tôn pháp luật và chống sự lạm quyền.
Thứ hai, từ phương diện thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực, Nhà nước pháp
quyền phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người; đến sự hiện diện của
chủ nghĩa lập hiến và nhằm đảm bảo sự đồng thuận của mọi người dân, bảo đảm sự
chính đáng, sự hợp pháp của quyền lực. Nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật và
được kiểm soát bởi pháp luật.
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công
khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát
quyền lực; nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, quản lý xã hội
bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích
con người.
Nhà nước pháp quyền có trong bản tính của nó những tố chất làm nên một chế độ, một
cách thức sử dụng quyền lực và quản trị quốc gia. Những tố chất nhất thiết phải có đó
cũng chính là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền gồm 4 mục chính. , tôn trọng,Một là
bảo đảm vệ quyền con người - mục tiêu trung tâm của Nhà nước pháp quyền. , Hai là
bảo đảm sự đồng thuận lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. , sự giới hạn của Ba là
quyền lực và kiểm soát bởi pháp luật nhằm chống lại sự chuyên chế và độc tài. ,Bốn là
nguyên tắc: “có thể làm tất cả những gì luật không cấm” - nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền.
Để có được những tố chất, bản tính làm nên nội hàm, mục tiêu hay trạng thái của một
chế độ được gọi là pháp quyền thì trong tổ chức quyền lực nhà nước và trong việc sử
dụng quyền lực nhà nước, sử dụng luật cần hội tụ đủ những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, xác lập và củng cố chế độ Hiến pháp - điều kiện tiên quyết của Nhà
nước pháp quyền. Chế độ Hiến pháp, hay còn gọi là chủ nghĩa lập hiến, được coi là
chế độ chính trị - pháp lý của một quốc gia mà ở đó có sự hiện diện của Hiến pháp, có
sự thượng tôn Hiến pháp, có cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp
được coi là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và Nhà nước pháp
quyền, bởi vì Hiến pháp được coi là “sự đồng thuận của tất cả các thành viên xã hội
thể hiện ý chí của nhân dân, là cơ sở bảo đảm tính hợp pháp và sự chính đáng của Nhà
nước”/Chỉ số hiệu lực của Hiến pháp được phản ánh thông qua hoạt động của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, toàn bộ sinh hoạt quốc gia, đời sống xã hội, ý thức và hành
động của công dân. Khi Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh có thể
thấy một nền Hiến pháp vững chắc, một xã hội bền vững và dân chủ, pháp quyền
được đề cao. Ngược lại, khi hiến pháp bị pháp luật và các văn bản dưới luật lấn lướt
thì kỷ cương quốc gia, trật tự xã hội, quyền con người có thể có vấn đề. Cơ chế giám
sát việc tuân theo Hiến pháp có thể được thực hiện dưới những hình thức như: kiểm
tra, giám sát của Nghị viện, Nguyên thủ quốc gia, Chính phủ, Tòa án. Thành lập các
cơ quan giám sát Hiến pháp chuyên trách, ví dụ như: Tòa án Hiến pháp,.. hoặc giao
cho Tòa án thẩm quyền chung. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp có khả năng đảm bảo sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người một cách triệt để nhất.
Thứ hai, bảo đảm tính công bằng, minh bạch của pháp luật và khả năng tiếp cận
công lý cho người dân. Lòng tin của công chúng vào Nhà nước pháp quyền chỉ có thể
được duy trì nếu nhận thức về tính công bằng của pháp luật đó sâu rộng đến mức
không có chỗ cho sự thiên vị hoặc quyền đặc lợi. Trong việc ban hành chính sách và
pháp luật thì trước hết là vấn đề phản ánh lợi ích. Đối với hành pháp, đây là vấn đề về
quyền tiếp cận công vụ, một biểu hiện quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Đối với
hoạt động của bộ máy tư pháp, lòng tin vào Nhà nước pháp quyền bằng việc tuân thủ
các nguyên tắc tư pháp độc lập và công bằng. Yêu cầu về tính minh bạch đòi hỏi trọng
mọi hoạt động của mình, nhà nước phải tuân thủ pháp luật mà trước đó đã được thông
qua và công bố. Những quy định pháp luật phải cho phép dự báo về cách thức mà nhà
nước sử dụng để thực thi quyền cưỡng chế của mình trong những hoàn cảnh nhất
định. Vì vậy, Ngân hàng Thế giới đã định nghĩa Nhà nước pháp quyền là “một tập hợp
những quy định mà mọi người đều có thể lường trước được”. Trong Nhà nước pháp
quyền, pháp luật chính là các quyền được thể chế hóa và được thực hiện và vì vậy, tiếp
cận pháp luật đòi hỏi rằng pháp luật được ban hành phải “có thể hiểu được”. Cần có
những nguồn lực để đảm bảo việc tiếp cận pháp luật, để mọi người dân có quyền kì
vọng vào khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý.
Thứ ba, thực hiện phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước. Phân quyền là
cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước với 3 yếu tố chính. , có sự hiện diện của các Một là
nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và các
nhánh quyền lực đó độc lập với nhau về phạm vi thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ và
phương thức hoạt động. , các nhánh quyền lực đó cần được đảm bảo cân bằng Hai là
thông qua cơ chế kiểm soát và đối trọng. Nghĩa là, tuy các nhánh quyền lực nhà nước
đối lập với nhau, nhưng mỗi quyền lực đều được đặt dưới sự kiểm soát và vì thế luôn
tạo được thế cân bằng quyền lực. , các nhánh quyền lực độc lập, kiểm soát và đốiBa là
trọng nhưng luôn luôn phối hợp, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
Thứ tư, bảo đảm sự độc lập của tư pháp. Quyền tư pháp - đó là quyền xét xử với
chủ thể duy nhất là các Tòa án. Hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều có chung định
nghĩa này về quyền tư pháp. Quyền tư pháp không được đặt vào tay một cơ quan mà
được giao cho tổng thể toàn bộ các Tòa án, từ Tòa án cao nhất đến Tòa án thấp nhất.
Quyền tư pháp phải độc lập là điều kiện để thực hiện một chức năng hết sức quan
trọng của quyền lực nhà nước là áp dụng pháp luật đúng đắn với mục đích khôi phục
lại những quyền và lợi ích đã bị xâm hại, bảo đảm sự công bằng trong các tranh chấp
pháp lý. Đối với Nhà nước pháp quyền, vị trí của quyền tư pháp, cụ thể là Tòa án là
một vị trí đặc biệt. Sự độc lập của Tòa án đã trở thành một trong những yếu tố quan
trọng của chế độ pháp quyền. Trong “công nghệ” chính trị và thực thi quyền lực, sự
cần thiết về một thứ quyền có khả năng “tỉnh táo” xem xét các vấn đề và khách quan
hơn trước con mắt của dân chúng, cũng như phòng ngừa sự đi quá xa của các quyết
sách và pháp luật. Đây là điều mà nhiều nhà tư tưởng đã dày công tìm kiếm.
8. Các nguồn pháp luật
Nguồn pháp luật là hình thức cấu trúc nội tại và thể hiện ra bên ngoài những quy tắc
và hành vi. Theo đó, nguồn pháp luật có thể là những văn bản quy phạm pháp luật, các
bản án, tập quán, lẽ công bằng,...Theo cách phân loại phổ biến có 2 loại nguồn pháp
luật sau: nguồn nội dung và nguồn hình thức. Việc phân loại này mang tính tương đối
bởi có những nguồn mang tính hỗn hợp, vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình
thức, như: điều ước, tập quán, thông lệ quốc tế,..
Thứ nhất, nguồn nội dung là cơ sở để hình thành, xây dựng và thực hiện pháp luật.
Nguồn nội dung cơ bản gồm: các nguyên tắc chung của pháp luật, điều ước, tập quán
và tục lệ quốc tế, chủ trương chính sách của đảng cầm quyền, học thuyết, tư tưởng
pháp lý, nhu cầu quản lý, phát triển kinh tế, xã hội, các quy tắc, quan niệm đạo đức…
Nguyên tắc chung của pháp luật là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo được thừa
nhận rộng rãi, liên quan đến vai trò, tính chất, sự công bằng của pháp luật. Nguyên tắc
pháp luật có vai trò quan trọng trong xây dựng, áp dụng, giải thích pháp luật. Chẳng
hạn như các nguyên tắc: ai khẳng định, người đó phải chứng minh; không ai có thể bị
trừng phạt bởi suy nghĩ của mình,... Điều ước quốc tế là những văn bản pháp lý th
hiện sự thỏa thuận của các chủ thể pháp luật quốc tế dựa trên cơ sở bình đẳng, tự
nguyện nhằm quy định, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ quốc tế, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. tập quán
quốc tế là những quy tắc ứng sử phổ biến được thừa nhận, áp dụng rộng rãi ở một khu
vực hoặc trên phạm vi toàn cầu. Có những tập quán quốc tế trong lĩnh vực thương mại
như: Quy tắc thống nhất về nhờ thu (URC); quy tắc về trọng tài của Uncitral, Quy tắc
York-Antwerp về tổn thất chung.. Học thuyết, tư tưởng pháp lý, lẽ công bằng, hợp
đồng cũng như nguồn pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật.
Thứ hai, nguồn hình thức là phương thức, dạng tồn tại của pháp luật, là “nơi chứa
đựng các nội dung của pháp luật và đăng tải nội dung đó đến địa chỉ áp dụng của nó”.
Nguồn hình thức bao gồm:
Một, Tập quán là nguồn pháp luật dưới dạng các phong tục, tập quán trong đó
chứa đựng quy tắc điều chỉnh hành vi, các mối quan hệ xã hội của con người trong
những cộng đồng cư dân nhất định phù hợp về cơ bản với lợi ích của nhà nước, cộng
đồng xã hội, được nhà nước thừa nhận, dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất
định.
Việc thừa nhận tập quán có thể bằng nhiều cách thức như: bằng các văn bản chính
thức của nhà nước, hoặc bằng cách im lặng cho các tập quán tự phát huy tác dụng
trong đời sống. Tập quán pháp cũng như các loại nguồn pháp luật khác, đều có
những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Hai, án lệ là nguồn pháp luật dưới dạng bản án của Tòa án trong quá trình giải
quyết vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận như khuôn mẫu, cơ sở để giải quyết
những vụ việc tương tự về sau. Án lệ là kết quả của xét xử, thể hiện việc Tòa án kiến
tạo luật. Án lệ có thể được phân thành hai loại: án lệ tạo ra giải pháp pháp luật và án lệ
hình thành từ việc giải thích pháp luật thành văn. Đối với các quốc gia có truyền thống
sử dụng án lệ, để một bản án của tòa án trở thành án lệ, phải đáp ứng các yếu tố cơ
bản như: (i) nội dung của bản án liên quan đến vấn đề pháp luật mới nảy sinh hay giải
đáp một vấn đề pháp lý mà trước đó chưa có; (ii) thể hiện quan điểm và lập luận của
Thẩm phán; (iii) xuất phát từ quá trình giải quyết một vụ việc cụ thể; (iv) phải được
tạo ra bởi các tòa án có thẩm quyền; (v) được công bố với nguyên tắc tiền lệ phải được
tôn trọng và bắt buộc áp dụng trong các vụ việc tương tự.
Ba, văn bản pháp luật là loại nguồn pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành
theo những trình tự, thủ tục pháp luật quy định, chứa đựng các quy tắc xử sự chung,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Xây dựng
văn bản pháp luật phải tuân thủ theo quy trình, thủ tục pháp lý nhất định: lập chương
trình xây dựng; soạn thảo dự án; thẩm tra dự thảo; thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý; thông
qua và công bố văn bản quy phạm pháp luật.Ưu điểm của văn bản quy phạm pháp luật
là khái quát, tính công khai cao; hình thức xác định; dễ tiếp cận; dễ sửa đổi, bổ sung;
dễ áp dụng; quy trình, kỹ thuật xây dựng ban hành khoa học, chặt chẽ. Tuy nhiên, hạn
chế chung là tính khái quát cao, không thể bao quát hết cho mọi trường hợp nảy sinh
trong cuộc sống; sự lạc hậu nhất định so với thực tiễn; ít nhiều mang tính áp đặt chủ
quan của nhà làm luật; chi phí xây dựng tốn kém; thời gian, quy trình lâu dài, phức
tạp...
