



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220
10 nhận định về tinh thần nhân đạo trong văn chương
1. Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi
xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim hòa cùng một nhịp với sự
run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, nhịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi
ca...Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là ở lòng thương người và rộng ra thương cả muôn
vật, muôn loài. (Hoài Thanh)
2. Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con
người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là
cảm hứng bao trùm. ( Hoài Thanh)
3. Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người. (Van Gogh). 4. Một nghệ sĩ
chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. ( Sê Khốp)
5. Nhà văn là người cho máu. ( Elsa Triobet).
6. Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ. ( Lâm Ngữ Đường).
7. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành
tinh lặng ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. ( Nadimetlicmet).
8. Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú
nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. ( Đặng Thai Mai)
9. Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những
tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “ tình thương, lòng thương người”. ( Lê Chí Viễn )
10.Người vẫn còn mang vết thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề
viết và người viết cũng đơn giản vậy, chữa lành, an ủi những vết thương của người đời để làm
dịu vết thương của chính mình. ( Nguyễn Ngọc Tư).
CÁC TỪ KHÓA LÝ LUẬN VĂN HỌC
1.Nhân vật văn học.
Có nhà văn từng nói: “ Con người là điều thú vị nhất đối với con người; Và con người
cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất của
văn học. Nhân vật là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong TP
VH.- cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện của nghệ thuật ngôn từ. Và mỗi
nhà văn sẽ tập trung tất cả các hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc sống vào nhân
vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật,
chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội thời bấy giờ và nỗi niềm của nghệ
nhân khi đứng trước nó. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần
tạo nên thành công của một TP, như “xương sống của một con người” vậy.
2. Chi tiết nghệ thuật. lOMoAR cPSD| 58562220
Người ta cứ nghĩ để tạo nên một TP nghệ thuật thì phải đi tìm những thứ to tát ở một
nơi xa xôi, phải thoát ly hiện thực đau khổ để tìm đến điều mơ tưởng. Không phải vậy, nhà
văn- người sáng tạo ra cái đẹp- có thể chỉ tìm được nghệ thuật cao quý từ những điều bình
thường nhất, nhỏ bé nhất mà lại nói lên được điều vĩ đại. “Chi tiết nhỏ” là những sự kiện,
sự việc bình thường trong một TP dường như ban đầu đọc qua ta chỉ nghĩ nó có tác dụng
phản ánh hiện thực khách quan mà khi đọc kĩ càng ta lại phát hiện trong đó một giá trị tư
tưởng lớn có ý nghĩa giáo dục và thẩm mĩ cao. “Chi tiết nhỏ” nhưng mang giá trị nghệ
thuật đặc sắc góp phần khẳng định lập trường và tài năng của nhà văn. 3. Giá trị nhân đạo
Sứ mệnh cao cả của nhà văn là khám phá cái đẹp cao cả của cuộc sống và chuyển tải
đến người đọc thông qua TPVH. Con người với tất cả niềm vui hạnh phúc, khát khao và
những nỗi buồn đau luôn trở thành nguồn cảm hứng dồi dào của văn học và là mối quan
tâm hàng đầu của nhà văn. Nhà văn chân chính luôn trăn trở, day dứt trước cuộc sống và
con người. TP của họ dù viết theo đề tài nào cũng vẫn để bày tỏ “lòng thương và tình bác
ái, để người gần người hơn”. TP văn học chân chính là SP của nhà văn nhân đạo chủ nghĩa.
Qua những cảnh ngộ, nhà văn muốn người đọc cùng chia sẻ, đồng cảm, bệnh vực và ca
tụng con người, ca ngợi tình người. Những TP như thế sẽ trường tồn và được độc giả yêu thích.
4. Giá trị hiện thực
Gandi từng khẳng định: Không có nghệ thuật nào là không hiện thực. Cuộc sống là nơi
bắt đầu và là nơi đi tới của văn chương. Hơn bất cứ một loại hình nghệ thuật nào, văn học
gắn chặt với hiện thực cuộc sống và hút mật ngọt từ nguồn sống dồi dào đó. Ai đó đã từng
ví văn học và cuộc sống như thần Ăngtê và đất mẹ.. Thần trở nên vô địch khi đặt hai chân
lên đất mẹ cũng như văn học chỉ cường tráng và dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực đời
sống. Đầu tiên và trên hết , văn chương đòi hỏi chất hiện thực. Hiện thực xã hội là mảnh
đất sống của văn chương, là chất mật làm nên tính chân thực, tính tự nhiên, tính đúng đắn,
tính thực tế của TPVH. Một TP có giá trị hiện thực bao giờ cũng giúp người ta nhận thức
được tính quy luật của hiện thực và chân lý đời sống. Những TP kinh điển bao giờ cũng
chở được những tư tưởng lớn của thờ đại trên đôi cánh của hiện thực cuộc sống. Cánh diều
văn học dù bay cao, bay xa đến đâu vẫn gắn với mảnh đất cuộc sống bằng sợi dây hiện
thực mỏng manh mà vô cùng bền chắc.
