














Preview text:
lOMoAR cPSD| 61184739
I. Giai cấp công nhân là gì? Giai cấp công nhân ngày nay có đặc điểm gì tương đồng và
đặc điểm gì khác biệt so với giai cấp công nhân thế kỷ XIX?
*Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất họ
lao động với phương thức công nghiệp ngành càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất
vật chất mang tính hoạt động là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao. Họ là người làm thuê do không có nguyên liệu sản xuất, buộc bán sức lao động để
sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích
của giai cấp tư sản . Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa xây dựng thành
công chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. a. Điểm tương đồng
- Là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp
mang tính xã hội học ngày càng cao
.- Công nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để phát triển mạnh mẽ giai cấp công nhân. Sự phát
triển của giai cấp công nhân và sự phát triển của kinh tế có tỷ lệ thuận.
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, giai cấp công nhân vẫn bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư.
- Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu
tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tư bản xã hội và chủ nghĩa xãhội. b. Điểm khác biệt
- Tăng nhanh về số lượng, thay đổi mạnh về cơ cấu.
- Có xu hướng trí tuệ hóa (tri thức hóa và trí thức hóa).
- Tính xã hội hóa của lao động công nghiệp mang nhiều biểu hiện mới. Lực lượng sản xuất hiện
đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia - dân tộc và mang tính chất quốc tế, trở thành lực lượng
sản xuất của thế giới toàn cầu. - Có thêm điều kiện vật chất để tự giải phóng.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trởthành giai cấp lãnh đạo và Đảng Cộng
sản trở thành Đảng cầm quyền.
II. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Giai cấp công nhân ngày nay có còn sứ
mệnh lịch sử đó không?
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là
lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử
Sứ mệnh lịch sử là sự tổng quát của giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiền phong, giai
cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột
người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự
áp bức, nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống
trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân
dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập
trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng
xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân
không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước
thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội khách quan: lOMoAR cPSD| 61184739 –
Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận quan trọng
nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. –
Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho
nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. –
Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để
và cókhả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân
và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình,
xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia
giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,…
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không
chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng,
tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Phát triển về số lượng và
chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện
“tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công nhân vẫn còn sứ mệnh lịch sử vì: dù mức sống có cao
hơn trước, dù công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp
theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm” trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân không thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ
bản về đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân của Mác - Ăngghen - Lênin đưa ra vẫn là cơ
sở phương pháp luận để xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư
bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói chung, trước đây cũng như hiện nay. Tóm
lại, những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai
cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
bối cảnh hiện đại – trước thềm cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
III. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam? Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
có những biểu hiện gì mới? lOMoAR cPSD| 61184739 –
Giai cấp công nhân là lực lượng lao động to lớn (lao động chân tay, lao động trí óc), lao
động công nghiệp hiện đại với nền công nghiệp hiện đại đang phát triển, lao động của công
nhân có khả năng phát huy sáng tạo, có thể tạo ra nhiều của cải vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. –
Giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, nắm và có
khả năng vận dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lao động sản xuất, có khả năng phát minh
khoa học và cải tiến kỹ thuật trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. –
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, có lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, có khả năng vận dụng lý luận đó vào cách mạng xã
hội để từng bước làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. –
Giai cấp công nhân, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tất cả các tầng lớp nhân dân trong
khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác đoàn kết quốc tế với giai cấp
công nhân quốc tế vì độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Từ những nhận thức trên có thể khái quát bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
là: Lao động sáng tạo, khoa học và xã hội chủ nghĩa, đồng thời bản chất của giai cấp công nhân
Việt Nam còn thể hiện rõ nét ở tính nhân dân, tính dân tộc và tính quốc tế sâu sắc.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công nhân Việt Nam, cho
đến nay giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế cần phải khắc phục: Số lượng còn
ít, trình độ văn hoá, chuyên môn và nghiệp vụ cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng
bảo thủ, chủ quan, cách làm ăn tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần đa số xuất thân từ
nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về bản chất nên giai cấp công nhân Việt
Nam vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.