Bốn, Giáo lý, luật lệ tôn giáo là những quy định, quy phạm trong các lý thuyết,
giáo lý tôn giáo được nhà nước thừa nhận có giá trị như pháp luật, được áp dụng để
điều chỉnh những vấn đề nhất định trong xã hội. Điển hình nhất là các quy định, Luật
Hồi giáo (Luật Shariah). Shariah - nghĩa là “con đường đúng” hoặc “sự hướng dẫn”.
Luật Hồi giáo của một quốc gia được hình thành dựa trên hai yếu tố cơ bản, đó là:
Đạo Hội (quốc đạo của quốc gia) và các quy định trong Kinh Thánh của đạo Hồi được
các quốc gia lấy làm luật.
Ngoài các nguồn trên, còn một nguồn hình thức nữa là khẩu lệnh (pháp luật khẩu
truyền). Đó là những lời nói, lời phán truyền của những người đứng đầu nhà nước
trong những trường hợp nhất định có hiệu lực như pháp luật của nhà nước.Đây là một
hình thức pháp luật tồn tại phổ biến ở nhiều nhà nước thời kỳ phong kiến.
Nguồn pháp luật ở Việt Nam (nếu đề bắt liên hệ)
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật luôn là nguồn pháp luật chủ yếu, có thời điểm, được
xem là duy nhất trong hệ thống nguồn luật của quốc gia. Trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền, hội nhập, phát triển, các loại nguồn pháp luật của Việt Nam
ngày càng đa dạng hơn. Các điều ước quốc tế mà Nhà nước ký kết, gia nhập, nhu cầu
xã hội, chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và là những nguồn nội
dung quan trọng, có giá trị định hướng trong quá trình xây dựng thực thi pháp luật.
Về nguồn hình thức, Việt Nam đã thừa nhận các loại nguồn là văn bản pháp luật, tập
quán, án lệ, lẽ công bằng (Điều 6, Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, văn bản pháp luật
là nguồn pháp luật chủ yếu, các vấn đề liên quan đến loại nguồn này được quy định
trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tập quán là một nguồn được Việt Nam thừa nhận khá sớm, thông qua một nguyên tắc
của Bộ luật Dân sự.
Án lệ là loại nguồn pháp luật từng được sử dụng ở Việt Nam từ thời phong kiến cho
đến trước năm 1975, nhưng sau đó, trong một thời gian dài án lệ không được coi là
một nguồn pháp luật. Tuy nhiên, với thực tiễn công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật của Tòa án Nhân dân Tối cao cùng việc chấp nhận phán quyết dựa trên án l
của các quốc gia là thành viên điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong quá trình
giải quyết các vụ việc liên quan, án lệ gần như đã hiện hữu trong đời sống pháp lý Việt
Nam.
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
ban hành Nghị quyết số 49/NQ-BCT về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
đã định hướng công tác "phát triển án lệ" cho Tòa án Nhân dân Tối cao, tạo cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng và phát triển án lệ tại Việt Nam. Luật Tổ chức Tòa án
năm 2014 đã quy định nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao
trong lựa chọn, phát triển bản án, quyết định giám đốc thẩm thành án lệ và công bố án
lệ để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Câu 7: Các thuộc tính cơ bản của pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã
hội.
- KN: Pháp luật hệ thống quy tắc xử sự tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng những cách thức nhất định trong đó cưỡng chế nhà nước
nhằm điều chỉnh các quan hệ hội để bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của
con người và sự phát triển của xã hội.
- Pháp luật mang những thuộc tính cơ bản sau:
Thứ nhất tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp luật tính quy phạm
phổ biến, bởi lẽ pháp luật là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp
dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, đối với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống
hội. Tính quy phạm phổ biến này làm nên giá trị công bằng, bình đẳng của pháp
luật, bất kỳ ai trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định cũng phải xử sự theo khuôn
mẫu được pháp luật quy định. Luật Giao thông đường bộ đã quy định: Chấp hành hiệu
lệnh của người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo hiệu,
vạch kẻ đường... là quy tắc mà mọi người tham gia giao thông đường bộ đều phải tuân
theo, dù là người đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy, điều khiển ô tô hay xe súc vật kéo. Ai
không tuân thủ quy tắc này đều là vi phạm pháp luật.
Thứ hai tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, bởi hình thức thể hiện của
pháp luật các văn bản chứa quy phạm pháp luật do quan nhà nước thẩm
quyền ban hành. Các văn bản này được gọi văn bản quy phạm pháp luật. Tính xác
định chặt chẽ về hình thức của pháp luật được thể hiện trong các văn bản pháp luật với
những tên gọi, quy trình ban hành giá trị pháp khác nhau nhất định như Hiến
pháp, các đạo luật, nghị định… Văn bản này đòi hỏi diễn đạt phải chính c, một
nghĩa để người dân bình thường đọc cũng hiểu được đúng và thực hiện chính xác các
quy định pháp luật ; cơ quan nhà nước nào thẩm quyền ban hành những hình thức
văn bản nào đều phải được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp Luật Bannh văn
bản quy phạm pháp luật. Nội dung của tất cả các văn bản đều phải phù hợp, không
được trái Hiến pháp vì Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất. Yêu cầu này nhằm tạo nên sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Hiến pháp năm
1992 quy định nguyên tắc "Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử
giữa các con" (Điều 64). Phù hợp với Hiến pháp, Luật Hôn nhân gia đình năm
2000 khẳng định quy tắc chung "Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con"
(Điều 34). Mặt khác, tính xác định về hình thức cũng được thể hiện với những đặc
trưng riêng trong tiền lệ pháp, đặc biệt trong cách thức tuyển chọn, xuất bản các án lệ
của tòa án.
Thuộc tính thứ ba là tính được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Nhà
nước xây dựng, ban hành pháp luật và có thẩm quyền một cách hợp pháp, chính danh,
độc quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo thực hiện pháp luật.
Những người xử sự không đúng với quy định của pháp luật sẽ bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử thích hợp (áp dụng các chế tài pháp luật).
Người không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của
đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao
thông thì bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Đối với đời sống xã hội, pháp luật có những vai trò nổi bật sau đây:
Thứ nhất, vai trò của pháp luật thể hiện việc pháp luật bảo vệ, bảo đảm các
quyền, tự do của con người. Ở nước ta, các quyền con người về chính trị, kinh tế, dân
sự, văn hoá hội được tôn trọng, được thể hiện các quyền công dân, được quy
định trong Hiến pháp luật. Hiến pháp quy định các quyền nghĩa vụ bản của
công dân, cụ thể hoá nội dung, cách thức thực hiện các quyền của công dân trong từng
lĩnh vực cụ thể. Như vậy, thông qua các quy định trong các luật và văn bản dưới luật,
pháp luật xác lập quyền của công dân trong các lĩnh vực của đời sống hội. Căn cứ
vào các quy định này, công dân thực hiện quyền của mình. Trong Hiến pháp Luật
Doanh nghiệp quy định quyền tự do kinh doanh của công dân. Trên sở các quy
định này, công dân thể thực hiện quyền kinh doanh phù hợp với khả năng điều
kiện của minh. Pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thông qua các luật về hành chính, hình sự, tố tụng, trong đó quy định
thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục giải quyết các tranh chấp, khiếu nại xử
các vi phạm pháp luật xâm hại quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy,
pháp luật không những quy định quyền của công dân trong cuộc sống còn quy
định rõ cách thức để công dân thực hiện các quyền đó cũng như trình tự, thủ tục pháp
lý để công dân yêu cầu Nhà nước bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm.
Thứ hai, vai trò của pháp luật đối với dân chủ, công bằng, bình đẳng. Tính dân chủ
được thể hiện bằng việc pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
đảm bảo cho nhân dân tham gia quản nhà nước hội, thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật chính vậy dân chủ phải đi đôi với pháp luật được
pháp luật đảm bảo. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật.
Nếu công dân hành vi vi phạm dân chủ, pháp luật sẽ những biện pháp quy
trình, thủ tục xử nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, pháp luật công c đảm bảo công
bằng và bình đẳng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, các quan hệ pháp luật, giữa
nhân với nhau, các nhân với tổ chức, giữa nhà nước nhân. Bằng pháp luật,
nguyên tắc phân phối theo lao động, theo mức vốn và các nguồn lực khác góp vào sản
xuất kinh doanh, theo mức độ cống hiến đối với hội được bảo đảm. Pháp luật bảo
đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng hội, nhất
những người ở vị thế xã hội yếu hơn.
Thứ ba, vai trò pháp luật đối với nhà nước. Nhờ pháp luật, nhà nước phát huy
được quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động của mọi cá nhân,
tổ chức, cơ quan trong phạm vi lãnh thổ của mình. Pháp luật là các khuôn mẫu có tính
phổ biến bắt buộc chung nên quản bằng pháp luật sẽ đảm bảo dân chủ, công
bằng, phù hợp với lợi ích chung của các giai cấp tầng lớp hội khác nhau, tạo
được sự đồng thuận trong hội đối với việc thực hiện pháp luật. Pháp luật do nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệhội một cách thống nhất trong toàn quốc
và được bảo đảm bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước nên hiệu lực thi hành cao.
Thứ tư là vai trò của pháp luật đối với đạo đức. Trong quá trình xây dựng pháp luật,
nhà nước luôn cố gắng đưa những quy phạm đạo đức có tính phổ biến, phù hợp với sự
phát triển tiến bộ hội vào trong các quy phạm pháp luật. Pháp luật khẳng định,
bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của truyền thống đạo đức, đồng thời
cũng hạn chế và loại bỏ dần những quan điểm, chuẩn mực đạo đức không tiến bộ, tiêu
cực. Pháp luật không chỉ ghi nhận đạo đức còn phương tiện đảm bảo cho đạo
đức thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà nước. Ví dụ:
Điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nước Việt Nam quy định: “Mục đích
nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội”. Khi đã trở thành nội dung của quy phạm pháp luật thì các giá trị đạo
đức không chỉ được tuân thủ bằng niềm tin, lương tâm của cá nhân hay do sức ép của
luận hội còn được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh quyền lực
nhà nước.
Thứ năm, vai trò của pháp luật đối với văn hóa, truyền thống tập quán. Pháp
luật cũng đã phát huy tốt vai trò là công cụ hữu hiệu cho Nhà nước thực hiện các hoạt
động giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Trong các lĩnh vực
pháp luật hình sự, hành chính, dân sự đều có hệ thống các chế tài nhằm bảo vệ các giá
trị văn hóa truyền thống xử các hành vi vi phạm. Luật Di sản văn hóa 2013 đã
quy định về phạm vi áp dụng, quyền nghĩa vụ của tổ chức, nhân đối với di sản
văn hóa, các quy định về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể hoặc
vật thể, các quy định về quản nhà nước về di sản văn hóa, khen thưởng xử lý vi
phạm đối với các hành vi vi quy định về di sản văn hóa. Đồng thời, pháp luật cũng
quy định nguyên tắc ngăn cấm việc thực hiện các tập quán lạc hậu, phản tiến bộ.
Thứ sáu, vai trò của pháp luật đối với kinh tế và các vấn đề xã hội. Pháp luật tạo lập
hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế và có tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, pháp luật quy định bảo vệ, bảo
đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể pháp luật trừ những ngành nghề bị pháp
luật cấm. Theo Điều 5 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Nhà nước công nhận sự tồn tại
lâu dài phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này;
bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình
thức sở hữu thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động
kinh doanh”. Bên cạnh đó, pháp luật còn đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ, phát huy những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực vốn của kinh tế thị trường. Về vấn đề
hội, hệ thống pháp luật tạo lập sở pháp để đảm bảo thực hiện công bằng
hội, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân, nhóm xã hội, các cộng đồng; thực hiện những
chính sách về ưu đãi, cứu trợ hội; bảo vệ môi trường, phòng chống vi phạm pháp
luật.