5. Cá tính của nhà văn
Bản thân nghệ thuật (trong đó có văn chương) là lĩnh vực của cái mới lạ, cái đẹp, mà
trong cái đẹp đã bao hàm sự độc đáo. Vì thế nó đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ năng lực
sáng tạo. Quá trình sản xuất TPVH là quá trình sản xuất riêng lẻ, cá biệt. Nó không chấp lOMoAR cPSD| 58562220
nhận sự sản xuất hàng loạt dập khuôn., máy móc. Người nghệ sĩ phải là người vừa thiết kế
vừa thi công công trình của mình chứ không phải là ai khác. Nói như Xuân Diệu: “Sáng
tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm. Và khi thơ ca ra đời nó phải đem lại cho người
đọc điều người ta chưa biết, chưa rõ, những điều mới lạ trong cuộc sống. Mà muốn thực
hiện được điều đó thì không dễ dàng một chút nào, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong
cách nổi bật” . Bản thân một nhà văn chân chính không thể giẫm lên con đường mà người
khác đã mở. Họ muốn tìm tòi, khám phá, sángtạo. “Khơi những nguồn chưa ai khơi và
sángtạo những gì chưa có” (Nam Cao). Nếu không có phong cách thì, trước hết là không
khẳng định được mình, bản ngã mình, cái tôi của mình. Phong cách cũng là sức mạnh của
người nghệ sĩ trong thiên chức của mình, bởi phong cách “tức là có nét gì đó rất riêng, mới
lạ thể hiện trong TP của mình”. 6. Ngôn ngữ thơ
Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường nét là ngôn ngữ
của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn ngữ là chất liệu của TP văn
chương. Macxim Gorki đã nói: “ Ngôn ngữ là yếutố thứ nhấtcủa VH”. Tuy nhiên, tùy vào
đặc trưng thể loại , ngôn ngữ trong mỗi loại thể văn học có những đặc điểm riêng. Là nghệ
thuật “Lấy ngôn từ làm cứu cánh” (Jakobson). Ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng
trong thơ. Đó là thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở một trình
độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ, tinh tế của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là một
phương tiện hình thức luôn được coi trọng, là một giá trị không thể phủ nhận trong yếu
tính thơ, vì “thơ là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu
hiện tập trung nhất tính hàm súc, phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, màu sắc
(tính họa) vừa giàu nhạc điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên
hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa.
7. Tình huống truyện.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã coi tình huống là “ cái tình thế nảy ra truyện”, là “lát
cắt” của đời sống mà qua đó có thể thấy được cả trăm năm của đời thảo mộc, là một khoảnh
khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người,
thậm chí cả một đời nhân loại”. Trong TP tự tự, tình huống có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với việc thể hiện số phận và tính cách nhân vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là
chìa khóa đi vào thế giới nghệ thuật TP. Tình huống là một khoảnh khắc của dòng chảy đời
sống mà qua khoảng khắc ấy thấy được vĩnh viễn, qua giọt nước ấy thấy được đại dương.
Khoảnh khắc rất ngắn ngủi chỉ trong thoáng chốc, đến và qua thật nhanh. Nó tựa như giọt
nước giữa đại dương vô tận, như lát cắt của một thân cây. Nhưng thật kỳ diệu, từ những
khoảnh khắc nhỏ ấy, người đọc khám phá được cái vĩnh viễn, cái chân lý của cuộc sống
mà nhà văn gửi gắm trong TP. lOMoAR cPSD| 58562220
CÁC NHẬN ĐỊNH LÝ LUẬN VĂN HỌC
LÝ LUẬN VĂN HỌC VỀ THƠ
1. Ngôn ngữ của thi ca khác với ngôn ngữ của đời sống ở chỗ là nó gợi ra được
những liên tưởng phong phú, khơi dậy ở tâm hồn con người những rung động sâu
xa, biến những tầm thường của đời sống thành những gì lãng mạn cao cả. (Lâm Ngữ Đường)
2.Thơ là thanh nam châm có sức hút diệu kỳ. Một người không yêu thơ khi đọc mấy
vần thơ cũng sẽ tìm thấy cho mình được vài lời hay ý đẹp. Ấy là thơ đã làm cho họ thấy
được điều cần thấy ở thơ rồi. (Lâm Ngữ Đường)
3. Muốn hiểu được thơ thì phải bóc lớp vỏ ngôn ngữ ấy ra, hãy tận hưởng mùi hương
vani hay mùi xạ hương trong tầng sâu của nó. (A.Puskin)
4. “Bản chất của thơ là thơ ngây, là bất thường, là xuất kỳ bất ý, là tiếng nói của tâm
linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người.
Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là “Kinh thánh của tâm hồn”.
(Thanh Thảo – nhà thơ nổi tiếng với bài “Đàn ghita của Lorca)
5. “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta” (Lê Quý Đôn)
6.: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. (Ngô Thì Nhậm.) 7.
Nhạc điệu là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ. ( Hoàng Cầm) 8.
“Thi ca có một đặc tính kì lạ. Nó trả lại cho chữ cái tươi mát, trinh bạch ban
đầu. Những chữ tả tơi nhất mà chúng ta đã nói cạn đến cùng, mất sạch tính
chất hình tượng, đối với chúng còn lại chẳng khác gì một cái vỏ chữ. Những
chữ ấy trong thi ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. (Pau-tốp-xki (Nga): lOMoAR cPSD| 58562220 9.
“Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”. (Phùng Quán) 10.
“Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ” (Maiacopxki). 11.
Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân trong không gian, tạo thành
các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả. ( Trần Thiện Khanh) 12.
Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được
dồnứ từ những biến cố, những kỷ niệm; có khi là một nỗi nhớ quặn lòng. ( Puskin) 13.
Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ
chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra
những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)
14. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt. Mỗi
giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)
15. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)
16. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)
17. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy
và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng)
18. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa để mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa. lOMoAR cPSD| 58562220 (Chế Lan Viên)
19. Thơ chỉ bật ra khi trong tim cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)
20. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)
21. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)
22. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. (Maiacopxki)
23. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)
24. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)
25. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. (Tô Hoài)
26. Tôi không mê những nhà thơ thần đồng. Tôi ưa những nhà thơ một nắng hai
sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ.
“Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một
đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu lên bảy triệu bông
hoa để làm nên một gam mật.” (P.Povlenko)...
27. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho chính mình. (C. lOMoAR cPSD| 58562220 Mác).
28. Thơ là ngọn lửa thần. ( Đéc- gia- vin).
29. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. ( Lưu Trọng Lư).
