Đề cương kinh tế chính trị phần 2 | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề cương kinh tế chính trị phần 2 | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

lOMoARcPSD| 40660676
ĐỀ CƯƠNG MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ (có 9 câu thôi, cố lên nào ĐA )
Câu 0: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn ktct (Amen - Chúa phù hộ em)
a) Đối tượng nghiên cứu:
- Kinh tế chính trị có thể hiểu theo nghĩa hẹp hoặc rộng:
+ Nghĩa hẹp: ktct là khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ sx và trao đổi trong một
phương thức sản xuất nhất định
+ Nghĩa rộng, Ph. Ăngghen cho rằng: KTCT là khoa học về những quy luật chi phối sự sản
xuất và trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người,.. Những điều
kiện trong đó ngta sản xuất và trao đổi sản phẩm, đều thay đổi trong từng nước trong
mỗi nước lại thay đổi theo từng thế hệ
- Đối tượng nghiên cứu là các quan hệ xã hội trong sản xuất và trao đổi, quan hệ này được
đặt trong mối liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tương ứng với phương thức sản xuất nhất định
- Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở hữu,
qhe phân phối, quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, qhe giữa sản xuất và thị trường…
b) Phương pháp nghiên cứu
Kinh tế chính trị Mác Lênin là môn Khoa học có phương pháp nghiên cứu riêng. Để
nghiên cứu kinh tế chính trị cần kết hợp giữa phép biện chứng duy vật và nhiều phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành thích hợp như: trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử,
Thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa khảo sát
tổng kết thực tiễn…
- Vận dụng thành thạo các phép Biện chứng duy vật để thấy được các hiện tượng và quá
trình kinh tế hình thành, phát triển, chuyển hóa không ngừng, giữa chúng có mối liên hệ
tác động biện chứng với nhau, các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi ứng với từng
điều kiện cụ thể nhất định luôn thuộc về một chỉnh thể những mối liên hệ trong sản xuất
xã hội tương ứng với những trình độ phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng như một phương pháp chủ yếu của
kinh tế chính trị Mác - Lênin, bởi vì:Các nghiên cứu của khoa học này không thể được
tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không thể sử dụng các thiết bị kỹ thuật như
nghiên cứu khoa học tự nhiên. Mặt khác, các quan hệ của sản xuất và trao đổi,Các quá
trình kinh tế luôn phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nên việc sử
dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp cho việc nghiên cứu trở nên đơn giản
hơn nhanh chóng tiếp cận được bản chất đối tượng nghiên cứu.
+ Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp được tiến hành bằng cách nhận ra và gặp
bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời, g
tiếp, trên Cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình bền vững ổn định
lOMoARcPSD| 40660676
trực tiếp của đối tượng nghiên cứu. từ đó nắm được bản chất khái quát thành các
phạm trù, Khái niệm và phát hiện được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận
động của đối tượng nghiên cứu.
+ Để sử dụng tốt phương pháp trừu tượng hóa khoa học học cần có kỹ năng khoa học
xác định đúng giới hạn của sự trừu tượng hóa. việc loại bỏ những hiện tượng tạm
thời, ngẫu nhiên phải đảm bảo yêu cầu không làm sai lệch bản chất của đối tượng
nghiên cứu. Không được tùy tiện loại bỏ yếu tố phản ánh trực tiếp bản chất của đối
tượng nghiên cứu; càng không được giữ lại hiện tượng yếu tố tạm thời cần phải
được gạt ra khỏi quá trình nghiên cứu. giới hạn của sự trừu tượng hóa phụ thuộc
vào đối tượng nghiên cứu.
- Ngày nay với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hệ kinh tế các phương pháp
nghiên cứu đặc thù kinh tế chính trị Mác Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu liên ngành các phương pháp nghiên cứu hiện đại nghiên cứu dựa trên bảng
chứng tổng kết thực tiễn để làm cho các kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác -
Lênin gắn bó mật thiết với thực tiễn.
Câu 1: Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Phân tích 2 thuộc tính
của hàng hóa. Lấy ví dụ thực tiễn để minh họa và giải thích vì sao hàng hóa lại có 2 thuộc
tính?
*Sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
- 2 điều kiện: 1. Phân công lao động xã hội theo các ngành, lĩnh vực khác nhau => có sự
phân công chuyên môn hóa.
2. Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất độc lập => tách biệt về lợi
ích, có nhu cầu sử dụng sản phẩm của các ngành khác nhau, các người khác nhau => Tách biệt
về quyền sở hữu.
*Hai thuộc tính của hàng hóa:
1. Giá trị sử dụng: công dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
2. Giá trị: là lao động của con người sản xuất kết tinh trong hàng hóa ấy.
*Hàng hóa có 2 thuộc tính vì nó có tính 2 mặt: 1. Tính cụ thể(Lao động cụ thể)
2. Tính trừu tượng(Lao động trừu tượng)
-> Trong đó lao động cụ thể tạo ra GTSD, còn lao động trừu tượng chính là chất của giá trị
hàng hoá.
-> Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.
lOMoARcPSD| 40660676
*Phân tích sự kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa(điều kiện cần và đủ)
Khái niệm SXHH: Sxhh là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó những người sx ra sản phẩm
nhằm mục đích trao đổi và mua bán
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của hội loài người. Để nền kinh
tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển C.Mác cho rằng cần hội đủ hai điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia
lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên
môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi
người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi
hỏi nhiều loại sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải
trao đổi sản phẩm với nhau. Đây là điều cần để sx hàng hóa ra đời và phát triển
Ví dụ: Người thợ chuyên dệt vải sẽ có nhiều vải hơn so vơi nhu cầu của bản thân mình
nhưng họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác, trong đó có lương thực. Người thợ dệt vải đem
vải đổi lấy gạo và ngược lại, người nông dân cũng cần vải để mặc nên dùng gạo đổi lấy
vải.
- Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau, có
sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người
khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa.
C.Mác viết:”chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc
vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất
hàng hóa ra đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản
xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển,
sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Ví dụ: Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, người chủ nô sở hữu nhiều nô lệ, mỗi người làm một công
việc khác nhau, tạo ra sản phẩm khác nhau. Nhưng, họ lại không có sự tách biệt về kinh tế, sản
phẩm của họ làm ra lại thuộc sở hữu của người chủ nô. Người nô lệ không thể tự do đem sản
phẩm đó đi trao đổi mua bán được. nên sản phẩm lao động của họ không được coi là hàng hóa.
Chỉ khi, người chủ nô mang sản phẩm lao động đó ra chợ buôn bán thì đó mới được coi là hàng
hóa. Người chủ nô khác với người nô lệ ở chỗ họ được quyền sở hữu và có sự tách biệt kinh tế.
Khi còn sự hiện diện của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan
mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho
xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng
hóa có tư thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
*Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa:
lOMoARcPSD| 40660676
-KHÁI NIỆM: “Hàng hóa”: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- VD: Lên rừng hái sim ăn thì sim đó ko là hàng hóa. Nhưng hái sim đó, mang ra chợ và bán
thì sim đó lại là hàng hóa.
- Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình), hoặc ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình)
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị. - Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người, nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần ; cũng có thể là
nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành nên
hàng hóa đó quy định. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công nghệ càng tiên tiến, càng
giúp cho con người phát hiện ra nhiều và phong phú các giá tr sử dụng của hàng hóa khác
nhau. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua.
Cho nên, nếu là người sản xuất, tất yếu phải chú ý chăm lo giá trị sử dụng của hàng hóa do
mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
- Ví dụ: Gạo để ăn, áo để mặc…Ngày xưa, than đá chỉ được dùng để đun nấu, sưởi ấm. Ngày
nay, than đá được dùng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp năng lượng…
- Giá trị:
Theo C.Mác, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa ấy. Để lý giải rõ khái niệm này, C.Mác đặt vấn đề, tại sao giữa các hàng hóa có
giá trị sử dụng khác nhau lại trao đổi được với nhau ? Mối quan hệ về lượng giữa các giá trị sử
dụng khác nhau được C.Mác gọi là giá trị trao đổi. Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc.
C.Mác cho rằng, sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì chúng có một điểm
chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của hao phí sức lao động. Tức là hàng hóa
có giá trị. Khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị sử dụng, chúng đều là kết quả của sự hao phí
sức lao động của người sản xuất ra hàng hoá ấy, nên hàng hóa có giá trị.
Mặt khác, khi đã đề cập tới hàng hóa, có nghĩa là phải đặt sản phẩm của lao động ấy
trong mối liên hệ với người mua, người bán, trong quan hệ xã hội. Do đó, lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội, tức hàm ý quan hệ giữa người bán với người mua, hàm ý
trong quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, C.Mác quan niệm đầy đủ hơn: Giá trị của hàng hóa là lao
động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
Như vậy, bản chất của giá trị là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi
hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi đó có
lOMoARcPSD| 40660676
phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị
là nội dung, là cơ sở của trao đổi.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa
* Thống nhất:
- Cùng tồn tại trong 1 hàng hóa.
- 2 thuộc tính của hàng hóa do 1 LĐSX ra hàng hóa quyết định.
* Mâu thuẫn:
- Với tư cách GTSD, các hàng hóa ko thống nhất về chất nhưng với tư cách giá trị, các
hàng hóa đều là sự kết tinh của lao động.
VD: Người làm ra hàng hóa đem bán => chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm
ra. Ngược lại, người mua hàng có tiền lại chỉ chú ý đến GTSD. Người làm ra GTSD nhưng lại
ko cần nó.
- Quá trình thực hiện GTSD và giá trị tách rời nhau cả về thời gian và ko gian: giá trị
trước, sau đó GTSD mới được thực hiện.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, một hàng hóa sản xuất ra có thể bán được hoặc không bán
được.Nếu hàng hóa bán được thì mâu thuẫn giữa 2 thuộc tính được giải quyết.
*Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính:
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt: vừa
mang tính chất cụ thể(lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng(lao động trừu tượng).
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Trong đó
lao động cụ thể tạo ra GTSD, còn lao động trừu tượng chính là chất của giá trị hàng hoá.
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động
và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác
nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mc là hai loại lao
động cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, vì vậy, lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh
viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế
- xã hội nào.
Ví dụ: Lao động cụ thể của một người thợ mộc thì mục đích để sản xuất ra cái bàn, cái
ghế; đối tượng lao động chính là gỗ; phương pháp lao động của người thợ mộc chính là thao
lOMoARcPSD| 40660676
tác về cưa, đục, đẽo, bào, khoan; phương tiện được người thợ mộc sử dụng là cái cưa, cái bào,
cái đục, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra được những cái bàn, những cái ghế cụ thể
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu
hiện cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức
cơ bắp, thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu
tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hoá, kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hoá. Nếu
không có sản xuất hàng hóa, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể
về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản
xuất hàng hóa.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may nếu xét về mặt lao cụ
thể thì rất khác nhau nhưng nếu gạt bỏ hết sự khác nhau ấy đi thì chúng có một điểm chung đó
là đều phải hao phí sức lực trí óc, sức thần kinh của con người. Điểm chung đó là dù người thợ
mộc hay người thợ may thì đều phải hao phí sức lao động, có thể là trí óc, cơ bắp, thần kinh
của con người.
Vẽ sơ đồ:
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.
-Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ mang tính chất tư nhân và lao động cụ thể
của họ sẽ là biểu hiện của lao động tư nhân
-Đồng thời, lao động của mỗi người nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu
tượng, thì nó luôn là một phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công
lao động, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
lOMoARcPSD| 40660676
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao động
khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất và chúng mâu thuẫn với nhau
tạo ra mâu thuẫn cơ bản của”sản xuất hàng hóa”:
+ Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp
với nhu cầu của xã hội
+ Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể thấp hơn hoặc cao hơn hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận.
=> Dẫn tới hàng hóa k bán được. Nghĩa là dẫn tới một số hao phí lao động cá biệt không được
xã hội thừa nhận => Mâu thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn (vd: khủng hoảng
thừa)
Câu 2: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
(=>Lưu ý: có 4 quy luật cần tìm hiểu: GIá trị, cung cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ,
những quy luật này đọc thêm trong sách hướng dẫn)
*Nội dung quy luật giá trị:
1.Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa.
2.Trong sản xuất: TGLĐCB ≤ TGLĐXHCT -> tồn tại(năng suất thì phải lớn hơn hoặc bằng
nhưng thời gian thì phải ít hơn hoặc bằng) 3.Nguyên tắc ngang giá(dựa trên cơ sở giá trị)
4.Giá cả thị trường biến động xoay quanh giá trị hàng hóa (cung-cầu)
*Yêu cầu: dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết
*Tác động: 3 tác động
1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo
*Ý nghĩa:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá
trị.
- Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các nhân tố yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển
- Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đằng trong xã hội
*Nội dung của quy luật giá trị.
lOMoARcPSD| 40660676
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị; quy định việc sản xuất
trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao
phí lao động cá biệt của mình phù hợp(lớn hơn hoặc bằng) với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết để có thể tồn tại; ví d :ụ Để sản xuất ra một cái áo, người sản xuất A phải tốn chi phí
lao động cá biệt là 5$/ sản phẩm. Tuy nhiên, hao phí lao động xã hội tức là mức hao phí lao
động trung bình mà xã hội chấp nhận chỉ là 4$/ sản phẩm. Như vậy, nếu bán ra thị trường
theo mức hao phí lao động cá biệt là 5$ thì người sản xuất A không bán được hàng, quy mô
sản xuất bị thu hẹp.
- Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải
dựatrên cơ sở giá trị. Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
tuân theo”mệnh lệnh”của giá cả thị trường.
- Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá(cung – cầu) và biểu hiện sự
tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Ví dụ: Một cái áo có giá trị xã hội là 4$, trong trường hợp thị trường cân bằng, cung bằng cầu
thì trong trường hợp này nhà sản xuất sẽ bán cái áo theo đúng giá trị của nó, tức là lúc đó giá
cả của cái áo bằng giá trị cái áo và bằng 4$. Trong trường hợp cung lớn hơn cầu, tức là sản
xuất dư thừa, buộc nhà sản xuất phải giảm giá cả cái áo xuống còn 3$, khi đó giá cả hàng hóa
sẽ nhỏ hơn giá trị. Ngược lại, trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu, tức là hàng hóa khan hiếm
thì giá cả sẽ cao hơn giá trị. *Yêu cầu của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết
*Tác dụng của quy luật giá trị : Trong sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động.
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá
trên thị trường dưới sự tác động của quy luật cung cầu.
+ Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá
bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao
động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên.
lOMoARcPSD| 40660676
+ Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán
không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại
hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị g thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả
thị trường g có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho
hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường
không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
Ví dụ: Trong bối cảnh dịch bệnh Covid, do tình trạng khan hiếm khẩu trang y tế nên giá cả khẩu
trang tăng lên nhanh chóng. Điều này đã hấp dẫn nhiều nhà máy may chuyển đổi phương thức
sản xuất từ sản xuất quần áo sang sản xuất khẩu trang y tế. Việt Nam không những đáp ứng nhu
cầu khẩu trang trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước khác trên thế giới.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức
hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội
cần thiết, sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
+ Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải
tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm v.v nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản
xuất nào cũng làm như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không
ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
Ví dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh điện thoại di động, để hạ thấp hao phí lao động cá biệt, các
hãng điện thoại không ngừng đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, đổi mới phương thức quản
lý… Điều này đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, giá thành sản phẩm điện thoại ngày
càng rẻ hơn, chất lượng, tính năng vượt trội hơn. Hơn nữa, ngoài việc đổi mới kỹ thuật, công
nghệ sản xuất, dịch vụ chăm sóc, hậu mãi khách hàng cũng ngày càng tốt hơn.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo.
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí
lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết(theo giá
trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành ông chủ.
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí
lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có
lOMoARcPSD| 40660676
thể phá sản, trở thành lao động làm thuê và đây g là một trong những nguyên nhân làm xuất
hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Ví dụ: Công ty A kinh doanh sản xuất ô tô, do có thời gian lao động xã hội cá biệt thấp hơn
lđxhct nên có nhều lợi nhuận, quy mô ngày càng mở rộng phát triển. Còn công ti B cũng sản
xuất ô tô, nhưng tglđcb thì cao hơn tglđxhct nên chịu thua lỗ, nếu không có biện pháp thay đổi
sẽ dẫn đến phá sản
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời
với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
*Ý nghĩa thực tiễn:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật
giá trị trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
- Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân
tố tíchcực phát triển
-Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội
-Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của
cơ cấu thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự
công bằng xã hội.
Câu 3: Phân tích hàng hóa sức lao động. Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu vấn đề này.
*Hàng hóa sức lao động: 2 điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
1. Người lao động tự do về thân thể.
2. Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết
*Sức lao động là hàng hóa đặc biệt:(thể hiện trong)
- Trong quan hệ mua bán
- Trong 2 thuộc tính hàng hóa so với hàng hóa thông thường*Ý nghĩa của nghiên cứu vấn đề
này:
- Khẳng định tính tất yếu của xây dựng thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay.
- Mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động.
lOMoARcPSD| 40660676
- Các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc
làm.
- Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển.
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về mặt kinh tế.
*Hàng hóa sức lao động:
C.Mác viết:”Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”
Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa là:
Một, người lao động được tự do về thân thể. Ví dụ: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người
nô lệ hay bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô. Họ không thể tư thỏa thuận mua bán sức lao
động của mình phải làm việc theo yêu cầu của chủ nô=> Sức lao động không trở thành
hàng hóa
Hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động. Ví dụ : người thợ may
có máy may, nhà xưởng, nguyên liệu và thị trường thì họ sẽ tự sản xuất tạo ra sản phẩm chứ
chẳng tội gì phải đi làm thuê cho người khác.
Khi sức lao động trở thành hàng hóa, nó cũng có hai thuộc tính như hàng hóa thông
thường. Đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Xét về cấu thành, do hàng hóa sức lao động tồn tại trong con người đang sống, nên để
sống và tái sản xuất sức lao động, người lao động phải tiêu dùng lượng tư liệu sinh hoạt nhất
định.
Do vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người lao
động tiêu dùng. Tức là, về cách tính, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp
thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động. Cho nên, cấu
thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
1. Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết(cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất ra sức lao động
(ăn, mặc, ở, y tế…)
2. Phí tổn đào tạo người lao động (Chi phí giáo dục đào tạo)
3. Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết(vật chất và tinh thần) nuôi con của người lao
động.
lOMoARcPSD| 40660676
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá cả của hàng hóa
sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nêu trên.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu của người mua.
Khác với nhu cầu thông thường, khi sử dụng hàng hóa sức lao động, người mua hàng hóa
sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có được giá trị lớn hơn, giá trị tăng thêm. Hàng hóa
sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Hơn thế, giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng đặc biệt mà không hàng hóa thông thường nào có
được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được
lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa để chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn từ đâu mà
có. Ví dụ như : người công nhân thời Pháp thuộc ở Việt Nam, khi cuộc sống khó khăn, nhu cầu
tư liệu sinh hoạt có khi chỉ đơn giản là ăn no mặc ấm, đủ ăn, đủ mặc. Còn người công nhân
thời nay, thì nhu cầu sinh hoạt cao hơn như : ăn ngon, mặc đẹp và phải có cả tiền tích lũy
những lúc hoạn nạn.
C.Mác khẳng định, nguồn gốc của giá trị thặng dư do hao phí sức lao động mà có.
*Sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì:
- Điểm đặc biệt trong quan hệ mua bán:
+ Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và bán trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: nhà Tư bản chỉ có thể thuê người công nhân làm việc trong 1 tgian nhất định theo hợp
đồng chứ không thể mua (sở hữu) người công nhân
+ Mua bán chịu: GTSD thực hiện trước(phải làm việc trước) và giá trị thực hiện sau(trả công
sau)
+ Chỉ có phía người bán là công nhân, phía người mua là các nhà tư bản, không có chiều ngược
lại.
- Điểm đặc biệt trong hai thuộc tính của hàng hoá SLĐ so với hàng hoá thông thường:
+ Giá trị của hàng hoá sức lao động
Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu
tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kì, phụ
thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và
cả điều kiện địa lí, khí hậu. Ví dụ: Khi người ta đi xkld ở 1 nước kém phát triển sang 1 nước
phát triển hơn thì giá trị sức lao động sẽ tăng lên dù ngta làm cùng 1 công việc như nhau + Giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới(v+m) lớn hơn giá trị
của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính đặc
lOMoARcPSD| 40660676
điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với hàng hoá thông thường. Các
nhà TB đã lợi dụng điều này để bóc lột sức lao động của công nhân thông qua giá trị thặng dư
Ý nghĩa việc xuất hiện hàng hoá sức lao động:
- Là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó là lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không;
- Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao
động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân,
lợitức, địa tô …
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.)
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay:
- Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hóa cho nên việc xây dựng thị trường
sức lao động là tất yếu.
- Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở rộng do chính sách và cơ
chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
- Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng
lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường.
- Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn
giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Đấtđai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã thúc đẩy các yếu
tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới giải
phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm.
*Câu 4: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của
việc nghiên cứu các phương pháp này.
-Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Công thức:
1. (m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, m là giá trị thặng dư, v là tư bản khả biến)(1)
2. (t’ là thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu)(2)
-Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản thu được. Công
thức:
lOMoARcPSD| 40660676
M(3)
(M là khối lượng, V là tổng tư bản khả biến)
*Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư: 2 phương pháp
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối(kéo dài thời gian lao động hay có nghĩa là tăng giờ làm)
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối(rút ngắn thời gian lao động tất yếu hay có nghĩa là tang
năng suất)
*Ý nghĩa nghiên cứu:
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng
mạnh mẽ, kích thích các cá nhân và tập thể người lao động ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến
quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không, giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành lên thu nhập của các nhà tư bản và
các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
*Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ ra nhà tư bản
sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối. - Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao
động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100 %.
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không
đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
= 150 % (công thức(2))
Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách để
kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về
mặt sinh lý( công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên không thể kéo dài bằng
ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con
người.
Hơn nữa, công nhân kiến quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai
bên có mâu thuẫn, thông qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao
lOMoARcPSD| 40660676
động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh
thần của người lao động.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất
yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi
hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá
trị thặng dư là 100 %.
Nếu giá trị sức lao động giá khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì
thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
= 300 % (công thức(2))
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến
thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5 giờ. Khi
đó:
= 500 % (công thức(2))
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở một hoặc vài
xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hoá do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn
giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác.
Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi
mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại
thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả
làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối.
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp các nhà tư bản đã
thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Đó là cách mạng về tổ chức, quản lý lao động thông qua thực hiện hiệp tác giản đơn, cách mạng
về sức lao động thông qua thực hiện hiệp tác có phân công và cách mạng về tư liệu lao động
thông qua sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp.
lOMoARcPSD| 40660676
Sự hình thành và phát triển của nền hiện đại công nghiệp thông qua cách mạng công
nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho sự phát triển khoa học công nghệ thúc đẩy nền sản
xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư phát triển nhanh.
Cùng với toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan
trọng của sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 pp này: + Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ
mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận
dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
+ Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất g
trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản
xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã
hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ
bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Câu 5: Phân tích căn cứ, nội dung, ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm
trù: tư bản bất biến – tư bản khả biến và tư bản cố định – tư bản lưu động. Ý nghĩa của
nghiên cứu vấn đề này?
*Tư bản bất biến – Tư bản khả biến:
-Căn cứ: vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị thặng dư -
Nội dung: +Tư bản bất biến.
+Tư bản khả biến.
-Ý nghĩa: vạch ra được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra. Còn
tư bản bất biến là điều kiện cần thiết.
*Tư bản cố định – tư bản lưu động:
-Căn cứ: phương thức chuyển giá trị của các bộ phận tư bản vào giá trị sản phẩm mới.
-Nội dung: +Tư bản cố định
+Tư bản lưu động
-Ý nghĩa: là cơ sở để quản lý sử dụng vốn cố định, vốn lưu động một cách có hiệu quả
(phần này k hiểu gì nên học thuộc vẹt nhé )
lOMoARcPSD| 40660676
*Tư bản bất biến – Tư bản khả biến:
- Căn cứ của sự phân chia: C. Mác đã căn cứ vào vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong
việc tạo ra giá trị thặng dư, trong đó tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện, còn tư bản khả
biến đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
- Nội dung:
+Tư bản bất biến:
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể của
công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá trị không
biến đổi trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến( ký hiệu là c).
Tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trình tạo
ra giá trị thặng dư được diễn ra.
Máy móc dù hiện đại, dù được tự động hóa thì vai trò của nó, C.Mác so sánh, giống như vai
trò của chiếc bình thủy tinh trong thí nghiệm phản ứng hóa học. Máy móc, nguyên nhiên vật
liệu là điều kiện để cho quá trình làm tăng giá trị được diễn ra. Không có máy móc, không có
quá trình tổ chức kinh doanh thì đương nhiên không có quá trình sản xuất giá trị thặng dư..
Ngày nay máy móc được tự động hóa như người máy, thì người máy cũng chỉ có vai trò là máy
móc, chừng nào việc sử dụng sức lao động còn có lợi hơn cho người mua hàng hóa sức lao
động so với sử dụng người máy, thì chừng đó nhà tư bản còn sử dụng sức lao động sống của
người bán sức lao động làm thuê.
Tuy nhiên, cần lưu ý, việc ứng dụng thiết bị công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất là tiền
đề để tăng năng suất lao động xã hội, do đó, máy móc, công nghệ tiên tiến rất cần thiết cho quá
trình làm tăng giá trị. ` +Tư bản khả biến:
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động thì khác. Giá trị của nó được chuyển cho công
nhân làm thuê, biến thành tư liệu sinh hoạt cần thiết và mất đi trong quá trình tái sản xuất sức
lao động của công nhân làm thuê. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, công nhân làm thuê bằng
lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới với lượng lớn hơn giá trị sức lao động.
Vậy, C.Mác kết luận, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra,
nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi về số lượng
trong quá trình sản xuất, được Mác gọi là tư bản khả biến( ký hiệu là v).
Như vậy, đến đây, nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì có thể công thức hóa về giá trị hàng
hóa dưới dạng như sau:
G = c +( v + m)
Trong đó:( v + m) là giá trị mới của hàng hóa, do hao phí lao động sống tạo ra ; c là giá
trị của những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng, là bộ phận lao động quá khứ đã được kết tinh
lOMoARcPSD| 40660676
trong máy móc, nguyên nhiên vật. liệu. Bộ phận này được lao động sống chuyển vào giá trị sản
phẩm mới. Thông qua việc bán hàng hóa sức lao động, người lao động được trả tiền công
- Ý nghĩa của sự phân chia: Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến
công lao vĩ đại của Mác. Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư
là do tư bản khả biến tạo ra, còn tư bản bất biến tuy không phải là nguồn gốc của giá trị thặng
nhưng là điều kiện cần thiết không thể thiếu được. Như vậy, Mác đã chỉ ra vai trò khác
nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình hình thành giá trị nhờ sự phân chia này. Từ đó
làm rõ bản chất bóc lột của CNTB.
*Tư bản cố định và tư bản lưu động:
- Căn cứ vào phương thức chuyển giá trị của các bộ phận tư bản vào giá trị sản phẩm mới.
- Nội dung:
+Tư bản cố định: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, n
xưởng… về hiện vật tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó bị khấu hao
từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn dần trong
quá trình sản xuất. Có 2 loại hao mòn. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, có thể nhìn
thấy luôn. Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình có thể xảy
ra ngay khi máy móc vẫn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn nhưng
công suất cao hơn.
+Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ, sức lao động, … giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại
toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Tốc độ chu chuyển của tư bản lưu
động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, từ đó tiết kiệm được
tư bản ứng trước. Đồng thời, làm tăng tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
hằng năm tăng lên.
- Ý nghĩa:
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình
do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị
nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên
sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng
lOMoARcPSD| 40660676
trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị
thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
Câu 6: Phân tích khái niệm, ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Liên hệ với
thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
*Nền kinh tế thị trường:
-Khái niệm: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có nền
kinh tế hàng hóa phát triển cao, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều chịu tác động của các quy
luật thị trường.
-Ưu thế: 1. Tạo động lực và hình thành ý tưởng mới cho chủ thể kinh tế.
2. Luôn phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể trong các mối quan hệ kinh tế.
3. Tạo ra được các phương thức thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người.
-Khuyết tật: 1. Tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng.
2. Không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường..v.v.
3. Không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc xã hội.
*Liên hệ với thực tiễn Việt Nam:
- Thay đổi tư duy kinh tế từ thực tiễn khách quan: Kinh tế kế hoạch hóa tập trung -> Kinh tế thị
trường
- Thời gian đầu có là sự mờ nhạt, thiếu hình bóng của các yếu tố CNXH, sau đó thông qua các
Đại hội, từng bước Nhà nước nắm lại quyền điều tiết và các lĩnh vực then chốt. Các tập đoàn
Nhà nước ngày càng đạt hiệu quả cao.
- Có điểm khác biệt rõ nét so với nền kinh tế thị trường của CNTB: do nhân dân lao động làm
chủ.
*Nền kinh tế thị trường:
- Khái niệm: Nền kt được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế
giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường( người bán cần tiền,
người mua cần bán và họ gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó gọi là nền KTTT.
Kinh tế TT là các tổ chức nền kinh tế- xã hội, trong đó quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ
cư xử của các thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính
mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
lOMoARcPSD| 40660676
Kinh tế TT là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinh tế trong
quá trình tái sản xuất đều được tiền tệ hóa, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên,
vốn bằng tiền và vốn bằng vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ
tạo ra, chất xám đề là đối tượng mua- bán và là hàng hóa - Những ưu điểm:
1. Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng
mới của các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động lực cho sự sáng
tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức
hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất,
làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp nhận mọi ý
tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền kinh tế thị trường tạo
môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới theo đà phát triển của xã hội.
2. Nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy, đều có thể
trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế
thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh
tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền Trong quốc
gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
3. Nền kinh tế thị trường tạo luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu
của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội,
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối
đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế trường với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu
tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được
đáp ứng kịp thời ; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng
loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy
văn minh, tiến bộ xã hội.
Ví dụ: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng vững
được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý. Do vậy, nó luôn
tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu
ở mức tối đa.
- Khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật vốn có. Những khuyết tật
chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
lOMoARcPSD| 40660676
1. Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng.
Trong kinh tế thị trường, rủi ro về khủng hoảng luôn tiềm ẩn. Khủng hoảng có thể diễn
ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình
thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể
hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị
trường không tự khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy
luật kinh tế. Tính tự phát này bên cạnh ý nghĩa tích cực, còn gây ra các rủi ro tiềm ẩn dẫn đến
khủng hoảng. Đây là thách thức với nền kinh tế thị trường.
2. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Ví dụ: Như sự cạn
kiệt tài nguyên dầu khí, than đá… Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng
tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận,
các thủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục
tiêu làm giàu thậm chi phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm
chí cả đạo đức xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh
tế thị trường. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh có
thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ
vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị
trường không thể khắc phục được các khuyết tật này.
3. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
xã hội. Ví dụ: Hiện tượng phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là tất
yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu
hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động
tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
Đây là khuyết tật của nền kinh tế thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của
nhà nước.
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một nền kinh
tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của
cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
hay nền kinh tế hỗn hợp.
*Liên hệ:
Sau 30 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường( KTTT) định hướng xã hội h
nghĩa( XHCN) ngày càng sáng tỏ hơn. KTTT phát triển đã góp phần khẳng định:”Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của
lOMoARcPSD| 40660676
lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan
trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới”
Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và Nhà nước
ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang nền KTTT và
hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh chóng được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và đông
đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước
ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương
phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn, chủng loại
phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng khoán phát triển khá
nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa học - công nghệ, dù còn chưa phát
triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển, đưa nước
ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.
Tuy nhiên, các yếu tố XHCN hoặc xuất hiện nhưng không có hiệu quả, hoặc chưa rõ nét.
Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng hiệu quả
thấp. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ
nần( nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng). Hợp tác xã
còn yếu kém hơn, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu
theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị trường, gian
lận, hàng giả... diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân dân do quản lý nền
kinh tế chưa thực sự hiệu quả và công bằng, do”lợi ích nhóm”chi phối nên nhiều chính sách
kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của quảng đại nhân dân lao động. Sự phân hóa
giàu - nghèo ngày càng gia tăng, tệ quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa
hiệu quả. Số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thoát nghèo.
Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính XHCN của nền KTTT ở đâu ?
Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, coi hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến lược..., nhưng
nhiều năm đã trôi qua mà chủ trương ấy vẫn chưa đem lại thành quả như mong muốn: Kinh tế
vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước đầu
của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới
mô hình tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách
bền vững. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài
nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn
những nhân tố có thể gây mất ổn định ; bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức ; trật
tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc.
lOMoARcPSD| 40660676
Thực tiễn cũng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN có sự khác biệt với nền KTTT tư bản
chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị trong một
nước. Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa: đó là giới chủ ; trong nền KTTT định hướng XHCN:
đó là đông đảo nhân dân lao động. Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn
lại của KTTT như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền KTTT, kỹ thuật tổ chức
quản lí nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế nói riêng hoạt động ở trạng thái
hiệu quả đều có thể chung nhau(KTTT chủ nghĩa tư bản và KTTT chủ nghĩa xã hội) vì đó là
thành quả tiến hóa mang tính nhận thức và khoa học của con người.
Câu 7: Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
*Tính tất yếu khách quan:
1. Phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính quy luật phát triển khách
quan
2. Kinh tế thị trường có tính ưu việt trong thúc đẩy phát triển.
3. Mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
- Sự tồn tại hay không tồn tại của nền kttt định hướng xhcn còn do những điều kiện khách quan
về kinh tế - xã hội quy định.
*Đặc trưng cơ bản:
1. Về mục tiêu: là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện”dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
-Sở hữu bao gồm chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và lợi ích từ đối tượng sở hữu. Bao hàm nội
dung kinh tế và pháp lý:
+Kinh tế: là cơ sở, điều kiện sản xuất.
+Pháp lý: thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn, nghĩa vụ của chủ
thể sở hữu.
- Thành phần kinh tế: đa dạng trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm
các ngành then chốt; kinh tế tư nhân có vai trò là động lực.
-> Cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy kinh tế.
3.Về quan hệ quản lý kinh tế
lOMoARcPSD| 40660676
Nhà nước có vai trò điều tiết nền kinh tế. Cụ thể: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế tang
trưởng kinh tế đơn thuần.
Tuy nhiên Nhà nước điều tiết kinh tế không có nghĩa là san bằng kiểu bình quân mà là sự
điều tiết về thu nhập, an sinh và phúc lợi xã hội, tạo điều kiện khởi điểm bình đẳng cho nhân
dân trên mọi phương diện việc làm hoặc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: y tế, giáo dục,
…-> cải thiện đời sống, góp phần xây dựng đất nước.
*Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo .
*Tính tất yếu khách quan
Sự tất yếu đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính quy luật phát
triển khách quan.
Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển trình độ cao. Khi có
đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó
tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn
tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam. là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là mong muốn chung
của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc hướng tới xác lập những giá trị đó trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát triển. Song trong sự tồn tại hiện thực sẽ
không thể có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi hình thái kinh tế - xã
hội, mọi quốc gia, dân tộc.
Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và phong kiến hay kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nó tồn tại trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, gắn bó hữu
cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Ngay như trong cùng
một chế độ tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường của mỗi quốc gia, dân tộc cũng khác nhau,
mang đặc tính khác nhau. là p vàs của mil tri vă N de h d
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn
phát triển khá cao và phồn thịnh ở các nước từ bản phát triển, nhưng những mâu thuẫn vốn có
của nó không thể nào khắc phục được trong lòng xã hội tư bản, nền kinh tế thị trường tự bản
chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến hóa tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một
cuộc cách mạng xã hội - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển
lOMoARcPSD| 40660676
thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với xu thế của
thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu thuẫn với tiến trình
phát triển của đất nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện nay của các dân tộc, quốc
gia đang trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ nghĩa. Hai là, do tính ưu việt của kinh tế
thị trường trong thúc đẩy phát triển Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị
trường là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được SO với các mô
hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển
theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng xuất lao động,
chất lượng sản phẩm và giá thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường
không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là”dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường để có
sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Có thể khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn
cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện cần thiết để đi đến mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả.
3. Do đó là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển mà dẫn tới dân
không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém văn minh thì không ai mong muốn. Thế
giới cũng vậy và nhân dân Việt Nam cũng vậy. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực
hóa khát vọng như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị
mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một
tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại hay
không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó
quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời
và tồn tại của sản xuất hàng hóa như: phân công lao động xã hội, các hình thức khác nhau của
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn
phải được thực hiện thông qua thị trường với những quan hệ giá trị tiền tệ.
Mặt khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất
là quá trình phát triển”rút ngắn”của lịch sử, chứ không phải là sự”đốt cháy”giai đoạn. Với ý
lOMoARcPSD| 40660676
nghĩa đó, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta phải làm một cuộc
cách mạng về cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội, chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang
*Đặc trưng:(chỉ cần học thuộc box là chém được)
- Mục tiêu: của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác
thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế thị trường là vì con người, nâng cao
đời sống nhân dân, mọi người điều được hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
- Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế: tồn tại nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành
phần kinh tế khác nhau.Theo quan điểm tại đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay có bốn thành phần kinh tế gồm: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập
thể, thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng bên cạnh tính
thống nhất giữa các thành phần kinh tế cũng có sự khác nhau thậm chí có thể có mẫu thuẫn
khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau.
Mặc dù, với tư duy đột phá, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế và
khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng thành phần kinh tế tư
nhân không tránh khỏi tính tự phát, chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh các hiện tượng tiêu
cực làm tổn hại đến lợi ích chung của toàn thể xã hội.
Vì vậy, nhà nước phải dùng nhiều biện pháp để ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những
hiện tượng tiêu cực hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế đi theo đúng quỹ đạo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Nhà nước pháp quyền xã hội ch
nghĩa đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và phải bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân.
Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sự dụng cơ
chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và khắc phục những tiêu cực, hạn chế
do cơ chế thị trường mang lại, bảo vệ lợi ích của nhân dân và xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân
phối. Cụ thể là thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.Cơ chế
phân phối này tạo động lực để kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động, sản
xuất, kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội.
lOMoARcPSD| 40660676
Do trình độ của lực lượng sản xuất còn chưa đồng đều nên tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, do đó tất yếu cần có sự tồn tại đa dạng về quan hệ phân phối.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội.
Nền kinh tế đó luôn có sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển
kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người đều có cơ hội và điều kiện
phát triển toàn diện. Đây cũng là một trong những mục tiêu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa về việc
phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi
với chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát
triển đất nước.
Đảng ta xác định hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Nền
kinh tế thị trường ở nước ta được xây dựng trên cơ cấu kinh tế mở thì thị trường trong nước
phải gắn với thị trường quốc tế, mức độ mở của hệ thống kinh tế tùy thuộc vào mức độ phát
triển của lực lượng sản xuất, của tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế, vai trò quản lý kinh tế vĩ mô
của nhà nước, tình hình quốc tế trong từng thời kỳ.
Câu 8: Phân tích vai trò của Cách mạng Công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ
đó rút ra ý nghĩa việc nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
(chỉ có box ý chính còn lại có thể tự chém) (P/s: Cố gắng lên, đừng khóc nhớ khà khà)
*Vai trò:
1. Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất:
- Tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng
sản xuất xã hội.
- Đặt ra đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực -> tạo điều kiện phát triển nhân lực
- Về đối tượng lao động, các nguồn lực truyền thống là sức người hay vấn đề khai thác nguồn
lực từ thiên nhiên sẽ giảm dần thông qua các cuộc cánh mạng, tiến tới”tạo ra của cải sẽ trở
nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động”mà”phụ thuộc vào việc ứng
dụng khoa học ấy vào sản xuất”hay đơn giản là các nguyên liệu nhân tạo thay thế giảm thiểu
nguy cơ cạn kiệt tài nguyên hay ô nhiễm môi trường.
lOMoARcPSD| 40660676
-Tạo cơ hội cho các nước đi sau có những bước nhảy lớn trong phát triển, rút ngắn khoảng cách
về trình độ phát triển so với các nước đi trước.
2.Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất:
- Biến đổi về sở hữu tư liệu sản xuất -> Sở hữu tư nhân dần bị thay thế bằng sự liên kết các
ngành, dưới hình thức công ty cổ phần -> mở rộng chủ thể sở hữu tư bản ra các thành phần
khác của xã hội.
-Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặt ra những yêu cầu hoàn thiện nền kinh tế thị trường,
tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu khoa học công nghệ.
- Tạo điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lí kinh tế - xã hội giữa các nước.
Mở ra những bước đi vào chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sự biến đổi hệ thống sản xuất, quản lý,
quản trị kinh tế; phát triển các mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh.
3. Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
- Hình thành”thế giới phẳng”trên phạm vi toàn cầu, dần đưa thế giới sang trạng thái công nghệ
hoàn toàn mới. Tạo chuyển biến KT công nghiệp -> KT tri thức.
- Hình thành hệ thống tin học hóa trong quản lý và”chính phủ điện tử”.
- Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia(TNC) ngày càng có vai trò quan trọng.
-Đặc biệt là cuộc Cách mạng 4.0 sẽ buộc các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết kế
tiếp cận thi trường, trong đó nguồn lực chủ yếu là công nghệ, trí tuệ, sáng tạo.
- Giảm được sự cồng kềnh trong bộ máy quản lí cũng như chi phí quản lí.
- Tạo ra sức ép về trình độ phát triển và cạnh tranh kinh tế lớn buộc các nước phải thay đổi, tái
tạo lại công tác quản trị để có thể bắt kịp.
*Ý nghĩa:
- Đưa ra được những cơ hội mà Việt Nam có thể tận dụng trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
- Nêu ra những hạn chế mà Việt Nam đang mắc kẹt và yêu cầu hướng giải quyết phù hợp.
Câu 9: Phân tích tác động của hội nhập kinh tế đến sự phát triển của Việt Nam hiện nay.
(Các ý quá rõ ràng rồi phần này học chi tiết)
*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt Nam
với nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đối
với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức đòi
lOMoARcPSD| 40660676
hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to lớn từ quá trình hội nhập kinh thế giới
đem lại.
*Nội dung (ngắn gọn)
*Tác động:
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong phát
triển của các nước và những lợi ích kinh tế khá nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển,
tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý,
hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước,
góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công
nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học
công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các
nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng
nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường
quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với
phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ
hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá
cạnh tranh ; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm
kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình
hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp
lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
lOMoARcPSD| 40660676
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những
giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế
giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải
cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một
xã hội mở, dân chủ, văn minh.
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các các tổ chức chính trị, kinh tế
toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực
và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội ; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các
nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường,
biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều rủi ro,
bất lợi và thách thức, đó là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất
lợi về mặt kinh tế - xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào
thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về
chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho
các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu
nghèo và bất bình đẳng xã hội.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối
mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các
ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất
lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công
nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ
quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật
tự, an toàn xã hội.
- Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam
bị xóimòn trước sự”xâm lăng”của văn hóa nước ngoài.
lOMoARcPSD| 40660676
- Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội
phạmxuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp...
=> Tóm lại, hội nhập kinh quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng là rất
khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần
phải đặc biệt coi trọng.
| 1/31

