



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61464806
Đề cương Cơ sở văn hóa Việt Nam lOMoAR cPSD| 61464806
1. Vấn đề Khái niệm văn hóa
Câu 1: Phân tích một định nghĩa/quan niệm về văn hóa mà em cho là tiêu biểu nhất. Cho những ví dụ cụ thể về văn hóa Việt Nam. Trả lời:
Phân tích định nghĩa văn hóa :
Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa có rất nhiều cách định nghĩa và quan niệm, hiện có từ vài
trăm đến vài ngàn định nghĩa về văn hóa trên thế giới. Mỗi định nghĩa đều có những cách nhìn văn hóa từ nhiều
phương diện và thành tố khác nhau.
Với ánh sáng văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự kết tinh tinh hoa văn hóa ngàn năm của nhân dân Việt
Nam, sự chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với những hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch HCM đã
sớm đưa ra một định nghĩa văn hóa tiêu biểu trong mục Đọc sách ở cuối tập “Nhật kí trong tù” (1942-1943): “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hang ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn.” (HCM toàn tập, NXB CTQG, H.2000, T3, tr431).
Định nghĩa văn hóa của HCM vừa mang tính khoa học vừa mang tính sáng tạo bởi định nghĩa của Người dựa trên các quan điểm: -
Quan điểm hệ thống: Văn hóa là một hệ thống những phát minh do con người sáng tạo ra trong quá
trình lao động. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4 nhân tố chủ yếu của đời sống
xã hội. Thậm chí văn hóa có tác động chi phối đến các mặt của xã hội. Nếu nền văn hóa của một quốc gia, một dân
tộc có sự biến đổi thì các mặt kinh tế, chính trị, và đặc biệt là xã hội cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. -
Tính khoa học : vì nội hàm văn hóa mà Người đưa ra không quá hẹp, không quá rộng, nó phù hợp
với mọi điều kiện đời sống xã hội trong quá trình phát triển của con người. Bản chất văn hóa trong quan niệm của
HCM là hướng đến chủ nghĩa nhân văn cao cả. Văn hóa được hiểu đồng nghĩa với những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.
Đây cũng chính là những nét tương đồng mà UNESCO mãi đến 1982 mới thống nhất được. Đó chính là vì con người,
vì sự phát triển toàn diện của con người. -
Quan điểm toàn diện: theo HCM, văn hóa là một kiến trúc thượng tầng mà trong đó bao gồm cả
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo…(văn hóa phi vật thể) và các công trình kiến trúc được tạo ra do
hoạt động thực tiễn của con người (văn hóa vật thể). Điểm đặc biệt trong định nghĩa văn hóa của HCM đó chính là
đã đưa tôn giáo trở thành một thành tố cấu thành nên văn hóa. Đây là một điểm sáng tạo của người so với các định
nghĩa trước đó về văn hóa, kể cả với quan điểm của CN M-L. CN Mác cho rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân, ru ngủ nhân dân”. Bác thì khẳng định: “Tôn giáo có ảnh hưởng đến đời sống và tinh thần của nhân dân, đoàn
kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn phục vụ cho cách mạng. Bản thân Người cũng
chính là sự hòa hợp của nhiều giá trị tôn giáo, của tinh thần khoan dung tôn giáo. Tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng là
một trong những quyền cơ bản của con người mà UNESCO đã nói đến trong thập kỉ 80. Trong định nghĩa văn hóa
của HCM, con người là trung tâm, văn hoá gắn chặt với con người, thể hiện qua khía cạnh: Văn hóa do con người
sáng tạo ra, con người là chủ nhân trung tâm của những giá trị do chính họ phát hiện, sáng tạo, chiếm hữu…; văn
hóa phục vụ cho mục đích sống của con người, cho sự sinh tồn của con người; văn hóa nâng cao giá trị của con người. -
Tính nhân sinh : trong định nghĩa văn hóa của HCM, con người là trung tâm, văn hóa gắn chặt với
con người, thể hiện qua khía cạnh : văn hóa do con người sáng tạo ra, con người là chủ , nhân trung tâm của những
giá trị do chính họ phát hiện, sáng tạo, chiếm hữu,... ; văn hóa phục vụ cho mục đích sống của con người, cho sự sinh
tồn của con người, văn hóa nâng cao giá trị của con người. lOMoAR cPSD| 61464806
Tóm lại, theo định nghĩa trên,văn hóa vừa là nền tảng vật chất, tinh thần,vừa là động lực để phát triển xã hội.
Định nghĩa văn hóa của HCM đã khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết của những định nghĩa trước đó, xứng đáng
là một trong những DN tiêu biểu bậc nhất về văn hóa.
VD : Nhắc đến văn hóa từ giai đoạn vh Văn Lang – Âu Lạc, từ gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỉ 1 TCN,
vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải qua 18 đời Vua Hùng, được coi là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hóa VN, với
sáng tạo tiêu biểu là Trống đồng Đông Sơn, kĩ thuật trồng lúa nước ổn định....
Câu 2 : Phân biệt văn hóa với văn minh Trả lời
Từ văn hóa và văn minh hay bị dùng nhầm lẫn với nhau, thật ra, văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Còn văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương
diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại.
Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở 4 điểm cơ bản: -
T1, trong khi văn hóa có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại -
T2, trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật. -
T3, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính quốc tế, nó đặc trưng
chomột khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến và lây lan. -
T4, về nguồn gốc. Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó
nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tại cựu LĐ Âu-Á (Eurasia) đã hình
thành 2 vùng văn hóa lớn là “p.Đ” và “p.T”: p. T là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy Uran), p.Đ là
khu vực đông-nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân loại biết đến đều xuất phát từ
phương Đông: Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập. Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là Hy-La (Hi Lạp và La
Mã) cũng có nguồn gốc từ phương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn
hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi có
địa hình và khí hậu rất thuận tiện cho SXNN. Ở các ngôn ngữ p.T, từ “vh” bắt nguồn từ cultus tiếng Latinh có nghĩa
là “trồng trọt”, còn từ “vm” thì bắt nguồn từ chữ civitas có nghĩa là “thành phố”.
Tuy nhiên, vì vh và vm đều chỉ những thành tựu hoạt động sáng tạo của con người, nên vẫn có xu hướng lẫn
lộn hai khái niệm đó với nhau. Hơn nữa, tuy khác nhau nhưng văn hóa và vm lại có mqh với nhau, vì: -
Sự tiến bộ kĩ thuật nói riêng, sự chuyển đổi từ nền vm này sang nền vm khác là một nhân tố quan
trọnghàng đầu làm biến đổi nền văn hóa của cộng đồng. -
Sự biến đổi văn hóa ấy có thể diễn ra theo 2 hướng: hoặc tạo nên những giá trị văn hóa mới trên cơ
sởphát huy những giá trị của truyền thống văn hóa cũ, hoặc phá hủy những giá trị truyền thống văn hóa cũ, gây nên
sự mất ổn định trong đời sống văn hóa-XH của cộng đồng, thậm chí có thể gây nên những nguy cơ diệt vong của cộng đồng. -
Do đó, văn hóa (các giá trị văn hóa) có vai trò quan trọng trong sự tiến bộ không thể đảo ngược của
vm;văn hóa không chỉ có vai trò quy định cách thức và mục đích sử dụng những tiến bộ kĩ thuật, mà còn có vai trò
quy định cả phương hướng của sự tiến bộ kĩ thuật (cách ứng xử với TN, MT).
Ví dụ : - Văn hóa: văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Đại Việt… lOMoAR cPSD| 61464806
- Văn minh: văn minh VL-AL, văn minh trống đồng Đông Sơn…
Câu 3 : Loại hình văn hóa, xác định tọa độ văn hóa, phân tích những đặc trưng cơ bản của loại hình văn hóa Việt Nam. Trả lời
Những đặc trưng cơ bản của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp Việt Nam
Văn hóa gốc nông nghiệp hình thành trên lưu vực những con sông lớn, nơi có khí hậu nóng lắm, mưa nhiều.