30. Thơ là rượu của thế gian. ( Huy Trực)
31. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thi ca. ( Etga Po) 32. Thơ là sự sung mãn
của tình cảm mãnh liệt. ( Ban Zắc). 33.
Thơ là chuyện đồng điệu. ( Tố Hữu). 34.
Thơ là tiếng gọi đàn. ( Xuân Diêul). 35.
Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng
hay những giọt nước mắt đắng cay. (Raxum Gamzatop). 36.
Thơ là người thư kí trung thành của trái tim. ( Đuybralay). 37.
Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương. ( Ponvaleri). 38.
Thơ ca phải say mới thích. ( Tố Hữu). 39.
Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. ( Sóng Hồng). 40.
Thi sĩ không phải là người, nó là người mê, người say, người điên.
Nó là tiên, là ma, là quỷ. ( Chế Lan Viên). 41.
Tôi đã thử đánh rơi trang giấy mình xuống nước
Thơ không thể tự hơ khô trang giấy của mình
Nhưng mặt trời tình yêu, bạn ơi có thể Làm
ký ức nhòe rồi bỗng lại tươi xanh. ( Phạm Tiến Duật) 42.
Để gieo được một hạt ý tưởng có thể phải ngã gục trên cánh đồng đày ải tư duy. (Trần Quang Quý) 43.
Mỗi con thú đều có cái khéo léo riêng, đều có cách riêng để thoát
khỏi sự săn bắt; mỗi người thợ săn đều có cách riêng để tìm bắt
được thú. Cũng vậy, mỗi nhà văn đều có cách làm việc riêng, dấu ấn riêng. ( Rasult Gamzatov) 44.
Nghệ thuật nếu không gắn liền với đời sống thì nó chỉ như một
bông hoa ác đẫm máu mà thôi. ( Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài- Nguyễn Huy Tưởng). 45.
Khi con mưa mùa xuân rơi ở đâu đó
Thì trên đồng xào xạc cỏ và hoa
Khi giọt nước mắt rơi từ đôi mắt thi sĩ
Thì những lời chân chính được sinh ra. (Gamzatov) lOMoAR cPSD| 58562220 46. Người thơ Không rắc nước hoa
Lên những bông hoa mình trồng . ( Trần Dần) 47.
Xây một tập thơ phá một nhà tù. ( Trần Dần). 48.
Người đọc tìm đến nhà thơ, là để đòi hỏi một cách sống, không
phải chỉ hỏi lý tưởng nhưvới một nhà triết học, mà hỏi cách cảm
xác, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét như với một người yêu. 48.
Bạn đọc cần đến thơ như tâm hồn thứ hai của họ Ngoài tâm
hồn họ ra, họ cần thêm một tâm hồn.
Sao anh tả cảnh, tả nhà, tả ao, tả phố...
Để thêm anh vào họ rồi, cho họ trăm thứ rồi, họ vẫn cô đơn. (Thơ và bạn đọc). 49.
Tôi lật nhanh li ti bụi chữ
Đốt lò tâm linh chơi trò chơi luyện thơ (Nguyễn Duy)
LÝ LUẬN VĂN HỌC VỀ TRUYỆN
1. Nếu tình huống truyện tạo ra bước ngoặt của tác phẩm thì chi tiết nghệ thuật lạilà
cái bánh lái bẻ nên đường cua tuyệt diệu ấy. (Lê-ô-nốp -Lê-ô-nit)
2. Nhân vật là bản sao của đời sống nhưng không phải là bê nguyên xi trần trụi
vàotác phẩm mà đã được nhà văn gọt giũa bằng lớp lớp ngôn từ nên khi vào tác
phẩm nhân vật đã trở thành hình tượng nghệ thuật. (Lê-ô-nốp -Lê-ô-nit)
3. Hình tượng con người vô danh trong tác phẩm thường được các nhà văn xâydựng
một cách chỉn chu, có số phận, có cá tính, tâm lý và đôi khi hội tụ đầy đủ mọi
phẩm hạnh. Tuy nhiên nhà văn không định danh, và vì không định danh nên nhân
vật mãi mãi là những ám ảnh day dứt trong tâm hồn bạn đọc. (Mạc Ngôn – nhà
văn đạt giải Nobel văn học của Trung Quốc) lOMoAR cPSD| 58562220
4. Nhà văn là người mở đường cho bạn đọc bước vào thế giới thứ hai – cái thế
giớiluôn song song tồn tại với thế giới thực – nhưng con người sẽ không bao giờ
nhận ra cho đến khi bắt gặp ở ngoài kia một cuộc đời, một số phận giống như thế. (Mạc
Ngôn – nhà văn đạt giải Nobel văn học của Trung Quốc)
5. Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấccho
những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân
tường để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh vực. (Nguyễn Minh Châu)
6. Trong cuốn “Cảm nhận văn học”, giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng: “Tác phẩm nghệ
thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa: mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài,
đồng thời mang được sự thật tâm tình của con người”.
7. “Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh mới về hình thức, một khám phá mới
về nội dung” (Leonit Leonop)
8. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng” (Aimatop)
9. Bất kì một người nghệ sĩ chân chính nào đều phải bước trên con đường độc đạo
của chính mình, họ đều phải trở thành những nốt nhạc lạ trên cung đàn văn học.
10. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học (M.Gorki)
11. Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội họa, âm thanh
đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng,văn học là nghệ thuật
của ngôn ngữ. Những nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong
sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng.
12. Sáng tạo chi tiết độc đáo đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm ngặt, sao cho cô
đọng, hàm súc, ấn tượng, ám ảnh.
13. Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm.- Pau top xki.
