



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220 LÝ LUẬN VĂN HỌC
VĂN NGHỆ, HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THẨM MĨ
Văn nghệ mà văn học là bộ phận quan trọng, bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một
quan điểm, lập trường đối với đời sống. Nhưng văn nghệ không giống như các hình thái ý thức xã
hội khác. Chính đặc thù này là lí do tồn tại không gì thay thế được trong suốt trường kỳ lịch sử.
Đặc trưng của một hình thái ý thức xã hội thường biểu hiện ở đối tượng, nội dung, phương thức tồn tại của nó…
1/ Đối tượng đặc trưng của văn nghệ
-Đối tượng là cái được chiếm lĩnh, nhận thức, nhào nặn và chuyển hóa thành nội dung.
-Văn nghệ phản ánh các quan hệ hiện thực mà trung tâm là con người xã hội. Văn nghệ không miêu
tả thế giới như những khách thể tự nó, mà là tái hiện chúng trong tương quan với lí tưởng, khát
vọng, tình cảm của con người. Văn nghệ không phản ánh hiện thực dưới dạng những bản chất trừu
tượng, mà tái hiện nó trong tính toàn vẹn, cảm tính sinh động.
Dẫn chứng: Cái văn nghệ quan tâm không phải là cái giếng, ngôi nhà, con đường trong ý nghĩa
khách quan phổ quát của chúng, mà là cái giếng làm nơi hò hẹn, ngôi nhà nơi tôi sinh ra, con đường dẫn ra mặt trận.
-Khái niệm trung tâm của đối tượng của văn nghệ là các tính cách của con người, những con người
sống, suy nghĩ, cảm xúc, hành động mang bản chất xã hội, lịch sử.
2/Nội dung tình cảm xã hội thẩm mỹ
-Là một hình thái ý thức xã hội, nhưng ý thức trong văn nghệ đã chuyển hóa thành những tình cảm mãnh liệt.
L.Tolstoi nói: “Nghệ thuật là một hoạt động của loài người bắt đầu khi một người tự giác truyền
đạt những tình cảm mình đã thể nghiệm cho người khác bằng các dấu hiệu bên ngoài, làm cho
người khác lây lan được những tình cảm ấy, thể nghiệm được chúng.”. Tuy nhiên, không phải bất
cứ tình cảm nào, cho dù rất mãnh liệt cũng có thể trở thành nội dung của nghệ thuật.
-Nghệ thuật không những có thể, mà còn cần thiết biểu hiện những tình cảm cá nhân, nhưng không
phải là những cái cá biệt, nhất thời, ngẫu nhiên mà phải mang ý nghĩa khái quát chung nào đó. Tình
cảm trong nghệ thuật, do đó là tình cảm mang sắc thái xã hội. S.Langer từng nêu ra một ví dụ: một
đứa bé đang gào khóc bộc lộ tình cảm mãnh liệt hơn nhiều so với một nhạc sĩ đang diễn tấu, nhưng
đó không phải là nghệ thuật.
-Tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát từ sự phản ứng đối với những cái gì thiết thực của cá
nhân, và do đó, cũng không hướng tới sự thỏa mãn những đòi hỏi thiết thực đó. Như thế, đến với
nghệ thuật, con người ta phải thật “vô tư”, không vướng víu bởi những quyền lợi và đòi hỏi quá
thiết thực, cho dù có cần thiết và cấp bách đến đâu. Nhưng cũng chính vì tâm hồn vô tư trong sáng
như vậy, con người dễ vươn đến cái hoàn thiện và cao đẹp. Tình cảm trong nghệ thuật, do đó, không
chỉ là tình cảm xã hội, mà là tình cảm xã hội thẩm mĩ. Dẫn chứng: Tình cảm trong nghệ thuật dạy
cho con người biết thành tâm vui sướng hoặc đau khổ trước số phận con người, vận mệnh của đất
nước, hướng đi của lịch sử, vốn là những vấn đề xã hội lớn lao, liên quan đến mọi người, không
phải chỉ cho một người. Khi đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta biết nhỏ giọt nước mắt cho cuộc
đời truân chuyên của Thúy Kiều, cũng là số phận hẩm hiu của biết bao phận người chìm nổi. Đọc
những vần thơ của Chế Lan Viên, ta hòa chung niềm tự hào, hân hoan trước một thời kỳ vàng son
của dân tộc: “Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…” lOMoAR cPSD| 58562220
3/ Hình tượng nghệ thuật
Con người với biểu hiện phong phú và quan hệ đa dạng cùng tình cảm xã hội cao đẹp là đặc trưng
cơ bản của nghệ thuật về mặt đối tượng và nội dung. Không tách rời với hai mặt này, hình tượng
nghệ thuật với tư cách là phương thức tồn tại của nghệ thuật sẽ xác định đặc trưng trọn vẹn của
nghệ thuật. Chính là qua những hình tượng nghệ thuật sống động, các mặt đối tượng và nội dung
chính nói trên sẽ bộc lộ một cách trọn vẹn trong sự kết hợp nhuần nhuyễn với nhau.
a/ Hình tượng nghệ thuật như một khách thể tinh thần đặc thù
-Gọi hình tượng nghệ thuật là “khách thể” bởi vì đó là thế giới tinh thần đã được khách quan hóa
thành một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người
sáng tạo hay người thưởng thức. Ai cũng có thể nhìn các hình tượng ấy như một cái gì bên ngoài,
như mọi khách thể khác.
Dẫn chứng: Khi nhà văn đặt dấu chấm hết cho tác phẩm của mình, đó cũng là lúc tác phẩm tự sống
cuộc đời của chính nó, không còn bị chi phối bởi người nghệ sĩ ngôn từ, như Chế Lan Viên từng viết:
“Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến
Sống cuộc đời riêng anh không dự kiến
Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ
Với ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ …
Nhưng từ đấy bổ sung anh, đối lập anh, tác phẩm sống riêng mình
May ra người ta tìm thấy ở đáy thuyền, hạt gạo, đó là anh
Tác phẩm văn học cũng không phụ thuộc hoàn toàn vào ý muốn chủ quan của người đọc.
Một mặt, người đọc tạo nghĩa cho nó, một mặt, với những kí hiệu, phương tiện tạo hình, nó
quy định cách đọc của người thưởng thức. Hình tượng nghệ thuật là một khách thể tinh thần,
bởi nó không tồn tại một cách trực quan, mà đã được chuyển hóa vào đầu óc con người và
được cải tạo lại trong đó.
Dẫn chứng: Chị Trần Thị Lý - người nữ anh hùng đất Quảng - đã mãi rời xa chúng
ta, thế nhưng, chị vẫn sống mãi trong những vần thơ của Tố Hữu: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối?
Thịt da em hay là sắt là đồng?”
(Người con gái Việt Nam)
Đó là cách văn chương biến những gì tinh túy nhất trong hiện thực trở thành những khách thể tinh thần.
Song, các hình thái ý thức xã hội đều tạo ra các khách thể tinh thần. Có thể phân biệt những
khách thể tinhthần trong văn nghệ với những khách thể tinh thần trong sinh hoạt, lịch
sử, tôn giáo,... Điều quan trọng ở đây là phải hiểu hình tượng nghệ thuật như một khách
thể nghệ thuật và tác động vào con người với tất cả “tính thực tại” tinh thần của nó.
Hình tượng tinh thần phải được thể hiện qua kí hiệu, qua các phương tiện tạo hình. Tuy
nhiên, không phải mọi tạo hình đều tạo nên hình tượng. Xưa, Lưu An đời Hán đã từng
nhận xét có người vẽ Tây Thi đẹp mà không có duyên, họa mắt Mạnh Bôn to mà không
đáng sợ, để chỉ những bức vẽ không có hồn. Mọi kí hiệu, phương tiện tạo hình chỉ có
ý nghĩa khi nào làm sống lại các khách thể tinh thần trong tâm trí của người đọc.
Dẫn chứng: Khách thể tinh thần của đạo đức là những chuẩn mực, những nguyên tắc
xử thế đầy trừu tượng, phổ quát. Khách thể tinh thần mang tính đặc thù của văn nghệ
thì khác, đó là Thúy Kiều - một con người cụ thể, sinh động với vẻ đẹp tuyệt mĩ:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn lOMoAR cPSD| 58562220
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh”, với tấm lòng
“hiếu nghĩa đủ đường”.
b/ Tính tạo hình và biểu hiện của
hình tượng b.1. Tạo hình
-Tạo hình là việc làm cho khách thể có được một tồn tại cụ thể, cảm tính bên ngoài qua chất
liệu, là phú cho thế giới những hình tượng khái quát một thể xác, hình hài. Nó bao gồm việc
tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những quan hệ, và rất quan
trọng là tạo dựng được những con người có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ. Ngay
cả cái vô hình cũng nhờ tạo hình mà xuất hiện trong nghệ thuật.
-Không có tạo hình thì không có hình tượng. Bởi vì hình tượng nghệ thuật về bản chất là
một hiện tượng tinh thần, nó không thể được “đưa cho mà là làm nảy sinh, xuất hiện”.
-Tạo hình không đòi hỏi trình bày kể lể mọi chi tiết của đối tượng. Nó chỉ chọn lọc những
chi tiết ít ỏi nhất nhưng giàu sức biểu hiện nhất, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tình huống, một tính cách.
Dẫn chứng: Chekhov từng nói chỉ một mảnh chai vỡ lấp loáng mà thể hiện được cảnh
sắc một đêm trăng. Chỉ một tiếng ếch trên sông mà có thể làm dậy lên cả một niềm
hoài cổ của người nghệ sĩ. b.2. Biểu hiện
-Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái
bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Biểu hiện gợi lên sự
toàn vẹn, đầy đặn của hình tượng, và nhất là thể hiện khuynh hướng tư tưởng, tình cảm của
con người, của tác giả trước các hiện thực đời sống.
-Cơ sở của tạo hình là sự tương đồng cua nó so với cái được miêu tả, dù cái được miêu tả
có là thực hay tưởng tượng. Cơ sở của biểu hiện là khác biệt.
-Sự kết hợp giữa tạo hình và biểu hiện làm cho hình tượng có được một hình thức nghệ
thuật độc đáo. c/Hình tượng và kí hiệu
-Kí hiệu là bất cứ một sự vật, hiện tượng nào có thể được tiếp nhận một cách cảm tính, dùng
để chỉ một hiện tượng khác ở bên ngoài nó một cách cố định. Chẳng hạn như: từ ngữ, còi báo
động, tín hiệu đèn xanh đỏ trong giao thông, các kí hiệu toán học…Kí hiệu là phương tiện để gìn
giữ và truyền đạt kinh nghiệm xã hội giữa người và người.
-Hình tượng nghệ thuật muốn giữ lại và truyền đạt cho người khác cũng phải được khách quan
hóa thành kí hiệu, không chỉ bằng từ ngữ và các chất liệu khác, mà còn bằng các chi tiết tạo hình, biểu hiện.
-Do đó, nếu một khách thể tinh thần mang tính chất hình tượng, thì mặt tạo hình biểu hiện amng
tính chất kí hiệu. Nếu đặc trưng của kí hiệu là thay thế một cái khác, thì đặc trưng của hình tượng,
vừa là tồn tại khác, vừa là phản ánh, khái quát. Nếu kí hiệu thiên về veiecj chỉ ra cái đã được quy
ước ổn định, thì hình tượng nghệ thuật đích thực luôn chỉ ra cái mới, phát hiện cái độc đáo mang cá tính nghệ sĩ.
Dẫn chứng: Tố Hữu viết:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”
Thì các chi tiết “mặt trời”, “nắng hạ”, “vườn hoa lá”, “đậm hương”, “tiếng chim”... đều là các kí
hiệu tự nhiên của các trạng thái tình cảm nhất định. Nhưng cả niềm vui náo nức rộn ràng lại là
khái quát một cảm quan mới về cuộc đời.
-Mỗi thời kì văn học dân tộc, các thể loại, các loại hình nghệ thuật khác nhau, văn nghệ các dân
tộc khác nhau, các nhà văn khác nhau đều có cách mã hóa khác nhau, tạo thành ngôn ngữ nghệ
thuật riêng trong từng trường hợp. lOMoAR cPSD| 58562220
Dẫn chứng: Trong văn hóa Việt, “thuyền” = cuộc đời nổi nênh, cho sự ra đi vô định; trong văn
hóa phương Tây xưa, “thuyền” lại tượng trưng cho sự phiêu du của linh hồn sang thế giới bên kia.
-Hình tượng nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu
giao tiếp. Bản chất của hiện tượng kí hiệu có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức sáo mòn.
Bản chất sự phản ánh nhận thức có xu hướng tìm tòi cái mới, phát hiện ra cái độc đáo. Từ đó diễn
ra quá trình thường xuyên đổi mới và cắt nghĩa lại kí hiệu, sáng tạo kí hiệu mới.