9. Quy phạm pháp luật: khái niệm, cấu trúc, các loại quy phạm pháp luật
Khái niệm quy phạm pháp luật:
- Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội. Khác với các quy phạm xã
hội khác, quy phạm pháp luật là quy tắc, chuẩn mực của hành vi mang tính phổ
biến, bắt buộc chung và có mối liên hệ mang tính bản chất với quyền lực nhà
nước.
- Dưới góc độ hệ thống cấu trúc của pháp luật, quy phạm pháp luật là bộ phận
cấu thành, là hạt nhân, nền tảng cơ sở của cả hệ thống pháp luật.
- Quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành, cơ sở nền tảng, hạt nhân của h
thống pháp luật và được hiểu là những quy tắc xử sự phổ biến có tính chất bắt
buộc chung được nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận để làm cơ sở điều chỉnh các
quan hệ xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Cấu trúc của quy phạm pháp luật: gồm 3 thành phần
1. Giả định: là bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật ghi nhận trong văn bản
pháp luật những dữ liệu về tình huống, sự kiện, tình tiết hoặc nhân vật… và là
căn cứ thực hiện quy phạm pháp luật trong cuộc sống. Ghi nhận điều kiện áp
dụng pháp luật là phần bắt buộc của mọi quy phạm pháp luật. Nếu phân tích
một cách logic, thông thường thì phần giả định được ẩn chứa trong nghĩa của từ
“nếu”.
- Có 2 loại giả định:
+ Giả định đơn giản (là khi trong quy phạm chỉ nêu một điều kiện, giả thiết)
+ (là khi trong quy phạm nêu từ hai giả thiết, điều kiện trở Giả định phức tạp
lên). Trong giả định phức tạp cũng có 2 phân loại:
.) : là khi quy phạm pháp luật nêu nhiều điều kiện, Giả định phức tạp lựa chọn
giả thiết, nhưng quy phạm đó đủ điều kiện áp dụng trên thực tiễn chỉ cần một hoặc
một vài điều kiện đã xảy ra mà không nhất thiết tất cả các điều kiện phải đồng loạt xảy
ra.
.) : là khi quy phạm ghi nhận nhiều điều kiện nhưng Giả định phức tạp bắt buộc
quy phạm đó chỉ được áp dụng trên thực tiễn nếu tất cả các điều kiện đó phải xảy ra.
2. Quy định: được xem là phần quan trọng bậc nhất của quy phạm pháp luật và
có lẽ vì thế nó luôn được liên hệ với quan niệm về pháp luật như là các “quy
tắc xử sự”, quy định là phần ghi nhận cách thức ứng xử, hành động khi các
điều kiện nêu trong phần giả định đã xảy ra.
- Quy định của các quy phạm pháp luật tồn tại ở ba dạng phổ biến sau:
+ Quy định cấm đoán: nếu giả thiết đó xảy ra thì quy định cách ứng xử tiếp theo
là không được phép làm gì
+ Quy định bắt buộc: nếu giả thiết xảy ra thì quy định cách ứng xử tiếp theo là
phải thực hiện cái gì đó.
+ Quy định cho phép: nếu giả thuyết đã xảy ra thì cái ứng xử tiếp theo sẽ là được
làm gì đó.
3. Chế tài: theo truyền thống, chế tài được hiểu là một bộ phận cấu thành của quy
phạm pháp luật ghi nhận những hậu quả bất lợi đối với chủ thể thực hiện không
đúng hoặc không thực hiện các quy định như trong phần quy định đã nêu.
Ví dụ, quy định cụ thể tại Điều 155 – Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể:
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.”
Phần giả định được xác định là: Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác.
– Phần quy định được xác định là: phần này không được nêu rõ trong quy phạm pháp
luật nhưng ở dạng quy định ngầm.
Chế tài được xác định là: Bị phạt cảnh cáo phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Chế tài ở đây biện
pháp của Nhà nước tác động đến chủ thể vi phạm pháp luật.
Các loại quy phạm pháp luật
Phân loại quy phạm pháp luật phụ thuộc vào việc xác định các tiêu chí phân loại.
Mỗi tiêu chí khác nhau sẽ cho ra những cách thức phân loại khác nhau. Trong khoa
học pháp lý, quy phạm pháp luật hiện được phân loại theo các tiêu chí phổ biến sau:
- Theo tính chất của các quan hệ xã hội và quy phạm đó điều chỉnh thì có thể
phân loại các quy phạm pháp luật thành: quy phạm pháp luật tố tụng và quy
phạm pháp luật nội dung (hay quy phạm pháp luật vật chất).
- Theo đối tượng điều chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội mà quy phạm điều
chỉnh, có thể phân chia thành: quy phạm pháp luật hiến pháp, quy phạm pháp
luật hành chính, quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm pháp luật dân sự, quy
phạm pháp luật lao động, quy phạm pháp luật đất đai,…
- Theo tính chất của nội dung phần quy định trong quy phạm pháp luật có:
quy phạm pháp luật cho phép, quy phạm pháp luật cấm đoán và quy phạm pháp
luật bắt buộc.
- Theo vai trò, chức năng của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật có thể phân chia quy phạm pháp luật hành: các quy phạm pháp luật
chung và quy phạm pháp luật chuyên biệt.
* Ngoài những cách thức phân loại phổ biến trên, có thể căn cứ vào các tiêu chí khác
như: phương pháp điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, cấp độ điều chỉnh hoặc hiệu lực
pháp lý để phân loại các quy phạm pháp luật.
10. Văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam: khái niệm, các loại văn bản quy phạm
pháp luật, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, phân biệt văn bản quy phạm pháp
luật và văn bản áp dụng pháp luật.
Khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy
phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng nhiều lần và được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Các loại văn bản quy phạm pháp luật:
+ Hiến pháp
+ Bộ luật, luật, nghị quyết
+ Pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa ủy
ban thường vụ Quốc hội với đoàn chủ tịch ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc.
+ Nghị định của chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa chính phủ với đoàn chủ tịch ủy
ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam.
+ Lệnh, quyết định của chủ tịch nước
+ Quyết định của Thủ tướng chính phủ
+ Nghị quyết của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
+ Thông tư của chánh án tòa án nhân dân tối cao; thông tư của viện trưởng viện kiểm
sát nhân dân tối cao; thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư
liên tịch giữa chánh án tòa án nhân dân tối cao với viện trưởng viện kiểm sát nhân dân
tối cao; thông tư liên tịch giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với chánh án
tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của
tổng kiểm toán nhà nước.
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
+ Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính- kinh
tế đặc biệt
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp huyện
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp xã
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là các giá trị tác động của văn bản
quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội về mặt thời gian, không gian và đối
tượng tác động.
- Ở Việt Nam, hiệu lực của văn bản pháp luật được quy định tại chương VIII, luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
+ Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của văn
bản lên các quan hệ xã hội từ thời điểm bắt đầu phát sinh cho đến khi kết thúc hiệu
lực.
Ví dụ, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được Quốc hội thông
qua ngày 22/6/2015 quy định: ‘‘Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2016” (khoản 1 Điều 172). Theo quy định này thì ngày 01 tháng 7 năm 2016 là ngày
phát sinh hay ngày có hiệu lực của Luật này.
- Hiệu lực về không gian là các giá trị tác động của văn bản đến đâu, trong phạm vi
lãnh thổ, khu vực, vùng hay đơn vị hành chính cụ thể nào. Phạm vi không gian của
văn bản có thể được ghi cụ thể trong chính văn bản, cũng có thể xác định theo thẩm
quyền chung của chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 5 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
“Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi
phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”.
- Hiệu lực về đối tượng tác động là giá trị tác động của văn bản lên các chủ thể trong
quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật. Đối tượng
tác động của văn bản thường được đề cập cụ thể và trực tiếp trong văn bản. Nếu
không được đề cập thì có thể xác định đối tượng tác động trong tương quan với hiệu
lực về không gian của văn bản thuộc về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Ví dụ: Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về đối tượng bị xử
lý vi phạm hành chính như sau:
“1 – Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm
hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi
vi phạm hành chính.
b) Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra;
Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật
Tiêu chí Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật
Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật là
văn bản có chứa đựng các quy
phạm pháp luật do các chủ thể
có thẩm quyền ban hành, có
hiệu lực bắt buộc chung, được
áp dụng nhiều lần và được nhà
nước bảo đảm thực hiện.
Văn bản chứa đựng các quy
tắc xử sự cá biệt, do cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền ban
hành, được áp dụng một lần
trong đời sống và bảo đảm
thực hiện bằng sự cưỡng chế
Nhà nước
Phạm vi áp dụng Áp dụng đối với tất cả các đối
tượng thuộc phạm vi điều chỉnh
Áp dụng đối với một hoặc một
số đối tượng được xác định đối
tượng cụ thể trong văn bản
Thời gian có hiệu
lực
Có hiệu lực lâu dài, theo mức
độ ổn định của phạm vi và đối
tượng điều chỉnh
Có hiệu lực ngắn, theo vụ việc
Cơ sở ban hành Dựa trên Hiến pháp, Luật, các
văn bản quy phạm pháp luật
cao hơn với văn bản quy phạm
pháp luật là nguồn của luật
Thường dựa vào một văn bản
quy phạm pháp luật hoặc văn
bản áp dụng pháp luật của chủ
thể có thẩm quyền. Văn bản áp
dụng pháp luật hiện tại không
là nguồn của luật
Hình thức tên gọi Các hình thức và tên gọi quy
định tại điều 4 luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật
2015
Chưa được pháp luật hoá tập
trung về tên gọi và hình thức
thực hiện
Chủ thể ban hành Do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành (do tập thể ban
hành nhiều hơn)
Do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc các tổ chức, cá
nhân được Nhà nước trao
quyền ban hành, dựa trên các
quy phạm pháp luật cụ thể để
giải quyết một vấn đề cụ thể
(thường là cá nhân ban hành
nhiều hơn)
Câu 11: Khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật.
1. Khái niệm thực hiện pháp luật: là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các
quy định PL vào c/s, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể PL
2. Các hình thức thực hiện pháp luật. VD
- Tuân thủ PL là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL kiềm chế k tiến hành
những hoạt động mà PL ngăn cấm. VD: không vứt rác, k vượt đèn đỏ..
- Thi hành PL (hoặc chấp hành PL) là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL thực
hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hành động tích cực. VD: nộp thuế, đi
đăng ký tạm trú..
- Sử dụng PL là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL thực hiện quyền chủ thể mà
PL quy định. VD: quyền tự do kinh doanh, quyền ứng cử..
- Áp dụng PL là hình thức thực hiện PL chỉ dành cho các cơ quan NN hay nhà chức
trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện các quy định của PL, hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của PL để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ PL cụ thể. VD: công an ra quyết định xử
phạt vi phạm giao thông. Tòa án ra bản án kết tội người phạm tội
Câu 12: Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật.
1. Khái niệm ADPL: là hình thức thực hiện PL chỉ dành cho các cơ quan NN hay nhà
chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện các quy định của PL,
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của PL để tạo ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ PL cụ thể
2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
So với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật những đặc điểm
sau đây:
- Áp dụng pháp luật hoạt động mang tính quyền lực nhà nước: Hoạt động áp dụng
pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền tiến hành.