IV. Thời kỳ quá độ lên CNXH là gì? Có mấy kiểu quá độ lên CNXH? Hiểu thế nào là quá
độ lên CNXH bỏ qua CNTB?
- Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kì diễn ra với giai đoạn trong thay đổi tính chất xã hội.
Cảitạo cách mạng xã hội Tư bản chủ nghĩa thành xã hội Xã hội chủ nghĩa. Khi đó hàng hoạt
các chính sách được thay đổi đáp ứng với chiến lược đề ra. Mang đến các chuyển hóa để đi
đến thành công trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Kết quả sau thời kỳ này là quốc gia tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Ở một số quốc gia, có thể có bước nhảy vọt lên Chủ nghĩa xã hội mà không
trải quan Tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả các tính chất diễn ra trong giai đoạn này vẫn đảm
bảo cho thời kỳ quá độ được phản ánh.
Bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các
cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Tính chất mang đến các mốc thời điểm và kết thúc. Không có một
khoảng thời gian cụ thể để các quốc gia thực hiện thành công đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi các
phản ánh trong thực tế đất nước và cách thức lãnh đạo tác động rất lớn lên kết quả. Cho nên,
bên cạnh các kinh nghiệm trên thế giới, các thuận lợi, sáng tạo sẽ giúp các quốc gia nhanh
chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa Mác – Lê nin khẳng định có 2 hình thức quá độ lOMoAR cPSD| 61184739
+ Quá độ trực tiếp từ CNTB lên CNXH
+ Quá độ từ XH tiền tư bản lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
- Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) không
phải theo phương thức trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc những “chiếc
cầu nhỏ” đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc bỏ qua chế độ TBCN, về cơ bản, chính là:
“bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong nền sản xuất xã hội đang
vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó còn tồn tại ở mức độ nhất định các quan hệ sản xuất
tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác động đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội
đang định hướng đi lên CNXH. Chính vì vậy, trong thực tiễn cần có những chính sách để các
quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng trưởng chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng. V.
Dân chủ là gì? Sự khác nhau cơ bản về chất giữa dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản
với dân chủ XHCN là gì?
-Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội căn cứ vào việc khẳng định
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện hoặc thông qua người đại diện do
nhân dân bầu ra, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người.
Theo Mác Lênin, dân chủ là sản phẩm phản ánh những tính chất của các mối quan hệ xã hội,
trình độ và yêu cầu phát triển của xã hội, đặc biệt là mối quan hệ, trình độ và yêu cầu phát triển kinh tế.
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản Dân chủ chủ nô nghĩa Mục đích
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản là nền Là hình thức tổ
nghĩa là nền dân chủ dân chủ cho thiểu số, chức và thực hiện
cho đại đa số nhân dân phục vụ lợi ích cho quyền lực thống trị
lao động, phục vụ lợi thiểu số. của giai cấp chủ nô ích cho đại đa số. Bản chất
Là nền dân chủ mang Mang bản chất của Sử dụng công cụ
bản chất của giai cấp giai cấp tư sản, lợi ích bạo lực để duy trì sự
công nhân, nhưng nó của giai cấp tư sản đối thống trị mọi mặt
phục vụ cho đa số. Bởi lập với lợi ích của giai của giai cấp chủ nô
vì, lợi ích của giai cấp cấp công nhân và đối lưu lệ và các
công nhân phù hợp nhân dân lao động. tầng lớp nhân dân với lợi ích của nhân lao động trong xã dân lao động và toàn hội, duy trì tình dân tộc. trạng bất bình đẳng
giữa chủ nô với lu lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác. lOMoAR cPSD| 61184739 Cách thức
Dân chủ xã hội chủ Thực hiện thông qua Các chức năng đối
nghĩa là nền dân chủ nhà nước pháp quyền nội cơ bản của nhà
do Đảng Cộng sản xã hội chủ nghĩa nước chủ nô bao
lãnh đạo, nhất nguyên (thống nhất và phân gồm:
về giá trị; còn dân chủ công giữa lập pháp, -Chức năng củng cố
tư sản do các đảng của hành pháp và tư và bảo vệ sở hữu
pháp); còn thực hiện của chủ nô đối với
giai cấp tư sản lãnh thông qua nhà nước tư liệu sản xuất và
đạo, đa đảng về chính pháp quyền tư sản nô lệ trị.