Do đặc điểm khí hậu và địa hình làm cho loại hình văn hóa này có những đặc trưng cơ bản: -
Trong cách ứng xử với MTTN : nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn
lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên người dân nông nghiệp có ý thức tôn
trọng và ước vọng sống hòa bình với thiên nhiên. VD: Người VN mở miệng là nói “lạy trời”, “ơn trời”… “Ơn trời
mưa nắng phải thì – Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu” -
Kiểu tư duy tổng hợp – biện chứng : Nghề nông, nhất là nông nghiệp lúa nước sống phụ thuộc vào
thiên nhiên rất nhiều, không phải chỉ phụ thuộc vào một hai hiện tượng riêng lẻ nào, mà là cùng một lúc phụ thuộc
vào tất cả: trời, đất, nắng, mưa… Cho nên người Việt nói: “Trông cho chân cứng đá mềm – Trời êm biển lặng mới
yên tấm lòng.” Đó là đầu mối của lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng. Cái mà người làm nông nghiệp
quan tâm không phải tập hợp của các yếu tố riêng rẽ mà là mqh qua lại giữa chúng. Người Việt tích lũy được một
kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này, mà chứng tích là các câu tục ngữ : “Quạ tắm thì ráo,
sáo tắm thì mưa”, “Được mùa lúa, úa mùa cau”, “Được mùa cau, đau mùa lúa”… -
Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng : con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng tình. Hàng
xóm cố định sống lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “một bồ
cái lí không bằng một tí cái tình”. Lối sống trọng tình cảm dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong truyền thống VN, tinh thần coi trọng ngôi nhà -> coi trọng cái bếp -> coi trọng người phụ nữ là hoàn
toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ VN là người quản lí kinh tế - tài chính trong gia đình – người nắm “tay hòm chìa
khóa”. Chính bởi vậy mà người VN coi “Nhất vợ nhì trời”, “Lệnh ông không bằng còng bà”…; còn theo kinh nghiệm
dân giân thì “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”. Pn VN cũng chính là người có vai trò quan trọng
trong việc giáo dục con cái: “Phúc đức tại mẫu”, “Con dại cái mang”… Vì tầm quan trọng của người mẹ nên trong
tiếng Việt, từ cái với nghĩa là “mẹ” đã mang thêm nghĩa “chính, quan trọng”: sông cái, ngón cái, trống cái, cột cái…
Tư tưởng coi thường pn là từ Trung Hoa truyền vào.
Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn
không chịu ảnh hưởng như người dân tộc Tây Nguyên, vai trò của người pn vẫn rất lớn: pn chủ động trong hôn nhân,
chồng về ở đằng nhà vợ, con cái theo họ mẹ…Người Khơ-me vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum,
mê sóc (mê=mẹ) bất kể là đàn ông hay đàn bà. -
Về cách thức tổ chức cộng đồng: từ lối tư duy tổng hợp và bc, luôn đắn đo cân nhắc của người làm
nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể hình thành nên triết lí sống: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”…
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng , dân chủ với nhau. Đó là nền dân
chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến p.Đ và nền DCTS p.T. Lối sống trọng tình và cách cư xử DC dẫn
đến tâm lí coi trọng cộng đồng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể. Luôn có tập thể đứng sau. -
Trong lối ứng xử với MTXH: tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt quy định thái độ dung hợp
trong tiếp nhận; ở VN không những không có CT tôn giáo mà ngược lại mọi tôn giáo đều được tiếp nhận. Đối với lOMoAR cPSD| 61464806
các cuộc CTxl, người VN luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi
thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ rang, cha ông ta thường chủ động cầu hòa, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự.
Ưu và nhược điểm của loại hình văn hóa gốc NN : -
Tôn trọng TN -> gìn giữ được MT sống tự nhiên, tôn sùng TN. Tuy nhiên điều này lại khiến con
người trở nên rụt rè, e ngại làm cho p.Đ không có nhiều thành tựu trong chinh phục thiên nhiên. -
Lối tư duy tổng hợp và bc: cơ sở cho đạo học – hệ thống những tri thức thu được bằng kinh nghiệm,
chủquan, cảm tính, tuy sức thuyết phục thấp vì không được biện luận, CM nhưng diễn đạt ngắn gọn súc tính và thâm
thúy. Tuy vậy, khoa học p.Đ không phát triển cũng vì lí do trên. -
Tổ chức cộng đồng: trọng tình, trọng văn, trọng đức, trọng pn -> XH hòa thuận, êm ấm, không có tư
tưởng trọng nam khinh nữ. Tuy vậy lại thiếu tính tổ chức. -
Cách thức tổ chức cộng đồng: trọng cộng đồng, tập thể tinh thần tập thể cao, đoàn kết tạo thành sm.
Tuy nhiên lại dẫn đến hiệu suất công việc nhiều lúc hông cao “cha chung không ai khóc”. Tính linh hoạt -> dễ thích
ứng -> hiếu hòa. Mặt khác, thói tùy tiện cũng dẫn đến tật xấu: giờ cao su, thiếu tôn trọng pháp luật. Lối sống trọng
tình càng làm nó trở nên trầm trọng : “một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”, tệ “đi cửa sau”… -> tính tổ chức chưa cao. -
Trong lối ứng xử với MTXH : dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo hiếu hòa trong đối phó ->không
có CT tôn giáo, đường lối ngoại giao được đánh giá cao. Trái lại có những mặt chưa tốt: hiện tượng “lai căng” văn
hóa, tư tưởng nhún nhường quá mức -> hay bị ức hiếp
Câu 5: Phân tích để thấy được vai trò của văn hóa trong phát triển: văn hóa là nền tảng, là động lực, là mục tiêu
của sự phát triển.
Văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau. Nghị quyết HNTUĐ lần thứ 5 khóa VIII cũng nhấn mạnh:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.” Đối
với một quốc gia, để đạt được mục tiêu phát triển, đáp ứng các nhu cầu vật chất của xã hội nhất thiết phải có sự tăng
trưởng về kinh tế, về cơ sở vật chất, kĩ thuật và công nghệ, xây dựng tiềm lực và sức mạnh cho quốc gia. Đó là một
đòi hỏi đồng thời là một quy luật khách quan. Đánh giá cao tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế là cần thiết và
đúng đắn, song quan niệm chỉ tập trung tăng trưởng kinh tế đơn thuần, không giải quyết đúng mqh giữa tăng trưởng
và phát triển, coi kinh tế là nhân tố quyết định toàn bộ sự phát triển là hoàn toàn sai lầm. Đất nước ta đặt ra mục tiêu
hướng tới xây dựng ĐN XHCN, CNH-HĐH ĐN. Muốn như vậy trước hết phải có sự phát triển đồng đều, toàn diện
mà trước hết là cần xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đồng thời xây dựng đội ngũ nhân lực trình độ văn hóa
lẫn năng lực đều có chất lượng cao. -
Văn hóa là nền tảng của phát triển: cải tạo chất lượng con người, nâng cao nguồn lực con người
nhằm đáp ứng những nhu cầu phát triển mới của thời đại. Mọi sự phát triển chỉ có thể thực hiện được trên một nền
tảng văn hóa vững chắc về mọi mặt. Yêu cầu sự phát triển bền vững phải gắn phát triển chiều rộng với chiều sâu, các
nhân tố trực tiếp tạo nên sự phát triển chiều sâu chính là nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học –
công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Các nhân tố trên đều thuộc về văn hóa, do
văn hóa xây đắp nên. Bên cạnh đó, khi phát triển văn hóa cần phát triển cả đạo đức lẫn lối sống, kết hợp cả truyền
thống lẫn hiện đại, đặc biệt là sự kế thừa truyền thống. -
Văn hóa là động lực của phát triển, những nhu cầu của văn hóa tạo ra động lực cho sự phát triển.
Chính văn hóa cũng thúc đẩy sự phát triển. Khi xác định văn hóa là động lực của phát triển thì tất yếu phải làm rõ
sức mạnh nội sinh mang tính bản chất cốt lõi của văn hóa trong các chủ thể này trong quá trình vận động và phát
triển. +Nói đến văn hóa là nói đến con người, vì con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, vừa là đối tượng hưởng
thụ văn hóa. Vh khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy năng lực bản chất con người. lOMoAR cPSD| 61464806
Mục tiêu cuối cùng của văn hóa, kinh tế, chính trị đều là vì con người. Để có đời sống tinh thần phong phú thì cần
phải có đời sống vật chất cao.
+ Gần đây, thực tiễn đã đưa đến một nhận thức mới khi thừa nhận vai trò của văn hóa trong phát triển, tìm
mọi phương thức có thể cho sự phù hợp giữa sản xuất và sáng tạo, để kinh tế phải “bắt rễ” trong văn hóa. Trong nền
kinh tế thị trường, vh hướng dẫn con đường đi đúng đắn cho nền kinh tế, hướng nền kinh tế phát triển, hạn chế một
vài hiện tượng tiêu cực. Không phấn đấu vì tăng trưởng kinh tế một cách đơn thuần, mù quáng, tuyệt đối không hi
sinh văn hóa để đổi lấy tăng trưởng kinh tế.