-Như vậy, quy trọn bản chất nghệ thuật vào kí hiệu là hạ thấp vai trò nhận thức và sáng tạo của
nó. Mặt khác, chỉ có đi vào đời sống mới tạo ra con đường làm phong phú, đổi mới cho ngôn ngữ nghệ thuật.
d/ Hình tượng nghệ thuật là một quan hệ xã hội - thẩm mĩ
- Nghệ thuật là sự kết tinh những kinh nghiệm quan hệ của con người, do đó cấu trúc của hình
tượng là một quan hệ xã hội - thẩm mĩ. Đặc trưng của hình tượng nghệ thuật không giản đơn
chỉ là ở sự thống nhất giữa cái cá biệt, cụ thể, cảm tính và cái chung, mà ở chỉnh thể các quan
hệ xã hội - thẩm mĩ được thể hiện. Trước hết là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với hiện tại
mà nó phản ánh; thứ đến, quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ giữa
tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa; cuối cùng, quan
hệ của các yếu tố của bức tranh đời sống. Chính cái phức hợp quan hệ tạo thành hạt nhân cấu trúc của tác phẩm.
Dẫn chứng: Truyện Kiều trước hết là một truyện “phong tình cổ lục”, nhưng lại được kể trong
tương quan với chuyện đời người “Trăm năm trong cõi người ta” và đặc biệt là trong tương
quan với “Những điều trong thấy mà đau đớn lòng” rất cụ thể. Chính quan hệ giữa đời người,
“điều trông thấy” và truyện “cổ lục” đan bện vào nhau, làm cho cấu trúc TRuyện Kiều là một
chất lượng mới so với truyện vủa Thanh Tâm Tài Nhân. Truyện là truyện Tàu đời năm Gia
Tĩnh, nhưng sự hiểu đời làm nhà thơ luôn lấy một “ai” thường tình ra mà cắt nghĩa các tình
huống truyện, và nỗi lòng trước “điều trông thấy” làm tác giả như thét lên trước cảnh khổ đau
lưu li. Đem một truyện “tài tử giai nhân” mang đậm truyền thống mĩ học phong kiến chính
thống phổ vào hình thức lục bát của ca dao dân gian, nhà thơ đã tạo một quan hệ mới giữa hai
dòng văn hóa. Các quan hệ đó thể hiện vào các quan hệ bên trong của các tuyến nhân vật, các
tình tiết cụ thể, tạo nên đặc trưng nghệ thuật của hình tượng Truyện Kiều. Không thể hiểu đúng
đặc trưng nghệ thuật và tư tưởng nếu đóng khung sự quan sát trong phạm vi cốt truyện. Bởi
nếu chỉ thế thì truyện của Nguyễn Du khác gì với truyện Thanh Tâm Tài Nhân?
e/ Tính nghệ thuật của hình tượng •
Hình tượng nghệ thuật khác hình tượng phi nghệ thuật hay giả nghệ thuật ở sức truyền cảm
mạnh mẽ, sức thức tỉnh tư tưởng lớn lao, ở khả năng lôi cuốn con người tham gia vào đời sống
xã hội. Tính nghệ thuật đặc trưng bởi sức thuyết phục, chiều sâu nhận thức, sức hấp dẫn lôi
cuốn. Sức hấp dẫn là một dấu hiệu quan trọng. Đi-đơ-rô nói với nghệ sĩ: “Trước hết anh phải
làm cho tôi cảm động, kinh hoàng, tê mê, anh phải làm cho tôi sợ hãi, run rẩy, rơi lệ hay căm hờn”. •
Không nên hiểu tính nghệ thuật một cách cứng nhắc như là tính chặt chẽ, tính đối xứng hài hòa,
cốt truyện lôi cuốn hồi hộp, văn bóng bẩy mượt mà… Tính nghệ thuật đa dạng như bản thân
nghệ thuật. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống nhất hoàn mĩ của nội dung và hình thức
nghệ thuật, là sức gây ấn tượng mang tính tư tưởng của hiện tượng đời sống, phản ánh được
hiện thực nhiều mặt và vận động biến hóa không ngừng. •
Tính nghệ thuật làm tích cực hóa khả năng cảm thụ của con người, nâng họ lên hàng nghệ sĩ,
khẳng định vai trò chủ thể của con người trước thế giới
VĂN HỌC VỚI HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG
Bất kỳ nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ môi trường sống nào đó. Bất kì một tác phẩm nào cũng chính
là sự khúc xạ từ những vấn đề trong đời sống. I. Phản ánh với nhận thức lOMoAR cPSD| 58562220
Hoạt động sáng tác văn học cũng giống là quá trình vận động của tư duy và cảm xúc. Mác nói:
“Vận động của tư duy chỉ là sự phản ánh của vận động hiện thực được di chuyển vào và được cải
tạo trong đầu óc con người.”. - Nhận thức của con người vốn có hạn song xét về tính toàn cục lâu
dài con người hoàn toàn có khả năng nhận thức hiện thực khách quan vốn nhiều chiều rộng lớn. -
Nhận thức và phản ánh tuy có liên quan đến nhau nhưng khác nhau. Nhận thức bắt nguồn từ
phản ánh nhưng không phải sự phản ánh nào cũng có giá trị và tác dụng nhận thức bởi vì vốn tồn
tại cả những phản ánh đúng và phản ánh sai. -
Tính chân thực của nghệ thuật chỉ tồn tại ở những tác phẩm phản ánh đúng bản chất hay một
vài khía cạnh bản chất của hiện thực nghĩa là có giá trị và tác dụng nhận thức. -
Mác đánh giá: “ Học phái hiện đại xuất sắc những tiểu thuyết Anh vốn đã có được những
trang sách thuyết minh và hùng biện cho thế giới biết được nhiều sự thật hơn là tất cả những nhà
chính trị chuyên nghiệp, những nhà chính luận và những nhà luân lý học cộng lại.” II. Phản ánh với biểu hiện
Garôđi cho rằng: “ sáng tác văn nghệ có nhiệm vụ không phải tái hiện thế giới mà là biểu hiện khát vọng của con người.” -
Bản chất của nhận thức con người vốn không phải là một đường thẳng nó là “ một đường
cong đi gần vô hạn đến một loạt những vòng tròn, đến một vòng xoáy trôn ốc.” cứ thế mãi cho đến
cùng cái “ trôn ốc” của nhận thức đúng đắn duy nhất. -
Tuy nhiên cũng có thể không bao giờ đến được cái trôn ốc đó nữa do những nhận thức sai lầm
“ bất cứ đoạn nào, khúc nào, mảnh nào của đường cong ấy cũng có thể chuyển hóa thành một đường
thẳng độc lập đầy đủ.” III. Phản ánh với sáng tạo
Sự sáng tạo chân chính không thể hoàn toàn tách khỏi sự phản ánh -
Trong sự sáng tạo thường cá nhân được phản ánh trực tiếp và xã hội được phản ánh gián tiếp;
còn trong sự phảnánh thường hiện thực được phản ánh trực tiếp và chủ thể được phản ánh gián tiếp. -
Con người khẳng định mình trong thế giới không chỉ thông qua sự sáng tạo mà còn thông qua
sự phản ánh, thế giới hiện thực khẳng định mình trong cá nhân, cũng không chỉ thông qua phản ánh
mà còn thông qua sự sáng tạo. - Nói sáng tạo trong nghệ thuật là nói sự khách thể hóa bằng nhiều
phương tiện “ ngôn ngữ” những ước mơ và lý tưởng dưới dạng tưởng tượng của người nghệ sĩ. -
Những ước mơ, lí tưởng, tưởng tượng nói chung là những gì vươn lên trên hiện thực khách
quan thể hiện thuộc tính sáng tạo trong tư duy và nhận thức, kể cả sáng tác văn nghệ. -
Tưởng tượng phát huy vai trò của mình trong văn học châm biếm và văn học lãng mạn. Lênin
viết: “ Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác, hình ảnh có thể phản ánh
vật thể một cách trung thực, hoặc nhiều ít, nhưng ở đây mà nói giống hệt thì là ngu xuẩn, chủ nghĩa
duy vật thừa nhận một cách chung rằng tồn tại, thực tại khách quan (tức là vật chất) không lệ thuộc
vào ý thức, cảm giác, kinh nghiệm của nhân loại.
IV. Phản ánh với tác động:
Mác khẳng định: “ Giải thích đúng đắn thế giới mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới.”
Lênin viết: “ Ý thức con người không phải chỉ là phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan.”
=> Nhận thức không phải để nhận thức và nhận thức chính là nhằm đẩy mạnh cải tạo và sáng tạo
thế giới theo chiều hướng tiến lên. Văn nghệ góp phần sáng tạo ra thế giới khách quan bằng cách
tác động vào hoạt động thực tiễn của quần chúng.
“ Điều quan trọng không phải là ý kiến chúng ta về nghệ thuật. Nghệ thuật thuộc về nhân dân…nó
phải tập hợp được tình cảm, tư tưởng, ý chí của quần chúng đó, nâng cao họ lên.” -
Thực tiễn phải được hiểu theo quan điểm duy vật biện chứng, nó là sự thống nhất giữa chủ
thể và khách thể, nếuhiểu thực tiễn chỉ là hoạt động chủ quan, tùy tiện thì đó là duy tâm, hoặc thực
dụng. Ngược lại nếu đồng nhất thực tiễn với hiện thực, chỉ thấy mặt khách quan của thực tiễn thì đó là siêu hình. -
Một tác phẩm văn học là tốt nếu nó góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên, ngược
lại là TP xấu.- Văn học với quần chúng là tương đối đúng nhưng khi triển khai luận chứng, nếu mới lOMoAR cPSD| 58562220
chỉ dừng lại ở khâu thưởng thức thì chưa đủ. Thưởng thức và tác động là thống nhất nhưng không
đồng nhất. “ Từ tư duy trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý của hiện thực khách quan.” -
Nếu tác phẩm vừa viết ra đã tự khẳng định được giá trị của nó thì là phiến diện hoặc cho rằng
những nhà phê bình ưu tú không cần thiết hay xem nhẹ ý kiến quần chúng cùng tác động cụ thể của
tác phẩm thì rõ ràng là chủ quan sai lầm.
=> Muốn cải tạo và xây dựng tốt thế giới trước hết phải giải thích đúng đắn thế giới. Muốn thông
báo có hiệu quả đến công chúng, tác động tích cực vào cuộc sống, văn nghệ phải phản ánh đúng
đắn, chân thực cuộc sống. Ví dụ: Với L.Tônxtôi để đấu tranh cho giai cấp vô sản và phong trào
công nhân hiện đại trước hết tác phẩm của ông phải là “ tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”.
VĂN HỌC, GƯƠNG MẶT CỦA VĂN HÓA DÂN TỘC
I. Vị trí của văn học trong văn hóa:
“ Cái cao quý to lớn của một đất nước, một dân tộc là ở giá trị văn hóa...Văn học nghệ thuật có
nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị cao quý ấy.” ( Phạm Văn Đồng) -
Chất liệu của những loại hình nghệ thuật như kiến trúc...gần gũi với vật chất hơn, đều những
vật chất ở các trạng thái khác nhau. Duy chỉ có chất liệu của văn học mới là phi vật chất mà thôi.
Với tư cách là chất liệu văn học, ngôn ngữ chỉ là ký hiệu của vật chất. -
Ngôn ngữ là sở hữu toàn dân nhưng đồng thời cũng chính là sở hữu của từng cá thể và với
hình thức phát sinh của nó là văn tự, lại có nhiều khả năng lưu giữ và bảo tồn sâu rộng vĩnh viễn.
Chính vì thế văn học có khả năng biểu hiện đến mức tối đa nhân tâm và thế sự.
=> Nếu đúng nghệ thuật là một loại văn hóa đặc biệt thì lấy ngôn từ với tư cách là biểu hiện đầu
tiên, cơ bản, vĩ đại của văn hóa nhân loại làm chất liệu, văn học chính là gương mặt tiêu biểu cho
văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc.
Giá trị văn hóa đòi hỏi trước hết người đọc phải là một nhà văn hóa, nhà văn phải mở rộng mối
quan hệ đó ra toàn bộ truyền thống và hoạt động văn hóa. Có ý thức văn hóa thường xuyên, tự giác
và dồi dào để soi rọi và biểu hiện khách thể. -
Nhìn nhận tính văn hóa trong TPVH theo các mặt sau:
+ Về mặt đề tài: triển khai với những chất liệu chan chứa bản sắc dân tộc, màu sắc địa phương, khu
vực và sắc thái lịch sử.
+ Về mặt chủ đề: triển khai những mâu thuẫn trong đời sống trên toàn bộ quá trình phát triển của
văn hóa dân tộc ( quan hệ giữa con người với thiên nhiên, với thế giới siêu hình của thần thánh ma quỷ).