Pháp luật căn cứ để các quan nhà nước, nhà chức trách thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước trao quyền tiến hành áp dụng pháp luật. Hoạt động này
sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà
nước được thể hiện một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể. Theo quy định của
pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật thể được tiến hành theo sáng kiến của chủ
thể thẩm quyền hoặc người được (bị) áp dụng pháp luật, tuy nhiên quyết định áp
dụng pháp luật luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể tiến hành áp dụng pháp
luật trên sở nhận thức niềm tin của họ về bản chất của vụ việc các quy định
của pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật có ý nghĩa bắt buộc đối với chủ thể bị áp
dụng pháp luật và chủ thể khác liên quan. Khi cần thiết, quyết định này được đảm
bảo bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức, thủ tục chặt chẽ do
luật định
Thực tế cho thấy, nhiều vụ việc cần áp dụng pháp luật để giải quyết rất phức tạp,
nhiều trường hợp, để có thể áp dụng pháp luật giải quyết một vụ việc cụ thể, cần có sự
tham gia của những chủ thể khác nhau, hoạt động áp dụng pháp luật nhiều khi có ảnh
hưởng lớn tới lợi ích của chủ thể được (bị) áp dụng pháp luật... Chính vậy, để đảm
bảo hoạt động áp dụng pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn, thống nhất, đảm
bảo quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân, tổ chức được (bị) áp dụng
pháp luật, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của luật pháp, đòi hỏi hoạt động áp
dụng pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính cá biệt, cụ thể
Áp dụng pháp luật hoạt động giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể trên sở các
quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật những quy tắc xử sự chung, được đặt
ra không phải dành cho một cá nhân, tổ chức cụ thể, cá biệt mà là dành cho một nhóm
(loại) đối tượng nhất định. Mặt khác, cách xử sự được nêu ra trong quy phạm pháp
luật trong nhiều trường họp cũng không cố định. Khi áp dụng pháp luật, chủ thể
thẩm quyền căn cứ vào quy phạm pháp luật, đưa ra cách xử sự cụ thể đối với chủ thể
được (bị) áp dụng pháp luật, xác định cho họ được làm gì, không được làm gì, phải
làm gì, làm như thế nào... một cách rất cụ thể.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo
Các vụ việc cụ thể xảy ra trong cuộc sống hết sức đa dạng phức tạp, trong khi đó
pháp luật thường không mô tả tỉ mỉ từng tình tiết của sự việc, ngược lại nó thường chỉ
dự liệu những điều kiện, hoàn cảnh tính chất phổ biến, điển hình. Do vậy, khi áp
dụng pháp luật, các chủ thể thẩm quyền áp dụng phải nghiên cứu vụ việc, so
sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp
để áp dụng sao cho đúng người, đúng sự việc, đúng mức độ, đúng quan điểm,
tưởng quy phạm pháp luật đã nêu. Bên cạnh đó, trong thực tế, nhiều trường hợp
xảy ra những vụ việc đòi hỏi quan, nhà chức trách thẩm quyền phải giải quyết
nhưng không quy định của pháp luật để áp dụng. Tất cả những trường hợp đó đều
đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn
phong phú, đồng thời phải linh hoạt, sáng tạo để giải quyết các vụ việc đã xảy ra trong
thực tế cuộc sống một cách đúng đắn.
Câu 13: Ý thức pháp luật: khái niệm và các đặc trưng cơ bản của ý thức pháp luật.
1. Khái niệm
| 1/37

Preview text:

Câu 1: Các đặc trưng cơ bản của nhà nước 1. Khái niệm
Khi XH có sp thặng dư -> Xuất hiện ng giàu ng nghèo -> Sự phân hóa giai cấp. Người
giàu để bảo vệ địa vị cũng như tài sản đang có đã lập ra 1 tổ chức gọi là NN để thống
trị, đàn áp các giai cấp khác. Một lý do khác cùng với sự tan rã của thị tộc, những ng
cùng huyết thống k còn sinh sống trên địa bàn nhất định nữa mà họ đã di chuyển và
thực hiện những công việc khác nhau. Thị tộc tan rã đòi hỏi có một tổ chức khác thay
thế thị tộc để vừa quản lý xã hội vừa điều hòa các mâu thuẫn giai cấp đang căng thẳng
=> Sự ra đời NN: “NN là 1 tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng đặc biệt nhằm duy trì trật
tự xã hội và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền.
VD1: NNPK khi xuất hiện sẽ sử dụng quyền lực chính trị, bộ máy chuyên chế cưỡng
chế nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của gc địa chủ, phong kiến
VD2: NNTBCN ra đời sau cũng sử dụng quyền lực chính trị để bảo vệ địa vị thống trị của gc tư sản 1. Đặc trưng nhà nc
Mặc dù khác nhau về bản chất (tính giai cấp và tính xã hội) tuy nhiên các NN đều có
những điểm chung nhất quán, đó là những đặc trưng cơ bản của NN. Những đặc trưng
giúp cho phân biệt NN với các tổ chức XH khác, đồng thời giúp NN giữ vị trí trung
tâm trong hệ thống chính trị, có thể tác động toàn diện mạnh mẽ đến các mặt của đời
sống xã hội. Các đặc trưng đó bao gồm
- Đặc trưng 1: NN thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt kh hòa nhập với dân
xư, hầu như tách khỏi XH. Do NN dc hình thành để củng cố quyền lực cho giai
cấp thống trị nên NN sẽ thiết lập các quyền lực công cộng đặc biệt.Quyền lực
công cộng là gì? Trước hết đó là quyền áp đặt cho toàn bộ XH thông qua 1 hệ
thống pháp luật để điều tiết các hđ XH. VD: ng tham gia giao thông bị phạt tiền
nếu trong ng có nồng độ cồn, ng tàng trữ ma túy sẽ bị truy tố. K có tổ chức nào
ngoài NN dc quyền đưa ra pháp luật. Cùng với hệ thống PL, quyền lực công
cộng đặc biệt còn được thể hiện qua vai trò của các cơ quan cưỡng chế thi hành
pháp luật như: cảnh sát, quân đội, nhà tù… Chỉ có NN mới có quyền sử dụng
vũ khí có tính cưỡng chế, răn đe để duy trì địa vị thống nhất giai cấp và bắt
buộc giai cấp khác phải phục tùng
- Đặc trưng 2: NN phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ, k phụ thuộc
vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hay giới tính (khác với tổ chức thị
tộc, bộ lạc phân chia theo huyết thống). Việc phân chia này giúp NN dễ dàng
quản lý XH trên phạm vi rộng, tạo nên 1 bộ máy quản lý NN từ cao đến thấp,
hình thành các cơ quan quản lý nhà nước. NN chia dân cư theo đơn vị hành
chính, tổ chức chính quyền địa phương tương ứng với các đơn vị hành chính và
quản lý hoạt động dân cư theo đơn vị hành chính đó. MQH giữa cá nhân với
NN dc quy định bởi luật quốc tịch. Trong mối quan hệ này, NN là tổ chức công
quyền thực hiện việc quản lý cá nhân bằng pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền
và nghĩa vụ của cá nhân được thực hiện và không bị xâm hại. NN quy định các
quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong pháp luật, đòi hỏi cá nhân phải thực hiện
đầy đủ và chính xác quyền và nghĩa vụ đó.
- Đặc trưng 3: NN có chủ quyền quốc gia. NN là 1 tổ chức quyền lực có chủ
quyền, chủ quyền quốc gia này mang tính chính trị pháp lý. 1 quốc gia có chủ
quyền là 1 quốc gia có thể tự quyết định để giải quyết mọi vấn đề trong các
quan hệ đối nội, đối ngoại của quốc gia mà k một quốc gia nào khác có thể
tham gia, can thiệp. NN là đại diện chính thức, là đại diện về mặt pháp lý cho
toàn xã hội về mặt đối nội và đối ngoại. Xu hướng toàn cầu hóa cho thấy hầu
hết các quốc gia đều tham gia vào các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế và
cùng chia sẻ lợi ích , cùng gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. VD: VN tham
gia vào ASEAN, WHO, APEC… Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự
chung sức của nhiều quốc gia: Covid-19, AIDS, nạn khủng bố…
- Đặc trưng 4: NN ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với
mọi công dân, mọi tổ chức trong XH. NN là ng đại diện cho toàn bộ XH, là tổ
chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng bộ máy
cưỡng chế NN. Các quy định pháp luật do NN ban hành mang tính bắt buộc
chung đối với mọi công dân, mọi tổ chức trong XH.
- Đặc trưng 5: NN có quyền quy định các loại thuế và tiến hành vệc thu thuế
dưới hình thức bắt buộc. Để đảm bảo cho bộ máy NN có thể hđộng để duy trì
trật tự trong XH, NN cần phải có ngân sách để thực hiện mục tiêu. Thuế là đòn
bẩy và có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế của NN. Bằng việc đánh thuế
theo các mức thuế, NN có thể điều tiết sự hoạt động hoặc tăng giảm của các
loại mặt hàng, các ngành sản xuất trong nền kinh tế nhằm mục đích đảm bảo
cho sự phát triển của nền kinh tế. VD: NN VN đánh thuế cao các mặt hàng
không khuyến khích như xuất nhập khẩu rượu, ô tô…NN giảm thuế nhập khẩu
xăng dầu để bình ổn giá xăng dầu trong nc. Thuế là do ND đóng góp để tạo nên
ngân sách NN, từ đó phục vụ trở lại cho lợi ích công cộng của toàn bộ dân cư.
NN có quyền áp đặt và bắt buộc mọi thành viên trong XH phải có trách nhiệm đóng thuế
Câu 3: Chức năng nhà nước: khái niệm, phân loại, các hình thức và phương pháp thực
hiện chức năng của nhà nước.

Về khái niệm, chức năng của nhà nước là các phương diện hoạt động chủ yếu,
cơ bản của nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phù hợp với bản
chất, vai trò, trách nhiệm của nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước
nhà nước. Chức năng của nhà nước gắn liền với hoạt động của nhà nước; do bản chất,
cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu lâu dài của nhà nước quyết định.
Về phân loại, tùy theo mỗi tiêu chí nhất định mà có nhiều cách thức phân loại
chức năng nhà nước. Chẳng hạn: dựa vào ý nghĩa của chức năng nhà nước có thể phân
chia thành các chức năng chủ yếucác chức năng phái sinh; dựa vào nguyên tắc
phân chia quyền lực có thể chia thành chức năng hành pháp, lập pháp, tư pháp; dựa
vào các kiểu nhà nước có thể phân chia thành chức năng nhà nước chiếm hữu nô lệ,
chức năng nhà nước phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa.
Còn dựa vào các lĩnh vực
hoạt động cơ bản của nhà nước thì phân định thành các chức năng đối nộicác chức
năng đối ngoại
. Đây là cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học pháp lý. Cụ thể:
Các chức năng đối nội: là những phương diện hoạt động chủ yếu thể hiện
hoạt động của nhà nước mà đối tượng tác động, mục tiêu và nhiệm vụ của các hoạt
động này chủ yếu nằm trong phạm vi nhà nước đó. Về cơ bản, các chức năng đối nội
chủ yếu của nhà nước là: 1) chức năng chính trị; 2) chức năng kinh tế; 3) chức năng xã
hội; 4) chức năng môi trường; 5) chức năng ghi nhận, bảo vệ, đảm bảo và thúc đẩy các
quyền con người, quyền công dân; 6) chức năng bảo vệ và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Các chức năng đối ngoại: là những phương diện hoạt động chủ yếu thể hiện
thông qua các hoạt động của nhà nước mà đối tượng tác động, mục tiêu và nhiệm vụ
của các hoạt động này vượt ra ngoài phạm vi nhà nước đó và nằm trong mối quan hệ
mật thiết với cộng đồng quốc tế, giao lưu quốc tế. Các chức năng đối ngoại chủ yếu
bao gồm: 1) chức năng quốc phòng; 2) chức năng bảo vệ trật tự, hòa bình thế giới,
tham gia giải quyết các vấn đề có tính chất khu vực và quốc tế; 3) chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế.
Ngoài chức năng kể như trên, cần quan tâm đến chức năng kinh tế cũng như
chức năng xã hội của nhà nước.