14.Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ. (Sê-khốp)
15. Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng
lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Trăng sáng, Nam Cao) lOMoAR cPSD| 58562220
16. Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)
17. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưnglà
tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng
đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau
cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” (Nguyễn Khải)
18. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội
dung.”(Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)
19. Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ
những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam)
20. Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả
trong văn chương thì thật là đê tiện. (Đời thừa, Nam Cao)
21. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hêghen)
22. Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng
kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và
ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn
vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật. (Ai-ma-tốp)
23. Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (M. Go-rơ- ki)
24. Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. (Hoài Chân)
25. Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. (Nguyễn Tuân)
26. “Môt ṭ ác phẩm nghê thuậ t chân cḥ
ính không bao giờ kết thúc ở trang cuối
cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)
27. Tô Hoài: “Truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống”
28. Pauxtopki:”Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn , trong đó cái không bình
thường hiện ra như một cái gì đó bình thường, và cái bình thường hiện ra như một
cái gì không bình thường” lOMoAR cPSD| 58562220
29. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô của chim muông què quặt, của
hành tinh lạnh ngắt nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người
30. Văn như con người của nó, văn thâm hậu thì con người nó trầm mà tỉnh, văn ôn nhu
thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm mà
giản, văn hùng hồn thì con người nó cương và nhanh, văn chuyên sâu thì con người
nó thuần túy mà đứng đắn.
31. Trong một nhân tài thì một phần mười là thiên bẩm và chín phần mười là nước mắt và mồ hôi.
32. Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người đọc bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về
những điều, nhưng việc ai cũng biết cả rồi.
33. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. ( Thạch Lam).
34. Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn mang lại, mà quan tâm
đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn luôn rộng hơn bất
cứ một câu trả lời cặn kẽ nào. ( Claudio Magrit).
LÝ LUẬN VĂN HỌC HAY ( CÓ THỂ ÁP DỤNG CHO CẢ THƠ VÀ TRUYỆN)
1.Khi cảm xúc chín muồi trong trái tim người nghệ sĩ, đấy là lúc ngôn từ thấm nhuần
trên trang viết của văn nhân.
2. Giống như cây xanh ngoài kia hút dinh dưỡng từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải
bắt rễ sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó tỏa ra những tán lá rộng dày góp
phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
3. Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ
thuật trong tay mình đã đến đào xới mảnh đất để lật lên những vỉa hiện thực và
tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó.
4. Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào, văn học là đứa con được nuôi dưỡng từ
dòng sữa ngọt lành của bà mẹ cuộc sống. Như Tố Hữu đã từng nói: “ Cuộc đời
là nơi bắt đầu và là nơi đi tới của văn chương”. lOMoAR cPSD| 58562220
5. Bất tử, vĩnh hằng, vượt khỏi sự băng hoại của thời gian và không gian và không
thừa nhận cái chết. Đó luôn là một niềm hạnh phúc lớn lao đồng thời cũng là một
sứ mệnh đau đớn không thể chối từ khi nhà văn sáng tạo nên tác phẩm.
6. Mỗi tác phẩm là một văn bản ngôn từ hoàn chỉnh mà thông qua nó nhà văn muốn
gửi gắm những suy ngẫm, cách đánh giá của mình về thế giới nhân sinh.
7. Một tác phẩm văn học chỉ thực sự tồn tại khi mà nhân vật thôi câu chuyện của
họ, ta gấp sách lại, ấy là lúc cuộc sống của họ mới thực sự bắt đầu. “Tác phẩm”
sẽ không chỉ là một “quyển sách” khi người ta ý thức được về nó. Người đọc là
người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa
cuộc đời và hồn người. Cảm kích trước tấm lòng của bạn đọc, tác phẩm tái sinh
trong lòng họ, và ban cho họ những xúc cảm thẩm mĩ riêng biệt.
8. Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người ( George
Sand nhà tiểu thuyết nổi tiếng người Mĩ).
9. Cuộc sống trôi đi, bốn mùa vẫn luân chuyển, sự vật cứ bị cuốn vào vòng xoáy
của thời gian. Sinh ra, tồn tại, rồi lại tan biến vào hư vô. Có chăng thứ còn lại
mãi với đời chỉ là cái đẹp. Chính vì lẽ đó, vượt qua bao sự băng hoại.
10. Văn chương chân chính không phải là kiếp ve sầu của mùa hạ, cũng chẳng giống
như những đóa hoa chóng tàn mỗi độ thu sang, mà đó là những nấc thang nâng
tầm giá trị nhân sinh, nghệ thuật trong tâm hồn con người.
11. Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng. ( Charle Dubos)
12. Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ
giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính
độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xóa được của mình.
13. Những gì tôi viết ra là những gì yêu thương nhất của tôi, những ước mong nhức
nhối của tôi. ( Nguyên Hồng).
14. Có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung...
Khi đó tôi viết. ( Lecmontop).
“Nhà thơ tư duy bằng hình tượng” (Biêlinxki). Văn học ở bất kì thời đại nào
muốn phản ánh hiện thực đời sống đều phải thông qua các hình tượng nhân vật
điển hình. Nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà văn cũng tư duy bằng hình lOMoAR cPSD| 58562220
tượng. Thế giới thêm sắc màu, cuộc sống thêm âm điệu bởi những hình tượng
nhân vật điển hình độc đáo.
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính
là con người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phản ánh cuộc sống và trung tâm
là con người thông qua hình tượng nhân vật. Chính những hình tượng nghệ
thuật độc đáo, có sức phổ quát, mang những ý nghĩa sâu sắc về nhân sinh đã
góp phần làm nên nét riêng cho tác phẩm văn học. Người nghệ sĩ thường sáng
tạo nên những tượng đài bất hủ về con người bằng cách xây dựng chính hình tượng nhân vật.