(tam quyền phân lập). -Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác - Chức năng đàn áp về mặt tư tưởng - Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược -Chức năng phòng thủ chống xâm lược Cơ sở kinh tế
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản được Duy trì sự thống trị
nghĩa được thực hiện thực hiện trên cơ sở và bảo vệ lợi ích của
trên cơ sở kinh tế là kinh tế là chế độ chủ nô, duy trì trật
công hữu hóa các tư chiếm hữu tư nhân tư tự xã hội và kinh tế
liệu sản xuất chủ yếu. bản chủ nghĩa về tư trên cơ sở của chế
liệu sản xuất chủ yếu độ chiếm hữu nô lệ.
của toàn xã hội đó là
chế độ áp bức bóc lột. VI.
Phân tích bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự khác biệt căn bản
về bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với nền dân chủ tư sản là gì?
- Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là việc thực hiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu và việc thực hiện chế độ phân chia lợi ích chủ yếu theo kết quả lao động.
Bản chất là được bộc lộ một cách đầy đủ và rõ ràng nhất là qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước ban hành những chính sách đốc thúc công nghiệp phát triển từ trung ương đến
địa phương, tạo ra ngành nghề cho nhân dân nhằm giảm bớt tình trạng thất nghiệp. Qua đó tạo
động lực cho nhân dân cũng như tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nền dân chủ tư sản
Quyền sở hữu phương tiện thường thuộc sở hữu của sở hữu tư nhân hoặc doanh sản xuất
cộng đồng hoặc nhà nước. nghiệp
Phương thức quản lý kinh tế kế hoạch hoá và kiểm soát dựa trên cơ sở thị trường, với
trực tiếp từ nhà nước
quyết định của doanh nghiệp và người tiêu
Mục tiêu chính của kinh tế
đảm bảo sự công bằng xã hội, tăng cường tăng trưởng kinh
giảm bất bình đẳng và
tế và tạo ra lợi nhuận. lOMoAR cPSD| 61184739
đáp ứng nhu cầu cơ bản
Sử dụng lực lượng lao động
Dựa trên nhu cầu xã hội và kế Dựa trên sự cạnh tranh trên hoạch hoá kinh tế.
thị trường và yêu cầu từ phía doanh nghiệp.
VII. Nội dung cơ bản về dân chủ trong quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin là gì?
VIII. Nêu những đặc điểm cơ bản của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ
xãhội chủ nghĩa. Điểm khác biệt căn bản giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và các
nền dân chủ trước đó là gì?
*Đặc điểm cơ bản của nền dân chủ chủ nô:
- Xã hội được chia thành các tầng lớp, và quyền lực chủ yếu thuộc về các tầng lớp quý tộc.-
Quyền lực chủ yếu nằm trong tay một số ít giai cấp quý tộc, thường là vị vua, lãnh chúa, hoặc
một nhóm nhỏ người có quyền lực tuyệt đối.
- Có một hệ thống pháp luật mà đối xử không công bằng giữa các tầng lớp xã hội. Pháp luật
thường bảo vệ quyền lợi của quý tộc và không công bằng đối với những người thuộc tầng lớp thấp hơn.
- Dù có thể có một số hình thức "dân chủ" nhưng thực tế, quyền lực tập trung ở tầng lớp quý tộc và lãnh chúa.