*Chức năng kinh tế của nhà nước: là tổ chức, quản lý, điều tiết nền kinh tế
thông qua việc thiết lập và thực hiện các cơ chế, chính sách. Ở đây, nhà nước chỉ đóng
vai trò là nhân tố trung gian: thực hiện điều tiết vĩ mô, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, mang tính kiến tạo phát triển. Và mức độ, cách thực thực
hiện phụ thuộc vào nhận thức của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển.
*Chức năng xã hội của nhà nước: là thiết lập cơ chế, chính sách và tổ chức
thực hiện cơ chế, chính sách. Cụ thể là đảm bảo việc lao động, việc làm, bảo trợ xã
hội, xóa đói giảm nghèo và các vấn đề an sinh xã hội khác; chăm sóc sức khỏe nhân
dân; giáo dục đào tạo; giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa, truyền thống của dân
tộc; đảm bảo sự phát triển hài hòa trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo…
Về các hình thức và phương pháp chủ yếu thực hiện của nhà nước:
Có hai loại hình thức thực hiện chức năng của nhà nước: các hình thức pháp
lý và các hình thức khác.
Các hình thức pháp lý là các hình thức thực hiện chức năng của nhà nước khi
nhà nước ban hành các văn bản pháp luật thiết lập các cơ chế pháp lý và theo đó thực
hiện các các chức năng của mình. Có các hình thức pháp lý sau: 1) bằng hoạt động lập
pháp; 2) bằng hoạt động hành pháp; 3) bằng hoạt động tư pháp; 4) bằng các hình thức
thỏa thuận để thực hiện chức năng nhà nước.
Các hình thức khác là tất cả những hình thức mà không hoàn toàn gắn liền với
các hoạt động ban hành, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Chẳng hạn, có các
hình thức liên quan đến tổ chức, sắp xếp cơ cấu lại thiết chế, tổ chức, cơ quan; các
hình thức tham gia của các chủ thể xã hội khác nhưng có liên quan đến thực hiện chức năng nhà nước.
Còn các phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước được hiểu là các
cách thức, phương tiện được sử dụng để thực hiện các chức năng của nhà nước. Về cơ
bản, có các phương pháp sau được sử dụng để thực hiện các chức năng của nhà nước:
Giáo dục: là sự tác động có định hướng làm thay đổi nhận thức của chủ thể
hoặc làm phong phú thêm những tri thức của chủ thể được tác động. Ví dụ, giáo dục
người dân về tác hại của thuốc lá, tổ chức giáo dục, cung cấp kiến thức về Cộng đồng ASEAN,...
Khuyến khích: là sự tác động nhằm cho chủ thể khác nghe theo và thực hiện
theo sự hướng dẫn, chỉ dẫn của nhà nước trong thực hiện chức năng của nhà nước. Ví
dụ: nhà nước khuyến khích người Việt dùng hàng Việt.
Thuyết phục: là sự tác động lên các chủ thể nhất định với mục đích hướng họ
theo những hoạt động mà nhà nước mong muốn.
Cưỡng chế: là việc bắt buộc chủ thể nhất định dừng, chấm dứt hoặc thực hiện
các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước. Ví dụ: xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng, cưỡng chế thu hồi đất, cưỡng chế di dời tránh bão…
Câu 4 : Nội dung cơ bản của chức năng kinh tế và các chức năng xã hội của nhà nước Việt Nam
Định nghĩa chức năng nhà nước CHXHCNVN: là những hoạt động chủ yếu, thường
xuyên có tính tương đối ổn định, trực tiếp thực hiện bản chất, nhiệm vụ chiến lược, mục
tiêu lâu dài trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh xh công bằng dân chủ văn minh.
Chức năng kinh tế là những phương diện hoạt động của nhà nước trong tổ chức điều tiết
quản lí nền kinh tế của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất cho nhân dân, về
cơ bản cnkt gồm những nội dung :
Thứ nhất : nhà nước định hướng sự phát triển kinh tế và điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng XHCN
Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là cải thiện lực lượng sản xuất của nền kinh tế, phát
triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của chủ nghĩa xã hội và cho phép
Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới.
Thứ 2: nhà nước thiết lập khuôn khổ luật pháp, đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội
Nhà nước tạo ra khung pháp lý cho các chủ thể tự do hoạt động, quy định tư cách chủ
thể, ngăn ngừa các yếu tố tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, định ra các
phương thức nhằm duy trì và đảm bảo trật tự kinh tế. Ví dụ: Nhà nước quản lý vĩ mô nền
kinh tế bằng các công cụ quản lý kinh tế như Chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách quản
lý và sử dụng đất đai,…
Thứ 3: nhà nước cần hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xh
Cơ chế thị trường là hệ thống thị trường tự do, các doanh nghiệp tham gia thị trường có
thể thoải mái kinh doanh, sản xuất mà không phải chịu bất kỳ giới hạn nào. Tuy nhiên,
chính sự tự do trong cơ chế thị trường có thể gây ra những mặt tiêu cực như sự phân hóa
giàu nghèo lớn, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, …. Nhà nước cần phải có những
biện pháp ,chính sách để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của cơ
chế thị trường, để tạo nên những chuyển biến rõ nét hơn về tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, ổn định kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội
Chức năng xã hội là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức,
điều tiết và quản lý xã hội nhằm thiết lập một xã hội ổn định, phát triển trên mọi lĩnh vực.
Nhà nước quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực bao gồm: văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ, ghi nhận, đảm bảo thực hiện quyền con người và các lĩnh vực khác (môi trường,
trật tự xã hội, về sinh an toàn thực phẩm…) thông qua xây dựng cơ chế, chính sách (văn
bản quy phạm pháp luật) điều chỉnh các quan hệ trong đời sống xã hội và tổ chức thực
hiện các quy phạm pháp luật và có cơ chế giám sát.
NN XHCN có nhiệm vụ quan trọng là giải quyết tốt những đòi hỏi, nhu cầu xuất phát từ
đời sống, hướng tới việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tất cả vì giá
trị con người. Nền kinh tế thị trường được thiết lập trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa
đã mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đã đặt ra nhiều vấn đề như: văn hoá, giáo dục,
chăm sóc sức khỏe, việc làm... đòi hỏi phải giải quyết. Chính vì vậy, một trong những
chức năng quan trọng của NN XHCN là giải quyết các nhiệm vụ mà xã hội đặt ra,hướng
tới sự phát triển bền vững trong đó con người là trung tâm.
Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể khái quát ở các hướng chính sau:
Về văn hoá Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Nhà nước thực hiện các hoạt
động: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; Bảo vệ, tôn tạo
các di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh, phát triển các lễ hội để góp phần nâng cao sự
hiểu biết cho nhân dân, làm cho nhân dân ý thức được trách nhiệm của mình trước cộng
đồng; Quan tâm đặc biệt đến việc làm hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa,…
Về giáo dục: Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Với phương
châm ‘nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’, Nhà nước cần: Dành phần
ngân sách đầu tư thỏa đáng cho giáo dục, đào tạo; Mở rộng và hoàn thiện hệ thống giáo
dục phổ thông; thực hiện giáo dục toàn diện, trước hết là giáo dục nhân cách, đạo đức;
Không ngừng hiện đại hoá nội dung chương trình; gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội;
Mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo; tôn vinh nghề dạy học, chú trọng chất lượng nhà giáo…
Về khoa học, công nghệ: Nhà nước xác định khoa học - công nghệ giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với nước ta, khoa học, công
nghệ còn là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Do đó, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm và có chính sách đúng đắn,
đảm bảo phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ.
Về y tế: Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhà
nước đã và đang mở rộng mạng lưới y tế, chú trọng đào tạo đội ngũ thầy thuốc; hiện đại
hoá các cơ sở khám chữa bệnh, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; đảm bảo vệ
sinh và an toàn thực phẩm… Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần đối với những người có công, người về hưu, người già yếu cô
đơn… Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm...
Về dân số, lao động, việc làm, thu nhập: Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều
có việc làm, khuyến khích mở rộng sản xuất, thu hút sức lao động; tích cực trong việc
giải quyết vấn đề thất nghiệp…Xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu
nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các chính sách về thuế.
Nhà nước có chính sách dân số hợp lý, tránh gia tăng dân số quá nhanh, nhưng phải đảm
bảo mức sinh thay thế; đảm bảo việc làm đồng thời cải thiện điều kiện làm việc cho
người lao động; giải quyết đúng đắn vấn đề thu nhập của người lao động; thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội toàn dân...
Về vấn đề dân tộc, tôn giáo: Nhà nước có chính sách tôn giáo, dân tộc hợp lí, đảm bảo
sự phát triển hài hoà của mọi vùng miền trong cả nước. Đặc biệt là chính sách ưu tiên
phát triển ở những vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của nhiều đồng bào thiểu số.
Tóm lại, chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản, chủ yếu, thể hiện rõ nét
bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích của thực hiện
chức năng này là mang lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động.
6. Nhà nước pháp quyền: khái niệm và đặc điểm cơ bản
Nhà nước pháp quyền là một khái niệm được hiểu theo 2 mức độ khác nhau với
phương diện tính cách là học thuyết và tư tưởng hoặc thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực.
Thứ nhất, từ phương diện học thuyết và tư tưởng, Nhà nước pháp quyền là tư
tưởng tiến bộ về tôn trọng, bảo vệ quyền con người và các giá trị dân chủ, công bằng,
công lý, bình đẳng trên cơ sở xác lập những cách thức cầm quyền tốt cho người dân,
thượng tôn pháp luật và chống sự lạm quyền.
Thứ hai, từ phương diện thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực, Nhà nước pháp
quyền phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người; đến sự hiện diện của
chủ nghĩa lập hiến và nhằm đảm bảo sự đồng thuận của mọi người dân, bảo đảm sự
chính đáng, sự hợp pháp của quyền lực. Nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật và
được kiểm soát bởi pháp luật.
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công
khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát
quyền lực; nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, quản lý xã hội
bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích con người.
Nhà nước pháp quyền có trong bản tính của nó những tố chất làm nên một chế độ, một
cách thức sử dụng quyền lực và quản trị quốc gia. Những tố chất nhất thiết phải có đó
cũng chính là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền gồm 4 mục chính. Một là, tôn trọng,
bảo đảm vệ quyền con người - mục tiêu trung tâm của Nhà nước pháp quyền. Hai là,
bảo đảm sự đồng thuận lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. Ba là, sự giới hạn của
quyền lực và kiểm soát bởi pháp luật nhằm chống lại sự chuyên chế và độc tài. Bốn là,
nguyên tắc: “có thể làm tất cả những gì luật không cấm” - nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
Để có được những tố chất, bản tính làm nên nội hàm, mục tiêu hay trạng thái của một
chế độ được gọi là pháp quyền thì trong tổ chức quyền lực nhà nước và trong việc sử
dụng quyền lực nhà nước, sử dụng luật cần hội tụ đủ những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, xác lập và củng cố chế độ Hiến pháp - điều kiện tiên quyết của Nhà
nước pháp quyền. Chế độ Hiến pháp, hay còn gọi là chủ nghĩa lập hiến, được coi là
chế độ chính trị - pháp lý của một quốc gia mà ở đó có sự hiện diện của Hiến pháp, có
sự thượng tôn Hiến pháp, có cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp
được coi là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và Nhà nước pháp
quyền, bởi vì Hiến pháp được coi là “sự đồng thuận của tất cả các thành viên xã hội
thể hiện ý chí của nhân dân, là cơ sở bảo đảm tính hợp pháp và sự chính đáng của Nhà
nước”/Chỉ số hiệu lực của Hiến pháp được phản ánh thông qua hoạt động của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, toàn bộ sinh hoạt quốc gia, đời sống xã hội, ý thức và hành
động của công dân. Khi Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh có thể
thấy một nền Hiến pháp vững chắc, một xã hội bền vững và dân chủ, pháp quyền
được đề cao. Ngược lại, khi hiến pháp bị pháp luật và các văn bản dưới luật lấn lướt
thì kỷ cương quốc gia, trật tự xã hội, quyền con người có thể có vấn đề. Cơ chế giám
sát việc tuân theo Hiến pháp có thể được thực hiện dưới những hình thức như: kiểm
tra, giám sát của Nghị viện, Nguyên thủ quốc gia, Chính phủ, Tòa án. Thành lập các
cơ quan giám sát Hiến pháp chuyên trách, ví dụ như: Tòa án Hiến pháp,.. hoặc giao
cho Tòa án thẩm quyền chung. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp có khả năng đảm bảo sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người một cách triệt để nhất.