Nghệ thuật đồng nghĩa với sáng tạo. Nghệ sĩ là kẻ làm công việc “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Viết văn
là một quá trình khai phá những vỉa quặng của cuộc đời nhưng mỗi thứ kim
loại quý hiếm nhà văn tìm thấy lại lấp lánh một sắc màu riêng biệt. Có phải đó
là sắc màu của những hình tượng nhân vật điển hình được nhà văn nhặt nhạnh
ở cuộc đời, nhào nặn trong tư tưởng và đưa vào tác phẩm dưới lớp áp chủ quan
độc đáo? Ngay từ khi ra đời; văn học đã nhận thức đời sống và thể hiện tư
tưởng tình cảm bằng các hình tượng nhân vật nghệ thuật. Từ tiếng gọi chú tiểu
lẳng lơ nhưng đầy khao khát yêu đương của Thị Màu trên chiếu chèo ngày xưa
đến đoạn trường mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều trong thơ Nguyễn Du,
hình tượng nhân vật điển hình đã thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm văn
học, bắc nhịp cầu giữa hiện thực xã hội và tư tưởng nhân văn. Như lời nhận
định đã bàn tới, “hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng
chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc” bởi nhà văn xây dựng hình tượng
nhân vật để khái quát hiện thực, để cắt nghĩa đời sống và thể hiện tư tưởng của
chính mình. Vì vậy, hiện thực trong tác phẩm máng đậm dấu ấn chủ quan của
người nghệ sĩ. Nhà văn là chủ thể sáng tạo, là kẻ chi phối mọi tư tưởng thẩm
mĩ, góc nhìn, phạm vi của hiện thực nên dù được bắt nguồn từ cuộc sống; dù
được nuôi dưỡng bằng bầu sữa của bà mẹ cuộc đời thì tác phẩm văn chương;
qua các hình tượng nhân vật, phản ánh hiện thực “được sinh ra từ tâm trí của
nhà văn. Tác phẩm văn chương không bao giờ là bản sao của hiện thực mà hiện
thực được soi chiếu vào tác phẩm bằng lăng kính chủ quan của người viết, có
thể tốt, có thể xấu, có thể đáng vui và cũng có thể đáng buồn. Hiện thực cuộc
sống được khoác lên tấm áo nhiều màu như vậy chính là bởi hình tượng nhân
vật được nhà văn đưa vào tác phẩm. Hình tượng nhân vật là đứa con của hiện
thực cuộc sống nhưng lại được nuôi dưỡng bằng tình cảm, tư tưởng của nhà
văn. Nó cũng là cuộc đời riêng; nhưng đồng thời cũng là cái loa phát ngôn của lOMoAR cPSD| 58562220
người nghệ sĩ. Trong bản thân hình tượng bao giờ cũng có sự thống nhất sinh
động giữa các mặt cá biệt và khái quát, lí trí và cảm xúc, chủ quan và khách
quan. Hình tượng càng độc đáo, được nâng lên mức điển hình thì hiện thực
càng được phản ánh ở những góc cạnh sâu xa nhất, hướng tới một giá trị thẩm
mĩ riêng – “chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc” Điều đó làm nên
“ánh sáng riêng mãnh liệt” cho hình tượng nhân vật. Đến với hình tượng nhân
vật là đến với một thế giới hiện thực riêng biệt được xây dựng ngay trên nền
thế giới hiện thực đương thời. Hình tượng nhân vật tỏa sáng của lí tưởng thẩm
mĩ lên trên hiện thực bề bộn, để cho người đọc có một cái nhìn mới mẻ; chân
thực và sâu sắc hơn về cuộc đời. Lời nhận định đã khẳng định tầm quan trọng
và giá trị biểu hiện của hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Đó cũng là cơ sở
để đánh giá tư tưởng nhà văn và giá trị của toàn bộ tác phẩm.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực
sự sống bằng tâm của người đọc”. Nhà văn lấy tư liệu từ hiện thực để xây dựng
nên hình tượng điển hình và đặt vào đó tư tưởng thẩm mĩ của mình. Tôi nhớ
câu chuyện thần thoại xa xưa, thần Trụ Trời lấy đất sét nặn ra con người và thổi
hơi thở của mình vào những hình tượng vô tri để cho con người sự sống. Nhà
văn phải chăng cũng là người thổi linh hồn mình vào trong hình tượng nhân
vật để dù mang những phẩm chất đặc trưng, phổ quát của thế giới hiện thực,
nó vẫn có một sức sống riêng, một cuộc đời cá biệt trong “tâm trí của người
đọc”. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của
chủ nghĩa hiện thực là những kẻ đại diện cho bọn thống trị như Nghị Hách,
Nghị Quế, Bá Kiến… hay nhũng nạn nhận của xã hội cũ như anh Pha, chị Dậu,
lão Hạc, Mị… Hiệu quả cao nhất mà những điển hình đó đạt được là bóc trần
sự mục nát của xã hội thực dân phong kiến với một thái độ phủ nhận và phê
phán mạnh mẽ. Nhưng độc đáo hơn, lần đầu tiên người ta biết đến một cách trị
người tàn ác và mưu mô như của Bá Kiến, con đường leo lên xã hội thượng
lưu nhơ bẩn và lố bịch như của Xuân Tóc Đỏ. Những hình tượng điển hình ấy
không bao giờ chỉ đơn thuần là một bức tranh nhân sinh mà bao giờ cũng gửi
đến người đọc một thông điệp; một triết lí sâu xa.