*Đặc điểm cơ bản của nền dân chủ tư sản: lOMoAR cPSD| 61184739
- Có nhiều đảng chính trị của giai cấp tư sản mà các đảng lớn (hoặc liên minh một đảng lớn với
một hay một số đảng khác) thay thế nhau nắm quyền lực nhà nước thông qua bầu cử.
- Nhà nước có chính thể quân chủ lập hiến hay cộng hòa và hình thức kết cấu đơn nhất hay liên bang.
- Cơ quan đại diện có một hay hai viện. Các nghị sĩ của các đảng không nắm chính quyền
(không phải đảng nắm chức vụ tổng thống ở cộng hòa tổng thống hay thủ tướng ở cộng hòa
đại nghị) hợp thành phe đối lập. Đảng cộng sản hoặc liên minh có đảng cộng sản là phe tả.
Các phe đấu tranh ở quốc hội, nếu không thỏa hiệp được với nhau thì có thể dẫn đến khủng
hoảng phải bầu lại tổng thống hoặc lập chính phủ khác, giải tán nghị viện để bầu lại.
- Có hệ thống pháp luật khá phát triển.
*Đặc điểm cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
-Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân sẽ không ngừng được
được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của xã hội, nhà nước. Thông qua hệ thống cơ
quan nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức chính trị, chính trị - xã hội với sự tham gia tích
cực của đông đảo quần chúng nhận dân lao động vào các hoạt động chính trị hàng ngày.
-Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo các
điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, công bằng xã hội, công lí cho mọi người, bình
đẳng thực sự giữa nữ và nam, văn minh, giữa các dân tộc.
Từ đó, tạo ra cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc khẳng định và thừa kế những
quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Từ
đó đặt ra những bảo đảm vật chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và không ngừng mở
rộng các quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, luôn đề cao trách nhiệm cá nhân đối với
Nhà nước và xã hội cũng như phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản Dân chủ chủ nô nghĩa Mục đích
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản là nền Là hình thức tổ
nghĩa là nền dân chủ dân chủ cho thiểu số, chức và thực hiện
cho đại đa số nhân dân phục vụ lợi ích cho quyền lực thống trị
lao động, phục vụ lợi thiểu số. của giai cấp chủ nô ích cho đại đa số. Bản chất
Là nền dân chủ mang Mang bản chất của Sử dụng công cụ
bản chất của giai cấp giai cấp tư sản, lợi ích bạo lực để duy trì sự
công nhân, nhưng nó của giai cấp tư sản đối thống trị mọi mặt
phục vụ cho đa số. Bởi lập với lợi ích của giai của giai cấp chủ nô
vì, lợi ích của giai cấp cấp công nhân và đối lưu lệ và các
công nhân phù hợp nhân dân lao động. tầng lớp nhân dân với lợi ích của nhân lao động trong xã dân lao động và toàn hội, duy trì tình dân tộc. trạng bất bình đẳng
giữa chủ nô với lu lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác. lOMoAR cPSD| 61184739 Cách thức
Dân chủ xã hội chủ Thực hiện thông qua Các chức năng đối
nghĩa là nền dân chủ nhà nước pháp quyền nội cơ bản của nhà
do Đảng Cộng sản xã hội chủ nghĩa nước chủ nô bao
lãnh đạo, nhất nguyên (thống nhất và phân gồm:
về giá trị; còn dân chủ công giữa lập pháp, -Chức năng củng cố
tư sản do các đảng của hành pháp và tư và bảo vệ sở hữu
pháp); còn thực hiện của chủ nô đối với
giai cấp tư sản lãnh thông qua nhà nước tư liệu sản xuất và
đạo, đa đảng về chính pháp quyền tư sản nô lệ trị.