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40660676
ĐỀ CƯƠNG MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ (có 9 câu thôi, cố lên nào ĐA )
Câu 0: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn ktct (Amen - Chúa phù hộ em)
a) Đối tượng nghiên cứu:
- Kinh tế chính trị có thể hiểu theo nghĩa hẹp hoặc rộng:
+ Nghĩa hẹp: ktct là khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ sx và trao đổi trong một
phương thức sản xuất nhất định
+ Nghĩa rộng, Ph. Ăngghen cho rằng: KTCT là khoa học về những quy luật chi phối sự sản
xuất và trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người,.. Những điều
kiện trong đó ngta sản xuất và trao đổi sản phẩm, đều thay đổi trong từng nước và trong
mỗi nước lại thay đổi theo từng thế hệ
- Đối tượng nghiên cứu là các quan hệ xã hội trong sản xuất và trao đổi, quan hệ này được
đặt trong mối liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tương ứng với phương thức sản xuất nhất định
- Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở hữu,
qhe phân phối, quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, qhe giữa sản xuất và thị trường…
b) Phương pháp nghiên cứu
Kinh tế chính trị Mác Lênin là môn Khoa học có phương pháp nghiên cứu riêng. Để
nghiên cứu kinh tế chính trị cần kết hợp giữa phép biện chứng duy vật và nhiều phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành thích hợp như: trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử,
Thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa khảo sát tổng kết thực tiễn…
- Vận dụng thành thạo các phép Biện chứng duy vật để thấy được các hiện tượng và quá
trình kinh tế hình thành, phát triển, chuyển hóa không ngừng, giữa chúng có mối liên hệ
tác động biện chứng với nhau, các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi ứng với từng
điều kiện cụ thể nhất định luôn thuộc về một chỉnh thể những mối liên hệ trong sản xuất
xã hội tương ứng với những trình độ phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng như một phương pháp chủ yếu của
kinh tế chính trị Mác - Lênin, bởi vì:Các nghiên cứu của khoa học này không thể được
tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không thể sử dụng các thiết bị kỹ thuật như
nghiên cứu khoa học tự nhiên. Mặt khác, các quan hệ của sản xuất và trao đổi,Các quá
trình kinh tế luôn phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nên việc sử
dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp cho việc nghiên cứu trở nên đơn giản
hơn nhanh chóng tiếp cận được bản chất đối tượng nghiên cứu.
+ Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp được tiến hành bằng cách nhận ra và gặp
bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời, giá
tiếp, trên Cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình bền vững ổn định lOMoAR cPSD| 40660676
trực tiếp của đối tượng nghiên cứu. từ đó nắm được bản chất khái quát thành các
phạm trù, Khái niệm và phát hiện được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận
động của đối tượng nghiên cứu.
+ Để sử dụng tốt phương pháp trừu tượng hóa khoa học học cần có kỹ năng khoa học
xác định đúng giới hạn của sự trừu tượng hóa. việc loại bỏ những hiện tượng tạm
thời, ngẫu nhiên phải đảm bảo yêu cầu không làm sai lệch bản chất của đối tượng
nghiên cứu. Không được tùy tiện loại bỏ yếu tố phản ánh trực tiếp bản chất của đối
tượng nghiên cứu; càng không được giữ lại hiện tượng yếu tố tạm thời cần phải
được gạt ra khỏi quá trình nghiên cứu. giới hạn của sự trừu tượng hóa phụ thuộc
vào đối tượng nghiên cứu.
- Ngày nay với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hệ kinh tế các phương pháp
nghiên cứu đặc thù kinh tế chính trị Mác Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu liên ngành các phương pháp nghiên cứu hiện đại nghiên cứu dựa trên bảng
chứng tổng kết thực tiễn để làm cho các kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác -
Lênin gắn bó mật thiết với thực tiễn.
Câu 1: Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Phân tích 2 thuộc tính
của hàng hóa. Lấy ví dụ thực tiễn để minh họa và giải thích vì sao hàng hóa lại có 2 thuộc tính?
*Sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
- 2 điều kiện: 1. Phân công lao động xã hội theo các ngành, lĩnh vực khác nhau => có sự
phân công chuyên môn hóa.
2. Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất độc lập => tách biệt về lợi
ích, có nhu cầu sử dụng sản phẩm của các ngành khác nhau, các người khác nhau => Tách biệt về quyền sở hữu.
*Hai thuộc tính của hàng hóa:
1. Giá trị sử dụng: công dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
2. Giá trị: là lao động của con người sản xuất kết tinh trong hàng hóa ấy.
*Hàng hóa có 2 thuộc tính vì nó có tính 2 mặt: 1. Tính cụ thể(Lao động cụ thể)
2. Tính trừu tượng(Lao động trừu tượng)
-> Trong đó lao động cụ thể tạo ra GTSD, còn lao động trừu tượng chính là chất của giá trị hàng hoá.
-> Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa. lOMoAR cPSD| 40660676
*Phân tích sự kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa(điều kiện cần và đủ)
Khái niệm SXHH: Sxhh là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó những người sx ra sản phẩm
nhằm mục đích trao đổi và mua bán
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của hội loài người. Để nền kinh
tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển C.Mác cho rằng cần hội đủ hai điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia
lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên
môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi
người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi
hỏi nhiều loại sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải
trao đổi sản phẩm với nhau. Đây là điều cần để sx hàng hóa ra đời và phát triển
Ví dụ: Người thợ chuyên dệt vải sẽ có nhiều vải hơn so vơi nhu cầu của bản thân mình
nhưng họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác, trong đó có lương thực. Người thợ dệt vải đem
vải đổi lấy gạo và ngược lại, người nông dân cũng cần vải để mặc nên dùng gạo đổi lấy vải.

- Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau, có
sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người
khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa.
C.Mác viết:”chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc
vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất
hàng hóa ra đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản
xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển,
sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Ví dụ: Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, người chủ nô sở hữu nhiều nô lệ, mỗi người làm một công
việc khác nhau, tạo ra sản phẩm khác nhau. Nhưng, họ lại không có sự tách biệt về kinh tế, sản
phẩm của họ làm ra lại thuộc sở hữu của người chủ nô. Người nô lệ không thể tự do đem sản
phẩm đó đi trao đổi mua bán được. nên sản phẩm lao động của họ không được coi là hàng hóa.
Chỉ khi, người chủ nô mang sản phẩm lao động đó ra chợ buôn bán thì đó mới được coi là hàng
hóa. Người chủ nô khác với người nô lệ ở chỗ họ được quyền sở hữu và có sự tách biệt kinh tế.

Khi còn sự hiện diện của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan
mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho
xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng
hóa có tư thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
*Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa: lOMoAR cPSD| 40660676
-KHÁI NIỆM: “Hàng hóa”: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- VD: Lên rừng hái sim ăn thì sim đó ko là hàng hóa. Nhưng hái sim đó, mang ra chợ và bán
thì sim đó lại là hàng hóa.
- Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình), hoặc ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình)
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị. - Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người, nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần ; cũng có thể là
nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành nên
hàng hóa đó quy định. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công nghệ càng tiên tiến, càng
giúp cho con người phát hiện ra nhiều và phong phú các giá trị sử dụng của hàng hóa khác
nhau. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua.
Cho nên, nếu là người sản xuất, tất yếu phải chú ý chăm lo giá trị sử dụng của hàng hóa do
mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
- Ví dụ: Gạo để ăn, áo để mặc…Ngày xưa, than đá chỉ được dùng để đun nấu, sưởi ấm. Ngày
nay, than đá được dùng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp năng lượng… - Giá trị:
Theo C.Mác, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa ấy. Để lý giải rõ khái niệm này, C.Mác đặt vấn đề, tại sao giữa các hàng hóa có
giá trị sử dụng khác nhau lại trao đổi được với nhau ? Mối quan hệ về lượng giữa các giá trị sử
dụng khác nhau được C.Mác gọi là giá trị trao đổi. Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc.
C.Mác cho rằng, sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì chúng có một điểm
chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của hao phí sức lao động. Tức là hàng hóa
có giá trị. Khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị sử dụng, chúng đều là kết quả của sự hao phí
sức lao động của người sản xuất ra hàng hoá ấy, nên hàng hóa có giá trị.
Mặt khác, khi đã đề cập tới hàng hóa, có nghĩa là phải đặt sản phẩm của lao động ấy
trong mối liên hệ với người mua, người bán, trong quan hệ xã hội. Do đó, lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội, tức hàm ý quan hệ giữa người bán với người mua, hàm ý
trong quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, C.Mác quan niệm đầy đủ hơn: Giá trị của hàng hóa là lao
động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
Như vậy, bản chất của giá trị là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi
hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi đó có lOMoAR cPSD| 40660676
phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị
là nội dung, là cơ sở của trao đổi.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa * Thống nhất:
- Cùng tồn tại trong 1 hàng hóa.
- 2 thuộc tính của hàng hóa do 1 LĐSX ra hàng hóa quyết định. * Mâu thuẫn: -
Với tư cách GTSD, các hàng hóa ko thống nhất về chất nhưng với tư cách giá trị, các
hàng hóa đều là sự kết tinh của lao động.
VD: Người làm ra hàng hóa đem bán => chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm
ra. Ngược lại, người mua hàng có tiền lại chỉ chú ý đến GTSD. Người làm ra GTSD nhưng lại ko cần nó. -
Quá trình thực hiện GTSD và giá trị tách rời nhau cả về thời gian và ko gian: giá trị
trước, sau đó GTSD mới được thực hiện. -
Trong nền sản xuất hàng hóa, một hàng hóa sản xuất ra có thể bán được hoặc không bán
được.Nếu hàng hóa bán được thì mâu thuẫn giữa 2 thuộc tính được giải quyết.
*Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính:
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt: vừa
mang tính chất cụ thể(lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng(lao động trừu tượng).
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Trong đó
lao động cụ thể tạo ra GTSD, còn lao động trừu tượng chính là chất của giá trị hàng hoá. -
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động
và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác
nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao
động cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, vì vậy, lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh
viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
Ví dụ: Lao động cụ thể của một người thợ mộc thì mục đích để sản xuất ra cái bàn, cái
ghế; đối tượng lao động chính là gỗ; phương pháp lao động của người thợ mộc chính là thao lOMoAR cPSD| 40660676
tác về cưa, đục, đẽo, bào, khoan; phương tiện được người thợ mộc sử dụng là cái cưa, cái bào,
cái đục, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra được những cái bàn, những cái ghế cụ thể
-
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu
hiện cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức
cơ bắp, thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu
tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hoá, kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hoá. Nếu
không có sản xuất hàng hóa, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể
về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may nếu xét về mặt lao cụ
thể thì rất khác nhau nhưng nếu gạt bỏ hết sự khác nhau ấy đi thì chúng có một điểm chung đó
là đều phải hao phí sức lực trí óc, sức thần kinh của con người. Điểm chung đó là dù người thợ
mộc hay người thợ may thì đều phải hao phí sức lao động, có thể là trí óc, cơ bắp, thần kinh của con người.
Vẽ sơ đồ:
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.
-Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ mang tính chất tư nhân và lao động cụ thể
của họ sẽ là biểu hiện của lao động tư nhân
-Đồng thời, lao động của mỗi người nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu
tượng, thì nó luôn là một phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công
lao động, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. lOMoAR cPSD| 40660676
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao động
khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất và chúng mâu thuẫn với nhau
tạo ra mâu thuẫn cơ bản của”sản xuất hàng hóa”:
+ Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp
với nhu cầu của xã hội
+ Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể thấp hơn hoặc cao hơn hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận.
=> Dẫn tới hàng hóa k bán được. Nghĩa là dẫn tới một số hao phí lao động cá biệt không được
xã hội thừa nhận => Mâu thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn (vd: khủng hoảng thừa)
Câu 2: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
(=>Lưu ý: có 4 quy luật cần tìm hiểu: GIá trị, cung cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ,
những quy luật này đọc thêm trong sách hướng dẫn)