Biêlinxki từng phân biệt: “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà
văn nói bằng các hình tượng và bức tranh. Dù đều đi từ cái riêng đến cái chung
để khám phá cuộc sống con người, khám phá bản chất của thực tại nhưng trong
quá trình nghiên cứu, trong khi các nhà triết học, khoa học gạt bỏ những chi
tiết cá biệt, những yếu tố ngẫu nhiên để tìm ra cái chung; để khẳng định yếu tố
khách quan, chân lí thì trong nghệ thuật lại in đậm dấu ấn chủ quan, cái chung lOMoAR cPSD| 58562220
được biểu hiện trong cái riêng; cái riêng để khái quát cái chung. Hình tượng
nhân vật ra đời nhằm mục đích đó. Chí Phèo, Thị Nở từ văn chương đã bước
ra cuộc đời; trở thành những cái tên như minh chứng tiêu biểu cho tính điển
hình của hình tượng nhân vật. Ta thấy trong cuộc đời nhọc nhằn của anh Pha,
chị Dậu… dáng dấp ông cha, những người cả đời gắn bó với ruộng đồng và
chịu biết bao nhiêu áp bức. Đó chính là sự “sinh ra từ tâm trí của nhà văn”.
Nhưng không bao giờ những Chí Phèo, chị Dậu ấy là bản thân cuộc đời thực.
Văn học chỉ có một Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong khi
cuộc đời có cả ngàn thằng Chí Phèo uống rượu say rồi chửi bới. Văn học chỉ
có một Hăm-lét với niềm trăn trở, day dứt vì lí tưởng “sống hay không sống”
trong khi lịch sử có biết bao nhiêu âm mưu “chiếm ngôi vua, đoạt quyền chúa”.
Không bao giờ người ta quên được tiếng nói khắc khoải của Chí Phèo: “Tao
muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện? Làm sao xóa được những
vết sẹo trên mặt này?”. Không chỉ bởi một hiện thực khốc liệt của xã hội phong
kiến dồn đuổi con người vào bước đường cùng mà sâu sắc hơn hết người ta
nhận ra trong đó một khát vọng sống mạnh mẽ; cháy bỏng; một ước muốn
lương thiện giản dị mà cao đẹp của một tâm hồn tội lỗi. Lần đầu tiên người ta
nhận ra ánh sáng của lương tri, ánh sáng của tính người tỏa ra từ thân xác của
con quỷ dữ. Đó chính là “ánh sáng riêng” của hình tượng Chí Phèo “chỉ thực
sự sống bằng tâm trí của người đọc”.
Kinh Thư xưa có câu: “Thẩm sở mộng chi nhân, khắc kì hình tượng, dĩ tứ
phương băng cửu chi ư dân gian” (Xem xét người thấy trong mộng, khắc lấy
hình tượng của người ấy để đi tìm khắp bốn phương trong dân gian). Hình
tượng nhân vật bao giờ cũng là ‘ con người của dân gian”. Nó được thoát thai
từ hiện thực đời sống và mang những tính cách cơ bản nhất, bản chất nhất và
nổi bật nhất của đời sống xã hội. Nguyễn Du từ bao nhiêu cuộc đời long đong,
lận đận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã xây dựng lên hình tượng
Thúy Kiều với tất cả nỗi đau khổ của loài người đúc kết lại:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Kiều có những “vết xe đổ” của
Đạm Tiên, của Tiểu Thanh, của người con gái đất Long Thành cùng biết bao
nỗi đau khổ khác của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cuộc
đời Thúy Kiều là một bức tranh toàn cảnh và sinh động về nỗi đoạn trường của lOMoAR cPSD| 58562220
người phụ nữ dưới xã hội hà khắc, nặng nề, tàn ác và thối nát của thời đại cũ.
Hiện thực trong Truỵện Kiều được tái hiện qua tâm trí của Nguyễn Du. Người
đọc như được cùng nàng Kiều trải qua biết bao thăng trầm, tận mắt chứng kiến
và thấu hiểu muôn vàn nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng Kiều không chỉ là
đại diện cho một lớp người, cuộc đời Kiểu không đơn thuần chỉ là một bức
tranh hiện thực rộng lớn và Nguyễn Du không chỉ là ngòi hiện thực chủ nghĩa
một chiều. Kiều được ca tụng là người phụ nữ đẹp nhất của văn học Việt Nam
bởi những nét đẹp riêng biệt, độc đáo, chỉ tài năng Nguyễn Du mới có thể sáng tạo nên:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc
đành đòi một, tài đành họa hai.
(Truyện Kiêu – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp khiến cho trời đất phải ghen tức, vẻ đẹp làm thiên nhiên đảo lộn, có
lẽ trong cả nền văn học Việt Nam, người ta chỉ tìm thấy mình Kiều. Kiều “sống
trong tâm trí người đọc” không chỉ bởi nét riêng biệt “hơn người” ấy mà còn
bởi tấm lòng cao cả của Nguỵễn Du được soi rọi trong những câu thơ đẹp nhất
dùng để ca ngợi sắc đẹp người con gái tài hoa.
Cũng trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật điển hình Thúy Kiểu, Kim
Trọng, Từ Hải thì Mã Giám Sinh cũng là một nhân vật điển hình có “ánh sáng
riêng”. Ở hình tượng này, người đọc nhận ra một cách rõ ràng hiện thực biểu
hiện cụ thể, sinh động như có thực:
Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
(…) Ghế trên ngồi tót sỗ sàng (…) Cò kè bớt một thêm hai.