(tam quyền phân lập). -Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác - Chức năng đàn áp về mặt tư tưởng - Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược -Chức năng phòng thủ chống xâm lược Cơ sở kinh tế
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản được Duy trì sự thống trị
nghĩa được thực hiện thực hiện trên cơ sở và bảo vệ lợi ích của
trên cơ sở kinh tế là kinh tế là chế độ chủ nô, duy trì trật
công hữu hóa các tư chiếm hữu tư nhân tư tự xã hội và kinh tế
liệu sản xuất chủ yếu. bản chủ nghĩa về tư trên cơ sở của chế
liệu sản xuất chủ yếu độ chiếm hữu nô lệ.
của toàn xã hội đó là
chế độ áp bức bóc lột.
IX. Phân tích bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự khác biệt căn bản về bản
chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với nền dân chủ tư sản là gì?
*Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: Là sự lãnh đạo về mặt chính trị của giai
cấp công nhân trong việc thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trên mọi lĩnh
vực, thông qua Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội. Quyền lực này của giai cấp công nhân được
thể hiện ở các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người. Ví Dụ:
1. Công dân từ đủ 18 tuổi được phép tham gia bầu cử
2. Trước khi ban hành bộ luật mới hay sửa đổi bộ luật phải trưng cầu ý dân.
Sự khác biệt cơ bản về bản chất chính trị giữa 2 nền dân chủ:
Dân chủ xã hội chủ Dân chủ tư sản nghĩa Cách thức
Dân chủ xã hội chủ Thực hiện thông qua
nghĩa là nền dân chủ do nhà nước pháp quyền
Đảng Cộng sản lãnh xã hội chủ nghĩa
đạo, nhất nguyên về giá (thống nhất và phân trị; còn dân chủ tư công giữa lập pháp, lOMoAR cPSD| 61184739
sản do các đảng của hành pháp và tư pháp);
giai cấp tư sản lãnh còn thực hiện thông
đạo, đa đảng về chính qua nhà nước pháp trị. quyền tư sản (tam quyền phân lập). Bản chất
Là nền dân chủ mang Mang bản chất của giai
bản chất của giai cấp cấp tư sản, lợi ích của
công nhân, nhưng nó giai cấp tư sản đối lập phục vụ cho đa số.
với lợi ích của giai cấp
Bởi vì, lợi ích của giai công nhân và nhân dân
cấp công nhân phù hợp lao động.
với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
X. Thế nào là Nhà nước xã hội chủ nghĩa? Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì?
*Khái niệm: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt
cả đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ nghĩa.
*Bản chất: SO với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà
nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch sử.Nhà nước
xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Tính
ưu việt về mặt bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên các phương diện:
-Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, giai cấp của
lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động.Trong xã hội chủ nghĩa
giai cấp vô sản là lực lượng giữ vị trí thống trị về chính trị. Tuy nhiên sự thống trị của giai cấp
vô sản có sự khác biệt về chất so với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống
trị của các giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân
dân lao động trong xã hội nhằm bảovệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về chính trị
của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng
giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó nhà
nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
-Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế xã hội
xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu,do đó, không tồn tại
quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là bộ máy
của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột; thì nhà
nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa
là một tổ chức quản lý kinh tế- xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo
đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động
trở thành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Về văn hóa - xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh thần là lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng
thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước được thu
hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển. lOMoAR cPSD| 61184739
XI. Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta hiện nay? ( trùng câu 2 trong bộ đề cương ) *Vị trí:
+ Về địa vị chính trị, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Về địa vị kinh tế, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; lực lượng
đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
+Về xã hội, giai cấp công nhân là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển; là lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai cấp với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. *Vai trò:
+ Về kinh tế, tập trung phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo phát triển bền vững; phát triển sản xuất, thúc đẩy sự
chín muồi các tiền đề cho sự ra đời của Chủ Nghĩa Xã Hội.