+ Về mặt nhân vật: Phải khắc họa được tính cách văn hóa, trên bình diện chính trị - xã hội, tinh
thần – luân lí ( những cá tính đạo đức trong những quan hệ phức tạp giữa con người), bình diện
triết học – lịch sử, bình diện triết học – sinh thái và cuối cùng là tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính.
+ Về mặt thi pháp và thể loại: Không chỉ có những phương thức tả thực mà còn bắt gặp vô số
phương thức biểu hiện được tích tụ trong kho tàng văn học của dân tộc và nhân loại: lãng mạn, viễn
tưởng, giả tưởng, kì ảo, ẩn dụ, tượng trưng, ngụ ngôn, huyền thoại... - Tiếp cận TPVH cần:
+ Đặt TPVH trong bối cảnh văn hóa rộng rãi, khám phá trạng thái văn hóa tác động đến VH như
thế nào. + Phát hiện cho được những tố chất văn hóa ẩn chứa trong TP như sắc thái tình cảm,
phương thức tư duy, hứng thú thẩm mỹ, phong tục tập quán, niềm tin giáo lí...của nhân dân. II.
Tính chất dân tộc, từ thuộc tính đến phẩm chất của văn học:
Nhà phê bình văn học vĩ đại Nga Biêlinxki cho rằng: “ TP càng cao đẹp bao nhiêu về mặt nghệ
thuật thì nó lại càng phong phú bấy nhiêu về tính dân tộc.”
Ví dụ: Nền văn hóa Đại Nga mà đại biểu là những người Sécnưsepxki và Plêkhanốp là có phẩm
chất chân chính của dân tộc Nga nhưng cũng không thể phủ nhận “thuộc tính Đại Nga” của bọn
Puriketsu, Gút Cốp và Xtruvê vì một lẽ đơn giản là những ngôn luận và tác phẩm ấy không thuộc
một dân tộc nào khác ngoài Đại Nga. lOMoAR cPSD| 58562220
=> Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, khách thể và chủ thể ở đây nói chung là
thuộc về một dân tộc nhất định cho nên tính dân tộc là thuộc tính tất yếu và thường tại của văn học. -
Tính dân tộc muốn trở thành một phẩm chất phải có điều kiện:
+ Gắn chặt với tính nhân dân, tính chân thật và tính nghệ thuật mới thật sự có giá trị.
+ Những tác phẩm sai, giả, xấu đó trong dạng cụ thể của nó cũng là kết quả tất yếu của những mặt
tiêu cực trong nền văn hóa của một đất nước nhất định. -
“ Bài ca người thợ dệt” của Hainơ và một số tác phẩm khác của Vectơ, Frâyningrát giàu tính
nhân dân mới thật sự tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc chân chính của Đức lúc bấy giờ.
Ví dụ: những hình ảnh thoái hóa và lạc hậu, không tiêu biểu cho dân tộc ta của thực dân Pháp tạo
dựng nên, bọn văn nghệ sĩ thực dân đã cố ý cắt xén, tách rời hiện tượng ra khỏi bản chất, nhằm bôi nhọ dân tộc ta. -
Mặt tiêu cực có “ thuộc tính dân tộc” không phải chỉ vì nó vốn là của một giai cấp lạc hậu,
phản động và vì nó không có ở nước khác – hoặc có thì là những yếu tố chứ không cô đúc đậm đặc
như ở nước mà nó phát sinh mà còn vì ở quy mô vượt ra ngoài phạm vi một hay vài giai cấp của nó.
Ví dụ: Những ngôn từ mà Lỗ Tấn dùng trong “ AQ chính truyện” như “ Linh hồn của người hiện
đại trong nước chúng tôi” hay “ linh hồn quốc dân” đều cùng có nghĩa là “ quốc dân tính của dân
tộc Trung Hoa” mà ông đã có lần nêu lên trong một dịp khác.
III. Tính dân tộc qua các yếu tố của tác phẩm văn học:
1.Đề tài, chủ đề, tư tưởng:
Ví dụ 1: Thiên nhiên phong cảnh của Việt Nam hiện lên qua thơ ca rất phong phú:
+ Cảnh Tây Bắc: “ Mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù…Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
( “Việt Bắc” – Tố Hữu).
+ Cảnh xứ Huế, quê hương miền Trung: “ Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng – mưa nguồn gió biển,
nắng xa khơi” ( “ Quê mẹ”).
+ Cảnh sắc miền Nam: “ Bóng dừa xanh quanh bóng biển lam – óng ánh lúa chan hòa mặt đất.” (“ Miền Nam”).
+ Cảnh Hà Nội tươi đẹp, yêu kiều: “ Cành táo đầu mùa rung rinh quả ngọt – Nắng soi sương giọt
long lanh.” ( “ Bài thơ mùa xuân 1961”)
Ví dụ 2: Đọc thơ Puskin đến tiểu thuyết của L.Tônxtôi thấy hiện lên biết bao cảnh sắc thiên nhiên của đất nước
Nga: Cây bạch dương. Con chim hồng tước, mùa thu vàng, cánh đồng tuyết trắng. “ Khí hậu, chế
độ xã hội, tín ngưỡng tạo cho mỗi dân tộc một diện mạo đặc biệt, diện mạo ấy ít hay nhiều đều
được phản ánh trong tấm gương của thơ ca.” -
Lịch sử dân tộc của ta là lịch sử chống giặc ngoại xâm vì vậy câu chuyện về Thánh Gióng,
thơ của Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu… giàu tính dân tộc là vì thế. -
Quá trình phát triển từ chủ nghĩa cổ điển qua CNLM đến CNHT là quá trình tăng dần về tính
dân tộc ở Phương Tây, chú ý dẫn đến việc khai thác đề tài trong lịch sử của dân tộc mình.
Ví dụ: Những tiểu thuyết Pháp như “ Nhà thờ Đức bà Paris” của Victor Hugo, những tiểu thuyết Anh như
Aivanhô của Oantơ Huygô mặc dù rất lãng mạn nhưng đều có gốc gác trong dân tộc mình
+ Tác phẩm “ Những người Suăng” của Bandắc cũng viết lại cuộc nổi loạn của quý tộc ở Brơtanhơ
năm 1799. - Trường Chinh viết: “ Để phát triển tính chất dân tộc trong văn hóa, chúng ta tích cực
tuyên truyền kháng chiến chống TDP, đem cuộc công kích bằng bút và lời phối hợp với cuộc công
kích bằng vũ khí… chúng ta phát triển tình yêu nước, chí căm thù.” ( Tập thơ Việt Bắc của Tố
Hữu, tiểu thuyết Xung kích của Nguyễn Đình Thi, kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng… đã làm được điều đó.)
Ví dụ 3: “ Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Đến thơ em cũng hóa những anh hùng lOMoAR cPSD| 58562220
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí.” ( Êmily…con)
=> Thể hiện được khía cạnh trong nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến của dân tộc ta.
2. Tâm hồn, tính cách:
Đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng lưu ý các nhà văn: “ Con người mới trong tác phẩm của chúng
ta phải có quan điểm của giai cấp công nhân rõ ràng nhưng đó là con người Việt Nam với tính tình
cổ truyền đẹp đẽ.” Ví dụ:
+ Chị Sứ trong “Hòn đất” của Anh Đức vừa là con người anh hùng vừa mang những tính tình cổ
truyền đẹp đẽ đó là sự hiền dịu, lòng nhường nhịn, yêu thương đối với cha mẹ, chị em, con cái…
+Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát có làm bài giết giặc nhưng ông bác nhận xét: “Người Việt Nam đánh
giặc đâu có hung hăng như mày.” Ta nhận thấy rằng con người Việt Nam rất bất khuất, anh hùng
nhưng hiền từ, trung hậu, rất bình dị, không anh hùng theo kiểu “hảo hán” hò hét, lên gân.
+ Bác Hồ là người tiêu biểu nhất trong cá tính Việt Nam, phong cách Việt nam, cốt cách và đạo đức con người VN:
“ Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.”
=> Nhà thơ Nga vĩ đại Gôgôn: “ Nhà thơ có thể là nhà thơ dân tộc ngay cả khi ông miêu tả một thế
giới hoàn toàn xa lạ, nhưng nhìn bằng con mắt của sinh hoạt dân tộc, bằng con mắt của nhân dân mình,”
+ Nhà thơ Sô Panh, Báctốc sống lâu ở Paris nhưng tác phẩm của họ vẫn giữ được phong thái Ba Lan và Hungary.
3. Ngôn ngữ, thể loại: -
Hàn Thuyên là người có công trong việc bước đầu xác lập ngôn ngữ văn chương từ tiếng Hán chuyển sang tiếng Nôm. -
Mặc dù nhưng tác phẩm như “ Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “ Bình ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi hay “ bản án chế độ thực dân Pháp” của Hồ Chí Minh mặc dù viết bằng tiếng hán và
tiếng Pháp nhưng vẫn là những viên ngọc quý của văn chương nước ta, vẫn “ hợp lí lịch sử” về
hoàn cảnh sáng tác, đối tượng tiếp thu nó. - Ngôn ngữ nước ta rất đẹp, giàu từ lấp láy, nhiều sức gợi
ảnh và giàu sắc thái tình cảm độc đáo, rất khó dịch ra tiếng nước ngoài nhưng lại có thể dùng để
dịch xuôi những tác phẩm nước ngoài một cách tình tứ, đậm đà hơn. + Câu thơ của Hồng Hà nữ sĩ:
“ Khói mù nghi ngút ngàn sương – Con chim bạt gió lạc loài kêu sương.” – những từ láy này vốn
không hề có trong tiếng Hán. -
Do trình độ phát triển của các dân tộc không đồng đều nhau, do truyền thống văn hóa của mỗi
nước khác nhau cho nên sự ra đời của mỗi thể loại văn học ở từng nước nhanh chậm có khác nhau.
+ Văn học Phương Tây chú ý nhiều hơn đến phương thức phản ánh nên chia ra làm: tự sự, trữ tình, kịch.
+ Văn học cổ cận Phương Đông, Việt Nam lại chú ý nhiều hơn đến mục đích sáng tác, nội dung cụ
thể, kết cấu và hình thức biểu hiện nên chia làm: tiểu thuyết chương hồi, truyện thơ, trường ca, thơ
lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, đường luật, cổ phong thủ vĩ ngâm, liên hoàn…. -
Tính dân tộc của thể loại còn biểu hiện ở những mặt khác nhau của một thể loại gần gũi:
+ Tiểu thuyết cổ điển TQ có kết cấu chương hồi, với kết thúc có hậu, khác xa với tiểu thuyết Phương
Tây. - Vấn đề lỗ tai thẩm âm của mỗi dân tộc cũng khác nhau, mà trong thơ có nhạc cho nên nhận
xét trên cũng có một ý nghĩa nhất định, cách thẩm nhạc điệu trong thơ ca cũng khác nhau:
+ Tai Ý có độ nhạy rất lớn với khu vực âm cao
+ Tai Pháp đặc biệt thích ứng với khu vực âm trầm lOMoAR cPSD| 58562220
+ Tai Nga phản ứng tương đối đồng đều với toàn bộ âm tần của âm thanh.
IV. Các mối tương quan hai chiều lịch sử và nhân loại của tính dân tộc trong văn học:
1. Các mối quan hệ biện chứng giữa kế thừa với phê phán, truyền thống với cách tân. Chống
các biểu hiện của chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa phục cổ: -
Thực trạng: trước những bịa đặt của TDP về văn hóa, văn nghệ nước ta cũng đã xuất hiện rất
nhiều những tư tưởng, ý kiến sai lệch:
+ Phạm Quỳnh chi rằng: “ Sự thật nước An Nam không hề có một nền văn hóa dân tộc”, chủ trương
XD bằng hình thức Phương Tây còn nội dung thì rút ra từ nguồn tư tưởng Viễn Đông – CN hư vô
+ Trong nhóm Tri Tân thiên trọng về tính dân tộc nhưng lại nệ cổ, không đếm xỉa đến khẩu hiệu
KH hóa và đại chúng hóa.
+ Nhóm Hàn Thuyên đã “ coi thường khẩu hiệu dân tộc hóa đến nỗi dám mang chiêu bài duy vật
sử quan để chế biến lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.”
+ Trương Tửu cũng có thái độ hư vô với di sản dân tộc: “ Văn nghệ quý tộc Việt Nam rất nghèo
nàn về phẩm cũng như về lượng…” -
Hồ Chí Minh cũng đã từng phê phán những khuynh hướng phục vốn cổ không đúng đắn như
sau: “ Nói là khôi phục vốn cũ thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra.” -
Tố Hữu: “ …là nhạc sĩ VN mà không nắm được di sản âm nhạc của dân tộc mình. Không thể
quan niệm được rằng nhà hội họa Việt nam mà không nắm được di sản và truyền thống cái đẹp của dân tộc.” -
Kế thừa có phê phán vốn văn nghệ cũ để sáng tạo ra những tác phẩm mới, nền văn nghệ mới
cho dân tộc. Kế thừa có phê phán chủ yếu không phải là công việc trực diện của sáng tác, sứ mệnh
chủ yếu của sáng tác là sáng tạo cái mới.