Thứ hai, bảo đảm tính công bằng, minh bạch của pháp luật và khả năng tiếp cận
công lý cho người dân. Lòng tin của công chúng vào Nhà nước pháp quyền chỉ có thể
được duy trì nếu nhận thức về tính công bằng của pháp luật đó sâu rộng đến mức
không có chỗ cho sự thiên vị hoặc quyền đặc lợi. Trong việc ban hành chính sách và
pháp luật thì trước hết là vấn đề phản ánh lợi ích. Đối với hành pháp, đây là vấn đề về
quyền tiếp cận công vụ, một biểu hiện quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Đối với
hoạt động của bộ máy tư pháp, lòng tin vào Nhà nước pháp quyền bằng việc tuân thủ
các nguyên tắc tư pháp độc lập và công bằng. Yêu cầu về tính minh bạch đòi hỏi trọng
mọi hoạt động của mình, nhà nước phải tuân thủ pháp luật mà trước đó đã được thông
qua và công bố. Những quy định pháp luật phải cho phép dự báo về cách thức mà nhà
nước sử dụng để thực thi quyền cưỡng chế của mình trong những hoàn cảnh nhất
định. Vì vậy, Ngân hàng Thế giới đã định nghĩa Nhà nước pháp quyền là “một tập hợp
những quy định mà mọi người đều có thể lường trước được”. Trong Nhà nước pháp
quyền, pháp luật chính là các quyền được thể chế hóa và được thực hiện và vì vậy, tiếp
cận pháp luật đòi hỏi rằng pháp luật được ban hành phải “có thể hiểu được”. Cần có
những nguồn lực để đảm bảo việc tiếp cận pháp luật, để mọi người dân có quyền kì
vọng vào khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý.
Thứ ba, thực hiện phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước. Phân quyền là
cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước với 3 yếu tố chính. Một là, có sự hiện diện của các
nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và các
nhánh quyền lực đó độc lập với nhau về phạm vi thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ và
phương thức hoạt động. Hai là, các nhánh quyền lực đó cần được đảm bảo cân bằng
thông qua cơ chế kiểm soát và đối trọng. Nghĩa là, tuy các nhánh quyền lực nhà nước
đối lập với nhau, nhưng mỗi quyền lực đều được đặt dưới sự kiểm soát và vì thế luôn
tạo được thế cân bằng quyền lực. Ba là, các nhánh quyền lực độc lập, kiểm soát và đối
trọng nhưng luôn luôn phối hợp, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
Thứ tư, bảo đảm sự độc lập của tư pháp. Quyền tư pháp - đó là quyền xét xử với
chủ thể duy nhất là các Tòa án. Hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều có chung định
nghĩa này về quyền tư pháp. Quyền tư pháp không được đặt vào tay một cơ quan mà
được giao cho tổng thể toàn bộ các Tòa án, từ Tòa án cao nhất đến Tòa án thấp nhất.
Quyền tư pháp phải độc lập là điều kiện để thực hiện một chức năng hết sức quan
trọng của quyền lực nhà nước là áp dụng pháp luật đúng đắn với mục đích khôi phục
lại những quyền và lợi ích đã bị xâm hại, bảo đảm sự công bằng trong các tranh chấp
pháp lý. Đối với Nhà nước pháp quyền, vị trí của quyền tư pháp, cụ thể là Tòa án là
một vị trí đặc biệt. Sự độc lập của Tòa án đã trở thành một trong những yếu tố quan
trọng của chế độ pháp quyền. Trong “công nghệ” chính trị và thực thi quyền lực, sự
cần thiết về một thứ quyền có khả năng “tỉnh táo” xem xét các vấn đề và khách quan
hơn trước con mắt của dân chúng, cũng như phòng ngừa sự đi quá xa của các quyết
sách và pháp luật. Đây là điều mà nhiều nhà tư tưởng đã dày công tìm kiếm.
8. Các nguồn pháp luật
Nguồn pháp luật là hình thức cấu trúc nội tại và thể hiện ra bên ngoài những quy tắc
và hành vi. Theo đó, nguồn pháp luật có thể là những văn bản quy phạm pháp luật, các
bản án, tập quán, lẽ công bằng,...Theo cách phân loại phổ biến có 2 loại nguồn pháp
luật sau: nguồn nội dung và nguồn hình thức. Việc phân loại này mang tính tương đối
bởi có những nguồn mang tính hỗn hợp, vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình
thức, như: điều ước, tập quán, thông lệ quốc tế,..
Thứ nhất, nguồn nội dung là cơ sở để hình thành, xây dựng và thực hiện pháp luật.
Nguồn nội dung cơ bản gồm: các nguyên tắc chung của pháp luật, điều ước, tập quán
và tục lệ quốc tế, chủ trương chính sách của đảng cầm quyền, học thuyết, tư tưởng
pháp lý, nhu cầu quản lý, phát triển kinh tế, xã hội, các quy tắc, quan niệm đạo đức…
Nguyên tắc chung của pháp luật là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo được thừa
nhận rộng rãi, liên quan đến vai trò, tính chất, sự công bằng của pháp luật. Nguyên tắc
pháp luật có vai trò quan trọng trong xây dựng, áp dụng, giải thích pháp luật. Chẳng
hạn như các nguyên tắc: ai khẳng định, người đó phải chứng minh; không ai có thể bị
trừng phạt bởi suy nghĩ của mình,... Điều ước quốc tế là những văn bản pháp lý thể
hiện sự thỏa thuận của các chủ thể pháp luật quốc tế dựa trên cơ sở bình đẳng, tự
nguyện nhằm quy định, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ quốc tế, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. tập quán
quốc tế là những quy tắc ứng sử phổ biến được thừa nhận, áp dụng rộng rãi ở một khu
vực hoặc trên phạm vi toàn cầu. Có những tập quán quốc tế trong lĩnh vực thương mại
như: Quy tắc thống nhất về nhờ thu (URC); quy tắc về trọng tài của Uncitral, Quy tắc
York-Antwerp về tổn thất chung.. Học thuyết, tư tưởng pháp lý, lẽ công bằng, hợp
đồng cũng như nguồn pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật.
Thứ hai, nguồn hình thức là phương thức, dạng tồn tại của pháp luật, là “nơi chứa
đựng các nội dung của pháp luật và đăng tải nội dung đó đến địa chỉ áp dụng của nó”.
Nguồn hình thức bao gồm:
Một, Tập quán là nguồn pháp luật dưới dạng các phong tục, tập quán trong đó
chứa đựng quy tắc điều chỉnh hành vi, các mối quan hệ xã hội của con người trong
những cộng đồng cư dân nhất định phù hợp về cơ bản với lợi ích của nhà nước, cộng
đồng xã hội, được nhà nước thừa nhận, dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định.
Việc thừa nhận tập quán có thể bằng nhiều cách thức như: bằng các văn bản chính
thức của nhà nước, hoặc bằng cách im lặng cho các tập quán tự phát huy tác dụng
trong đời sống. Tập quán pháp cũng như các loại nguồn pháp luật khác, đều có
những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Hai, án lệ là nguồn pháp luật dưới dạng bản án của Tòa án trong quá trình giải
quyết vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận như khuôn mẫu, cơ sở để giải quyết
những vụ việc tương tự về sau. Án lệ là kết quả của xét xử, thể hiện việc Tòa án kiến
tạo luật. Án lệ có thể được phân thành hai loại: án lệ tạo ra giải pháp pháp luật và án lệ
hình thành từ việc giải thích pháp luật thành văn. Đối với các quốc gia có truyền thống
sử dụng án lệ, để một bản án của tòa án trở thành án lệ, phải đáp ứng các yếu tố cơ
bản như: (i) nội dung của bản án liên quan đến vấn đề pháp luật mới nảy sinh hay giải
đáp một vấn đề pháp lý mà trước đó chưa có; (ii) thể hiện quan điểm và lập luận của
Thẩm phán; (iii) xuất phát từ quá trình giải quyết một vụ việc cụ thể; (iv) phải được
tạo ra bởi các tòa án có thẩm quyền; (v) được công bố với nguyên tắc tiền lệ phải được
tôn trọng và bắt buộc áp dụng trong các vụ việc tương tự.
Ba, văn bản pháp luật là loại nguồn pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành
theo những trình tự, thủ tục pháp luật quy định, chứa đựng các quy tắc xử sự chung,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Xây dựng
văn bản pháp luật phải tuân thủ theo quy trình, thủ tục pháp lý nhất định: lập chương
trình xây dựng; soạn thảo dự án; thẩm tra dự thảo; thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý; thông
qua và công bố văn bản quy phạm pháp luật.Ưu điểm của văn bản quy phạm pháp luật
là khái quát, tính công khai cao; hình thức xác định; dễ tiếp cận; dễ sửa đổi, bổ sung;
dễ áp dụng; quy trình, kỹ thuật xây dựng ban hành khoa học, chặt chẽ. Tuy nhiên, hạn
chế chung là tính khái quát cao, không thể bao quát hết cho mọi trường hợp nảy sinh
trong cuộc sống; sự lạc hậu nhất định so với thực tiễn; ít nhiều mang tính áp đặt chủ
quan của nhà làm luật; chi phí xây dựng tốn kém; thời gian, quy trình lâu dài, phức tạp...
Bốn, Giáo lý, luật lệ tôn giáo là những quy định, quy phạm trong các lý thuyết,
giáo lý tôn giáo được nhà nước thừa nhận có giá trị như pháp luật, được áp dụng để
điều chỉnh những vấn đề nhất định trong xã hội. Điển hình nhất là các quy định, Luật
Hồi giáo (Luật Shariah). Shariah - nghĩa là “con đường đúng” hoặc “sự hướng dẫn”.
Luật Hồi giáo của một quốc gia được hình thành dựa trên hai yếu tố cơ bản, đó là:
Đạo Hội (quốc đạo của quốc gia) và các quy định trong Kinh Thánh của đạo Hồi được
các quốc gia lấy làm luật.
Ngoài các nguồn trên, còn một nguồn hình thức nữa là khẩu lệnh (pháp luật khẩu
truyền). Đó là những lời nói, lời phán truyền của những người đứng đầu nhà nước
trong những trường hợp nhất định có hiệu lực như pháp luật của nhà nước.Đây là một
hình thức pháp luật tồn tại phổ biến ở nhiều nhà nước thời kỳ phong kiến.
Nguồn pháp luật ở Việt Nam (nếu đề bắt liên hệ)
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật luôn là nguồn pháp luật chủ yếu, có thời điểm, được
xem là duy nhất trong hệ thống nguồn luật của quốc gia. Trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền, hội nhập, phát triển, các loại nguồn pháp luật của Việt Nam
ngày càng đa dạng hơn. Các điều ước quốc tế mà Nhà nước ký kết, gia nhập, nhu cầu
xã hội, chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và là những nguồn nội
dung quan trọng, có giá trị định hướng trong quá trình xây dựng thực thi pháp luật.
Về nguồn hình thức, Việt Nam đã thừa nhận các loại nguồn là văn bản pháp luật, tập
quán, án lệ, lẽ công bằng (Điều 6, Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, văn bản pháp luật
là nguồn pháp luật chủ yếu, các vấn đề liên quan đến loại nguồn này được quy định
trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tập quán là một nguồn được Việt Nam thừa nhận khá sớm, thông qua một nguyên tắc của Bộ luật Dân sự.