+ Nền văn hóa với những giá trị mới, sẽ là một tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn,
toàn diện hơn vào nền KTTG, đb là nền vh p.Đ cổ vũ và hướng dẫn cho con người một lối sống chừng mực, hài hòa,
với sức tài sản của hành tinh chúng ta. Nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên, vì sự
phát triển bền vững cho thế hệ hôm nay và cho các thế hệ mai sau. -
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, mọi sự phát triển đều hướng tới xây dựng một môi trường
văn hóa ngày một phục vụ con người hiệu quả, hữu ích hơn. Mục tiêu của sản xuất vật chất là tạo ra ngày càng nhiều
của cải vật chất bảo đảm cho nhu cầu phát triển thể chất, đời sống vật chất của con người. Song phát triển kinh tế
không có mục đích tự thân, mà cái đích cần đạt tới là vì sự phát triển hạnh phúc, tự do, toàn diện của con người. Và
đó chính là văn hóa. Mục tiêu cuối cùng, cao nhất của sản xuất tinh thần không phải chỉ là các sản phẩm tinh thần
mà qua đó cần đạt tới cái đích nuôi dưỡng và xây đắp con người, để con người trở thành “người” nhất như C.Mác
khẳng định. Như vậy, cả hai lĩnh vực sản xuất đều gặp nhau ở cái đích cuối cùng là vì con người, cho con người với
ý nghĩa cao đẹp và nhân đạo nhất của nó.
VD: - Hàng năm, nước ta tổ chức các lễ hội giao lưu văn hóa với các quốc gia trên thế giới: HQ, NB…để
củng cố mqh, góp phần thúc đẩy sự lk hợp tác cùng phát triển KT, vh, XH… - Nước ta lấy GD làm trọng tâm, củng
cố nền GD bởi QG nào đạt thành tựu GD cao tức có vốn trí tuệ…
Câu 6 : Đặc trưng và chức năng cơ bản của văn hóa.
Đặc trưng của văn hóa
Các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đã đúc kêt thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật
nhất là 4 đặc trưng cơ bản sau :
-Một là, tính hệ thống : Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn
hóa tinh thần của cộng đồng người. Từ những thành tố căn bản này đã nảy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều
tầng bậc khác nhau tạo thành 1 tổng thể phức tạp, phong phú.
-Hai là, tính giá trị : phản ánh khả năng cung cấp, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt đời sống con người của các
hiện tượng văn hóa. Tính giá trị gồm nhiều loại giá trị khác nhau. Các giá trị văn hóa không tồn tại riêng lẻ, mà kết
hợp tạo thành hệ giá trị. Một dân tộc có những đặc tính giá trị văn hóa riêng của mình và chính điều này làm cho mỗi
dân tộc có những sự khác biệt về văn hoá. Ví dụ như các nước phương Đông, chủ yếu đề cao sức mạnh tập thể, trong
khi đó Mỹ lại đề cao vai trò cá nhân. Lại có những nếp văn hoá mà ngày nay giới trẻ không dễ gì chấp nhận được
như việc nhuộm răng của phụ nữ Việt Nam ngày xưa, tục nối dây của dân tộc Êđê,... Có những nền văn hoá được
chấp nhận ở nền văn hoá này nhưng lại không được chấp nhận ở nền văn hoá khác.
-Ba là, tính lịch sử : được sinh ra trong lịch sử. Nhờ có tính lịch sử, văn hóa góp phần tạo nên truyền thống
và bản sắc cho 1 dân tộc. Cần được quan sát ở 2 chiều : đồng đại và lịch đại.
+ Đồng đại : là cùng thời đại, mỗi hiện văn hóa cần cùng được lí giải trong mối tương quan với các
hiện tượng văn hóa cùng thời đại với nó.
+ Lịch đại : là lát cắt dọc trong 1 thời đại, mỗi hiện tượng cần được quan sát trong sự vận động biến đổi của nó.
-Bốn là, tính nhân sinh : là dặc trưng khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa con người và văn hóa: lOMoAR cPSD| 61464806
+ Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa ( con người là nền tảng của văn hóa )
+ Con người là động lực của văn hóa
+ Con người là mục tiêu của văn hóa
+ Con người là sản phẩm văn hóa
Các chức năng cơ bản của văn hóa -
Chức năng tổ chức xã hội: Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Khi nói đến đặc trưng
của văn hóa ta đã nêu lên tính chất này để lưu ý rằng đây là một thuộc tính bản chất, thể hiện mối liên hệ khăng khít
hữu cơ, sự xâm nhập, tương tác, chi phối và chế ước lẫn nhau giữa các thành tố văn hóa cùng tạo nên diện mạo, sức
sống và bản chất sâu xa của 1 nền văn hóa. Văn hóa với tư cách là 1 hiện tượng xã hội, thẩm thấu, hiện diện và bao
trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ tính hệ thống mà thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Đây là một
chức năng quan trọng, nó duy trì kết cấu xã hội, thực hiện sự liên kết và tổ chức đời sống cộng đồng thông qua các
thiết chế xã hội-văn hóa. Thiết chế xã hội là 1 chức năng hoạt động xã hội được đặt ra để duy trì và phát triển các
chức năng của xã hội, còn được xem như là đại diện của hệ thống chuẩn mực xã hội, vận hành trong mọi sinh hoạt
kinh tế, chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn hóa-xã hội… -
Chức năng điều tiết xã hội: Đặc trưng quan trọng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị. Hiểu một cách
ngắn gọn thì giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận và theo đuổi. Giá trị là nhân tố quan trọng của
hành vi cá nhân. Nó điều chỉnh các nguyện vọng và hành động của 1 con người, là cơ sở để đánh giá hành vi và định
đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng. Do đó giá trị xác định các tiêu chuẩn của thang bậc xã hội,
làm nền tảng cho cuộc sống chung. Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có nhiều nhu cầu và
họ phải thường xuyên lựa chọn các phương thức ứng xử thích hợp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Sự lựa chọn
đó giống như 1 hành động giá trị có liên quan mật thiết với tiêu chuẩn của khung giá trị chung của cộng đồng. Với
mức ổn định lớn, khung giá trị này là cơ sở để các thành viên trong cộng đồng lựa chọn các phương thức hoạt động,
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của xã hội. Nền văn hóa nào cũng có 1 bảng giá
trị được coi như bộ chỉnh của xã hội. Bảng giá trị xã hội làm nhiệm vụ định hướng cho mục tiêu phấn đấu của mỗi
các nhân và cộng đồng…Căn cứ vào đó mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng lọc điều chỉnh để duy trì sự ổn định
và không ngừng tự hoàn thiện, từ đó văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ 2 là điều tiết xã hội. -
Chức năng giáo dục: Đặc trưng quan trọng thứ 3 của văn hóa đó chính là tính lịch sử. Văn hóa là
sản phẩm của hoạt động con người, chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó
bao giờ cũng hình thành trong 1 quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày,
1 chiều sâu. Nó tạo nên các trầm tích và truyền thống văn hóa. Nhờ đó, văn hóa thực hiện được chức năng giáo dục.
Nhân cách con người được tạo dựng và hun đúc, trước hết bởi các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng. Một
đứa trẻ mới sinh chưa thực sự là con người bởi nó chưa tiếp nhận được 1 phẩm chất xã hội nào của loài người truyền
cho cả. Đúng như nhà xã hội học người Mĩ R.E Pacco đã nói: “Người không đẻ ra người”. Đứa trẻ chỉ nên người
trong quá trình giáo dục. Truyền thống văn hóa luôn thực hiện chức năng giáo dục của mình đối với con người. Bằng
con đường giáo dục hữu thức và vô thức từ khi chào đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo
của truyền thống văn hóa.
Trong các chức năng của văn hóa thì chức năng giáo dục là chức năng bao trùm nhất. Nó đóng vai trò định
hướng giá trị, chuẩn mực xã hội cho con người, quyết định việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Từ
chức năng này mà văn hóa phát sinh thêm chức năng là đảm bảo tính kế tục lịch sử. Các chức năng khác như nhận
thức, thẩm mĩ, dự báo, giải trí có thể coi như là những tiểu chức năng hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa. -
Chức năng giao tiếp: Đặc trưng thứ 3 của văn hóa là tính nhân sinh. Đây là thuộc tính cốt lõi của
văn hóa. Nó cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính chất như khai khoáng, đẽo gỗ
hoặc tinh thần như đặt tên, tạo truyền thống cho các cảnh quan thiên nhiên. lOMoAR cPSD| 61464806
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành 1 công cụ giao tiếp
quan trọng. Thông qua ngôn ngữ, chữ viết, con người tiếp xúc với nhau, trao đổi với vói nhau, thông báo cho nhau,
yêu cầu hoặc tiếp nhận ở nhau các thông tin cần thiết về hoạt động của cộng đồng. Cùng với ngôn ngữ và vượt lên
trên tính trực tiếp của ngôn ngữ, văn hóa bằng hệ thống các giá trị chi phối cách ứng xử và giao tiếp của cá nhân với
bản thân, gia đình và cộng đồng. Mọi nền văn hóa đều hướng đến con người, vì cuộc sống của con người và cộng
đồng. Nhờ đặc điểm chung này, văn hóa còn đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa các thế hệ, các dân tộc, quốc gia, tạo
nên sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa. Bằng tính vị nhân sinh, văn hóa thực hiện được chức năng thứ 4 của
mình đó là chức năng giao tiếp. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó. Văn hóa
được coi là sợi dây nối liền nhân dân các nước và các dân tộc…Sự hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng lẫn
nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn hóa, nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con người.