Ví dụ: như vở chèo Lưu Bình – Dương Lễ cho vợ đi nuôi bạn thay chồng. Đó là cái hay trước kia
nhưng bây giờ có phải như vậy là hay không? Bây giờ chắc không ai muốn làm như thế cả nữa vì
quá bất công với người phụ nữ. -
Trong sáng tác văn học cũng vậy, phải vừa truyền thống phải vừa cách tân. Sáng tác của bất
kỳ nhà văn lớn nào ít nhiều cũng đều được khơi nguồn từ quá khứ nhưng sáng tác của bất kỳ nhà
văn lớn quá khứ đều không thể thay thế cho công việc sáng tạo hiện tại. -
Rời bỏ truyền thống những sáng tạo về hình thức sẽ dẫn đến cái tân kỳ nhưng cổ quái. Văn
nghệ để phục vụ nhân dân vì vậy không thể không tôn trọng những kinh nghiệm thẩm mĩ mà họ đã
quen thuộc với những hình thức nghệ thuật truyền thống.
2. Các mối quan hệ biện chứng giữa tiếp thu với sáng tạo, dân tộc với quốc tế. Chống các biểu
hiện của chủ nghĩa sùng ngoại và chủ nghĩa bài ngoại. -
Bọn xâm lược ngoại bang luôn luôn rêu rao nền văn minh của chúng. Làm tâm lý sùng ngoại
vốn có của giai cấp thống trị ngày một tăng lên. Trong thời kì thoái trào thường reo rắc tâm lí tự ti
dân tộc, sùng bái nước ngoài, viết ra những thứ văn chương đầy tính nô dịch và lệ thuộc.
Trường Chinh phê phán: “ Trước kia người ta nhắm mắt theo văn hóa phong kiến TQ bao nhiêu thì
ngày nay người ta nhắm mắt theo văn hóa tư sản Pháp bấy nhiêu.” -
Chủ nghĩa bài ngoại là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và gắn chặt với chủ nghĩa phục cổ, nó có
thể biết tự hào với tinh hoa chân chính của dân tộc nhưng lại suy tôn đến mức xem bất cứ cái gì của
nền văn chương dân tộc mình cũng là tinh quý nhất kể cả những cái lỗi thời lạc hậu.
+ Bọn đế quốc Anh, Mỹ ngày nay cũng ra sức rêu rao nền VH Ănglô – Xắcxông, bọn Hitler tỏ thái
độ ngạo mạn với cái gọi là huyết thống Giécmanh, cho nền văn hóa Aryan là thượng đẳng. -
Quốc túy là một cái nước nào đó có, nước khác không có. -
Có những người viết Maiacốpxki nhưng lại quay lưng với Đồ Chiểu, họ thích Sô Panh nhưng
lại thờ ơ với Bến Tre, hò Cần Thơ, họ ca tụng kinh kịch của Trung Quốc nhưng lại che bài cải lương, hát bội. -
Có những người hát quan họ theo kiểu thanh nhạc hiện đại như “đầm” hát lOMoAR cPSD| 58562220 -
Nhưng cũng có những người quá đề cao vai trò dân tộc mà phớt lờ đi giá trị nhân loại, tuồng
chèo và cải lương hơn opera, nhạc giao hưởng, thậm chí có người cho rằng không cần sáng tác nhạc
mới làm gì, chỉ cần làm thơ lục bát rồi hát cò lả trống quân là được rồi. -
Có thời kì có những dân tộc đã giữ vai trò tiên phong về mặt văn hóa, nghệ thuật như nền văn
hóa cổ Hi Lạp và nền văn nghệ Ý thời Phục Hưng. -
Và phải chăng tiếp thu văn nghệ nước ngoài không phải chỉ bồi đắp cho văn nghệ nước mình
mặc dù đó là cơ bản mà còn để hiểu các dân tộc khác, một nhu cầu vốn có trong lịch sử nhân loại.
Ví dụ: có một số nhà văn trước cách mạng thường sao chép văn học Phương Tây, Vũ Ngọc Phan
có vạch rõ truyện “Em ơi đừng tuyệt vọng” trong tập “Để cho chàng khỏi khổ” của Vũ Bằng là
phỏng theo và nhiều đoạn gần như là dịch lại tiểu thuyết “Những đêm trắng” của Đôxtôiepxki.
+ Đại văn hào Đức – Gớt dù rất thích say mê học tập Puskin, Bairơn nhưng ông tự ví mình như
người mù mới sinh, bỗng dưng được bàn tay kỳ diệu của Sếchxpia làm cho sáng mắt, dù vậy ông
chân thành khuyên những ai “bản tính vốn dễ tiếp thu chỉ nên đọc mỗi năm không quá một tác
phẩm của Sếch Xpia” nếu không thì sẽ thảm hại. -
Nếu một nền văn học dân tộc sẽ khô cằn đi vì sự nhai lại của những phong cách thì nền văn
học nhân loại cũng sẽ nghèo đi vì sự mô phỏng bản sắc dân tộc của nhau. Cái nhân loại là thuộc
tính tự phát chung của mọi nền văn chương, còn cái quốc tế là phẩm chất thành tựu có tính chất tự giác.
VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ 1.
Khái niệm ngôn từ là chất liệu của văn học
Đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật, là bắt nguồn từ chất liệu của nó. Chất liệu của hội họa là
màu sắc và đường nét, của âm nhạc là âm thanh và tiết tấu, … đều là vật chất với những trạng thái
của nó. Trái lại, chất liệu của văn học là ngôn từ, đều không phải bản thân vật chất mà chỉ là ký hiệu của nó.
Các nhà lí luận văn học dùng thuật ngữ “ngôn từ nghệ thuật” để gọi chất liệu của văn học khu biệt
hai khái niệm: ngôn từ và ngôn ngữ. “Ngôn từ là lời nói, viết mà người ta dùng làm chất liệu để
sáng tác văn học. Nếu ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói
sử dụng (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phương thức tu từ), lời nói là hình thức tồn tại thực tế của
ngôn ngữ vốn phong phú, sinh động, đa dạng thì ngôn từ là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm
chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của nó”. Nói văn học là nghệ thuật ngôn từ thực chất là nói
văn học là nghệ thuật sử dụng câu văn, lời văn, bài văn vào mục đích nghệ thuật. 0. Đặc
trưng của nghệ thuật ngôn từ
Nói đến đối sánh là tìm ra sự khác biệt, nói lên đặc trưng riêng là chủ yếu, nhưng không thể bỏ qua
sự tương đồng. Quả vậy, cùng trong gia đình nghệ thuật với tư cách là một hình thái ý thức xã hội
thẩm mĩ, văn học và nghệ thuật ắt có những chỗ liên đới, giao thoa, chuyển hóa lẫn nhau. Xuất phát
từ chất liệu, trong sự đối sánh với tất cả các loại hình nghệ thuật khác, văn học với tư cách là nghệ
thuật của ngôn từ, sẽ mang những đặc điểm sau: 0.
Tính hình tượng - gián tiếp
Chất liệu của tất cả các loại hình nghệ thuật cơ bản, đơn thuần, chứ chưa mang tính tổng hợp như
hội họa, âm nhạc vũ đạo,... mặc dù là màu sắc, đường nét, âm thanh tiết tấu hay hình thể động tác,..
đều là vật chất, vật thể, với những trạng thái của nó cho nên chúng đều có tính hình tượng - trực
tiếp, có nghĩa là ai cũng có thể trực tiếp nghe nhìn hình tượng của các loại hình nghệ thuật này.
Trái lại, ngôn tù không phải là vật chất hay vật thể, mà chỉ là ký hiệu của chúng, cho nên hình tượng
văn học là hình tượng phi vật thể, không thể nghe nhìn một cách trực quan được
Tình yêu quê hương trong truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” của Thạch Lam được gợi ra từ những
cảnh tượng bình dị và tình cảm bà cháu thiết tha luôn đau đáu trong lòng nhân vật. Nhiều câu, nhiều
đoạn khó thể khắc họa thành tranh, xây dựng thành phim bởi ngôn từ của Thạch Lam rất đỗi mong
manh, hư thoảng. Đó chính là sự tinh tế của ngôn từ trong việc nắm bắt cảm giác, cảm xúc của con
người - điều mà bất cứ loại hình nghệ thuật nào không dễ mà làm được. Đồng thời, với tư cách là
hệ thống tín hiệu thứ hai (Pavlov), ngôn từ có tác động vào vỏ đại não, vì thế mà nó thôi thức trí lOMoAR cPSD| 58562220
tưởng tượng, khơi dậy những trực quan về màu sắc về đời sống của người đọc. Gọi văn học mang
tính hình tượng - gián tiếp là vì thế. Đây là chỗ “yếu” duy nhất, nhưng chính nhờ đó mà văn học lại
đổi được nhiều chỗ “mạnh” so với các loại hình nghệ thuật khác. b. Tính tư duy - trực tiếp
Do ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất trực tiếp của tư duy” (Mác), là kí hiệu của tư duy cho nên những
suy nghĩ, cảm xúc hoặc bất cứ trạng thái tư tưởng tình cảm nào của con người, cho dù không nói ra
cũng phải thông qua ngôn ngữ. Lấy ngôn ngữ làm chất liệu, văn học do đó có thể bộc lộ trực tiếp
tư tưởng tình cảm của nhà văn, hoặc nhân vật.Ví như câu nói nổi tiếng của Lý Dục: “Vấn quân
năng hữu kỷ đa sầu, hợp tự giang xuân thủy hướng đông lưu” (Hỏi anh có bao nhiêu nỗi buồn sông,
như dòng sông mùa xuân chảy về phía đông) đã hình tượng hóa nỗi buồn không có hình thể lại
khó diễn đạt rõ ràng, viết ra được tâm tư sâu thẳm và nỗi lòng dằng dặc vô cùng của niềm vong gia mất nước.
Những hình tượng hội họa, âm nhạc … phải thông qua sự tưởng tượng và chiêm nghiệm mới có
thể hiểu được những tư tưởng tình cảm mà tác giả muốn truyền đạt. Cảm xúc tự hào được Tố Hữu
dễ dàng bày tỏ qua câu thơ “Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi”, thì nhạc sĩ hay họa sĩ cũng có những cảm
xúc đó nhưng chỉ có thể ẩn giấu đằng sau điệu nhạc, bức tranh. Các loại hình nghệ thuật khác mang
tính tư duy - gián tiếp là vì vậy.
Ngôn từ là chất liệu biểu đạt tốt nhất về tư duy của con người - điều mà văn học không bị lép vế
trước những loại hình nghệ thuật khác. Bức tượng “Người suy nghĩ” của Rodin khắc họa cái dáng
vẻ tư duy của con người nhưng không thể bộc lộ được nội dung của tư duy. Nhưng văn học cho ta
biết được con người đang suy nghĩ, đắn đo trước cuộc đời hay những quyết định lớn lao của thời
đại. Như một lời thoại của Ông Giáo trong tác phẩm Lão Hạc (Nam Cao): “Vợ tôi không ác nhưng
thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một
cái gì khác đâu? Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”,
qua đây thấy được những suy tư của tác giả. Đồng thời cũng là một cuộc tranh luận, đấu tranh tư
tưởng. Do đó. văn học giàu khuynh hướng tư tưởng hơn các loại hình nghệ thuật khác là vì thế. c.
Tính vô cực hai chiều về không gian - thời gian
Với tư cách là những kí hiệu phi vật thể, ngôn từ có thể cô kết lại trong văn bản cực kì “gọn nhẹ”.
Ngôn từ có thể hình dung bất kì sự vật nào trong thế giới vĩ mô cũng như vi mô, hữu hình cũng như
vô hình,... Lấy ngôn ngữ làm chất liệu, văn học mang tính cực đại và cực tiểu về không gian, cực
lâu và cực nhanh về thời gian. Quả vậy, trong “Chiến tranh và hòa bình” L.Tolstoi có thể tái hiện
lại toàn cảnh chiến trường Brodino mà những bức tranh hoành tráng không làm nổi d.