Án lệ là loại nguồn pháp luật từng được sử dụng ở Việt Nam từ thời phong kiến cho
đến trước năm 1975, nhưng sau đó, trong một thời gian dài án lệ không được coi là
một nguồn pháp luật. Tuy nhiên, với thực tiễn công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật của Tòa án Nhân dân Tối cao cùng việc chấp nhận phán quyết dựa trên án lệ
của các quốc gia là thành viên điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong quá trình
giải quyết các vụ việc liên quan, án lệ gần như đã hiện hữu trong đời sống pháp lý Việt Nam.
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
ban hành Nghị quyết số 49/NQ-BCT về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
đã định hướng công tác "phát triển án lệ" cho Tòa án Nhân dân Tối cao, tạo cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng và phát triển án lệ tại Việt Nam. Luật Tổ chức Tòa án
năm 2014 đã quy định nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao
trong lựa chọn, phát triển bản án, quyết định giám đốc thẩm thành án lệ và công bố án
lệ để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Câu 7: Các thuộc tính cơ bản của pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
- KN: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng những cách thức nhất định trong đó có cưỡng chế nhà nước
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội để bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của
con người và sự phát triển của xã hội.
- Pháp luật mang những thuộc tính cơ bản sau:
Thứ nhất là tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp luật có tính quy phạm
phổ biến, bởi lẽ pháp luật là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp
dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, đối với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Tính quy phạm phổ biến này làm nên giá trị công bằng, bình đẳng của pháp
luật, vì bất kỳ ai ở trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định cũng phải xử sự theo khuôn
mẫu được pháp luật quy định. Luật Giao thông đường bộ đã quy định: Chấp hành hiệu
lệnh của người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo hiệu,
vạch kẻ đường... là quy tắc mà mọi người tham gia giao thông đường bộ đều phải tuân
theo, dù là người đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy, điều khiển ô tô hay xe súc vật kéo. Ai
không tuân thủ quy tắc này đều là vi phạm pháp luật.
Thứ hai là tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, bởi vì hình thức thể hiện của
pháp luật là các văn bản có chứa quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Các văn bản này được gọi là văn bản quy phạm pháp luật. Tính xác
định chặt chẽ về hình thức của pháp luật được thể hiện trong các văn bản pháp luật với
những tên gọi, quy trình ban hành và giá trị pháp lý khác nhau nhất định như Hiến
pháp, các đạo luật, nghị định… Văn bản này đòi hỏi diễn đạt phải chính xác, một
nghĩa để người dân bình thường đọc cũng hiểu được đúng và thực hiện chính xác các
quy định pháp luật ; cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền ban hành những hình thức
văn bản nào đều phải được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp và Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Nội dung của tất cả các văn bản đều phải phù hợp, không
được trái Hiến pháp vì Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất. Yêu cầu này nhằm tạo nên sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Hiến pháp năm
1992 quy định nguyên tắc "Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử
giữa các con" (Điều 64). Phù hợp với Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 khẳng định quy tắc chung "Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con"
(Điều 34). Mặt khác, tính xác định về hình thức cũng được thể hiện với những đặc
trưng riêng trong tiền lệ pháp, đặc biệt trong cách thức tuyển chọn, xuất bản các án lệ của tòa án.
Thuộc tính thứ ba là tính được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Nhà
nước xây dựng, ban hành pháp luật và có thẩm quyền một cách hợp pháp, chính danh,
độc quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo thực hiện pháp luật.
Những người xử sự không đúng với quy định của pháp luật sẽ bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp (áp dụng các chế tài pháp luật).
Người không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của
đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao
thông thì bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Đối với đời sống xã hội, pháp luật có những vai trò nổi bật sau đây:
Thứ nhất, vai trò của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật bảo vệ, bảo đảm các
quyền, tự do của con người.
Ở nước ta, các quyền con người về chính trị, kinh tế, dân
sự, văn hoá và xã hội được tôn trọng, được thể hiện ở các quyền công dân, được quy
định trong Hiến pháp và luật. Hiến pháp quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, cụ thể hoá nội dung, cách thức thực hiện các quyền của công dân trong từng
lĩnh vực cụ thể. Như vậy, thông qua các quy định trong các luật và văn bản dưới luật,
pháp luật xác lập quyền của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Căn cứ
vào các quy định này, công dân thực hiện quyền của mình. Trong Hiến pháp và Luật
Doanh nghiệp quy định quyền tự do kinh doanh của công dân. Trên cơ sở các quy
định này, công dân có thể thực hiện quyền kinh doanh phù hợp với khả năng và điều
kiện của minh. Pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thông qua các luật về hành chính, hình sự, tố tụng, trong đó quy định
thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và xử lí
các vi phạm pháp luật xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy,
pháp luật không những quy định quyền của công dân trong cuộc sống mà còn quy
định rõ cách thức để công dân thực hiện các quyền đó cũng như trình tự, thủ tục pháp
lý để công dân yêu cầu Nhà nước bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Thứ hai, vai trò của pháp luật đối với dân chủ, công bằng, bình đẳng. Tính dân chủ
được thể hiện bằng việc pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật chính vì vậy dân chủ phải đi đôi với pháp luật và được
pháp luật đảm bảo. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật.
Nếu công dân có hành vi vi phạm dân chủ, pháp luật sẽ có những biện pháp và quy
trình, thủ tục xử lý nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, pháp luật là công cụ đảm bảo công
bằng và bình đẳng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, các quan hệ pháp luật, giữa cá
nhân với nhau, các cá nhân với tổ chức, giữa nhà nước và cá nhân. Bằng pháp luật,
nguyên tắc phân phối theo lao động, theo mức vốn và các nguồn lực khác góp vào sản
xuất kinh doanh, theo mức độ cống hiến đối với xã hội được bảo đảm. Pháp luật bảo
đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng xã hội, nhất là
những người ở vị thế xã hội yếu hơn.
Thứ ba, vai trò pháp luật đối với nhà nước. Nhờ có pháp luật, nhà nước phát huy
được quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động của mọi cá nhân,
tổ chức, cơ quan trong phạm vi lãnh thổ của mình. Pháp luật là các khuôn mẫu có tính
phổ biến và bắt buộc chung nên quản lý bằng pháp luật sẽ đảm bảo dân chủ, công
bằng, phù hợp với lợi ích chung của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, tạo
được sự đồng thuận trong xã hội đối với việc thực hiện pháp luật. Pháp luật do nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách thống nhất trong toàn quốc
và được bảo đảm bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước nên hiệu lực thi hành cao.
Thứ tư là vai trò của pháp luật đối với đạo đức. Trong quá trình xây dựng pháp luật,
nhà nước luôn cố gắng đưa những quy phạm đạo đức có tính phổ biến, phù hợp với sự
phát triển và tiến bộ xã hội vào trong các quy phạm pháp luật. Pháp luật khẳng định,
bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của truyền thống đạo đức, đồng thời
cũng hạn chế và loại bỏ dần những quan điểm, chuẩn mực đạo đức không tiến bộ, tiêu
cực. Pháp luật không chỉ ghi nhận đạo đức mà còn là phương tiện đảm bảo cho đạo
đức thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà nước. Ví dụ:
Điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nước Việt Nam quy định: “Mục đích
và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội”. Khi đã trở thành nội dung của quy phạm pháp luật thì các giá trị đạo
đức không chỉ được tuân thủ bằng niềm tin, lương tâm của cá nhân hay do sức ép của
dư luận xã hội mà còn được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh quyền lực nhà nước.
Thứ năm, vai trò của pháp luật đối với văn hóa, truyền thống và tập quán. Pháp
luật cũng đã phát huy tốt vai trò là công cụ hữu hiệu cho Nhà nước thực hiện các hoạt
động giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Trong các lĩnh vực
pháp luật hình sự, hành chính, dân sự đều có hệ thống các chế tài nhằm bảo vệ các giá
trị văn hóa truyền thống và xử lý các hành vi vi phạm. Luật Di sản văn hóa 2013 đã
quy định về phạm vi áp dụng, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản
văn hóa, các quy định về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể hoặc
vật thể, các quy định về quản lý nhà nước về di sản văn hóa, khen thưởng và xử lý vi
phạm đối với các hành vi vi quy định về di sản văn hóa. Đồng thời, pháp luật cũng
quy định nguyên tắc ngăn cấm việc thực hiện các tập quán lạc hậu, phản tiến bộ.
Thứ sáu, vai trò của pháp luật đối với kinh tế và các vấn đề xã hội. Pháp luật tạo lập
hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế và có tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, pháp luật quy định và bảo vệ, bảo
đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể pháp luật trừ những ngành nghề bị pháp
luật cấm. Theo Điều 5 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Nhà nước công nhận sự tồn tại
lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này;
bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình
thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động
kinh doanh”. Bên cạnh đó, pháp luật còn đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ, phát huy những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực vốn có của kinh tế thị trường. Về vấn đề
xã hội, hệ thống pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý để đảm bảo thực hiện công bằng xã
hội, bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội, các cộng đồng; thực hiện những
chính sách về ưu đãi, cứu trợ xã hội; bảo vệ môi trường, phòng chống vi phạm pháp luật.
9. Quy phạm pháp luật: khái niệm, cấu trúc, các loại quy phạm pháp luật
Khái niệm quy phạm pháp luật:
- Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội. Khác với các quy phạm xã
hội khác, quy phạm pháp luật là quy tắc, chuẩn mực của hành vi mang tính phổ
biến, bắt buộc chung và có mối liên hệ mang tính bản chất với quyền lực nhà nước.
- Dưới góc độ hệ thống cấu trúc của pháp luật, quy phạm pháp luật là bộ phận
cấu thành, là hạt nhân, nền tảng cơ sở của cả hệ thống pháp luật.
- Quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành, cơ sở nền tảng, hạt nhân của hệ
thống pháp luật và được hiểu là những quy tắc xử sự phổ biến có tính chất bắt
buộc chung được nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận để làm cơ sở điều chỉnh các
quan hệ xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Cấu trúc của quy phạm pháp luật: gồm 3 thành phần
1. Giả định: là bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật ghi nhận trong văn bản
pháp luật những dữ liệu về tình huống, sự kiện, tình tiết hoặc nhân vật… và là
căn cứ thực hiện quy phạm pháp luật trong cuộc sống. Ghi nhận điều kiện áp
dụng pháp luật là phần bắt buộc của mọi quy phạm pháp luật. Nếu phân tích
một cách logic, thông thường thì phần giả định được ẩn chứa trong nghĩa của từ “nếu”. - Có 2 loại giả định:
+ Giả định đơn giản (là khi trong quy phạm chỉ nêu một điều kiện, giả thiết)
+ Giả định phức tạp (là khi trong quy phạm nêu từ hai giả thiết, điều kiện trở
lên). Trong giả định phức tạp cũng có 2 phân loại:
.) Giả định phức tạp lựa chọn: là khi quy phạm pháp luật nêu nhiều điều kiện,
giả thiết, nhưng quy phạm đó đủ điều kiện áp dụng trên thực tiễn chỉ cần một hoặc
một vài điều kiện đã xảy ra mà không nhất thiết tất cả các điều kiện phải đồng loạt xảy ra.
.) Giả định phức tạp bắt buộc: là khi quy phạm ghi nhận nhiều điều kiện nhưng
quy phạm đó chỉ được áp dụng trên thực tiễn nếu tất cả các điều kiện đó phải xảy ra.
2. Quy định: được xem là phần quan trọng bậc nhất của quy phạm pháp luật và
có lẽ vì thế nó luôn được liên hệ với quan niệm về pháp luật như là các “quy
tắc xử sự”, quy định là phần ghi nhận cách thức ứng xử, hành động khi các
điều kiện nêu trong phần giả định đã xảy ra.