*Nội dung quy luật giá trị:
1.Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa.
2.Trong sản xuất: TGLĐCB ≤ TGLĐXHCT -> tồn tại(năng suất thì phải lớn hơn hoặc bằng
nhưng thời gian thì phải ít hơn hoặc bằng) 3.Nguyên tắc ngang giá(dựa trên cơ sở giá trị)
4.Giá cả thị trường biến động xoay quanh giá trị hàng hóa (cung-cầu)
*Yêu cầu: dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết *Tác động: 3 tác động
1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo *Ý nghĩa:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các nhân tố yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển
- Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đằng trong xã hội
*Nội dung của quy luật giá trị. lOMoAR cPSD| 40660676
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị; quy định việc sản xuất và
trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao
phí lao động cá biệt của mình phù hợp(lớn hơn hoặc bằng) với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết để có thể tồn tại; ví d :ụ Để sản xuất ra một cái áo, người sản xuất A phải tốn chi phí
lao động cá biệt là 5$/ sản phẩm. Tuy nhiên, hao phí lao động xã hội tức là mức hao phí lao
động trung bình mà xã hội chấp nhận chỉ là 4$/ sản phẩm. Như vậy, nếu bán ra thị trường
theo mức hao phí lao động cá biệt là 5$ thì người sản xuất A không bán được hàng, quy mô
sản xuất bị thu hẹp.

- Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải
dựatrên cơ sở giá trị. Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
tuân theo”mệnh lệnh”của giá cả thị trường.
- Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá(cung – cầu) và biểu hiện sự
tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Ví dụ: Một cái áo có giá trị xã hội là 4$, trong trường hợp thị trường cân bằng, cung bằng cầu
thì trong trường hợp này nhà sản xuất sẽ bán cái áo theo đúng giá trị của nó, tức là lúc đó giá
cả của cái áo bằng giá trị cái áo và bằng 4$. Trong trường hợp cung lớn hơn cầu, tức là sản
xuất dư thừa, buộc nhà sản xuất phải giảm giá cả cái áo xuống còn 3$, khi đó giá cả hàng hóa
sẽ nhỏ hơn giá trị. Ngược lại, trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu, tức là hàng hóa khan hiếm
thì giá cả sẽ cao hơn giá trị.
*Yêu cầu của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết
*Tác dụng của quy luật giá trị : Trong sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động.
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá
trên thị trường dưới sự tác động của quy luật cung cầu.
+ Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá
bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao
động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. lOMoAR cPSD| 40660676
+ Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán
không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại
hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị g thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả
thị trường g có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho
hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường
không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
Ví dụ: Trong bối cảnh dịch bệnh Covid, do tình trạng khan hiếm khẩu trang y tế nên giá cả khẩu
trang tăng lên nhanh chóng. Điều này đã hấp dẫn nhiều nhà máy may chuyển đổi phương thức
sản xuất từ sản xuất quần áo sang sản xuất khẩu trang y tế. Việt Nam không những đáp ứng nhu
cầu khẩu trang trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước khác trên thế giới.

- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức
hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội
cần thiết, sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
+ Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải
tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm v.v nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản
xuất nào cũng làm như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không
ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
Ví dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh điện thoại di động, để hạ thấp hao phí lao động cá biệt, các
hãng điện thoại không ngừng đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, đổi mới phương thức quản
lý… Điều này đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, giá thành sản phẩm điện thoại ngày
càng rẻ hơn, chất lượng, tính năng vượt trội hơn. Hơn nữa, ngoài việc đổi mới kỹ thuật, công
nghệ sản xuất, dịch vụ chăm sóc, hậu mãi khách hàng cũng ngày càng tốt hơn.

- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo.
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí
lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết(theo giá
trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành ông chủ.
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí
lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có lOMoAR cPSD| 40660676
thể phá sản, trở thành lao động làm thuê và đây g là một trong những nguyên nhân làm xuất
hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Ví dụ: Công ty A kinh doanh sản xuất ô tô, do có thời gian lao động xã hội cá biệt thấp hơn
lđxhct nên có nhều lợi nhuận, quy mô ngày càng mở rộng phát triển. Còn công ti B cũng sản
xuất ô tô, nhưng tglđcb thì cao hơn tglđxhct nên chịu thua lỗ, nếu không có biện pháp thay đổi
sẽ dẫn đến phá sản

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời
với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. *Ý nghĩa thực tiễn: -
Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật
giá trị trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. -
Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tíchcực phát triển
-Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội
-Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của
cơ cấu thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Câu 3: Phân tích hàng hóa sức lao động. Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu vấn đề này.
*Hàng hóa sức lao động: 2 điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
1. Người lao động tự do về thân thể.
2. Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết
*Sức lao động là hàng hóa đặc biệt:(thể hiện trong) - Trong quan hệ mua bán
- Trong 2 thuộc tính hàng hóa so với hàng hóa thông thường*Ý nghĩa của nghiên cứu vấn đề này:
- Khẳng định tính tất yếu của xây dựng thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay.
- Mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động. lOMoAR cPSD| 40660676
- Các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm.
- Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển.
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về mặt kinh tế.
*Hàng hóa sức lao động:
C.Mác viết:”Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”
Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa là:
Một, người lao động được tự do về thân thể. Ví dụ: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người
nô lệ hay bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô. Họ không thể tư thỏa thuận mua bán sức lao
động của mình mà phải làm việc theo yêu cầu của chủ nô=> Sức lao động không trở thành hàng hóa

Hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động. Ví dụ : người thợ may
có máy may, nhà xưởng, nguyên liệu và thị trường thì họ sẽ tự sản xuất tạo ra sản phẩm chứ
chẳng tội gì phải đi làm thuê cho người khác.

Khi sức lao động trở thành hàng hóa, nó cũng có hai thuộc tính như hàng hóa thông
thường. Đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Xét về cấu thành, do hàng hóa sức lao động tồn tại trong con người đang sống, nên để
sống và tái sản xuất sức lao động, người lao động phải tiêu dùng lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Do vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người lao
động tiêu dùng. Tức là, về cách tính, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp
thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động. Cho nên, cấu
thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
1. Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết(cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất ra sức lao động (ăn, mặc, ở, y tế…)
2. Phí tổn đào tạo người lao động (Chi phí giáo dục đào tạo)
3. Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết(vật chất và tinh thần) nuôi con của người lao động. lOMoAR cPSD| 40660676
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá cả của hàng hóa
sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nêu trên.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu của người mua.
Khác với nhu cầu thông thường, khi sử dụng hàng hóa sức lao động, người mua hàng hóa
sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có được giá trị lớn hơn, giá trị tăng thêm. Hàng hóa
sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Hơn thế, giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng đặc biệt mà không hàng hóa thông thường nào có
được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được
lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa để chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn từ đâu mà
có. Ví dụ như : người công nhân thời Pháp thuộc ở Việt Nam, khi cuộc sống khó khăn, nhu cầu
tư liệu sinh hoạt có khi chỉ đơn giản là ăn no mặc ấm, đủ ăn, đủ mặc. Còn người công nhân
thời nay, thì nhu cầu sinh hoạt cao hơn như : ăn ngon, mặc đẹp và phải có cả tiền tích lũy
những lúc hoạn nạn.

C.Mác khẳng định, nguồn gốc của giá trị thặng dư do hao phí sức lao động mà có.
*Sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì:
- Điểm đặc biệt trong quan hệ mua bán:
+ Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và bán trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: nhà Tư bản chỉ có thể thuê người công nhân làm việc trong 1 tgian nhất định theo hợp
đồng chứ không thể mua (sở hữu) người công nhân
+ Mua bán chịu: GTSD thực hiện trước(phải làm việc trước) và giá trị thực hiện sau(trả công sau)
+ Chỉ có phía người bán là công nhân, phía người mua là các nhà tư bản, không có chiều ngược lại.
- Điểm đặc biệt trong hai thuộc tính của hàng hoá SLĐ so với hàng hoá thông thường:
+ Giá trị của hàng hoá sức lao động
Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu
tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kì, phụ
thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và
cả điều kiện địa lí, khí hậu. Ví dụ: Khi người ta đi xkld ở 1 nước kém phát triển sang 1 nước
phát triển hơn thì giá trị sức lao động sẽ tăng lên dù ngta làm cùng 1 công việc như nhau
+ Giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới(v+m) lớn hơn giá trị
của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc lOMoAR cPSD| 40660676
điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với hàng hoá thông thường. Các
nhà TB đã lợi dụng điều này để bóc lột sức lao động của công nhân thông qua giá trị thặng dư
Ý nghĩa việc xuất hiện hàng hoá sức lao động:
- Là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó là lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không;
- Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợitức, địa tô …
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.)
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay:
- Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hóa cho nên việc xây dựng thị trường
sức lao động là tất yếu.
- Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở rộng do chính sách và cơ
chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
- Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng
lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường.
- Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn
giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Đấtđai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã thúc đẩy các yếu
tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới giải
phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm.
*Câu 4: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của
việc nghiên cứu các phương pháp này.
-Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Công thức:
1. (m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, m là giá trị thặng dư, v là tư bản khả biến)(1)
2. (t’ là thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu)(2)
-Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản thu được. Công thức: lOMoAR cPSD| 40660676 M(3)
(M là khối lượng, V là tổng tư bản khả biến)
*Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư: 2 phương pháp
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối(kéo dài thời gian lao động hay có nghĩa là tăng giờ làm)
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối(rút ngắn thời gian lao động tất yếu hay có nghĩa là tang năng suất) *Ý nghĩa nghiên cứu:
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng
mạnh mẽ, kích thích các cá nhân và tập thể người lao động ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến
quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không, giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành lên thu nhập của các nhà tư bản và
các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
*Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ ra nhà tư bản
sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối. - Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao
động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100 %.
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không
đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
= 150 % (công thức(2))
Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách để
kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về
mặt sinh lý( công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên không thể kéo dài bằng
ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con người.
Hơn nữa, công nhân kiến quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai
bên có mâu thuẫn, thông qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao lOMoAR cPSD| 40660676
động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh
thần của người lao động.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất
yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi
hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị thặng dư là 100 %.
Nếu giá trị sức lao động giá khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì
thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
= 300 % (công thức(2))
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến
thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5 giờ. Khi đó:
= 500 % (công thức(2))
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở một hoặc vài
xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hoá do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn
giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác.
Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi
mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả
làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp các nhà tư bản đã
thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Đó là cách mạng về tổ chức, quản lý lao động thông qua thực hiện hiệp tác giản đơn, cách mạng
về sức lao động thông qua thực hiện hiệp tác có phân công và cách mạng về tư liệu lao động
thông qua sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp. lOMoAR cPSD| 40660676
Sự hình thành và phát triển của nền hiện đại công nghiệp thông qua cách mạng công
nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho sự phát triển khoa học công nghệ thúc đẩy nền sản
xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư phát triển nhanh.
Cùng với toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan
trọng của sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 pp này: + Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ
mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận
dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
+ Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá
trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản
xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã
hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ
bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Câu 5: Phân tích căn cứ, nội dung, ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm
trù: tư bản bất biến – tư bản khả biến và tư bản cố định – tư bản lưu động. Ý nghĩa của
nghiên cứu vấn đề này?