Tính phổ biến trong sáng tác, truyền bá và tiếp nhận
Ngôn ngữ là vốn sở hữu chung của mọi người, nhưng đồng thời cũng là sở hữu riêng trọn vẹn
không cần phải chia cho từng người, do đó là một phương tiện vừa có thể tự biểu hiện lại vừa dễ
giao tiếp với người khác. Ngôn từ là chất liệu phi vật chất, vì vậy nó ít đòi hỏi người nghệ sĩ đầu
tư trên phương diện vật chất hơn nhiều so với các loại hình nghệ thuật khác
Sáng tác đến truyền bá và tiếp nhận là một việc, còn có phải công chúng ưa thích văn học nhất
không là một việc khác, ở đây còn phụ thuộc vào chất lượng tác phẩm cụ thể đã đành ,mà còn phụ
thuộc vào nhiều điều kiện khác Ngôn ngữ phải trải qua lao động sáng tạo mới trở thành nghệ thuật
mà đã là nghệ thuật thì yêu cầu người chiếm lĩnh nó phải trau dồi thẩm mỹ để tiếp nhận nó
Ngày nay trong xã hội công nghiệp, sự phát triển của điện ảnh làm văn học tỏ ra ít thuận tiện. Tuy
nhiên, do là nghệ thuật của ngôn từ, văn học học bao giờ cũng bộc lộ khuynh hướng tư tưởng sâu
sắc hơn và phản ánh hiện thực toàn diện hơn. CHỨC NĂNG VĂN HỌC
Nói đến chức năng văn học là nói đến mục đích sáng tác văn chương, đến vấn đề viết để làm gì,
đến ý nghĩa xã hội của nó. Văn học là một hoạt động tinh thần không chỉ của người sáng tạo mà cả
của người tiếp nhận, thưởng thức. Nó mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi “chức
năng là sự biểu hiện ra bên ngoài các đặc điểm của một khách thể nào đó trong hệ thống các quan hệ nhất định.” lOMoAR cPSD| 58562220 1.
Đa dạng và thống nhất trong chức năng văn học
Chức năng là một khái niệm nhiều mặt, có nội dung phong phú. Muốn hiểu đầy đủ chức năng của
văn nghệ phải có cái nhìn tổng hợp, đứng từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau để xem xét. Tính
đa chức năng của văn học được quyết định bởi tính thống nhất đa dạng của đối tượng nghệ thuật và
tính đa nhu cầu của đời sống xã hội và chủ thể sáng tạo. Chức năng của văn học thường vận động,
biến đổi theo sự đổi thay của đời sống xã hội. Vd: Khi cuộc sống thanh bình, người ta thích ngâm
thơ, tìm thú vui trong thưởng thức văn chương. Trong thời kì chống giặc và đấu tranh giai cấp thì
chức năng giáo dục được đề cao, dùng văn thơ làm “bom đạn phá cường quyền” sẽ nổi trội hơn chức năng giải trí.
Việc phân chia văn học ra nhiều loại chức năng riêng biệt chỉ có ý nghĩa tương đối và mang tính lí
thuyết của tư duy phân tích. Các thế giới nghệ thuật văn chương luôn là những chỉnh thể nghệ thuật
mang giá trị toàn vẹn. Vì vậy, các chức năng văn học chỉ là sự biểu hiện ra bên ngoài của chỉnh thể
và giá trị toàn vẹn thuộc thế giới nghệ thuật trong những sự tiếp nhận khác nhau.
Số lượng các chức năng tùy thuộc vào cách nhìn, lý giải của từng người nhưng đại thể đều có chức
năng nhận thức, giáo dục, giao tiếp, thông tin, giải trí, dự báo. Tuy nhiên, việc thống kê các chức
năng có thể có chưa làm rõ chức năng đặc thù của văn học. Chức năng của một sự vật sự việc phải
bắt nguồn từ đặc trưng bản thể của sự vật, hoạt động ấy.
Văn học là hoạt động nhận thức và sáng tạo thẩm mỹ. Đó là sự nhận thức, khám phá, sáng tạo theo
quy luật cái đẹp. Cái thẩm mỹ là đặc điểm có tính loại biệt, như một phẩm chất, thuộc tính tất yếu
phải có của văn học nghệ thuật, đem lại cho con người nhưng rung động, xúc cảm mạnh mẽ, tác
động vào toàn bộ lý trí và tình cảm, cảm thụ và đánh giá theo quy luật cái đẹp.
Cái thẩm mỹ là một phạm trù mang đặc điểm vừa có nét khách quan, vừa có nét chủ quan. Nó mang
những phẩm chất nhất định của khách thể nhưng phải được chủ thể tiếp nhận, đánh giá như một giá
trị tinh thần nào đó Cái thẩm mỹ tồn tại ở rất nhiều dạng cụ thể như cái đẹp, cái bi, cái hài,... đó là
những khách thể thẩm mỹ. Gắn với con người - chủ thể thẩm mĩ, cái thẩm mỹ hiện ra với nhiều
cung bậc, cấp độ khác nhau: xúc động thẩm mỹ, biểu tượng thẩm mĩ, ý thức thẩm mĩ,...Trong tác
phẩm nghệ thuật thì hình tượng thẩm mĩ là đặc trưng bản chất thể hiện sức sáng tạo của nghệ sĩ.
Như một khách thể thẩm mĩ, tác phẩm văn học là thế giới nghệ thuật chứa đựng trong đó nhưng
cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm, lý tưởng thẩm mĩ
, nhận thức thẩm mĩ của người sáng .tạo. Trong quá trình tiếp nhận, thế giới nghệ thuật ấy lại tạo
nên các xúc động thẩm mĩ ở người đọc, người nghe, người xem
=> Văn học là tiếng nói của tình cảm thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ là đặc trưng bản chất của văn học nghệ thuật.
Chức năng thẩm mĩ là chức năng bao trùm, đặc trưng của văn nghệ.
Mối quan hệ giữa chức năng tình cảm thẩm mĩ với các chức năng khác thường là mối quan hệ giữa
hệ thống và yếu tố. Các chức năng nhận thức, giáo dục, thông tin,.. đều là các yếu tố của chức năng
tình cảm thẩm mĩ có tính bao trùm và đặc thù của văn học. Như vậy, nhận thức của văn học là nhận
thức thẩm mĩ, giáo dục là giáo dục thẩm mĩ, nhận thức là nhận thức thẩm mỹ,...
Chức năng tình cảm thẩm mĩ của văn học nhằm đáp ứng nhu cầu chủ yếu là cái đẹp cho cuộc sống
con người. Nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu về sự hoàn hảo, về cái gì đó có tính lý tưởng, ít nhất cũng
là một sự hài hòa, gắn với cái chân, cái thiện.
Văn học thực hiện chức năng tình cảm thẩm mĩ bằng nhiều cách trước hết là nhận thức và phản ánh
cái đẹp vốn có trong đời sống. Tuy nhiên, không phải là sự sao chép mà có sự chọn lọc, khái quát,
thực hiện điển hình hóa nghệ thuật. Nhờ nghệ thuật mà cái đẹp trong đời sống được cố định, lưu
trữ. Ngoài ra, văn học còn sáng tạo cái đẹp vốn chưa có hoặc không có trong hiện thực. Đó là làm
nên một thế giới nghệ thuật mới, hàm chứa một cái nhìn mới, quan niệm mới về thế giới. Sáng tạo
cái đẹp là làm giàu có thêm cuộc sống, phong phú thêm tình cảm, trí tuệ nhân loại. 0.
Một số yếu tố cơ bản trong chức năng văn học
Mặc dù chức năng của văn học là đa dạng về mặt yếu tố, nhưng có những yếu tố thường tại, cơ bản như sau: lOMoAR cPSD| 58562220 0. Nhận thức
Hoạt động nhận thức giúp con người hiểu rõ các đối tượng từ tên gợi, khái niệm cho đến nghĩa và
ý nghĩa, từ hiện tượng đến bản chất, quy luật, hình thức, nội dung,... Nhận thức thông thường tạo
cơ sở cho nhận thức thẩm mỹ - một loại nhận thức đặc thù nằm khám phá mọi hiện tượng dưới ánh
sáng của lý tưởng thẩm mỹ và cái đẹp. Nhận thức thẩm mỹ là sự phát hiện cái giá trị tinh thần để
nâng cao phẩm cách con người.
Nhận thức trong văn học rất rộng bởi đối tượng của nó là toàn bộ hiện thực. Văn học như bộ bách
khoa toàn thư về cuộc sống, như tấm gương phản chiếu các quá trình lịch sử, cung cấp vô số những
hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị,... đặc biệt là đời sống tinh thần, tâm lý con người.
Nhận thức bằng nghệ thuật là “khám phá chân lí trong hình thức cảm tính”. Ở đó cần những chi tiết
cụ thể, những hình thức trực quan sinh động tạo nên cảm xúc, biểu tượng, ấn tượng để tùy theo loại
hình thi ca và mục đích cụ thể của sáng tạo do hoàn cảnh riêng hoặc chung quy định mà mô tả, tái
hiện hiện thực hay tưởng tượng những bức tranh đời sống vừa khái quát vừa cụ thể, khắc họa những
tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình hoặc giải những ước mơ táo bạo, những dự cảm cao
Nếu nhận thức chung thường là từ nông đến sâu, cảm tính đến lý tính, cụ thể đến khái quát thì văn
học cũng vậy. Nhưng văn học không nói bằng khái niệm, công thức, con số, thống kê,.. mà diễn
đạt, lí giải bằng hình tượng, hình ảnh, cảm xúc, để thúc đẩy sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Nhờ sự
sâu sắc của lý trí và nhạy bén của xúc cảm mà nhà văn có thể chỉ ra được những khuynh hướng
phát triển đời sống ở cả hiện tại và tương lai.
Nhận thức thẩm mỹ phụ thuộc vào trình độ chung của đời sống và những yêu cầu xã hội đặt ra
cho từng thời nên không phải khi nào cũng biểu hiện giống nhau. Nhận thức thẩm mĩ có tính cá
thể - phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cảm thụ, cách nhìn, diễn đạt, lý giải của người sáng tạo và
tiếp nhận. Nhờ đó mà chiều sâu nhận thức rất đa dạng, phong phú. b. Giáo dục
Chức năng giáo dục của văn học xuất phát từ mục đích của văn học nghệ thuật là truyền đạt tri thức,
kinh nghiệm sống, trong đó có phương diện thẩm mỹ và gắn với quá trình nhận thức của con người.
Từ bản chất thẩm mĩ của mình, văn học có điều kiện thực hiện chức năng giáo dục thẩm mỹ. Giáo
dục thẩm mỹ là bồi dưỡng năng lực nhận biết, sáng tạo cái đẹp, dùng cái đẹp như một phương tiện
để nuôi dưỡng năng lực xúc cảm, thị hiếu,… giúp con người biết đưa cái đẹp vào hoạt động sống
và nâng cuộc sống theo tiêu chuẩn cái đẹp. Chức năng thẩm mĩ sâu sắc nhất của văn học là giáo
dục phẩm chất Người, giáo dục đạo đức, cách sống, ứng xử, … phù hợp với những hoàn cảnh có
tính lịch sử cụ thể. Nó giúp con người giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa người với người, người
với tự nhiên, và biết tự hoàn thiện bản thân.
Bằng hình tượng nghệ thuật, văn học nhờ tưởng tượng và cảm xúc có thể phóng đại cái tốt, cái đẹp
cũng như cái xấu cái ác,... cho mọi người dễ cảm nhận, suy xét, ngẫm nghĩ. Giáo dục trong văn học
cần sử dụng đủ cung bậc ngôn ngữ, loại hình thi ca, hình tượng cái đẹp và hình tượng cái xấu. Cái
phản diện, tiêu cực cũng có thể góp phần vào giáo dục bởi khi vạch ra được cái phản mĩ cảm là lúc
con người đứng ở tầm cao lý tưởng của cái hoàn thiện. Dĩ nhiên không phải cái xấu nào cũng có
tính giáo dục tích cực nên phải cân nhắc khi sử dụng.
Giáo dục của văn học là giáo dục đa diện, có tính tổng hợp. Chức năng nhận thức làm cơ sở cho
chức năng giáo dục nên nó đủ khả năng làm con người khôn ngoan, hiểu biết, thông minh. Cần lưu
ý là văn học đến với người đọc không phải với tư cách người thầy hay người truyền giáo mà là
người bạn đồng hành trên đường đời thông qua đối thoại. Sự đối thoại đó là sự đối thoại bên trong
tâm hồn, là sự tự đối thoại giữa phần tốt và phần xấu, khơi gợi cuộc tự đấu tranh, soi xét. Vì thế,
văn học có tác dụng giáo dục và tự giáo dục, tạo ý nghĩa xã hội, đáp ứng nhu cầu tự hoàn thiện của
con người. c. Giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc, giao lưu, trao đổi để hiểu biết, để tâm hồn được gặp tâm hồn, để
sống, để hòa hợp. Sáng tác văn chương là một nhu cầu giao tiếp, là hành động giao tiếp với đời
sống và với chính chủ thể sáng tạo. Có khi là giao tiếp với vũ trụ, trời đất, cỏ cây,... Văn chương là
nơi cởi mở tâm hồn, phơi bày suy nghĩ, bộc lộ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của nhà văn, nhà thơ
trước hiện thực. Có lẽ không có một hình thái ý thức xã hội nào mà chủ thể của nó lại có thể giao
tiếp, tự bộc lộ một cách rộng lớn, sâu xa và chân thật như vậy. lOMoAR cPSD| 58562220
Đến với văn chương, con người được đối thoại, giao lưu, tiếp xúc và cảm thông với mọi loại người
từ bậc thánh nhân, vương giả đến kẻ lưu manh, côn đồ của mọi thời đại, mọi dân tộc. Ở đó, con
người có người lắng nghe, chiêm nghiệm, suy ngẫm, đối thoại. Cũng nhờ vậy mà thiên hình vạn
trạng của con người tự nhiên và xã hội hiện lên vô cùng phong phú và sinh động. Đồng thời, văn
chương trong bản chất là một sự giao tiếp trao đổi không ngừng nghỉ với mọi thời đại và mọi lớp
người. Điều đó tạo ra sức hấp dẫn đặc biệt của văn thơ đối với nhân loại. Giao tiếp trong văn học
có đặc điểm là giao tiếp thẩm mĩ đa chiều. Văn học phải chọn thẩm mĩ trong phản ánh sáng tạo và
người tiếp nhận cũng hướng vào tác phẩm trong một giao tiếp định hướng từ cái chân, cái thiện, cái
mĩ. Nó có thể làm cho con người thêm hiểu biết, thông cảm nhau, có thể tìm thấy sự tri âm, tri kỉ,
tập hợp xã hội hướng vào những mục đích nhân sinh.