“Nghệ thuật là biết tước bỏ và tập trung” (L. Tôn-xtôi). Nguyễn Du đã
“tước bỏ” những chi tiết về tên, tuổi, quê quán. Và “tập trung” với vài chữ thật
đắt, thật sâu cay – “tót, sỗ sàng, “cò kè”, tác giả đã “giết chết” nhân vật của
mình để khẳng định bản chất một kẻ vô học, một con buôn với đầy đủ ngón
nghề và sự ma lanh. Nhưng đằng sau đó, người ta còn thấy cả một phường
buôn thịt bán người tàn nhẫn của xã hội phong kiến. Nhân vật Mã Giám Sinh lOMoAR cPSD| 58562220
vừa mang tính cá biệt vừa mang tính khái quát; là một điển hình tiêu biểu cho
những nhân vật phản diện trong Truyện Kiều. Người đọc vừa thấy ở hắn một
tính cách xảo quyệt của kẻ buôn người hạng nhất, vừa thấy thêm một góc tối
nhơ bẩn của xã hội phong kiến đương thời. Từ câu chuyện đời Minh của Thanh
Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, bằng tài năng bậc thầy, Nguyễn Du đã xây
dựng nên những hình tượng điển hình độc đáo để từ nguyên tác Kim Vân Kiều
truyện, Thiên văn tự tuyệt bút – Truyện Kiều ra đời; dù vẫn giữ nguyên cốt
truyện nhưng hiện thực đã trở thành hiện thực của xã hội Việt Nam đương thời,
nhân vật đã trở thành con người Việt Nam. Tác phẩm mang đậm bản sắc dân
tộc dù xây dựng từ cái nền của tác phẩm nước ngoài chính bởi những hình
tượng nhân vật điển hình như Kiều, Từ Hải, Mã Giám Sinh… Như vậy, “nghệ
thuật không đòi hỏi phải thừa nhận cái tác phẩm của nó như là hiện thực” (Phơ-
bách). Sự thực trong tác phẩm nghệ thuật không phải bản thân cuộc đời thực,
thậm chí có lúc thực hơn ngoài cuộc sống vì hình tượng nhân vật không lệ
thuộc máy móc vào yếu tố cá biệt. Sự kiện trong thực tế với sự kiện trong văn
học có một khoảng cách lớn. Sợi dâỵ mỏng manh nối giữa chúng chính là hình
tượng nhân vật, là tư tưởng của người viết.
“Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả
của một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật trong tác
phẩm bao giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ của chủ quan nhà văn, bộc lộ tiếng
nói riêng, phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân vật điển
hình lại tỏa chiếu ra một ánh sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của tư tưởng nhà
văn, của lí tưởng thẩm mĩ được soi chiếu qua hình tượng. Hình tượng nhân vật
là nơi gửi gắm trái tim sôi nổi nhiệt thành, đầỵ yêu thương của người viết. Đằng
sau ngòi bút lạnh lùng; sắc sảo xây dựng nên một hình tượng Chí Phèo là trái
tim Nam Cao nhức nhối những nhịp đập yêu thương và căm phẫn. Ông xây
dựng Chí Phèo trong bi kịch bị cự tụyệt quyền làm người không chỉ để cất lên
tiếng nói tố cáo xã hội mà còn là tiếng nói cảm thông đòi quyền sống, quyền
hạnh phúc cho con người. Những trang viết của Nguyễn Du cũng thấm đầy
nước mắt khi miêu tả cuộc đời khổ đau của Thúy Kiều. Nhà thơ đã khóc cùng
nhân vật, cười cùng nhân vật; nâng niu nhân vật lên bằng ngòi bút tình thương
đáy lòng bác ái. Tư tưởng cùa nhà văn soi sáng trong các hình tượng nhân vật.
Nó luôn hướng con người tới những giá trị đích thực của văn chương và cuộc
sống. Văn học luôn là điểm tựa để con người vươn lên trên hoàn cảnh nghiệt
ngã, hướng tới chân – thiện – mĩ cuộc đời. “Văn học là nhân học” (M. Gorki).
Mọi yếu tố của văn học đều mang giá trị nhân văn, nhân đạo hóa con người; lOMoAR cPSD| 58562220
chỉ ra cho con người sự xấu xa để vươn tới cái cao cả của tâm hồ. Đó chính là
thứ ánh sáng “được sinh ra từ tâm trí của nhà văn” không bao giờ tắt trong
mọi tác phẩm văn chương chhân chính.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí” bằng tài năng và tâm huyết
của nhà văn, làm nên đặc điểm phong cách từng tác giả. Nó tỏa ra thứ ánh sáng
của riêng người viết, ánh sáng của tài năng, của lương tri. Không một hình
tượng nhân vật nào giống hình tượng nhân vật nào bởi nghề văn đòi hỏi sự
sáng tạo, sự thâm nhập thực tế để xây dựng nên những hình tượng nhân vật bất
hủ. Khi người nghệ sĩ đã thâm nhập sâu sắc vào nhân vật, họ như được sống
cuộc đời của nhân vật, xúc động, yêu thương, vui buồn, đau khổ, giận hờn…
như cảnh ngộ của chính mình. Đó là những giây phút “tự quên mình” đồng thời
in dấu chủ quan của mình vào đối tượng miêu tả. Các nghệ sĩ vĩ đại như L.Tôn-
xtôi, M. Gorki, Banzắc, Phlô-be… đều có sự thâm nhập sâu sắc như vậy.
Banzắc kể lại, sau khi đi theo và lắng nghe những người công nhân nói chuyện
với nhau, ông nhanh chóng nhập thân vào đối tượng sâu sắc đến mức cảm thấy
như mình cùng đang mặc những quần áo rách rưới như họ, đang đi những đôi
giày rách như họ, những nhu cầu nguyện vọng của họ đều được truyền đến tâm
hồn tôi hay nói đúng hơn: với tất cả hồn mình, tôi nhập vào tâm hồn họ. Chỉ
có sự thâm nhập thực tế bằng cả con người và trái tim thì người nghệ sĩ mới có
thể sáng tạo nên những hình tượng nhân vật bất hủ, những nhân vật vừa là con
người của quần chúng; vừa là con người của văn chương, vừa mang tính hiện
thực, vừa mang tính nghệ thuật độc đáo. Bàn về giá trị của hình tượng điển
hình trong tác phẩm, lời nhận định còn đặt ra yêu cầu của người nghệ sĩ chân
chính. Đó là những yêu cầu của văn học muôn đời.