*Tư bản bất biến – Tư bản khả biến:
-Căn cứ: vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị thặng dư -
Nội dung: +Tư bản bất biến. +Tư bản khả biến.
-Ý nghĩa: vạch ra được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra. Còn
tư bản bất biến là điều kiện cần thiết.
*Tư bản cố định – tư bản lưu động:
-Căn cứ: phương thức chuyển giá trị của các bộ phận tư bản vào giá trị sản phẩm mới.
-Nội dung: +Tư bản cố định +Tư bản lưu động
-Ý nghĩa: là cơ sở để quản lý sử dụng vốn cố định, vốn lưu động một cách có hiệu quả
(phần này k hiểu gì nên học thuộc vẹt nhé ) lOMoAR cPSD| 40660676
*Tư bản bất biến – Tư bản khả biến:
- Căn cứ của sự phân chia: C. Mác đã căn cứ vào vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong
việc tạo ra giá trị thặng dư, trong đó tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện, còn tư bản khả
biến đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra giá trị thặng dư. - Nội dung: +Tư bản bất biến:
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể của
công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá trị không
biến đổi trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến( ký hiệu là c).

Tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trình tạo
ra giá trị thặng dư được diễn ra.
Máy móc dù hiện đại, dù được tự động hóa thì vai trò của nó, C.Mác so sánh, giống như vai
trò của chiếc bình thủy tinh trong thí nghiệm phản ứng hóa học. Máy móc, nguyên nhiên vật
liệu là điều kiện để cho quá trình làm tăng giá trị được diễn ra. Không có máy móc, không có
quá trình tổ chức kinh doanh thì đương nhiên không có quá trình sản xuất giá trị thặng dư..
Ngày nay máy móc được tự động hóa như người máy, thì người máy cũng chỉ có vai trò là máy
móc, chừng nào việc sử dụng sức lao động còn có lợi hơn cho người mua hàng hóa sức lao
động so với sử dụng người máy, thì chừng đó nhà tư bản còn sử dụng sức lao động sống của
người bán sức lao động làm thuê.
Tuy nhiên, cần lưu ý, việc ứng dụng thiết bị công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất là tiền
đề để tăng năng suất lao động xã hội, do đó, máy móc, công nghệ tiên tiến rất cần thiết cho quá
trình làm tăng giá trị. ` +Tư bản khả biến:
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động thì khác. Giá trị của nó được chuyển cho công
nhân làm thuê, biến thành tư liệu sinh hoạt cần thiết và mất đi trong quá trình tái sản xuất sức
lao động của công nhân làm thuê. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, công nhân làm thuê bằng
lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới với lượng lớn hơn giá trị sức lao động.
Vậy, C.Mác kết luận, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra,
nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi về số lượng
trong quá trình sản xuất, được Mác gọi là tư bản khả biến( ký hiệu là v).