+ Về chính trị, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động; chống lại
bất công và bất bình đẳng xã hội, thiết lập một trât tự xã hội mới; ở các nước Xã hội Chủ nghĩa,
giai cấp công nhân lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Về văn hóa tư tưởng, tiếp tục cuộc đấu tranh ý thức hệ, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa tan rã và phong trào cách mạng thế giới đi vào thoái trào tạm thời, niềm
tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa đứng trước nhiều thử thách; tiếp tục duy trì và xây dựng các
gía trị như lao động, sáng tạo, công bằng, dân chủ, bình đằng, tự do; đấu tranh bảo vệ Chủ nghĩa
Mác – Lênin, giáo dục nhận thức và củng có niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
XII. Vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?
+Thứ nhất, doanh nhân là lực lượng xã hội đóng vai trò quan trọng trong giải phóng lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, doanh nhân là lực lượng
chủ yếu huy động các nguồn lực sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Thông qua tổ chức và điều hành sản
xuất - kinh doanh, doanh nhân, doanh nghiệp góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
+ Thứ hai, trong thời kỳ đổi mới, doanh nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng vào hình thành
cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội mới, hệ giá trị và lối sống phù hợp với điều kiện CNH, HĐH
và hội nhập quốc tế. Cơ cấu xã hội mới ở Việt Nam có thêm đội ngũ hàng triệu doanh nhân với
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Họ là mắt xích không thể thiếu trong các
liên kết, hợp tác kinh tế - xã hội, trong đó có liên kết “5 nhà” (Nhà nước, nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học, nhà băng và nhà nông).
+ Thứ ba, cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đội ngũ doanh nhân đã góp phần quan
trọng trong tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội và bảo đảm
an sinh xã hội. Sự ra đời, phát triển của doanh nghiệp, doanh nhân đã mang lại việc làm và sinh
kế cho nhiều người lao động trên các vùng miền cả nước, đặc biệt là đội ngũ công nhân, nông lOMoAR cPSD| 61184739
dân, đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới, miền núi, kể cả thương binh, bệnh binh, người yếu
thế, người khuyết tật.
+ Thứ tư, doanh nhân tham gia vào các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội,
một số trở thành đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã góp phần quan trọng
trong góp ý, phản biện, xây dựng, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
và các địa phương. Hầu hết doanh nhân tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
đều phát huy tốt trí tuệ, kinh nghiệm thực tiễn của mình trong xây dựng và thực hiện chính sách
phát triển kinh tế - xã hội.
XIII. Khái niệm dân tộc theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin? Sự khác biệt trong
quan niệm về dân tộc trong hai khái niệm “dân tộc Việt Nam” và “dân tộc Kinh” là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội
loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
+ Xét về nghĩa thứ nhất, dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định, bền vững
hợp thành nhân dân của một quốc gia, là cộng đồng chính trị - xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế
- Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt là địa bàn sinh tồn, phát triển của cộng đồng dân tộc.
- Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước – dân tộc độc lập.
- Có ngôn ngữ chung của quốc gia là công cụ giao tiếp trong cộng đồng xã hội (bao gồm
ngônngữ nói và ngôn ngữ viết)
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng.
+ Xét về nghĩa thứ hai, dân tộc là một tộc người, là cộng đồng người cụ thể có những mối liên
hệ chặt chẽ, bền vững, được hình thành lâu dài trong lịch sử có những đặc trưng cơ bản sau:
- Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết;hoặc chỉ riêng ngôn ngữ nói)
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở mỗi tộc
người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tậpquán, tín ngưõng, tôn giáo của tộc người đó.
*Xét về ý nghĩa ‘’dân tộc Việt Nam’’ : là toàn bộ nhân dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, là 1 quốc gia dân tộc.
*Xét về ý nghĩa “ dân tộc Kinh ‘’: là bộ phận của một quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa
là các tộc người, ở đây ám chỉ tộc Kinh.
Thực chất, hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể tách rời nhau.