Mỗi người nghệ sĩ khi sáng tạo mang trong mình một nhiệt huyết sáng tạo
cháy bỏng và con mắt tinh nhạy, nhìn hiện thực cuộc sống với con mắt của
người đầu tiên; đặc biệt là “sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn – sống toàn thân
và thức nhọn giác quan” để xây dựng hình tượng nhân vật mang ý nghĩa, ẩn
chứa bao điều huỵền diệu, sâu sắc về nhân sinh. Và người tiếp nhận do đó khi
thưởng thức tác phẩm cũng cần phải nâng cao trình độ thẩm mĩ, tìm hiểu và
nhận ra ý nghĩa, giá trị của những hình tượng nhân vật.
Nhà văn là kẻ đã dùng những hình tượng và từ ngữ hoàn chỉnh lạ lùng để
cô đặc lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ cay
đắng, nóng bóng của thế gian này. Hơn bất kì một nghề nghiệp, tôi yêu nghề
văn bởi hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của tôi và hiện thực cuộc lOMoAR cPSD| 58562220
đời dắt tôi đến một chân trời mới, một tâm hồn mới và những điều kì diệu chỉ thấy trong mơ..
NHẬN ĐỊNH VĂN HỌC VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC
1. Văn bản giống như giếng thần không bao giờ cạn nước. Người đọc các thế
hệ đến soi mình vào gương giếng ấy không chỉ thấy mầu xanh vĩnh cửa của
bầu trời, mà còn cả khuôn mặt mình thay đổi theo thời gian. (Đỗ Lai Thúy)
2. Nhà văn có thể không cần tiền, cũng không cần vàng, nhưng nhất định là
phải cần độc giả. (Nguyễn Hiến Lê)
3. Làm thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm/ Cứ phải hét vào
tai những tiếng nói thầm/ Làm thơ có lúc là thi sĩ câm/ Ra hiệu bằng tay,
bằng mắt, bằn toàn thân/ Đóng kịch để nói điều rất thật . ( Tri âm – Chế Lan Viên)
4. Rồi TP rời anh như con thuyền rờibến/ Sống cuộc đời riêng anh không dự
kiến/ Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ/ Với ngọn gió
anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ. (Chế Lan Viên).
5. Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về/ Dù tem vẽ các vĩ nhân,
thần thánh/ Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh/ Viết
cho người độc giả bình thường, gần gũi đọc thơ anh. ( Thơ cao cả - Chế Lan Viên)
6. Ôi! Chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy/ Là cũng đủ cho nhà thơ thoát
khỏi vạc dầu/ Và bay lên chín tầng cao. ( Sợ nhất – Chế Lan Viên)
NHẬN ĐỊNH VĂN HỌC VỀ NHÀ VĂN VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
1. “ Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đấy trong người” ( V. Raxpuchin)
2. Một TPNT phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng
vì một xã hội công bằng, bình đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc cá nhà văn sống
và viết, vắt cạn kiệt nhữngdòng suy ngĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại. ( Lev Tolstoy)
3. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. ( Thạch Lam).
4. Đem ánh sáng vào bóng tối trái tim con người đó là nhiệm vụ của người nghệ sĩ. ( Robert Schuman).
5. Thiên chức của nhà văn cũng như các chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ
những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. ( Thạch Lam) lOMoAR cPSD| 58562220
6. Cách phát ngôn tốt nhất của một nhà văn là sáng tác. . Những gì tôi cần nói đều
được viết vào trong tác phẩm của mình. Lời nói gió bay, còn câu chữ viết ra thì
mãi không phai. ( Bob Dyland)
NHẬN ĐỊNH VĂN HỌC VỀ GIÁ TRỊ VĂN HỌC
1. Đối với một dân tộc, văn học là tất cả: nó đảm bảo cho dân tộc trường tồn chắc
chắn hơn cả kiến trúc. Lời chữ bền vững hơn đá. ( Camilô Jose Cela – Nobel văn học 1989)
2. Thơ khác kinh cầu. Nó không tạo ra những cơn mê tập thể. Nó không ru rín mà
nó mê hoặc con người bằng sự thức tỉnh. ( Thanh Thảo – Tản mạn về thơ).
3. Văn học luôn trả lại cho chúng ta hình ảnh của chính chúng ta qua sự khúc xạ.
Đọc là gặp gỡ chính mình . ( V. Jouve)
4. Văn chương nói cho cùng là những khắc khoải, những mơ tưởng về một giấc
mộng chưa thành. Có những giấc mộng sẽ không bao giờ thành nhưng vẫn cho
phép cả người viết lẫn người đọc đắm đuối trong hy vọng, trong mong đợi để
cuộc đời thêm hương vị, thêm ánh sáng. ( Nguyễn Huy Thiệp).
5. Nhà thơ cái con mẹ điên/ Khi cả làng sắp vứt cày, vứt bừa vì đói lả/ Nó tung ra
nắm thóc/ Hái ở đâu nóbảo hái trên trời/ Nhờ thế cả làng còn thóc, còn trời, còn
sống được/ Lại gieo vãi cày bừa cấy gặt/ Cho đến lúc no rồi mới phát hiện ra con
mẹ điên nói dối/ Và cả làng tha tội là nó điên. ( Chế Lan Viên).
NHẬN ĐỊNH VĂN HỌC VỀ TÌNH CẢM TRONG SÁNG TÁC
1. Trong nghệ thuật, bàn tay không bao giờ có thể tạo ra điều gì cao hơn điều
trái tim có thể tưởng tượng. ( Ralph Waldo Emerson)
2. Thơ bắt đầu từ cái ngày mà con người cảm thấy cần phải tự biểu hiện lòng mình. ( Hegel).
3. Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình/ Những vui buồn thời kí thác cho anh. (Chế Lan Viên).
4. Cuộc đời bể dâu mà con người nhìn thấy trong thơ dân tộc là máu trong tim
của người nghệ sĩ . ( Tố Hữu).
5. Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái
gốc của văn chương . ( Bạch Cư Dị).