Có thể thấy văn học có tác dụng nhận thức, giáo dục, giao tiếp,.. nhưng không phải là nhận thức,
giáo dục, giao tiếp thông thường mà đều có một đặc điểm chung là ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp
góp phần mở rộng, nâng cao tinh thần, tâm hồn con người hướng về cái đẹp, cái hoàn thiện có thể
có trong từng nơi từng lúc.
NHÀ VĂN, CHỦ THỂ SÁNG TÁC VĂN HỌC 1.
Tư chất nghệ sĩ của nhà văn 0.
Người dễ xúc động và nhạy cảm
Trong khoa học, tình cảm chỉ nằm trong tiền đề sáng tạo, còn trong văn học, tình cảm nằm ngay
trong thành phần sáng tạo. Chính vì thế mà nhà văn, chủ thể sáng tạo, không thể chỉ có lý trí lạnh
lùng đã đành, mà cũng không phải chỉ có tình cảm thông thường hời hợt.
Yêu, ghét, vui, buồn, thương mến hay căm giận… thì ngay cả người bình thường cũng có nhưng ở
nhà văn những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương ấy được đẩy đến độ mãnh liệt.
Nhà văn phải là người biết vận nỗi đau mình vào nỗi đau người, cho nên anh ta là người có khả
năng thâm nhập vào đối tượng với con tim nóng hổi, chuyển cái khách quan thành chủ quan đến
mức “tưởng như chính mình sinh ra trong ấy”.
Nhà văn Nguyên Hồng cũng mang trong mình tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động. Ông khóc khi nhớ
đến bạn bè, đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt; khóc khi nghĩ đến đời sống khổ cực của nhân dân mình
ngày trước; khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đến công ơn của
Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lí tưởng cao đẹp của thời đại; khóc khi kể lại những nỗi
đau, oan trái của những nhân vật. Mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt từ chính trái tim
nhạy cảm ấy. b.
Người có trí tưởng tượng phong phú
Gorki từng nhấn mạnh, tưởng tượng là một trong những biện pháp quan trọng nhất để người nghệ
sĩ có thể xây dựng hình tượng. Có trí tưởng tượng phong phú nhà văn mới có khả năng tạo nên một
thế giới nghệ thuật độc đáo.
Chính nhờ tưởng tượng mà nhà văn có thể sống cuộc đời của hàng trăm nhân vật khác, như Balzac
cảm thấy được sự rách rưới của nhân vật trên lưng của chính mình và như mình đang đi đôi giày
thủng của họ. Sự hòa nhập vào nhân vật đến mức có khi nhà văn quên cả bản thân. Khi Phlobe viết
đến chỗ bà Bovary uống thuốc tự tử, thì chính ông cũng cảm thấy trong miệng có mùi thạch tín và rất buồn nôn.
Trí tưởng tượng còn giúp nhà văn phối hợp tổ chức toàn bộ tác phẩm với tính toàn vẹn của nó.
Nhà văn có thể sáng tạo ra được “thiên nhiên thứ hai” thống nhất nhưng không đồng nhất với cuộc
sống, không những phản ánh thực tại khách quan mà còn biểu hiện được tư tưởng, tình cảm phong
phú của mình. c.
Người có trí nhớ tốt
Nhà văn thuộc lòng những ấn tượng sinh động, những chi tiết, những dấu hiệu cụ thể do mình tự
quan sát, tưởng tượng, xúc động đem lại. Khi cần, nhà văn có thể hồi tưởng lại và chuyển hóa những
ấn tượng đó thành những hình tượng cụ thể cảm tính. Gớt có thể nhắc lại rành rọt nội dung một tác
phẩm định viết dở dang từ hơn 30 năm trước. Balzac nhớ rành rọt họ tên, lai lịch, hành động, ngôn
ngữ, cử chỉ của mấy nghìn nhân vật trong tiểu thuyết của mình… d.
Người có khả năng quan sát và tự quan sát
Nhà văn có thói quen và năng khiếu quan sát tinh tế những sắc thái và diễn biến tinh vi trong cuộc
sống, phát hiện được những ý nghĩa sâu xa trong từng chi tiết cùng những diễn biến đa dạng của lOMoAR cPSD| 58562220
nó. Họ không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào có thể quan sát được những ngóc ngách của cuộc sống:
Gôgôn tập trung quan sát sự vật đến mức như sờ mó được những đặc trưng tinh vi của nó, L.Tônxtôi
thường đi tàu hỏa với vé hạng bét để tiếp xúc được với những người nông dân, hoặc trực tiếp trò
chuyện hoặc lắng nghe họ chuyện trò với nhau…
Nhà văn giỏi lắng nghe những xúc động tinh vi của mình một cách đầy đủ và rõ ràng, từ đó tìm
được một cách biểu hiện độc đáo không giống một ai. Đặc biệt, đối với những nhà thơ trữ tình và
nhà văn viết tự truyện, những cảm xúc và suy tư vốn là một chất liệu trực tiếp của thành phẩm
sáng tạo. e. Người bộc lộ cá tính rõ nét nhất trong tác phẩm của mình
Nhà văn thường bộc lộ cá tính rõ nhất trong lĩnh vực của mình. Sự thật thì chỉ có một nhưng cách
nhìn, cách cảm của người nghệ sĩ muôn màu muôn vẻ làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của xã hội.
Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt , không tạo ra được tiếng nói, giọng điệu riêng thì đó là một sự tự sát
trong văn học một lĩnh vực tối kị sự nhai lại ngay cả đối với những chân lý quan trọng.
Thực tế không có sáng tạo nào sinh ra từ chân không. Nhà văn trước hết phải là người có một phông
văn hóa và vốn văn học phong phú.
→ Không phải nhà văn nào cũng tồn tại đủ những tư chất nghệ sĩ nói trên, mặc dù những mặt đó
cũng chưa phải là tất cả. Những tư chất đó cũng không tồn tại độc lập mà xuyên thấm và bổ sung
cho nhau, dựa vào nhau để phát huy tác dụng.
Những tư chất trên ít nhiều cũng có ở tất cả mọi người. Điều này cũng giải thích tại sao tác phẩm
văn học được sự đồng cảm rộng rãi và nhiều tài năng văn học xuất hiện bất ngờ trong quần chúng. 0.
Một số tiền đề của tài năng văn học 0.
Những phương tiện bẩm sinh vốn có
Trước hết, vấn đề di truyền cần được tiếp tục chứng giải một cách khoa học, kể cả khoa học tự
nhiên. Nhưng sự thực lịch sử cũng đã hình thành một ý niệm về “dòng dõi văn gia” mà ở nước ta,
Ngô gia văn phái là một ví dụ. Ở
Trung Quốc càng có nhiều ví dụ minh chứng về hiện tượng này. Đời Hán có hai cha con Tư Mã Đàm, Tư Mã
Thiên; đời Đường, ông nội Đỗ Phủ là Đỗ Thẩm Ngôn cũng vốn là nhà thơ…
Sự xuất hiện nhân tài nói chung, văn tài nói riêng dường như không phải không liên quan đến
thuyết “phong thủy” và quan niệm “địa linh nhân kiệt”. Không phải ngẫu nhiên mà ở nước ta, tỷ
lệ nhà văn ở Nghệ An, Nam Hà… là khá cao. Còn ở Trung Quốc, trong số 691 nhà văn nổi tiếng
từ cổ chí kim thì có những tỉnh không có ai, có tỉnh lại hơn trăm người. Như thế, việc tập trung
văn tài ở một số nơi là một thực tế, và đó chính là những cái nôi văn hóa, và các nhà văn ở thế hệ
sau lại ngày càng được ân hưởng nhiều hơn cái di sản địa - văn hóa này. b.
Những yếu tố
liên quan đến cuộc đời nhà văn
Ở đây, người ta thường nhắc đến quy luật “nghịch cảnh thành tài”. Anđecxen xuất thân bần hàn,
thân hình gầy yếu xấu xí, thất tình nhiều lần, lại bị người đời chê nhạo nhưng đã kiên gan vượt qua
những tủi nhục ấy, để trở thành nhà văn vĩ đại. Nhà văn Mĩ O. Henry, vốn làm kế toán ở ngân hàng,
bị vu đánh cắp tiền và phải đi tù năm năm, trong oan khuất, ông lại ra sức tự học và tập viết, cuối
cùng trở thành một nhà văn nổi tiếng với hơn ba trăm truyện ngắn xuất sắc… Xét thuần túy về mặt
tâm lý mà nói, ở đây có “nguyên lý bù đắp”. Khi gặp nghịch cảnh cuộc đời, người ta thường tìm
cách an ủi và tự an ủi theo “phép thay thế”. Hoặc có khi dùng “phép thăng hoa” biến đau khổ thành
sức mạnh để chứng minh phẩm giá của mình.
Các loại nghịch cảnh phổ biến mà ta thường thấy trong giới văn chương, có thể kể đến như nghịch
cảnh tuổi thơ hay nghịch cảnh trong tình yêu và hôn nhân.
Nghịch cảnh tuổi thơ không phải nói đến những thần đồng vốn được ân hưởng những điều kiện tiên
thiên mà nói đến những người về sau mới trở thành nhà văn tên tuổi thì thường có tuổi thơ đau buồn.
Tình yêu là đề tài phổ biến của văn học. Thông qua chủ đề này có thể thấy những vấn đề nhân bản
của con người như thiện, ác, tốt, xấu, khát khao bản năng… nhưng cũng đồng thời phản ánh quan lOMoAR cPSD| 58562220
hệ xã hội. Không phải ai bất hạnh trong tình yêu cũng có thể trở thành nhà văn nhưng nếu họ muốn
thì sẽ thuận tiện hơn để trở thành nhà văn. Bởi vì trong nguyên nhân bất hạnh tình yêu đã có những
nguyên nhân xã hội, từ nỗi đau riêng thầm kín của mình, họ có thể khái quát lên được mặt trái của xã hội.
Trong nỗi đau về tình yêu, các nhà văn thực hiện được “nguyên tắc bù đắp”. Ở đó có phép “thăng
hoa” khi họ dùng đau khổ để khẳng định lẽ sống cho cuộc đời mình. Nhưng ở đó có cũng tồn tại
phép “thay thế” khi họ dùng văn chương để giãi bày, tâm sự, tìm kiếm sự an ủi. 0.
Phương hướng củng cố và phát triển tài năng 0. Lập trường tư tưởng
Nói đến lập trường tư tưởng, trước hết là nói đến viết văn vì mục đích gì. Theo truyền thống của
ông cha ta, thì viết văn không phải vì văn chương. Cái nghịch lý đó có chứa đựng phép biện chứng
trong mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời.
Nguyễn Văn Siêu cho rằng có hai loại văn chương: có loại đáng thờ (chuyên chú ở con người), có
loại không đáng thờ (chỉ chuyên chú ở văn chương). Liên hệ với những quan niệm cơ bản của ông
cha ta, thì văn chương nghệ thuật, văn nhân nghệ sĩ không thể đứng trên, ở ngoài, mà phải nằm
trong sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Đúng như lời của nhà thơ Sóng Hồng: “Dùng ngòi bút làm đòn
xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.”. b.