Như vậy, đến đây, nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì có thể công thức hóa về giá trị hàng hóa dưới dạng như sau: G = c +( v + m)
Trong đó:( v + m) là giá trị mới của hàng hóa, do hao phí lao động sống tạo ra ; c là giá
trị của những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng, là bộ phận lao động quá khứ đã được kết tinh lOMoAR cPSD| 40660676
trong máy móc, nguyên nhiên vật. liệu. Bộ phận này được lao động sống chuyển vào giá trị sản
phẩm mới. Thông qua việc bán hàng hóa sức lao động, người lao động được trả tiền công
- Ý nghĩa của sự phân chia: Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là
công lao vĩ đại của Mác. Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư
là do tư bản khả biến tạo ra, còn tư bản bất biến tuy không phải là nguồn gốc của giá trị thặng
dư nhưng là điều kiện cần thiết không thể thiếu được. Như vậy, Mác đã chỉ ra vai trò khác
nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình hình thành giá trị nhờ sự phân chia này. Từ đó
làm rõ bản chất bóc lột của CNTB.
*Tư bản cố định và tư bản lưu động:
- Căn cứ vào phương thức chuyển giá trị của các bộ phận tư bản vào giá trị sản phẩm mới. - Nội dung:
+Tư bản cố định: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng… về hiện vật tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó bị khấu hao
từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn dần trong
quá trình sản xuất. Có 2 loại hao mòn. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, có thể nhìn
thấy luôn. Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình có thể xảy
ra ngay khi máy móc vẫn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn nhưng công suất cao hơn.
+Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ, sức lao động, … giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại
toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Tốc độ chu chuyển của tư bản lưu
động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, từ đó tiết kiệm được
tư bản ứng trước. Đồng thời, làm tăng tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng lên. - Ý nghĩa:
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình
do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị
nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên
sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng lOMoAR cPSD| 40660676
trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị
thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
Câu 6: Phân tích khái niệm, ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Liên hệ với
thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
*Nền kinh tế thị trường:
-Khái niệm: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có nền
kinh tế hàng hóa phát triển cao, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều chịu tác động của các quy luật thị trường.
-Ưu thế: 1. Tạo động lực và hình thành ý tưởng mới cho chủ thể kinh tế.
2. Luôn phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể trong các mối quan hệ kinh tế.
3. Tạo ra được các phương thức thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người.
-Khuyết tật: 1. Tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng.
2. Không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường..v.v.
3. Không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc xã hội.
*Liên hệ với thực tiễn Việt Nam:
- Thay đổi tư duy kinh tế từ thực tiễn khách quan: Kinh tế kế hoạch hóa tập trung -> Kinh tế thị trường
- Thời gian đầu có là sự mờ nhạt, thiếu hình bóng của các yếu tố CNXH, sau đó thông qua các
Đại hội, từng bước Nhà nước nắm lại quyền điều tiết và các lĩnh vực then chốt. Các tập đoàn
Nhà nước ngày càng đạt hiệu quả cao.
- Có điểm khác biệt rõ nét so với nền kinh tế thị trường của CNTB: do nhân dân lao động làm chủ.
*Nền kinh tế thị trường:
- Khái niệm: Nền kt được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế
giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường( người bán cần tiền,
người mua cần bán và họ gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó gọi là nền KTTT.
Kinh tế TT là các tổ chức nền kinh tế- xã hội, trong đó quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ
cư xử của các thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính
mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. lOMoAR cPSD| 40660676
Kinh tế TT là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinh tế trong
quá trình tái sản xuất đều được tiền tệ hóa, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên,
vốn bằng tiền và vốn bằng vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ
tạo ra, chất xám đề là đối tượng mua- bán và là hàng hóa - Những ưu điểm: 1.
Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng
mới của các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động lực cho sự sáng
tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức
hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất,
làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp nhận mọi ý
tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền kinh tế thị trường tạo
môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới theo đà phát triển của xã hội. 2.
Nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy, đều có thể
trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế
thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh
tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền Trong quốc
gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới. 3.
Nền kinh tế thị trường tạo luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu
của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội,
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối
đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế trường với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu
tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được
đáp ứng kịp thời ; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng
loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy
văn minh, tiến bộ xã hội.
Ví dụ: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng vững
được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý. Do vậy, nó luôn
tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
- Khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật vốn có. Những khuyết tật
chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm: lOMoAR cPSD| 40660676 1.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng.
Trong kinh tế thị trường, rủi ro về khủng hoảng luôn tiềm ẩn. Khủng hoảng có thể diễn
ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình
thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể
hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị
trường không tự khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy
luật kinh tế. Tính tự phát này bên cạnh ý nghĩa tích cực, còn gây ra các rủi ro tiềm ẩn dẫn đến
khủng hoảng. Đây là thách thức với nền kinh tế thị trường. 2.
Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Ví dụ: Như sự cạn
kiệt tài nguyên dầu khí, than đá… Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng
tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận,
các thủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục
tiêu làm giàu thậm chi phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm
chí cả đạo đức xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh
tế thị trường. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh có
thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ
vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị
trường không thể khắc phục được các khuyết tật này. 3.
Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
xã hội. Ví dụ: Hiện tượng phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là tất
yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu
hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động
tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
Đây là khuyết tật của nền kinh tế thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước.
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một nền kinh
tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của
cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
hay nền kinh tế hỗn hợp. *Liên hệ:
Sau 30 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường( KTTT) định hướng xã hội hủ
nghĩa( XHCN) ngày càng sáng tỏ hơn. KTTT phát triển đã góp phần khẳng định:”Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lOMoAR cPSD| 40660676
lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan
trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới”
Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và Nhà nước
ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang nền KTTT và
hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh chóng được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và đông
đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước
ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương
phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn, chủng loại
phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng khoán phát triển khá
nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa học - công nghệ, dù còn chưa phát
triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển, đưa nước
ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.
Tuy nhiên, các yếu tố XHCN hoặc xuất hiện nhưng không có hiệu quả, hoặc chưa rõ nét.
Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng hiệu quả
thấp. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ
nần( nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng). Hợp tác xã
còn yếu kém hơn, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu
theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị trường, gian
lận, hàng giả... diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân dân do quản lý nền
kinh tế chưa thực sự hiệu quả và công bằng, do”lợi ích nhóm”chi phối nên nhiều chính sách
kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của quảng đại nhân dân lao động. Sự phân hóa
giàu - nghèo ngày càng gia tăng, tệ quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa
hiệu quả. Số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thoát nghèo.
Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính XHCN của nền KTTT ở đâu ?
Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, coi hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến lược..., nhưng
nhiều năm đã trôi qua mà chủ trương ấy vẫn chưa đem lại thành quả như mong muốn: Kinh tế
vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước đầu
của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới
mô hình tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách
bền vững. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài
nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn
những nhân tố có thể gây mất ổn định ; bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức ; trật
tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc. lOMoAR cPSD| 40660676
Thực tiễn cũng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN có sự khác biệt với nền KTTT tư bản
chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị trong một
nước. Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa: đó là giới chủ ; trong nền KTTT định hướng XHCN:
đó là đông đảo nhân dân lao động. Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn
lại của KTTT như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền KTTT, kỹ thuật tổ chức
quản lí nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế nói riêng hoạt động ở trạng thái
hiệu quả đều có thể chung nhau(KTTT chủ nghĩa tư bản và KTTT chủ nghĩa xã hội) vì đó là
thành quả tiến hóa mang tính nhận thức và khoa học của con người.
Câu 7: Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Tính tất yếu khách quan:
1. Phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan
2. Kinh tế thị trường có tính ưu việt trong thúc đẩy phát triển.
3. Mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
- Sự tồn tại hay không tồn tại của nền kttt định hướng xhcn còn do những điều kiện khách quan
về kinh tế - xã hội quy định. *Đặc trưng cơ bản:
1. Về mục tiêu: là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNXH; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện”dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
-Sở hữu bao gồm chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và lợi ích từ đối tượng sở hữu. Bao hàm nội dung kinh tế và pháp lý:
+Kinh tế: là cơ sở, điều kiện sản xuất.
+Pháp lý: thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn, nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.
- Thành phần kinh tế: đa dạng trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm
các ngành then chốt; kinh tế tư nhân có vai trò là động lực.
-> Cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy kinh tế.
3.Về quan hệ quản lý kinh tế lOMoAR cPSD| 40660676
Nhà nước có vai trò điều tiết nền kinh tế. Cụ thể: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế tang
trưởng kinh tế đơn thuần.
Tuy nhiên Nhà nước điều tiết kinh tế không có nghĩa là san bằng kiểu bình quân mà là sự
điều tiết về thu nhập, an sinh và phúc lợi xã hội, tạo điều kiện khởi điểm bình đẳng cho nhân
dân trên mọi phương diện việc làm hoặc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: y tế, giáo dục,
…-> cải thiện đời sống, góp phần xây dựng đất nước.
*Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo .
*Tính tất yếu khách quan
Sự tất yếu đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan.
Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển trình độ cao. Khi có
đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là
tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn
tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam. là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là mong muốn chung
của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc hướng tới xác lập những giá trị đó trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát triển. Song trong sự tồn tại hiện thực sẽ
không thể có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi hình thái kinh tế - xã
hội, mọi quốc gia, dân tộc.
Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và phong kiến hay kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nó tồn tại trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, gắn bó hữu
cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Ngay như trong cùng
một chế độ tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường của mỗi quốc gia, dân tộc cũng khác nhau,
mang đặc tính khác nhau. là p vàs của mil tri vă N de h d
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn
phát triển khá cao và phồn thịnh ở các nước từ bản phát triển, nhưng những mâu thuẫn vốn có
của nó không thể nào khắc phục được trong lòng xã hội tư bản, nền kinh tế thị trường tự bản
chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến hóa tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một
cuộc cách mạng xã hội - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển lOMoAR cPSD| 40660676
thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với xu thế của
thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu thuẫn với tiến trình
phát triển của đất nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện nay của các dân tộc, quốc
gia đang trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ nghĩa. Hai là, do tính ưu việt của kinh tế
thị trường trong thúc đẩy phát triển Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị
trường là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được SO với các mô
hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển
theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng xuất lao động,
chất lượng sản phẩm và giá thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường
không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là”dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường để có
sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Có thể khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn
cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện cần thiết để đi đến mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả.
3. Do đó là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển mà dẫn tới dân
không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém văn minh thì không ai mong muốn. Thế
giới cũng vậy và nhân dân Việt Nam cũng vậy. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực
hóa khát vọng như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị
mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một
tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại hay
không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó
quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời
và tồn tại của sản xuất hàng hóa như: phân công lao động xã hội, các hình thức khác nhau của
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn
phải được thực hiện thông qua thị trường với những quan hệ giá trị tiền tệ.
Mặt khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất
là quá trình phát triển”rút ngắn”của lịch sử, chứ không phải là sự”đốt cháy”giai đoạn. Với ý lOMoAR cPSD| 40660676
nghĩa đó, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta phải làm một cuộc
cách mạng về cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội, chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang
*Đặc trưng:(chỉ cần học thuộc box là chém được)
- Mục tiêu: của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác
thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế thị trường là vì con người, nâng cao
đời sống nhân dân, mọi người điều được hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
- Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế: tồn tại nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành
phần kinh tế khác nhau.Theo quan điểm tại đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay có bốn thành phần kinh tế gồm: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập
thể, thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng bên cạnh tính
thống nhất giữa các thành phần kinh tế cũng có sự khác nhau thậm chí có thể có mẫu thuẫn
khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau.
Mặc dù, với tư duy đột phá, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế và
khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng thành phần kinh tế tư
nhân không tránh khỏi tính tự phát, chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh các hiện tượng tiêu
cực làm tổn hại đến lợi ích chung của toàn thể xã hội.
Vì vậy, nhà nước phải dùng nhiều biện pháp để ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những
hiện tượng tiêu cực hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế đi theo đúng quỹ đạo định
hướng xã hội chủ nghĩa. –
Quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và phải bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân.
Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sự dụng cơ
chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và khắc phục những tiêu cực, hạn chế
do cơ chế thị trường mang lại, bảo vệ lợi ích của nhân dân và xã hội. –
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân
phối. Cụ thể là thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.Cơ chế
phân phối này tạo động lực để kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động, sản
xuất, kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. lOMoAR cPSD| 40660676
Do trình độ của lực lượng sản xuất còn chưa đồng đều nên tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, do đó tất yếu cần có sự tồn tại đa dạng về quan hệ phân phối. –
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nền kinh tế đó luôn có sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển
kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người đều có cơ hội và điều kiện
phát triển toàn diện. Đây cũng là một trong những mục tiêu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa về việc
phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội. –
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi
với chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Đảng ta xác định hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Nền
kinh tế thị trường ở nước ta được xây dựng trên cơ cấu kinh tế mở thì thị trường trong nước
phải gắn với thị trường quốc tế, mức độ mở của hệ thống kinh tế tùy thuộc vào mức độ phát
triển của lực lượng sản xuất, của tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế, vai trò quản lý kinh tế vĩ mô
của nhà nước, tình hình quốc tế trong từng thời kỳ.
Câu 8: Phân tích vai trò của Cách mạng Công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ
đó rút ra ý nghĩa việc nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
(chỉ có box ý chính còn lại có thể tự chém) (P/s: Cố gắng lên, đừng khóc nhớ khà khà) *Vai trò:
1. Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất:
- Tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội.
- Đặt ra đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực -> tạo điều kiện phát triển nhân lực
- Về đối tượng lao động, các nguồn lực truyền thống là sức người hay vấn đề khai thác nguồn
lực từ thiên nhiên sẽ giảm dần thông qua các cuộc cánh mạng, tiến tới”tạo ra của cải sẽ trở
nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động”mà”phụ thuộc vào việc ứng
dụng khoa học ấy vào sản xuất”hay đơn giản là các nguyên liệu nhân tạo thay thế giảm thiểu
nguy cơ cạn kiệt tài nguyên hay ô nhiễm môi trường. lOMoAR cPSD| 40660676
-Tạo cơ hội cho các nước đi sau có những bước nhảy lớn trong phát triển, rút ngắn khoảng cách
về trình độ phát triển so với các nước đi trước.
2.Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất:
- Biến đổi về sở hữu tư liệu sản xuất -> Sở hữu tư nhân dần bị thay thế bằng sự liên kết các
ngành, dưới hình thức công ty cổ phần -> mở rộng chủ thể sở hữu tư bản ra các thành phần khác của xã hội.
-Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặt ra những yêu cầu hoàn thiện nền kinh tế thị trường,
tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu khoa học công nghệ.
- Tạo điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lí kinh tế - xã hội giữa các nước.
Mở ra những bước đi vào chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sự biến đổi hệ thống sản xuất, quản lý,
quản trị kinh tế; phát triển các mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh.
3. Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
- Hình thành”thế giới phẳng”trên phạm vi toàn cầu, dần đưa thế giới sang trạng thái công nghệ
hoàn toàn mới. Tạo chuyển biến KT công nghiệp -> KT tri thức.
- Hình thành hệ thống tin học hóa trong quản lý và”chính phủ điện tử”.
- Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia(TNC) ngày càng có vai trò quan trọng.
-Đặc biệt là cuộc Cách mạng 4.0 sẽ buộc các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết kế và
tiếp cận thi trường, trong đó nguồn lực chủ yếu là công nghệ, trí tuệ, sáng tạo.
- Giảm được sự cồng kềnh trong bộ máy quản lí cũng như chi phí quản lí.
- Tạo ra sức ép về trình độ phát triển và cạnh tranh kinh tế lớn buộc các nước phải thay đổi, tái
tạo lại công tác quản trị để có thể bắt kịp. *Ý nghĩa:
- Đưa ra được những cơ hội mà Việt Nam có thể tận dụng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Nêu ra những hạn chế mà Việt Nam đang mắc kẹt và yêu cầu hướng giải quyết phù hợp.
Câu 9: Phân tích tác động của hội nhập kinh tế đến sự phát triển của Việt Nam hiện nay.
(Các ý quá rõ ràng rồi phần này học chi tiết)
*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt Nam
với nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đối
với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức đòi lOMoAR cPSD| 40660676
hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to lớn từ quá trình hội nhập kinh thế giới đem lại.
*Nội dung (ngắn gọn) *Tác động:
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong phát
triển của các nước và những lợi ích kinh tế khá nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển,
tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý,
hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước,
góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công
nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học
công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các
nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường
quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với
phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ
hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá
cạnh tranh ; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm
kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình
hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp
lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước. lOMoAR cPSD| 40660676
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những
giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế
giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải
cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một
xã hội mở, dân chủ, văn minh.
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực
và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội ; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các
nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường,
biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều rủi ro,
bất lợi và thách thức, đó là: -
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất
lợi về mặt kinh tế - xã hội. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào
thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về
chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho
các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu
nghèo và bất bình đẳng xã hội. -
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối
mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các
ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất
lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công
nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ
quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội. -
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam
bị xóimòn trước sự”xâm lăng”của văn hóa nước ngoài. lOMoAR cPSD| 40660676 -
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội
phạmxuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp...
=> Tóm lại, hội nhập kinh quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng là rất
khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần
phải đặc biệt coi trọng.