D. Phần diễn trình văn hóa Việt Nam
1. Văn minh Đại Việt: những thành tựu, giá trị kết tinh và đặc điểm.
a. Khái niệm: -
Văn minh Đại Việt là nền văn minh rực rỡ, tồn tại và phát triển chủ yếu trong thời độc lập,
tự chủ của quốc gia Đại Việt, kéo dài 1000 năm. -
Văn minh Đại Việt kế thừa văn minh Văn Lang – Âu Lạc, trải qua hơn 1000 năm đấu tranh
chống Bắcthuộc, được phát huy và phát triển trong hoàn cảnh đất nước độc lập, tự chủ thời Đại Việt. -
Văn minh Đại Việt hình thành qua:
+ Quá trình sinh sống, lao động và thích ứng với điều kiện tự nhiên và cuộc đấu tranh trong hơn 1000
năm Bắc thuộc để giành độc lập và bảo tồn văn hóa dân tộc.
+ Quá trình chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc tạo điều kiện cho nền văn minh Đại Việt phát triển rực rỡ.
+ Văn minh Đại Việt tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn minh bên ngoài về tư tưởng, chính trị, giáo dục...
b. Đặc điểm: -
Phát triển nông nghiệp lúa nước từ rất sớm. -
Xã hội xuất phát từ cơ sở “làng xã” tạo thêm tính “cố kết cộng đồng. -
Phật giáo và Nho giáo được đề cao củng cố kỷ cương, khuôn mẫu của xã hội. -
Phát triển không đều giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. c.Thành tựu: * chính trị: -
Mô hình quân chủ Trung ương tập quyền đạt đến đỉnh cao vào thời Lê sơ.
+ Trung ương: quyền lực tập chung chủ yếu vào tay nhà vua, giúp việc cho vua có quan lại và đại thần.
+ Địa phương: Chia thành các đạo, bên dưới đạo là phủ, huyện, xã. -
Nhìn chung, mô hình bộ máy nhà nước Đại Việt đều phát triển theo hình thức trên, tuy nhiên
tùy vào từngthời kỳ sẽ có ít nhiều thay đổi. -
Một số cuộc cải cách về mặt chính trị trong giai đoạn Đại Việt: cải cách Hồ Quý Ly (thế kỷ
XV), cải cáchLê Thánh Tông (1462), cải cách Minh Mạng (1831-1832). *Kinh tế: -Nông nghiệp:
+ Lúa nước là cây lương tự chính.
+ Thành lập các cơ quan chuyên trách, bảo vệ sức kéo, khai hoang, áp dụng kĩ thuật tiến bộ, du nhập và
cải tạo giống cây mới. -Thủ công nghiệp:
+ Dệt, gốm, sứ, luyện kim.
+ Các nghề: đục gỗ, chạm khắc đá, giấy, sơn mài, kim hoàn….
+Cục Bách tác: sản xuất các hàng độc quyền của triều đình: tiền, vũ khí, trang phục. lOMoAR cPSD| 61464806 -Thương nghiệp:
+Thời Lý: trang Vân Đồn (Quảng Ninh)…
+ Thế kỉ XVII, các công ty như Công ty Đông Ấn Hà Lan, Công ty Đông Ấn Anh và thương nhân Trung
Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á… đến Đại Việt buôn bán.
* Tín ngưỡng, tôn giáo: -
Thời kì này các sư tăng và tín đồ phật giáo phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Nho sĩ còn thưa thớt,vì
thế nhà chùa cũng là nơi đào tạo ra những sư tăng đồng thời là những trí thức thời đại. Những trí thức Phật giáo này
đã nối liền Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo. Chính họ là người đã đặt nền cho chính sách tam giáo đồng nguyên.
Phật giáo tham gia vào sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước. Phật giáo còn có tác động đến tư tưởng tâm lí
phong tuc và nếp sống của đông đảo nhân dân ở các làng xã. Việc mở Quốc Tử Giám, mở các khoa thi đã khiến Nho
giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội. -
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị anh hùng, người có công với đất nước tiếp tục được duy trì.
• Ý nghĩa: Trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước quân chủ, hòa quyện với tín ngưỡng bản địa.
Ngày nay, một số tín ngưỡng truyền thống vẫn được duy trì.
* Giáo dục, khoa cử:
- Bắt đầu được triển khai từ thời nhà Lý. Đến thời Trần, khoa cử được tổ chức đều đặn và quy củ hơn. Từ
thời Lê Sơ, khoa cử Nho học phát triển thịnh
2. Vấn đề giao lưu và tiếp biến văn hóa
a. Tiếp xúc và giao lưu văn hóa -
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là hiện tượng xảy ra khi hai nhóm người hay hai tộc người có đặc
trưng văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra sự biến đổi về văn hóa với một hoặc cả hai nhóm người
/ tộc người tham gia tiếp xúc. -
Vì sao lại có tiếp xúc và giao lưu văn hóa?
+ Về mặt tự nhiên, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không tồn tại biệt lập mà tương tác, phụ thuộc, chuyển hóa lẫn nhau.
+ Về mặt xã hội, không cộng đồng nào tự thỏa mãn được các nhu cầu phát triển của nó nếu không
tương tác với các cộng đồng khác.
+ Văn hóa không đứng ngoài các quy luật tự nhiên và xã hội đo.
=> Tiếp xúc và giao lưu văn hóa trở thành bản chất đặc trưng của mọi nền văn hóa. -
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa thể hiện mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh, dưới 3 dạng thức cơbản:
+ Yếu tố nội sinh lấn át
+ Yếu tố ngoại sinh lấn át
+ Sự dung hòa, kết hợp giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh -
Hai hình thức của tiếp xúc và giao lưu văn hóa:
+ tự nguyện: là hình thức 1 chủ thể tự nguyện tiếp nhận văn hóa của một/nhiều chủ thể khác mà không
trải qua bất cứ hình thức cưỡng bức nào thông qua các quá trình, hoạt động buôn bán, truyền giáo, hôn nhân,...
VD: Phật giáo du nhập vào nước ta một cách tự nguyện theo hình thức di dân, truyền giáo
+ không tự nguyện (cưỡng bức): Dựa trên bạo lực và xâm chiếm lãnh thổ, "chủ thể mạnh" buộc "chủ
thể yếu" sử dụng văn hóa của họ để thay thế văn hóa gốc, nhằm đi đến đồng hóa văn hóa, thường xảy ra trong thời kỳ chiến tranh.
VD: Pháp thực hiện chính sách ngu dân, phá trường học, bắt dân ta học tiếng Pháp, học trường Pháp, từ bỏ
văn hóa truyền thống dân tộc. lOMoAR cPSD| 61464806
- Hai đặc điểm của tiếp xúc và giao lưu trong văn hóa Việt Nam: + chọn lọc + biến đổi
VD: Chữ Hán Chữ Nôm, Tết Hàn thực tưởng nhớ Giới Tử Thôi Tết diệt sâu bọ.
b. Giao lưu văn hóa Việt - Trung. -
Là quá trình tiếp xúc dài lâu và thường xuyên trong lịch sử -
Hoàn cảnh: TQ vốn là 1 nền văn minh lớn của nhân loại và cũng là quốc gia láng giềng của
VN. Do đó sựgiao lưu tiếp xúc văn hóa giữa VN và TQ là sự giao lưu tiếp biến, tất yếu, lâu dài từ trong lịch
sử. Qua trình ấy diễn ra ở 2 trạng thái tự nguyện và cưỡng bức. -
Hai dạng thức của tiếp xúc:
+ Cưỡng bức: Bắc thuộc (179 TCN - 938) và Minh thuộc (1407 - 1427). Từ thế kỉ I đến thế kỉ X: các
đế chế phương Bắc ra sức thực hiện chính sách đồng hóa để biến đất nước chúng ta thành một quận, huyện của Trung Hoa.
• Biểu hiện :" Binh lính vào Việt Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không được tiêu
hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ một
mảnh, một chữ cũng đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm là bia do người Trung Quốc dựng
thì giữ gìn cẩn thận, còn bia do An Nam xây dựng thì phải phá hủy tất cả chớ để lại một mảnh.