Vốn sống
Nhà văn cần phải tích lũy vốn sống phong phú, lịch lãm, cần phải từng trải cuộc đời. Mác đã khen
Balzac là một người “nói chung hiểu biết cũng sâu sắc một cách kì lạ những quan hệ thực tế”. Phan
Huy Chú từng viết: “Văn tức là lẽ phải của sự vật xưa nay… Kẻ học giả ngoài việc đọc kinh sử,
còn phải xét hỏi sâu rộng, tìm kiếm xa gần.”. Nói chung, nhà văn phải đi nhiều. Hugo đi du lịch
Tây Ban Nha, Xecvantec đã sống bảy năm ở Italia, Gorki đã đi hầu khắp nước Nga để tìm hiểu
không biết mệt mỏi và về sau mới viết nên được Những trường đại học của tôi… Làm một nghề
khác để kiếm sống, dĩ nhiên cũng sẽ tăng cường rất nhiều cho vốn sống của nhà văn. Có thể kể đến
trường hợp Sống mòn có tính chất tự truyện của Nam Cao hay Dickenx nhờ nghề ghi tốc ký ở Nghị
viện Anh đã hiểu rõ bộ mặt thực của nhiều chính khách để đưa vào tiểu thuyết của mình. Lỗ Tấn
trước đây từng làm nghề y để cứu người, nhưng sau đó ông mới phát hiện ra rằng căn bệnh của
người Trung Quốc không chỉ là thể xác mà chính là sự ngu muội, dốt nát của họ mới cần phải được
mổ xẻ, cứu chữa. Từ đó, ông chuyển sang làm văn nghệ để chữa căn bệnh mà ông gọi là “quốc dân tính”.
Nhưng quan trọng hơn cả về mặt này là nhà văn phải tham gia trực tiếp vào công cuộc đấu tranh
cải tạo xã hội. Nhiều nhà văn Nga thế kỉ XIX như Pushkin, Lermontov, L. Tônxtôi đã tham gia vào
cuộc đấu tranh chống chế độ nông nô đến mức phải chịu khổ sai, tù đày, thậm chí hy sinh… Đảng
ta cũng luôn luôn giáo dục và cổ vũ nhà văn đi sâu vào cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ
sĩ cũng là những chiến sĩ trên mặt trận ấy.”.
Đi nhiều, tiếp xúc rộng rãi là cần thiết, nhưng mỗi nhà văn cần gắn bó lâu dài với một vùng quê
riêng mình, là một kinh nghiệm tốt. Giống như Nguyễn Thi với chiến trường Nam Bộ hay Chu
Văn với vùng công giáo Nam Định… Then chốt là ở chỗ nhà văn phải sống với tất cả quả tim
khối óc, với tất cả tâm hồn và nghị lực để nâng cái vốn sống lên thành chất sống. c. Trình độ văn hóa
Quá trình sáng tác đòi hỏi nhà văn phải thông qua năng lực tư duy của mình, mở rộng sự hiểu biết
từ vốn sống trực tiếp đến vốn văn hóa bằng con đường học hỏi gián tiếp qua sách vở. Vốn văn học
thể hiện trước hết ở sự làm chủ kho tàng văn học nghệ thuật của nhân loại. Truyện Kiều đã chứng
tỏ Nguyễn Du tinh thông văn thơ Việt Nam và Trung Quốc, cả nguồn bác học và dân gian. Truyện
kí và thơ của Hồ Chí Minh cho thấy Người am hiểu sâu sắc văn thơ cổ, kim, đông, tây.
Nhà văn còn phải hiểu biết một cách sâu rộng kiến thức thuộc về các lĩnh vực văn hóa khác. Tác
phẩm văn học là một loại sách giáo khoa về đời sống, nó đòi hỏi nhà văn phải có một kiến thức
phong phú rộng rãi về nhiều mặt. Đọc thơ Vương Duy, ta có thể thấy cả chất họa ở trong đó. Hay lOMoAR cPSD| 58562220
trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học
khác như: hội họa, điện ảnh, võ thuật… d. Kỹ thuật viết văn
Cũng như bất cứ ngành nghề nào khác, nhà văn cần phải có vốn nghề nghiệp đặc thù của mình. Đó
là trình độ vận dụng và sử dụng tất cả các phương tiện và kỹ thuật của tổ chức tác phẩm, biện pháp
biểu hiện, tả, kể cách thức khắc họa nhân vật, cách vận dụng thể loại, năng lực sử dụng ngôn ngữ…
Vốn nghề nghiệp này vô cùng quan trọng, nhưng nó phải gắn bó hữu cơ với vốn chính trị, vốn sống
và vốn văn hóa nói trên, nếu không, nó sẽ có nguy cơ biến nhà văn thành người thợ ghép chữ, ghép vần mà thôi.
→ Tất cả các vốn trên đều rất cần để hình thành, củng cố và phát triển tài năng của nhà văn. Giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. 0.
Những chặng đường chung nhất của một đời văn 0.
Thời kỳ chuẩn bị
Tùy theo sự xuất hiện sớm hay muộn, mà thời kỳ chuẩn bị có thể chỉ là thời niên thiếu, hoặc bao
gồm cả thời thanh niên, thậm chí còn bao gồm cả một phần thời trung niên. Sự chuẩn bị có thể rất
âm thầm, lặng lẽ, nhưng ít nhiều đều diễn ra trên ba bình diện.
Thứ nhất, là những kỷ niệm sống từ tuổi ấu thơ về gia đình, quê hương, những nỗi vui buồn khi đã
lăn lộn vào cuộc sống phong phú, phức tạp.
Thứ hai, là sự xúc động đến hứng thú đối với cái “thiên nhiên thứ hai” được hàm chứa từ những
tiếng ru dân ca, qua những kiệt tác văn chương của dân tộc và nhân loại lúc còn trên ghế nhà trường,
đến những sáng tác của các văn, thi sĩ đương thời…
Thứ ba, là những sáng tác chưa hề công bố từ những hình thức có phần bắt buộc như những bài
làm văn tả cảnh, tả tình trong nhà trường… đến những ngẫu hứng thành vần điệu, hoặc những
“giấc mơ ban ngày” với những tình tiết và nhân vật trong tâm tưởng mà chỉ có mình tự biết. b.
Thời kỳ hình thành văn tài
Thời kỳ này được đánh dấu bằng những tác phẩm đầu tay. Những tác phẩm này, nếu không mang
màu sắc tự truyện, thì cũng chan chứa những thể nghiệm độc đáo, mới mẻ của người viết trước
cuộc đời. Nó có thể còn non yếu, chưa thành thục nhưng lại chân thành, hăm hở.
Ví với tình yêu, thì tác phẩm đầu tay như là mối tình đầu, nghĩa là có thể hoặc là cứ thế tiến lên
đơm hoa kết trái hoặc chỉ là như ánh sao băng lịm tắt trong những lứa tuổi khác nhau. c. Thời kỳ
buồn lo để tự vượt lên trong sáng tạo
Đây là khoảng thời gian giữa tác phẩm đầu tay đến tác phẩm đỉnh cao tiêu biểu cho văn nghiệp của
mình, thời gian phải trên dưới 10 năm. Balzac viết vở bi kịch thơ đầu tay Crôm Oen vào năm 21
tuổi, đến năm 30 tuổi mới bắt đầu viết Tấn trò đời. L. Tônxtôi mở đầu sự nghiệp bằng những tập
tự truyện vào năm 25 tuổi, đến năm 35 tuổi mới viết Chiến tranh và hòa bình…
Rất hiếm trường hợp tác phẩm đầu tay đã là một đỉnh cao, nếu có xảy ra thì lại càng tạo ra sức ép
rất lớn đối với tác giả trong việc vượt qua chính mình. Phần lớn những tác phẩm đầu tay chỉ mới
chứng tỏ tác giả có một khả năng nhất định về văn học, thậm chí chưa thành công.
Dù trong trường hợp nào thì tác phẩm đầu tay cũng tạo ra một nỗi buồn lo cho tác giả trong việc
tìm tòi, sáng tạo để tự vượt mình, nếu họ vẫn muốn lập nghiệp trong văn chương. d. Thời kỳ
hoàng kim trong sáng tác
Thời kỳ này được đánh dấu bằng tác phẩm tiêu biểu trong đời văn của tác giả. Nó hàm chứa một
độ sung sức nhất định, là kết quả của trên dưới 10 năm buồn lo, tích lũy, nghiền ngẫm, thai nghén.
Nam Cao bén duyên với sự nghiệp viết văn khá sớm, từ năm 18 tuổi, ông đã bắt đầu viết những
truyện ngắn đầu tay như Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Tuy nhiên, tác phẩm đánh dấu thời kỳ đỉnh
cao trong sự nghiệp của Nam Cao là Chí Phèo thì được viết ở tuổi 26. Balzac có thời kỳ hình thành
văn tài là năm khoảng 30 tuổi với những tác phẩm như Miếng da lừa, Thầy thuốc, Đi tìm tuyệt đối.
Và từ năm 43 đến năm 51 tuổi, ông dành thời gian và tâm huyết tổng hợp và điều chỉnh những tác
phẩm của bản thân để viết nên bộ Tấn trò đời.
Khả năng để đạt được thời kỳ hoàng kim phụ thuộc chủ yếu vào tài năng của mỗi người, vả chăng,
con đường sáng tác cũng đồng thời là con đường sống, cho nên thời kỳ hoàng kim trong sáng tác lOMoAR cPSD| 58562220
còn phụ thuộc vào tuổi thọ của nhà văn. Những người nổi tiếng sớm thì thời hoàng kim sáng tác có
thể dài hơn, khi tuổi càng cao thì sự hoàng kim có thể càng giảm. e.
Thời kỳ hồi xuân trong sáng tác
Đây là những thời kỳ hoàng kim thứ hai trong một đời văn. Thời kỳ hoàng kim đầu tiên không thể
kéo dài mãi, mà đến lúc hao kiệt dần. Nhưng nếu xuất hiện tương đối sớm, mà tuổi thọ lại kéo dài,
thì rất có thể xuất hiện những thời kỳ “hồi xuân” tiếp theo. Bởi vì có những nhà văn có tác phẩm
tiêu biểu tương đối chậm, như Stăngđan viết Đỏ và đen lúc đã 53 tuổi, còn Xecvantec thì viết Đôn
Kihôtê lúc đã 58 tuổi… Ngược lại có những nhà văn thiên tài như Puskin hay Vũ Trọng Phụng thì
lại từ giã cõi đời quá sớm.
Khả năng có thời kỳ “hồi xuân” trong sáng tạo dù hiếm nhưng vẫn có, vì nói chung các nhà văn nổi
tiếng có tuổi thọ với một tỉ lệ khá cao, có những người thọ đến trên dưới 80 tuổi. Gớt chính là một
ví dụ điển hình, tác phẩm tiêu biểu Nỗi đau của chàng Vécte được viết lúc ông 25 tuổi, ấy thế nhưng
gần nửa thế kỷ sau, trước khi lìa đời, ông lại hoàn thành Phaoxtơ - hòn ngọc của nền văn học nhân loại.
→ Tài năng, nhất là trong sáng tạo nghệ thuật, thì bao giờ cũng khác thường, mà những chặng
đường trên kia, do đó, chỉ là khái quát chung nhất mà thôi. 0.
Đặc điểm của nữ văn sĩ 0. Khái niệm thiên tính nữ
Tâm lý học nữ giới cho rằng nữ tính bộc lộ những đặc điểm trên các mặt lòng tự tin, đồng cảm, sự
xã giao, sự chi phối hoặc tính thụ động… rất thích hợp cho các sáng tác nghệ thuật, trong đó có văn
học. Thiên tính nữ, nữ tính (Femininity) trong văn chương là đặc điểm, là nguyên tắc tư duy nghệ
thuật, cách thức tổ chức tác phẩm mang bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất và giá trị của phụ nữ. b.
Những đặc điểm tạo nên ưu thế của nữ giới trong sáng tác văn học •
Phái nữ rất giàu tình cảm, mang tâm hồn nhạy cảm và sức tưởng tượng phong phú
Đây là thứ mà các sáng tác nghệ thuật đòi hỏi rất nhiều. Tình cảm là biểu hiện tâm lý của con người
nói chung, nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt hơn, dễ xúc động, dễ nhạy cảm hơn rất
nhiều, đặc biệt là ở các nữ nghệ sĩ.
Cái lãng mạn của nam giới có phần lý trí hơn, đời hơn, thiên hướng hiện thực nhiều hơn. Còn trong
sáng tác của nữ giới lại rất nhẹ nhàng, đầy tinh tế; họ thường nhạy cảm với những gì liên quan đến
phẩm chất và tôn nghiêm của mình. Như trong bài thơ Anh đừng khen em của nhà thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ, chàng trai đã khen cô gái có cái nhìn đẹp, đôi má hồng tràn đầy sức sống; khen đức tính hiền
hòa, dịu dàng nâng niu con trẻ; khen lòng yêu thơ ca với niềm tương liên nhà thơ đã mất, lại giàu
cảm xúc với niềm chia sẻ cùng những phận đời buồn trong tiểu thuyết; và khen bao nhiêu nét đẹp
tinh thần khác…Trước những lời khen đó, cô gái trẻ đang bước đầu trở thành nhà thơ bỗng đâm ra
lo sợ sự sụp tối của tâm hồn mới bừng sáng cùng với nỗi héo hon, úa tàn của những phẩm chất về
tính cách, nội tâm và năng khiếu nghệ thuật ngôn từ. Nổi bật hơn vẫn là lo sợ phẩm chất người nữ
trong mình sẽ tiêu hao, lụi tắt, cô gái trẻ vu vơ trách móc chàng trai đã bày tỏ lời khen ngợi kia là
nông nổi. Khi nói những lời khen kia là nông nổi, phải chăng Lâm Thị Mỹ Dạ còn khiêm tốn cảm
thấy mình chưa có đủ những phẩm chất tinh thần được ngợi khen kia?