- Quy định của các quy phạm pháp luật tồn tại ở ba dạng phổ biến sau:
+ Quy định cấm đoán: nếu giả thiết đó xảy ra thì quy định cách ứng xử tiếp theo
là không được phép làm gì
+ Quy định bắt buộc: nếu giả thiết xảy ra thì quy định cách ứng xử tiếp theo là
phải thực hiện cái gì đó.
+ Quy định cho phép: nếu giả thuyết đã xảy ra thì cái ứng xử tiếp theo sẽ là được làm gì đó.
3. Chế tài: theo truyền thống, chế tài được hiểu là một bộ phận cấu thành của quy
phạm pháp luật ghi nhận những hậu quả bất lợi đối với chủ thể thực hiện không
đúng hoặc không thực hiện các quy định như trong phần quy định đã nêu.
Ví dụ, quy định cụ thể tại Điều 155 – Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể:
“ Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.”

– Phần giả định được xác định là: Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác.
– Phần quy định được xác định là: phần này không được nêu rõ trong quy phạm pháp
luật nhưng ở dạng quy định ngầm.
– Chế tài được xác định là: Bị phạt cảnh cáo phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Chế tài ở đây là biện
pháp của Nhà nước tác động đến chủ thể vi phạm pháp luật.
● Các loại quy phạm pháp luật
Phân loại quy phạm pháp luật phụ thuộc vào việc xác định các tiêu chí phân loại.
Mỗi tiêu chí khác nhau sẽ cho ra những cách thức phân loại khác nhau. Trong khoa
học pháp lý, quy phạm pháp luật hiện được phân loại theo các tiêu chí phổ biến sau:
- Theo tính chất của các quan hệ xã hội và quy phạm đó điều chỉnh thì có thể
phân loại các quy phạm pháp luật thành: quy phạm pháp luật tố tụng và quy
phạm pháp luật nội dung (hay quy phạm pháp luật vật chất).
- Theo đối tượng điều chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội mà quy phạm điều
chỉnh, có thể phân chia thành: quy phạm pháp luật hiến pháp, quy phạm pháp
luật hành chính, quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm pháp luật dân sự, quy
phạm pháp luật lao động, quy phạm pháp luật đất đai,…
- Theo tính chất của nội dung phần quy định trong quy phạm pháp luật có:
quy phạm pháp luật cho phép, quy phạm pháp luật cấm đoán và quy phạm pháp luật bắt buộc.
- Theo vai trò, chức năng của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật có thể phân chia quy phạm pháp luật hành: các quy phạm pháp luật
chung và quy phạm pháp luật chuyên biệt.
* Ngoài những cách thức phân loại phổ biến trên, có thể căn cứ vào các tiêu chí khác
như: phương pháp điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, cấp độ điều chỉnh hoặc hiệu lực
pháp lý để phân loại các quy phạm pháp luật.
10. Văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam: khái niệm, các loại văn bản quy phạm
pháp luật, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, phân biệt văn bản quy phạm pháp
luật và văn bản áp dụng pháp luật.
Khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy
phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng nhiều lần và được nhà nước bảo đảm thực hiện.
● Các loại văn bản quy phạm pháp luật: + Hiến pháp
+ Bộ luật, luật, nghị quyết
+ Pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa ủy
ban thường vụ Quốc hội với đoàn chủ tịch ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc.
+ Nghị định của chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa chính phủ với đoàn chủ tịch ủy
ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam.
+ Lệnh, quyết định của chủ tịch nước
+ Quyết định của Thủ tướng chính phủ
+ Nghị quyết của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
+ Thông tư của chánh án tòa án nhân dân tối cao; thông tư của viện trưởng viện kiểm
sát nhân dân tối cao; thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư
liên tịch giữa chánh án tòa án nhân dân tối cao với viện trưởng viện kiểm sát nhân dân
tối cao; thông tư liên tịch giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với chánh án
tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của
tổng kiểm toán nhà nước.
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
+ Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp huyện
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn
+ Quyết định của ủy ban nhân dân cấp xã
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là các giá trị tác động của văn bản
quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội về mặt thời gian, không gian và đối tượng tác động.
- Ở Việt Nam, hiệu lực của văn bản pháp luật được quy định tại chương VIII, luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
+ Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của văn
bản lên các quan hệ xã hội từ thời điểm bắt đầu phát sinh cho đến khi kết thúc hiệu lực.
Ví dụ, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được Quốc hội thông
qua ngày 22/6/2015 quy định: ‘‘Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2016” (khoản 1 Điều 172). Theo quy định này thì ngày 01 tháng 7 năm 2016 là ngày
phát sinh hay ngày có hiệu lực của Luật này.
- Hiệu lực về không gian là các giá trị tác động của văn bản đến đâu, trong phạm vi
lãnh thổ, khu vực, vùng hay đơn vị hành chính cụ thể nào. Phạm vi không gian của
văn bản có thể được ghi cụ thể trong chính văn bản, cũng có thể xác định theo thẩm
quyền chung của chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 5 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
“Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi
phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”.
- Hiệu lực về đối tượng tác động là giá trị tác động của văn bản lên các chủ thể trong
quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật. Đối tượng
tác động của văn bản thường được đề cập cụ thể và trực tiếp trong văn bản. Nếu
không được đề cập thì có thể xác định đối tượng tác động trong tương quan với hiệu
lực về không gian của văn bản thuộc về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Ví dụ: Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về đối tượng bị xử
lý vi phạm hành chính như sau:
“1 – Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm
hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
b) Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra;
● Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật Tiêu chí
Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật Khái niệm
Văn bản quy phạm pháp luật là Văn bản chứa đựng các quy
văn bản có chứa đựng các quy
tắc xử sự cá biệt, do cơ quan,
phạm pháp luật do các chủ thể
cá nhân có thẩm quyền ban
có thẩm quyền ban hành, có
hành, được áp dụng một lần
trong đời sống và bảo đảm
hiệu lực bắt buộc chung, được
thực hiện bằng sự cưỡng chế
áp dụng nhiều lần và được nhà Nhà nước
nước bảo đảm thực hiện. Phạm vi áp dụng
Áp dụng đối với tất cả các đối
Áp dụng đối với một hoặc một
tượng thuộc phạm vi điều chỉnh số đối tượng được xác định đối
tượng cụ thể trong văn bản Thời gian có hiệu
Có hiệu lực lâu dài, theo mức
Có hiệu lực ngắn, theo vụ việc lực
độ ổn định của phạm vi và đối tượng điều chỉnh Cơ sở ban hành
Dựa trên Hiến pháp, Luật, các
Thường dựa vào một văn bản
văn bản quy phạm pháp luật
quy phạm pháp luật hoặc văn
cao hơn với văn bản quy phạm bản áp dụng pháp luật của chủ
pháp luật là nguồn của luật
thể có thẩm quyền. Văn bản áp
dụng pháp luật hiện tại không là nguồn của luật Hình thức tên gọi
Các hình thức và tên gọi quy
Chưa được pháp luật hoá tập
định tại điều 4 luật ban hành
trung về tên gọi và hình thức
văn bản quy phạm pháp luật thực hiện 2015
Chủ thể ban hành Do cơ quan nhà nước có thẩm
Do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành (do tập thể ban quyền hoặc các tổ chức, cá hành nhiều hơn)
nhân được Nhà nước trao
quyền ban hành, dựa trên các
quy phạm pháp luật cụ thể để
giải quyết một vấn đề cụ thể
(thường là cá nhân ban hành nhiều hơn)
Câu 11: Khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật.
1. Khái niệm thực hiện pháp luật: là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các
quy định PL vào c/s, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể PL
2. Các hình thức thực hiện pháp luật. VD
- Tuân thủ PL là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL kiềm chế k tiến hành
những hoạt động mà PL ngăn cấm. VD: không vứt rác, k vượt đèn đỏ..
- Thi hành PL (hoặc chấp hành PL) là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL thực
hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hành động tích cực. VD: nộp thuế, đi đăng ký tạm trú..
- Sử dụng PL là hình thức thực hiện PL mà các chủ thể PL thực hiện quyền chủ thể mà
PL quy định. VD: quyền tự do kinh doanh, quyền ứng cử..
- Áp dụng PL là hình thức thực hiện PL chỉ dành cho các cơ quan NN hay nhà chức
trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện các quy định của PL, hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của PL để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ PL cụ thể. VD: công an ra quyết định xử
phạt vi phạm giao thông. Tòa án ra bản án kết tội người phạm tội
Câu 12: Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật.
1. Khái niệm ADPL: là hình thức thực hiện PL chỉ dành cho các cơ quan NN hay nhà
chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện các quy định của PL,
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của PL để tạo ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ PL cụ thể
2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
So với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật có những đặc điểm sau đây:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước: Hoạt động áp dụng
pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền tiến hành.
Pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước trao quyền tiến hành áp dụng pháp luật. Hoạt động này là
sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà
nước được thể hiện một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể. Theo quy định của
pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật có thể được tiến hành theo sáng kiến của chủ
thể có thẩm quyền hoặc người được (bị) áp dụng pháp luật, tuy nhiên quyết định áp
dụng pháp luật luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể tiến hành áp dụng pháp
luật trên cơ sở nhận thức và niềm tin của họ về bản chất của vụ việc và các quy định
của pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật có ý nghĩa bắt buộc đối với chủ thể bị áp
dụng pháp luật và chủ thể khác có liên quan. Khi cần thiết, quyết định này được đảm
bảo bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức, thủ tục chặt chẽ do luật định
Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc cần áp dụng pháp luật để giải quyết rất phức tạp,
nhiều trường hợp, để có thể áp dụng pháp luật giải quyết một vụ việc cụ thể, cần có sự
tham gia của những chủ thể khác nhau, hoạt động áp dụng pháp luật nhiều khi có ảnh
hưởng lớn tới lợi ích của chủ thể được (bị) áp dụng pháp luật... Chính vì vậy, để đảm
bảo hoạt động áp dụng pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn, thống nhất, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức được (bị) áp dụng
pháp luật, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của luật pháp, đòi hỏi hoạt động áp
dụng pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính cá biệt, cụ thể
Áp dụng pháp luật là hoạt động giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể trên cơ sở các
quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung, nó được đặt
ra không phải dành cho một cá nhân, tổ chức cụ thể, cá biệt mà là dành cho một nhóm
(loại) đối tượng nhất định. Mặt khác, cách xử sự được nêu ra trong quy phạm pháp
luật trong nhiều trường họp cũng không cố định. Khi áp dụng pháp luật, chủ thể có
thẩm quyền căn cứ vào quy phạm pháp luật, đưa ra cách xử sự cụ thể đối với chủ thể
được (bị) áp dụng pháp luật, xác định cho họ được làm gì, không được làm gì, phải
làm gì, làm như thế nào... một cách rất cụ thể.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo
Các vụ việc cụ thể xảy ra trong cuộc sống hết sức đa dạng và phức tạp, trong khi đó
pháp luật thường không mô tả tỉ mỉ từng tình tiết của sự việc, ngược lại nó thường chỉ
dự liệu những điều kiện, hoàn cảnh có tính chất phổ biến, điển hình. Do vậy, khi áp
dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải nghiên cứu kĩ vụ việc, so
sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp
để áp dụng sao cho đúng người, đúng sự việc, đúng mức độ, đúng quan điểm, tư
tưởng mà quy phạm pháp luật đã nêu. Bên cạnh đó, trong thực tế, nhiều trường hợp
xảy ra những vụ việc đòi hỏi cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải giải quyết
nhưng không có quy định của pháp luật để áp dụng. Tất cả những trường hợp đó đều
đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn
phong phú, đồng thời phải linh hoạt, sáng tạo để giải quyết các vụ việc đã xảy ra trong
thực tế cuộc sống một cách đúng đắn.
Câu 13: Ý thức pháp luật: khái niệm và các đặc trưng cơ bản của ý thức pháp luật. 1. Khái niệm