+ Tự nguyện: Thời kỳ độc lập tự chủ
• Biếu hiện: Ở thời kì độc lập tự chủ, nhà nước Đại Việt được mô phỏng theo mô hình nhà nước
phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, Trần về chính trị đều lấy nho giáo làm gốc dù vẫn chịu ảnh hưởng
của đạo Phật. Đến nhà Hậu Lê thì đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc. Thêm nữa việc giao
lưu buôn bán, cộng với sự di cư của người dân hai nước cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa -
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa cưỡng bức: diễn ra song song hai quá trình đồng hóá và chống
đồng hóathông qua ngôn ngũ, chữ viết, phong tục tập quán ... -
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa theo xu hướng tự nguyện
+ Những giá trị văn hóa người Việt tiếp nhận từ văn hóa Trung Hoa Mô hình tố chức và quản lý Nhà
nước; Hệ thống pháp luật; Hệ thống giáo dục và thi cử Nho học (Kì thi Tam giáo thi Hương thi Hội thi Đình, ...)
+ Những giá trị văn hóa Trung Hoa tiếp nhận từ văn hóa Việt Những giá trị văn hóa liên quan đến
nghề trồng lúa nước: kỹ thuật thủy lợi, giống lúa (các loại hình công cụ, kinh nghiệm sản xuất),......
=> Kết luận: Như vậy, cả 2 phương thức tiếp nhận và giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc đều là nhân tố cho
sự vận động và phát triển của văn hóa Việt. Đồng thời, mặc dù chịu những ảnh hưởng mạnh mẽ nhưng ta vẫn giữ
được cơ tầng văn hóa ĐNA, tránh nguy cơ Hán hóa và khẳng định sức sống và trưởng tồn của nền VHVN.
c. Giao lưu văn hóa Phương Tây.
Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây không phải chỉ diễn ra từ khi thực
dân Pháp xâm lược mà đã diễn ra thật lâu trước đó. - Hoàn cảnh:
+ Trước khi Pháp xâm lược:
• Thế ki XVI (1533), giáo sĩ phương Tây truyền giáo tại Quần Anh, Trà Lũ, Nam Định.
• Vua Lê, chúa Trịnh + Chúa Nguyễn → Nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây.
• Thăng trầm thời nhà Nguyễn:
Nguyễn Ánh: cho phép truyền bá văn học Pháp. lOMoAR cPSD| 61464806
Minh Mạng: tư tưởng bảo thủ, chính sách "cấm đạo, diệt đạo"
+ Thời kì Pháp cai trị: 2 dạng giao lưu cưỡng bức và tự nguyện đồng thời diễn ra: • Pháp:
Hành động: dùng văn học như 1 hình thức cai trị.
Biểu hiện: tạo ra chữ quốc ngữ vào cuối TK XIX. • Việt:
• Hành động: các nhà nho Nam Bộ yêu nước: Nguyễn Đình Chiểu,
Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực,.. phản ứng vô cùng quyết liệt.
• Biểu hiện: tiếp nhận những giá trị văn học mới, miên sao chúng có
tác dụng hữu ích trong công cuộc chông ngoại xâm. -
Kết quả: người Việt Nam thay đối cấu trúc nền VH của mình, đi vào vòng xoay của văn minh phương
Tây giai đoạn công nghiệp
+ Chữ Quốc ngữ và vốn từ vựng tiếng Pháp (Kem - Crm)
+ Phương tiện VH: nhà in, máy in Báo chí, NXB xuất hiện: Gia Định báo,...
+ Hệ tư tưởng: tư sản, vô sản (thay cho tư tưởng phong kiến lỗi thời) + Xuất hiện đô thị kiểu phương
Tây: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, có tính chất thương mại rõ nét.
+ Giáo dục, pháp luật: xóa bỏ chế độ giáo dục Nho giáo - Nho học, thiết lập chế độ giáo dục phương
Tây - Đại học, Cao đẳng + Văn hóá đảm bảo đời sống: ăn ở (Âu phục,...), kiến trúc (nhà hát lớn,...), phương tiện (xe
lửa, xe đạp, tàu thủy,...)
+ Các loại hình văn hóa, nghệ thuật mới: tiểu thuyết, truyện ngắn, tranh sơn dầu, kịch nói, điện ảnh,
thơ mới,... Tạo ra sự đột biến về văn hóa, chuyển văn hóa Việt từ tuyến phương Đông tuyến phương Tây, hội nhập
với thê giới nhưng vẫn giữ được bản sắc VH Việt.
d, Giao lưu văn hóa Ấn Độ
Khác với Trung Hoa, Ấn Độ không có đường biên giới chung với VN, tuy nhiên sự ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ với VN là không hề nhỏ.
-Hoàn cảnh: ÂĐ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của Phương Đông và thế giới. Văn minh Ấn Độ lan
tỏa khắp ĐNA trên nhiều phương diện và có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức
3. Phần các thành tố văn hóa Việt Nam
1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trong các loại tín ngưỡng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng cơ bản và phổ biến của
người Việt, bất kể họ ở đồng bằng hay miền núi, nông thôn hay thành thị, người giàu hay người nghèo... Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.
Vượt lên trên cả khía cạnh tín ngưỡng, tôn giáo, tục thờ cúng tổ tiên thấm đượm đạo lý uống nước nhớ
nguồn, một thứ ứng xử cộng đồng gia tộc, quốc gia, nó trở thành một chuẩn mực khuôn mẫu của ứng xử của con người Việt Nam. PHÂN TÍCH:
a. Về nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đầu tiên là về nguồn gốc: * NGUỒN GỐC: lOMoAR cPSD| 61464806
- Thứ nhất : Ở Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có nguồn gốc từ xa xưa, trước hết phải đề cập
đến chế độ phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng trong hoạt
động kinh tế và sinh hoạt của gia đình. Con cái mang họ cha và con trai kế tiếp ý thức về ủy quyền trong gia đình
của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy.
- Thứ hai : Đó là sự ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam:
+ Nho giáo: Theo như Không Tử, sự sống của con người không phải do tạo hóa sinh ra càng không
phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế
hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Từ quan niệm hiếu trong Không giáo, người Việt tiếp nhận
và thế hiện qua cái bàn thờ tổ tiên. Trải qua nhiều thế hệ tiếp nối nhau, người Việt đã thể hiện việc hiếu đạo thành
một tập tục gọi là thờ cúng tố tiên. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã củng cố thêm tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
+ Đạo giáo: Nếu như Không giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật tự kỉ cương xã hội cho tín
ngưỡng thờ cúng tô tiên của người Việt thì Đạo giáo góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên
của linh hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
+ Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
ở Việt Nam trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản
của Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới tục thờ cúng tô tiên nhưng không phải là sự sao chép hoàn toàn. Người Việt Nam
quan niệm rằng cha mẹ tố tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến
linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
- Thứ ba: Bắt nguồn từ điều kiện nhận thức và các yếu tố tâm lí khác:
+ Vê nhận thức: Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần: phần
xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập
vào xác điều khiển hành vi của con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hòà vào cát bụi,
phần hồn vẫn tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác.
+ Về các yếu tố tâm lý khác: •
Sự sợ hãi: Trong cuộc sống con người thường gặp phải những khó khăn, trở ngại,
ômđau, bệnh tật... Họ thiếu tự tin vào bản thân nên họ cần tới sự giúp đỡ, che chở của các thế lực
khác nhau, nhất là từ ông bà tổ tiên từ thế giới bên kia. Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta
cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói
và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. •
Sự kính trọng, biết ơn: Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc duy trì tín
ngưỡngthờ cúng tổ tiên của người Việt đó là sự tôn kính, biết ơn đối với các thế hệ trước ,lòng Hiếu
thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ. *BẢN CHẤT:
- Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo... Bởi mặc dù nó có những nghi lễ cụ thể
nhưngkhông có những tín điều, giáo lý chặt chẽ mà mỗi nơi có những biến tấu khác nhau từ Bắc vào Nam. Mục
đích cuối cùng của việc thờ cúng Tổ tiên là thể hiện một sự tin kính, thương yêu của người đang sống đối với
người đã chết và hy vọng người chết đi sẽ phù hộ, ban phước lành cho người trong gia đình, dòng họ. Nó mang
ý nghĩa tìm về cội nguồn. - Bản chất :
+ "Thờ cúng những người trong cùng dòng họ, máu mủ đã khuất, theo từng đơn vị gia đình, gia tộc. ..
+ Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ, cầu mong linh hồn ông bà Tổ tiên
"phù hộ" cho hiện thực cuộc sống của con cháu.
+ Nó cộng thêm khía cạnh uống nước nhớ nguồn. "Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" lOMoAR cPSD| 61464806
* Nghi lễ thờ cúng tố tiên bao gồm cách bày trí ban thờ, nghi thức tang lễ và nghi lễ cúng giỗ.