Nữ văn hào G. Xăng đã từng viết: “Nhiều lúc tôi thoát khỏi bản thân mình và nghiễm nhiên biến
thành một cây cao, có lúc tôi lại tưởng tượng là ngọn cỏ lùa, hoặc một con chim đang bay, một
luồng nước chảy, có lúc là ngọn cây, là chòm mây, là nơi tiếp giáp giữa trời đất, cũng có lúc tự thấy
mình là màu sắc này, là hình thể kia thoáng chốc biến hóa, đi về không vướng víu…”. Qua từng
trang văn, dòng thơ của các nữ văn sĩ, người đọc luôn cảm thấy dạt dào cảm xúc dù ở cương vị nào hay hoàn cảnh nào. •
Có sự quan sát tinh tế
Quan sát tinh tế ở đây có nghĩa là tìm ra sự kiện, sự việc, chi tiết có ý nghĩa lí thú, khái quát. Theo
nghiên cứu, nữ giới phân biệt màu sắc nhanh nhạy hơn nam giới nên thị giác thường phát triển sớm
hơn. Nữ giới kết hợp giữa việc giàu tình cảm, sức tưởng tượng phong phú và có óc quan sát tinh tế
thực sự rất thích hợp với sáng tác nghệ thuật, trong đó có văn học. lOMoAR cPSD| 58562220
Không những vậy, các nữ nhà văn còn có sự quan sát tinh tế về chính bản thân mình. Thơ trữ tình,
văn tự truyện là nơi bộc lộ tự quan sát rõ ràng nhất, đây cũng là lý do khiến các sáng tác của các
nữ nhà văn nhà thơ thường mang màu sắc tự truyện. Năng lực ngôn ngữ
Riêng về mặt sáng tác văn học, nữ giới còn có một ưu thế nữa là năng lực ngôn ngữ. Ngôn từ thường
mượt mà, dịu dàng, ấm áp, giàu hình ảnh và đậm sắc thái trữ tình do những đặc trưng về bản tính
giàu tình cảm ở phái nữ. Có thể nhắc đến nhà thơ Xuân Quỳnh - một nữ thi sĩ luôn mang trong
mình một tình yêu bất diệt nên những vần thơ của chị đậm chất lãng mạn với những ngôn từ giàu
cảm xúc, chất thơ trữ tình: “Những ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ / Những ngày
không gặp nhau / Lòng thuyền đau - rạn vỡ”. c. Những hạn chế của nữ giới trong sáng tác
Mặc dù có những đặc điểm đầy ưu thế nhưng nữ văn sĩ vẫn không thực sự phát triển như nam văn
sĩ, vẫn có những hạn chế so với đòi hỏi của việc sáng tạo ra những kiệt tác trong văn học.
Trước hết, văn là đời, đời với những chiều kích bao la về không gian thời gian, với những xung đột
xã hội phức tạp của nó. Nhưng diện sống của nữ giới không thật rộng. Cường quyền, nam quyền,
thần quyền từ bao đời nay cứ ràng buộc người phụ nữ trong vòng sống của gia đình. Giấc mơ của
phụ nữ thường bị bó hẹp ở những câu chuyện thường nhật xảy ra trong nhà, khác hoàn toàn với
nam giới là những câu chuyện ngoài đường, những cảnh lạ lẫm. Sáng tác của nữ giới hạn chế ở sự
đa dạng của đề tài, ở tầm khái quát hiện thực xã hội rộng lớn. Nguyễn Ngọc Tư là một ví dụ, các
sáng tác của chị gói gọn trong những vấn đề về gia đình, xã hội đương thời, chỉ gắn với không gian
nhỏ hẹp của một làng, xã, huyện.
Thứ hai, đó là sự thiếu hài hòa, cân bằng giữa tình cảm và lý trí. Văn nghệ nói chung, văn học nói
riêng là câu chuyện tình cảm, nhưng tình cảm sâu sắc, thường phải kết hợp với trí tuệ, với lý trí đã
chín muồi. “Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất trực tiếp của tư duy”, thế nên văn học là loại hình nghệ
thuật có ưu thế nhất trong việc bộc lộ những tình cảm sâu sắc đó. Chị em lợi thế về tình cảm và
ngôn ngữ, nhưng lại chưa tìm được sự cân đối, hài hòa với lý trí, trí tuệ. Họ thường có thiên hướng
ôn hòa, không thích “mổ xẻ”, “khám phá”...
Cuối cùng, các sáng tác văn học của các cây bút nữ thường tập trung vào một số tính chất và phạm
vi nhất định. Đầu tiên, sáng tác của họ thường mang màu sắc tự truyện, bởi vì diện sống nói chung
không được sâu rộng. G. Plobe đã từng nhận xét rằng phụ nữ không viết gì khác mình, và nữ thi
hào vĩ đại Hồ Xuân Hương của chúng ta cũng có phần như vậy. Không khó tìm thấy trong những
bài thơ rất mực độc đáo kia một cảnh ngộ riêng tư, một thân phận của người con gái tài hoa, tràn
trề sức sống, nhưng cuộc đời lại gặp bao nỗi éo le.
Tiếp theo, sáng tác của phụ nữ hay tập trung về đề tài tình yêu, bởi vì ái tình là lĩnh vực tình cảm
mãnh liệt nhất của con người, lại gắn với cảnh sống của gia đình với một diện sống không quá bao
la, rồi tình yêu lại mang “vị đắng”, mà người phụ nữ phải nếm trải nhiều nhất trong bao đời nay.
Những cây bút nữ của Việt Nam không chỉ viết về tình yêu, nhưng rõ ràng đề tài này chiếm một vị
trí khá lớn, là đặc điểm chung trong sáng tác của họ. Tình yêu trong câu chuyện của Nguyễn Thị
Ấm hiện ra với bao nhiêu cung bậc và sắc thái khác nhau, có dữ dội đớn đau của một người tu hành
với cô gái trẻ (Những kẻ ra đi) hay như một tiền định (Tiếng đàn đáy), hoặc như một phát tích từ
kiếp trước qua kiếp này để nối tiếp mãi ở kiếp sau (Nguyệt cầm). Hêghen từng nhận xét rằng, tình
yêu được biểu hiện rất đẹp ở nữ giới bởi vì họ đã đem toàn bộ đời sống hiện thực và tinh thần tập
trung vào tình yêu, hoặc triển khai ra cũng thành tình yêu (Mỹ học). Một nữ văn sĩ nước ngoài cũng
từng khẳng định: “Thượng đế sáng tạo ra nàng, là để nàng yêu và duy trì thế giới này.”.
Theo nữ phê bình Đặng Anh Đào thì “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn
họ vào trang sách, hoặc nói như phương Tây… họ tự ăn mình.”. Tuy nhiên, các cây bút nữ không
phải chỉ có loại “tự ăn mình”, mà còn có người như Trầm Hương biết khai thác thêm vốn khác của mình.
→ Có thể nói, giới tính mà hiện thời chúng ta cảm thức được mang một nội dung xã hội - lịch sử ở
giai đoạn nhất định. Đặc điểm giới tính của nữ văn sĩ không phải nhất thành bất biến. Chúng ta
hoàn toàn có thể đặt niềm tin nhiều hơn vào nữ giới trong nền văn học hiện đại. lOMoAR cPSD| 58562220
TƯ DUY NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN 1.
Tư duy hình tượng là cơ sở của tư duy nghệ thuật 0.
Tư duy hình tượng là gì?
Tư duy là từ ngữ chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác sửa đổi và cải tạo thế
giới thông qua hoạt động vật chất, làm cho con người có nhận thức đúng đắn về sự vật xung quanh,
đồng thời có cách ứng xử với nó. Là sự phản ánh quá trình nhận thức ở trình độ cao, sự nhận thức
một cách khái quát, tích cực, gián tiếp và sáng tạo về thế giới qua các khái niệm, phán đoán. Tư
duy là một quá trình sáng tạo giúp con người học hỏi, rèn luyện để có tri thức biết nhận diện vấn
đề và cách giải quyết những vấn đề đó.
Để chiếm lĩnh đối tượng của mình, trong lĩnh vực văn nghệ hình thành một kiểu tư duy đặc biệt
gọi là tư duy nghệ thuật. Có thể chia tư duy của con người làm ba bình diện khác nhau: tư duy
hành động - trực quan, tư duy khái niệm - logic, tư duy hình tượng - cảm tính. Nghệ sĩ xây dựng
nên hình tượng nghệ thuật dựa trên cơ sở các loại tư duy hình tượng - cảm tính, và hình tượng
nghệ thuật chính là sự biểu hiện những quan niệm khái quát về cuộc sống dưới hình thức cụ thể,
cảm tính như hình thức của bản thân đời sống. Tư duy hình tượng - cảm tính không phải là độc
quyền của văn nghệ, nhưng là cơ sở của tư duy nghệ thuật. b.
Hình tượng nghệ thuật là gì?
Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo
quy luật. Đó là chất liệu cụ thể mà chúng ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng; qua đó
thấy được tư tưởng, tình cảm của tác giả. Nói cách khác, hình tượng nghệ thuật là yếu tố kết tinh
giá trị tư tưởng, tình cảm của tác giả, nhân vật trung tâm của tác phẩm văn học với những đặc điểm cơ bản.
Nó là khách thể tinh thần đặc thù bởi nó tồn tại độc lập với ý thức chủ quan của nhà văn, độc lập
với ý muốn của người đọc. Hình tượng nghệ thuật với tư cách là phương thức tồn tại của nghệ thuật
sẽ xác định đặc trưng trọn vẹn của nghệ thuật.
Theo ý kiến của Trần Đình Sử, “Hình tượng nghệ thuật là tồn tại bản thể của nghệ thuật nói chung
và văn học nói riêng. Hình tượng nghệ thuật là tiêu điểm sáng tạo của nhà văn, làm cho văn bản
ngôn từ trở thành văn bản nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật luôn luôn sống động và đa dạng.”.
Đến với thế giới văn học, ta bắt gặp Chí Phèo của Nam Cao. Bằng ngòi bút sắc bén của mình, ông
sử dụng ngôn từ để vẽ nên Chí, từ anh nông dân hiền lành bỗng trở thành “con quỷ” của làng Vũ
Đại. Hắn mang trong mình đặc sắc riêng: hắn mãi chìm sâu vào cơn say, cứ say là hắn chửi. Nam
Cao đã xây dựng nhân vật Chí như một chân dung điển hình cho những người nông dân bế tắc lâm
vào bước đường cùng để rồi mất dần đi cả nhân hình, nhân phẩm, họ phản kháng lại bằng con
đường lưu manh hóa… c. Tư duy về hình tượng nghệ thuật
Trong văn học, để nghiên cứu và giảng dạy thì việc tư duy để tìm ra ý nghĩa, giá trị tác phẩm văn
học, giúp cho học sinh có sự nhìn nhận sâu sắc bên cạnh sự cảm nhận để phát hiện ra những “lí lẽ
trái tim” là vô cùng quan trọng.
Nó vừa có giá trị thể hiện những nét cá biệt, không lặp lại, làm bộc lộ bản chất của một loại người
hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người nghệ sĩ. Trong quá trình tư duy về tác phẩm
văn học, việc tư duy về hình tượng nghệ thuật đóng vai trò quan trọng. Sự nhận thức đi sâu vào
khám phá những lớp nghĩa, những tầng sâu xa bên trong các hình tượng nghệ thuật, phát huy tính
sáng tạo của người tiếp nhận. 0.
Thể nghiệm trong tư duy nghệ thuật
Karl Marx từng nói: “Động vật trực tiếp đồng nhất với hoạt động sinh mệnh của nó. Nó không hề
phân biệt giữa nó với hoạt động sinh mệnh của mình. Trái lại, con người biết đem đến hoạt động
sinh mệnh bản thân biến thành đối tượng của ý chí và ý thức của mình. Hoạt động sinh mệnh của
nó là có ý thức. Nhưng không chỉ trong tư duy, mà con người còn khẳng định mình trong thế giới
đối tượng bằng toàn bộ cảm giác của mình.”. Muốn khám phá con người kể cả những biểu hiện bên
ngoài, phải đi sâu vào thế giới bên trong của nó, vì tất cả những hoạt động con người đều mang tính ý thức…