XIII. Phân tích các nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc trong “Cương lĩnh dân tộc” của Lênin? lOMoAR cPSD| 61184739
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc.Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc lứn hay nhỏ không phân biệt trình độ phát triển cao hay
thấp đều có ý nghĩa và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc
lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.Trong một
quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối
quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền các dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc
mình, quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập ra một quốc gia dân
tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc
khác trên cơ sở bình đẳng cùng với lợi ích để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên
ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
3 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của các đảng
cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng
tới;quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền
bình đẳng dân tộc. Đòng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân
tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở
vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên
hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh
thể.Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời
đại ngày nay đã trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần
quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
XIV. Phân tích đặc điểm của dân tộc Việt Nam?
Thứ nhất: Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc. Đại gia đình dân tộc Việt Nam thống nhất
hiện có 54 dân tộc anh em, dân số giữa các dân tộc không đều nhau.
Thứ hai: Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết. Không cả già trẻ gái, trai, hay
dân tộc nào miễn là người dân Việt Nam thì các anh em dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết keo
sơn gắn bó một lòng một dạ. Trước khi thời chiến các dân tộc đồng lòng chống dịch, bảo vệ Tổ
quốc. Ngày nay thời bình các dân tộc cùng nhau xây dựng và bảo vệ nền hòa bình dân tộc. Tính
cố kết dân tôc, hòa hợp dân tộ c trong mộ t cộ
ng đ ̣ ồng thống nhất đã trở thành
truyền thống của dân tôc ta.̣
Thứ ba: Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tôc ̣
ở Viêt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộ c không có lãnh tḥ
ổ riêng, không có nền kinh lOMoAR cPSD| 61184739
tế riêng. Và sự thống nhất giữa các dân tôc và qụ
ốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hôi
ngày ̣ càng được củng cố.
Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đều nhau. Do điều
kiện tự nhiên, xã hôi và hậ u quả của các cḥ ế đô áp bức bóc lộ t trong lịch sử nên
sự chênḥ lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt.
Thứ năm: Dân tộc Việt Nam có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Văn hoá Việt Nam là sự
thống nhất trong đa dạng. Cùng với nền văn hóa công đ ̣
ồng, mỗi dân tôc trong đại gia
đình ̣ các dân tôc Việt lại có đời ṣ
ồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú
thêm nên văn hóa của công đ ̣ ồng. Rất nhiều bản sắc văn hóa tạo thành nét đặc trưng riêng của
mỗi dân tộc làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc nước nhà.
Thứ sáu: Tuy chiếm số ít nhưng các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Các dân tộc thiểu
số đông dân nhất: Tày, Thái (Chữ Thái Đen), Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H’Mông, Dao, Người
Jrai (Gia Rai), Ê Đê, Ba Na, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai…
Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền
Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có
trên 300 người. Vị trí của các dân tộc thiểu số là cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
XV. Nêu quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc?
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn
đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách
mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản
là: "Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển":
+ Bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân tộc đó
là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật.
+ Đảng ta luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nhân tố quan trọng,
có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh:
“Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng, giúp nhau giữa các dân tộc
để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Theo quan điểm của Đảng, thực hiện chính sách bình
đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc
+ Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong thời
kỳ đổi mới. Đảng khẳng định: “Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng
bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp
gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể”.
+ Đảng chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Đảng ta quan tâm cụ thể hơn vấn
đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải
gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách
phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của
từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh
của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.” lOMoAR cPSD| 61184739
XVI. Phân tích hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc?
*Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân
cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở
các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc
người đó có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các cộng đồng
dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Vì họ hiểu rằng,chỉ trong cộng đồng độc
lập, họ mới có quyền quyết định vận mệnh của mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn
chế độ chính trị và con đường phát triển. Trong thực tế, biểu hiện của xu hướng này là kích
thích đời sống và phong trao đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia độc lập có
chính phủ, hiến pháp, thị trường, … phục vụ cho sự phát triển của chủ nghĩatư bản.. Xu hướng
này nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Ví dụ: Cuộc vận động hợp nhất giữa Singapore với Liên hiệp bang Malaysia để hình thành
Malaysia không bền vững khiến Singapore tách khỏi Malaysia, trở thành một nước cộng hòa
độc lập. Đến nay Singapore đã trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên thế
giới, là con rồng của Châu Á.
* Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, các dân tộc ở nhiều quốc gia liên hiệp lại
với nhau, liên kết lại để phát triển. Khi dân tộc ra đời gắn liền với việc mở rộng và tăng cường
mối quan hệ kinh tế, xóa bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, từ đó hình thành nên một thị trường
thế giới, Chủ nghĩa tư bản trở thành một hệ thống. Xu hướng này nổi bật trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học – công nghệ, giao lưu
kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa
các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần nhau vì lợi ích chung.
Ví dụ: Sự hình thành của Liên minh châu Âu, của khối ASEAN…
Trong điều kiện của Chủ nghĩa đế quốc, hai xu hướng vận động gặp nhiều trở ngại. Vì nguyện
vọng được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của Chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ. Chính
sách xâm lược của Chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ở trình độ
lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc vào nó. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ
sở tự nguyện và bình đẳng bị Chủ nghĩa đế quốc phủ nhận. Thay vào đó họ áp đặt, lập ra những
khối liên hiệp nhằm duy trì áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở cưỡng bức và bất bình đẳng.
Từ đó, chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của CNXH,khi chế độ người bóc lột
người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, đô hộ các dân tộc khác mới bị xóa bỏ và chỉ
khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ.
Quá độ từ CNTB lên CNXH là sự quá độ lên một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu
nghị giữa người và người trên toàn thế giới.
XVII. Phân tích đặc trưng cơ bản của dân tộc – quốc gia theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế
chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định
hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung
và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, lOMoAR cPSD| 61184739
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và dữ nước.
Dân tộc thường được nhận biết thông qua các đặc trưng chủ yếu sau:
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong những đăc trưng quan trọng
nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân
tộc, tạo nên nền tảng vững chắc cho cộng đồng dân tộc.
+ Có thể tập trung cư trú trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc hoặc cư trú đan xen với
nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo
vệ lãnh thổ đất nước.
+ Có ngôn ngữ riêng hoặc có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia)
làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, tình cảm...
+ Có nét tâm lí riêng (nét tâm lí dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên
bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.
XVIII. Vì sao nói gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên?
“Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng, xã hội. Gia đình giữ
vai trò trung tâm trong đời sống của mỗi con người, là nơi bảo đảm đời sống vật chất và tinh
thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá trị xã hội quan trọng bậc nhất của người Á Đông,
trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi quốc gia thì gia đình được coi là “một tế bào xã hội có tính
sản sinh”. Do vậy sức mạnh trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại
và phát triển của gia đình.”
Đối với sự phát triển của xã hội trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, sự vững vàng bền bỉ của
nền tảng gia đình cũng sẽ là yếu tố quyết định đến sự giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước.
Cho nên, việc quan tâm coi trọng đến yếu tố gia đình chính là hướng đi đúng đắn cho việc tạo
dựng một xã hội phát triển ổn định và bền vững. Điều này càng thấy rõ khi chúng ta nhìn nhận
đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng của gia đình trong xã hội hiện nay. Đúng như C.Mác đã nói:
“…hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác,
sinh sôi, nảy nở – đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cho nên
yếu tố huyết thống và tình cảm là nét bản chất nhất của gia đình. Nhưng, xét rộng hơn và đầy
đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ chức kinh tế –
tiêu dùng, một môi trường giáo dục – văn hóa, một cơ cấu – thiết chế xã hội đặc biệt. Với tất cả
những đặc biệt đó, cho thấy gia đình có một vị trí vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của xã hội nói chung.
Gia đình là “tế bào của xã hội”. Điều này chúng ta luôn luôn khẳng định và dù trong hoàn cảnh
nào, xã hội nào nó vẫn luôn luôn đúng. Nó nói lên mối quan hệ mật thiết giữa gia đình và xã
hội, quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống của
cơ thể. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh
phúc góp phần cho sự phát triển hài hòa của xã hội.