- Không gian thờ cúng tổ tiên bao giờ cũng là nơi sạch sẽ và trang trọng nhất của ngôi nhà, đồng thời
là nơicao ráo và phần lớn quay về hướng Nam với hàm ý con cháu tôn vinh bậc hiền tài. - Theo quan niệm của
người xưa, bàn thờ là biêu tượng của bầu trời tinh khiết. Ở hai góc ngoài có hai cây đèn hoặc nến tượng trưng
cho mặt trời và mặt trăng. Bát hương ở giữa biêu hiện cho vì tinh tú. Đèn hương đóng vai trò rất quan trọng vì
đó là cầu nối duy nhất giữa con người và thần linh. Con người nhờ hương khói để truyền ước vọng của mình lên
các đầng thiêng thiêng ở trên trời. Ngoài bàn thờ thông thường còn có bàn thờ vọng, là một loại bàn thờ mà người
sống xa quê ít có điều kiện về nhà con trưởng lập nên.
- Nghi lễ thờ cúng từ xưa đến nay đều được thực hiện theo một số nguyên tắc nhất định: Khi trong gia
đìnhcó người qua đời. lễ tang đươc tổ chức rất trịnh trọng theo những nghi lễ như: Mộc dục ,lễ Phạm hàm, lễ
Khâm liệm và Nhập quan, lễ Thiết linh, lễ Thành phục, lễ Phát dẫn, lễ An táng, lễ Tế ngu. Ngoài ra, còn có lễ
Chung thất. Khi người chết đã được 100 ngày là đến tuần tốt khốc, con cháu làm lễ cúng và cỗ bàn mời họ hàng.
Sau lễ 100 ngày là lễ Cải táng. Con cháu lấy ngày chết làm ngày giỗ.
-Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất. Vì họ tin rằng đó là ngày con
người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện vào các ngày mùng một, ngày
rằm và các dịp lễ tết khác trong năm như: Tết Nguyên Đán, têt Thanh minh,... Những khi trong nhà có việc quan
trọng như dựng vợ, gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi củ.... người Việt cũng dâng hương làm lễ cúng tổ tiên để
báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ hay tạ ơn. Tác động:
Qua thời gian, tục thờ cúng tổ tiên đã gắn bó mật thiết đối với mọi người, đồng thời có tác động mạnh mẽ cả về mặt
tích cực và tiêu cực trong đời sống tinh thần của người dân Việt. - Về tích cực:
+ Tục thờ cúng tổ tiên dạy cho con người biết thực hiện chữ hiều, kính trọng ông bà, tổ tiên dù họ
không còn nữa, đồng thời thể hiện tính nhân văn của dân tộc Việt, những người đã khuất không bị lãng quên trong
tâm tưởng của những người còn lại, chứng tỏ dân tộc Việt là một dân tộc đặc biệt mang trong máu một thứ tình cảm
không thể tìm thấy ở các dân tộc châu Âu.
+ Tưởng nhớ tới Tổ tiên, người Việt Nam luôn bảo nhau phải sống sao cho xứng đáng với sự kì
vọng của Tổ tiên. Các thế hệ cháu con, sau khi đã công thành danh toại thường trở về "vinh quy bái tổ" trước các
vong linh ông bà Tổ tiên. Người Việt Nam luôn cần cù, sáng tạo trong việc tạo dựng cuộc sống. Đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động cũng được hình thành và khẳng định một phần thông qua ý thức về Tổ tiên, cội nguồn.
+ Đối với cộng đồng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là sợi dây liên kết giữa những người sống
hiện tại như anh em, bà con làng xóm, giúp mọi người gắn bó với nhau hơn, hun đúc tình yêu quê hương đất nước.
+ Cuối cùng đó là ý nghĩa duy trì tình thân trong quan hệ thân tộc. Những ngày lễ, ngày tết hoặc
ngày kỹ niệm một người thân qua đời, là những dịp để con cháu ở các nơi khác hội tụ lại để gặp gỡ hàn huyên, kết chặt mối thâm tình. -Về tiêu cực:
+Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một loại hình tín ngưỡng dân gian đậm tính nhân bản,
tuy có mặt tích cực về phương diện đạo đức làm người và là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, nhưng
ngược lại cũng bộc lộ sự mê tín, huyễn hoặc, khi tin rằng tổ tiên đã chết có quyền lực che chờ phù hộ cho con cháu.
+Tập tục này cũng gây nhiều khó khăn và hao phí tiền của, công sức của con cháu với những nghi
thức cúng bái cầu kỳ, nườm rà với đủ thứ hình thức lễ lạc. Việc cúng giỗ, đôi khi cũng phát sinh thêm những sự việc
ngoài ý muốn như: quá chén trong khi ăn uống sinh ra ra cải vã làm mất hòa khí, dẫn đến những hành vi mất tự chủ.
+ Bên cạnh đó, tập tục này cũng gây nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người
dân Việt, vì ép buộc con cháu phải duy trì và tuân thủ nhiều hủ tục không còn thích hợp trong thời đại công nghệ
khoa học hiện đại. Chưa kể việc đốt vàng mã quá nhiều gây mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. lOMoAR cPSD| 61464806 KẾT BÀI: -
Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao sự đổi thay mạnh mẽ
trong quátrình giao lưu và tiếp nhận các nên văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình " nội
sinh hóa các yếu tố ngoại sinh" ấy, người dân Việt Nam vẫn gin giữ được những nét văn hóa độc đáo riêng, điển hình
chính là tín ngưỡng thờ cúng tố tiên của dân tộc. -
Có thế nói, thờ cúng tô tiên là một phong tục truyền thông của dân tộc, dù đó không phải là điều bắt
buộc song đó lại là thứ "luật bất thành văn" của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn của người dân Việt. -
Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác nên tục thờ cúng
tốtiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mựcđạo đức và nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tô chức
cộng đồng trong xã hội truyền thông, củng cô khối đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tô tiên, ông bà đã trở thành tín
ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn
dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác. -
Từ tín ngưỡng thờ cúng tô tiên chính là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hóa truyền
thốngđặc sắc của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy góp phần bồi đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước
nhớ nguồn, có trước có sau; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới. Không gì khác, chính từ
những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm
dựng nước và giữ nước. (Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn
thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn ban
thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ.)
2. Phật giáo với văn hóa Việt Nam. a. Nguồn gốc:
- Ra đời khoảng thế ki VI TCN tại Ăn Độ
- Người sáng lập là Siddhartha Gautama hay còn được gọi là Tất Đạt Đạ / Thích Ca Mâu Ni(652-544 TCN).
+ Là thái tử nhưng bất bình với sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn
dân tìm con đường giải thoát
+ Rời nhà lúc 29 tuổi, đến 35 tuổi thì giác ngộ được tư tưởng, tìm ra hướng giải thoát. Trong suốt 40 năm
còn lại của cuộc đời đi các nơi để truyền bá tư tưởng của mình. •
Giáo lý: Kinh Phật, được xếp thành 3 tạng -
Kinh tạng: chứa các bài thuyết pháp của Phật và một số đệ tử -
Luật tạng: chứa các lời Phật dạy về thế giới luật và phươngt thức sinh hoạt của chúngtăng -
Luận tang: chứa những lời bàn luận •
Nội dung giáo lý: học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát, có cốt lõi là "Tứ diệu đế"
(Bốn chân lý kì diệu)
-> Khổ đế: bản chất của nỗi khổ
"Bát khổ": sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đạt, ngũ thụ uấn
-> Tập đế: chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ Đó là ái dục (tham muốn) và vô minh (km sáng
suốt). Dục vọng thể hiện hành động gọi là Nghiệp; hành động xấu khiến con người phải nhận hậu quả của
nó (nghiệp báo) = Luẩn quần trong vòng luân hồi lOMoAR cPSD| 61464806
-> Diệt đế: cảnh giới diệt khổ Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự
tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nghĩa đen: không ham muốn, dập tắt) Thế giới của sự giác ngộ và giải thoát
-> Đạo đế: con đường diệt khổ "Bát chính đạo" (tám con đường diệt khổ):
- Rèn luyện đạo đức - GIỚI: chánh ngữ, chánh nghiệp, tránh mạng
- Rèn luyện tư tưởng - ĐỊNH: chánh niệm, chánh định
- Khai sáng trí tuệ - TUỆ: chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn •
Phật giáo có 2 phái: Đại thừa & Tiếu thừa
- Tiểu thừa ("cỗ xe nhỏ" - chở được ít người):
+ Theo xu hướng bảo thủ, chủ trương bám sát kinh điển, giữ nghiêm giáo luật
+ Phật tử phải tự giác ngộ cho bản thân
+ Chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La hán (người đã thoát cảnh luân hồi, đáng được tôn kính)
- Đại thừa ("cỗ xe lớn" - chở được nhiều người):
+ Không cố chấp theo kinh điển, khoan dung đại lượng trong thực hiện giáo luật
+ Thu nạp tất cả những ai muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người + Thờ nhiều Phật,
tu qua các bậc La hán, Bồ Tát đến Phật
b, Quy trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam: 4 giai đoạn
- Từ đầu công nguyên đến hết thời Bắc thuộc: giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp- Đầu
côngnguyên (TK I,II): Du nhập vào Việt Nam qua đường biển, trung tâm là chùa Dâu (Luy Lâu, Thuận Thành,
Bắc Ninh) nhờ 1 số nhà truyền đạo gốc Án Độ, Trung Quốc. Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa, Bụt như
1 vị thần luôn xuất hiện giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu
- TK IV-V: phật giáo Đại thừa từ Trung Hoa tràn vào vào thay thế luồng Tiểu thừa trước đó.
- Từ Buddha được phiên âm thành Phật (theo tiếng Hán) dần thay thế cho Bụt (phiên âm theo
tiếngPhạn). Bụt chỉ còn trong các quán ngữ với nghĩa ban đầu ("Gần chùa gọi Bụt = anh") hoặc trong các truyện cổ dân gian (Tấm Cám)
- Nhiều chùa tháp có quy mô to lớn/kiến trúc độc đáo được xây dựng: Chùa Phật Tích, chùa Dam
(chùaĐại Lãm), chùa Diên Hựu (Một Cột), hệ thống chùa Yên Từ, v.v.
- Bốn công trình nghệ thuật lớn thời Lý - Trần mà sách vở Trung Hoa còn truyền tụng là "An Na tứ
đạikhí": + Tượng Phật chùa Quỳnh + Tháp Báo Thiên + Chuông Quy Điền + Vạc Phổ Minh
- Thời Hậu Lê Cuối TK XIX: nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo là quốc giáo, Phật giáo dần suy
thoái.Đầu TK XVII, vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng đạo Phật, song vì vua mất sớm nên việc này ít thu được kết quả
- Đầu TK XX nay: Giai đoạn chấn hưng Phật giáo: Đến nay, Phật giáo là tôn giáo có số tín đồ đông
nhất ở Việt Nam. Xuất gia khoảng 3 triệu người, thường xuyên đến chùa tham gia các Phật sự khoảng 10 triệu
và chịu ảnh hưởng cũng khoảng vài chục triệu.
c, Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam: - Tính tổng hợp:
+ Hòa nhập với tín ngưỡng dân gian lOMoAR cPSD| 61464806
+ Tổng hợp các tông phái với nhau: không có tông phái Phật giáo nào là thuần khiết
+ Tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác, Phật với Nho, với Đạo
VD: Các cao tăng được mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng - Vua Đinh Tiên Hoàng
phong đại sư Khuông Việt làm tăng thống, tiếp sứ thần nhà Tống - Vua Lê Đại Hành hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh trước
khi xuất quân đánh Tống - Thời Lý, thiên sư Vạn Hạnh cố vấn mọi mặt cho vua Lý Thái Tô, nhiều vua quan quý tộc
đi tu - Đầu TK XX, Phật tử xuống đường phản đối nền độc tài của gia đình họ Ngô: hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu hè 1963.
- Khuynh hướng thiên về nữ tính (Đặc trưng bản chất của VH nông nghiệp)
+ Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là đàn ông, sang VN thành Phật Ông, Phật Bà VD: - Bồ tát Quan Thế
Âm Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt nghìn tay
+ Tạo ra Phật bà riêng: Đứa con giá nàng Man, sinh ngày 8/4, được xem là Phật Tổ Việt Nam, bà Man
là Phật Mẫu 8/4 là ngày Phật Đản; hay Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương, các thánh mẫu,... + Chùa
chiền mang tên các bà: Chùa Bà Dâu, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh,.
+ Tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là các bà: "Trẻ vui nhà, già vui chùa" - Tính linh hoạt
+ Tạo ra lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ
tử đầu tiên của Phật giáo, trở thành Phật Mẫu, đứa con gái của nàng hóa thân vào đá và trở thành Phật Tố với ngày
sinh là ngày Phật Đản 8/4.
+ Coi trọng việc sông phúc đức, trung thực hơn là đi chùa: "Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ
3 tu chùa "hay "Dù xây 9 bậc phù đồ, không = làm phúc cứu cho 1 người"
+ Coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật; đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật -
Đức Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng cứu giúp mọi người, làm mây mưa sấm chớp để mùa
màng tốt tươi, ban cho người hiếm muộn có con, ban lộc cho bình dân để làm ăn phát đạt, cứu độ người chết và giúp họ siêu thoát.
+ Tượng Phật mang dáng dấp hiền ha với những tên gọi rất dân gian: ông Nhịn ăn mà mặc (Tuyết
Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di lặc to béo), ông Bụt Ôc (Thích ca tóc quăn); nhiều pho tượng tạc theo dáng
chân co chân duỗi rất thoải mái, giản dị,...
+ Chùa thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức mái cong có ba gian hai chái, năm
gian hai chái, trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai của mỗi làng.
+ Lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản, kết hợp với đạo thờ ông bà tổ tiên đề ra thuyết "Tứ ân": Ơn tổ
tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại. KẾT:
-Phật Giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam, kết hợp hài hòa
với tín ngưỡng dân tộc và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
3, Ý NGHĨA, NGUỒN GỐC CỦA NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG (10/3 ÂM LỊCH)
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”
Câu ca dao đã đi vào tiềm thức của mỗi người con nước Việt, thể hiện niềm tự hào về nguồn gốc “Con Rồng cháu
Tiên” của con dân đất Việt. Ngày lễ Giỗ tổ Hùng Vương không chỉ là ngày hội quần tụ của cả dân tộc, mà còn là ngày
để chúng ta - mỗi người dân Việt Nam khẳng định sức mạnh giống nòi, sức trường tồn mãnh liệt của văn hóa dân tộc lOMoAR cPSD| 61464806
Việt Nam; dồng thời thể hiện rõ đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" và lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công
dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, như một tinh thần văn hóa Việt Nam.
1. Nguồn gốc của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
Truyền thuyết kể lại rằng: Kinh Dương Vương sinh một con trai, sau nối ngôi vua cha niên hiệu là Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con là tổ tiên của người Bách Việt.
Một hôm vua Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp
thật khó". Vì vậy, năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người con theo cha về miền biển. Lạc Long Quân
phong cho con trưởng Hùng Vương nối ngôi, làm vua. Trải qua 18 đời, Hùng Vương thứ 18 đã nhường ngôi cho
Thục Phán - An Dương Vương.
Để ghi nhớ công ơn của các Vua Hùng có công khai thiên, lập địa, vua Lê Thánh Tông năm 1470 và đời vua Lê Kính
Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, chọn ngày 11 và 12 tháng 3 âm lịch làm ngày giỗ Tổ Hùng
Vương. Đến thời nhà Nguyễn - năm Khải Định thứ 2 chính thức chọn ngày 10 tháng 3 Âm lịch làm ngày giỗ Tổ
Hùng Vương để tưởng nhớ các Vua Hùng và nhắc nhở mọi người Việt Nam cùng tưởng nhớ thờ cúng Tổ tiên.
2. Ý nghĩa ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
Theo phong tục, hằng năm, ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm đã trở thành "điểm hẹn" tâm linh trong mỗi
người dân nước Việt, mọi người dân trên khắp mọi miền Tổ quốc lại cùng nhau hướng về dân tộc, tìm về cội nguồn
của mình. Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương là dịp để con Lạc cháu Hồng tìm hiểu và biết ơn công lao to lớn của những
người đi trước đã bảo vệ cho đất nước ta như ngày hôm nay. Cứ đến ngày này, dù ai ở xa, dù ai đang bận rộn, dù đi
đâu về đâu cũng đều dâng hương tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước.
Vào ngày 6/12/2012, ý nghĩa của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được cả thế giới biết đến khi UNESCO công nhận
"Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ" - biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc Việt Nam là một Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong hồ sơ đề trình UNESCO
công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là di sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lòng
tôn kính đối với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên
gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí, đó là,
di sản có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc đẩy giá trị đó.
Giờ đây, ý nghĩa ngày giỗ tổ Hùng Vương 10/3 không chỉ thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc
mà nó còn là niềm tự hào của người Việt trước bạn bè quốc tế.
Ngày 02/4/2007, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của
Luật Lao động, cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm
lịch). Kể từ đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - Quốc Lễ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.
3. Nghi thức tế lễ giỗ Tổ Hùng Vương
Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội lớn mang tính quốc gia. Phong tục giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn
hoá lâu đời ở nước ta. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng
liêng cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương
"trở về cội nguồn dân tộc" của hàng chục vạn người từ khắp các nơi trong nước và kiều bào sống ở nước ngoài. lOMoAR cPSD| 61464806
Hội đền Hùng diễn ra tại đền Hùng, Phú Thọ, kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch hằng năm, trong đó
mùng 10 là chính hội. Lễ hội đền Hùng gồm có 2 phần: Phần lễ và Phần hội. Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể
mang tính Quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là "lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu...;
nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ
lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành
hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng
giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào
cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài; là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng, mãi mãi khắc
ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
4, Giới thiệu Tết cổ truyền Việt Nam
Tết Nguyên Đán (Tết âm lịch, Tết ta, Tết cổ truyền) là dịp lễ quan trọng và ý nghĩa nhất của người dân Việt Nam,
diễn ra vào ngày 1/1 âm lịch. Đây cũng chính là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.
Nếu đọc đúng phiên âm, dịp lễ này phải gọi là “Tiết Nguyên Đán”. Bởi nguyên nghĩa của chữ “Tết” là “Tiết”, còn
theo phiên âm chữ Hán - Việt thì “Nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu, “Đán” là buổi sáng sớm.
Với người dân Việt Nam, Tết được coi là “món ăn tinh thần” không thể thiếu vào những dịp cuối năm. Bất cứ ai dù
ở nơi đâu cũng muốn trở về bên gia đình, tổ tiên, cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng đêm giao thừa. Không
chỉ vậy, Tết cổ truyền còn thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong nền văn minh nông nghiệp Việt Nam từ xa xưa,
nhằm gắn kết tinh thần dân tộc, giữa gia đình và xóm làng, con người với thiên nhiên.
Cách tính thời gian của Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán được tính vào ngày đầu tiên của năm âm lịch, do quy luật 3 năm nhuận một tháng nên sẽ muộn hơn
Tết Dương lịch khoảng 1 đến 2 tháng. Thời gian diễn ra Tết Nguyên Đán thường rơi vào ngày 21/1 đến 19/2 dương lịch.
Tại Việt Nam, dịp lễ này thường kéo dài từ 23 tháng chạp đến ngày 7 tháng giêng. Người dân sẽ bắt đầu sắm sửa Tết
trong khoảng 7 ngày cuối năm cũ, nghỉ ngơi “chơi” Tết trong 7 ngày đầu năm mới. Theo truyền thống xa xưa, khoảng
thời gian này cũng là lúc nông dân nhàn rỗi, chưa bước vào vụ mùa mới nên họ sẽ rất háo hức, phấn khởi, bù đắp lại
những ngày tháng vất vả trong năm.
Nguồn gốc của Tết Nguyên Đán
Nguồn gốc của Tết Nguyên Đán vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi. Bởi theo nhiều nguồn thông tin, Tết có nguồn
gốc từ Trung Quốc và được du nhập vào Việt Nam trong khoảng thời gian 1000 năm đô hộ. Tuy nhiên, theo truyện
cổ tích lịch sử “Bánh chưng bánh dày”, Tết Nguyên Đán đã có từ thời vua Hùng, từ trước khi Bắc thuộc. Đồng thời, lOMoAR cPSD| 61464806
trong cuốn “Kinh Lễ”, Khổng Tử cũng đã viết rằng: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội
lớn của bọn người Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó”. Như vậy, có thể thấy rằng
Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Việt Nam.
Tuy nhiên, cho dù bắt nguồn từ nước nào thì Tết vẫn là dịp lễ quan trọng nhất trong năm của người dân Việt Nam và
Trung Quốc. Mỗi nước sẽ có những phong tục, bản sắc và nét đặc trưng riêng, thể hiện tinh thần văn hóa dân tộc rõ nét.
Ý nghĩa của ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam
Tết Nguyên Đán là thời điểm trời đất giao thoa
Đối với người dân Việt Nam, Tết Nguyên Đán không chỉ là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới mà còn
là sự giao thoa giữa trời đất, con người và thần linh. Bởi theo quan niệm của người phương Đông, “Tết” do “Tiết”
(thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, chu chuyển lần lượt giữa 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông mà tạo thành.
Đồng thời, khi đất nước còn dựa vào nền văn minh nông nghiệp, người nông dân sẽ xem Tết là khoảng thời gian để
tưởng nhớ đến các vị thần linh như thần Đất, thần Mưa, thần Mặt Trời, thần Sấm,... Họ chính là những người giúp
mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no.
Tết Nguyên Đán là dịp con cháu thể hiện lòng thành kính với tổ tiên
Tết Nguyên Đán cũng chính là dịp con cháu thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, thăm mộ và khấn vái những người
đã khuất. Thông thường, từ tối ngày 30 hay trước thời khắc giao thừa, mọi gia đình đều sẽ thắp hương mời ông bà tổ
tiên về ăn Tết, phù hộ cho con cháu năm mới vạn sự như ý, phát tài phát lộc. Bàn thờ ngày Tết cũng được bày biện
rất đặc biệt, có mâm ngũ quả, mâm cỗ truyền thống và khói hương nghi ngút.
Tết Nguyên Đán là thời điểm đón nhận may mắn
Tết Nguyên Đán tượng trưng cho khởi đầu mới của năm tiếp theo. Đây cũng là thời điểm xua đi những điều không
vui của năm cũ và đón nhận vận khí tốt cho năm mới. Vì vậy, vào dịp Tết cổ truyền, mọi người thường có phong tục
đi chùa cầu phúc, cầu may mắn.
Ngoài ra, Tết còn mang đến nhiều điều may mắn, giúp mọi người “làm mới” tinh thần. Từ những ngày cuối năm,
mọi người đã cùng nhau dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa để đón xuân. Ai ai cũng nô nức, xúng xính quần áo mới. Mọi
muộn phiền của năm cũ dường như đều tan biến để khởi đầu một năm cũ may mắn, lạc quan và đầy ắp niềm tin vào cuộc sống.
Tết Nguyên Đán là dịp để gia đình sum họp lOMoAR cPSD| 61464806
Trong ngày Tết cổ truyền, các thành viên trong gia đình sẽ quây quần bên nhau, sum họp sau một năm làm việc vất
vả. Với những người con xa quê, đây cũng chính là dịp để trở về nhà bên cạnh những người yêu thương, cùng nhau
bập bùng bên bếp lửa hồng và nồi bánh chưng xanh.
Tết Nguyên Đán là dịp để đón tuổi mới
Cuối cùng, Tết Nguyên Đán được xem là dịp sinh nhật của tất cả mọi người, cùng chúc nhau đón tuổi mới. Người
lớn sẽ mừng tuổi (lì xì) để chúc các bé ngoan ngoãn, mau ăn chóng lớn, chúc các cụ già mạnh khỏe và sum vầy bên con cháu.
Phong tục ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam
1. Phong tục cúng ông Công, ông Táo
Từ xưa đến nay, người Việt Nam đều có phong tục cúng ông Công, ông Táo vào những dịp cuối năm. Mọi người sẽ
dọn dẹp căn bếp thật sạch sẽ, chuẩn bị mâm cỗ gồm trái cây, món mặn, hóa vàng và phóng sinh cá chép để tiễn đưa
ông Công, ông Táo về triều. Các chư vị thần linh này sẽ thay gia chủ báo cáo những công việc trong năm qua với Ngọc Hoàng.
2. Phong tục nấu bánh chưng, bánh tét
Vào mỗi dịp Tết đến Xuân về, mọi nhà đều mua lá giong (hoặc lá chuối), ống nứa, nếp mới, đỗ xanh và thịt lợn để
gói bánh chưng, bánh tét. Loại bánh truyền thống này sẽ được dâng lên bàn thờ cúng tổ tiên và là món ăn không thể
thiếu trong mâm cơm ngày Tết của người Việt.
Hiện nay, ở một số làng quê, người dân vẫn giữ thói quen cùng nhau gói bánh và quây quần bên bếp lửa chờ bánh
chín. Đây là một hình ảnh đẹp, ấm cúng của ngày Tết, được lưu truyền trong ký ức của nhiều thế hệ.
3. Phong tục chưng mâm ngũ quả
Mâm ngũ quả là lòng thành kính của con cháu dâng lên bàn thờ tổ tiên, thể hiện sự biết ơn với những người đã khuất.
Mỗi vùng miền sẽ có cách bày trí mâm ngũ quả, lựa chọn các loại trái cây khác nhau. Tết miền Bắc nhất định mâm
ngũ quả phải có chuối, còn Tết miền Nam thường chưng ngũ quả theo câu nói “cầu dừa đủ xoài sung”.
Tuy nhiên, chúng đều mang ý nghĩa cầu mong bình an cho năm mới.
4. Phong tục thăm mộ tổ tiên, tảo mộ
Trước khi bắt đầu năm mới, con cháu sẽ họp mặt và đến thăm mộ ông bà, tổ tiên. Mọi người sẽ cùng nhau dọn dẹp
khuôn viên mộ, thắp hương để tỏ lòng thành kính với những người đã khuất. Đồng thời, phong tục này còn để mời
ông bà về ăn tết cùng gia đình, phù hộ cho con cháu năm mới may mắn, sức khỏe và tài lộc.
5. Phong tục cúng tất niên, đón giao thừa