lOMoARcPSD| 61464806
NỘI DUNG ÔN TẬP HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
(Một số nội dung chính)
I – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1. Định nghĩa văn hóa
“Văn hóa một hệ thống hữu các gtrị vất chất tinh thần do con
người sáng tạo ra tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác
giữa con người với i trường tự nhiên hội của mình[Trần Ngọc Thêm,
Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999, tr 10].
1.2. Phân biệt các khái niệm văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật
a. Khái niệm Văn minh
Từ “Văn minh” có thể hiểu là “trình độ phát triển văn hóa luôn có bề dày của
quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh là một lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát
triển của văn hóa từng giai đoạn. Nói đến văn minh, người ta nghĩ đến các tiện
nghi, khi văn hóa chứa cả giá trị vật chất và tinh thần thì văn minh chủ yếu lại thiên
về các giá trị vật chất. Sự khác biệt của văn hóa văn minh về giá trị tinh thần và
tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: văn hóa mang tính dân tộc; còn văn
minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại,
bởi lẽ nhu cầu sử dụng vật chất là rất lớn, xuyên quốc gia.
Như vậy, văn minh khác văn hóa ở 3 điểm: thứ nhất, trong khi văn hóa bề
dày của quá khứ (Văn hóa do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của hội
loài người) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại (xuất hiện khi con người đã có
trình độ phát triển). Thứ hai, trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh
thần thì n minh chthiên về khía cạnh vật chất, thuật. Thứ ba, trong khi văn hóa
mang tính dân tộc rệt (như văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Quốc, n hóa Nhật
bản, văn hóa Hàn Quốc, văn hóa Nga, văn hóa Pháp…) thì n minh mang tính quốc
tế (như nền văn minh tin học, văn minh kỹ thuật hậu công nghiệp...). Tuy nhiên, văn
hóa và văn minh đều do con người sáng tạo ra.
b. Khái niệm văn hiến và văn vật
- Theo Từ điển Tiếng Việt, “Văn hiến truyền thống văn hóa lâu đời”, còn
“văn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử”.
Bảng: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật (Theo Trần Ngọc Thêm)
VĂN VẬT
VĂN HIẾN
VĂN HÓA
VĂN MINH
lOMoARcPSD| 61464806
Thiên về giá tr
vật chất
Thiên về giá trị
tinh thần
Chứa cả giá tr
vật chất lẫn tinh
thần
Thiên về giá trị
vật chất – kĩ thuật
Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát
triển
Có tính dân tộc
Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp
Gắn bó nhiều hơn
với phương y
đô thị
1.3. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
a. Tính hệ thống
Văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hóa cả một hệ thống. Hệ
thống văn hóa một tổ chức hữu cơ, gồm các yếu tố, các hiện tượng, các sự kiện
thuộc một nền văn hóa quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Tính hệ
thống ấy thể hiện cấu trúc của văn hóa: bao gồm văn hóa vật chất (văn hóa sản
xuất, văn hóa đời sống), văn a tinh thần (văn hóa tâm linh, văn hóa tri thức, văn
hóa nghệ thuật), văn hóa xã hội (văn hóa cộng đồng, văn hóa giao tiếp).
Do văn hóa tính hệ thống cho nên bao trùm mọi hoạt động của hội,
thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Văn hóa là nền tảng của xã hội, cho nên
làm tăng thêm scố kết cộng đồng, tạo nên sự ổn định hội, cung cấp cho xã
hội mọi phương tiện cần thiết đứng phó với môi trường tự nhiên hội của
mình.
b. Tính giá trị
Giá trị văn hóa là những gì tốt đẹp nhất của văn hóa mà con người ước muốn.
là thước đo mức độ nhân bản của hội con người. Từ đó cho phép phân biệt
văn hóa phi văn hóa, phản văn hóa, phân biệt giá trị với phi giá trị (ví dụ: thiên
tai địch họa, lực lượng khủng bố, mafia).
Nhờ thường xuyên xem xét, điều chỉnh, nhìn nhận từ thực tế các giá trị mà văn
hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai chức năng điều chỉnh hội,
giúp cho hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng thoàn thiện
thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực,
làm động lực cho sự phát triển xã hội.
lOMoARcPSD| 61464806
c. Tính nhân sinh
Văn hóa là hiện tượng xã hội, là thành tựu của con người, do con người sáng
tạo ra, phục vụ lợi ích của con người. Văn hóa có những giá trị xã hội ( do nhân tạo
như trên) khác với các giá trị tự nhiên (do thiên tạo). Văn hóa cái tự nhiên được
biến đổi bởi con người. dụ như việc dùng lửa để nấu chín thức ăn, việc dùng
nguyên liệu có trong tự nhiên để chế biến thành các món ăn, việc dùng nguyên liệu
gỗ, đá… có trong tự nhiên để chế tác thành những tác phẩm nghệ thuật (bức tượng,
đồ dùng), việc gắn những hiện tượng tự nhiên vào những truyền thuyết, truyện cổ
tích v.v… là những sáng tạo văn hóa mà chủ thể sáng tạo là con người.
Văn hóa phải phục vụ lợi ích của con người, những mục đích tốt đẹp, gắn
với sự phát triển xã hội.
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây liên kết con người với nhau,
văn hóa gắn liền với hoạt động của con người trong xã hội. Do đó thực hiện chức
năng giao tiếp giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. d.
Tính lịch sử
Văn hóa được truyền từ đời này qua đời khác. Một nền văn hóa được hình
thành qua nhiều thế hệ vốn tính bền vững và lâu dài. Văn hóa sự tích tụ hàng
ngàn năm lịch sử. Tính lịch sử tạo nên một nền văn hóa bề dày và chiều sâu,
buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại, phân bổ lại các giá
trị, bồi đắp thêm những cái mới hoặc loại trừ những cái đã lỗi thời để kết tinh nên
nền văn hóa truyền thống.
Truyền thống văn a tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục chức năng
quan trọng thứ tư của văn hóa
II- DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc)
Chủ nhân của văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam là người Việt cổ, gồm hai thành
phần là Lạc Việt Âu Việt. Văn hoá Đông Sơn tồn tại từ kỳ đồng thau đến
kỳ sắt, khoảng thiên niên kỷ I trước công nguyên.
Nền văn hóa này tồn tại cả miền núi, đồng bằng ven biển phía bắc
Trung Bộ Việt Nam. Văn hóa Đông Sơn tập trung lưu vực ba con sông lớn sông
Hồng, sông Mã, sông Cả, với các loại hình di chỉ, di tích khảo cổ học (nơi trú,
lOMoARcPSD| 61464806
mộ táng, công xưởng) đã minh chứng cho một nền văn hóa khá cao và một nền văn
minh nông nghiệp – văn minh sông Hồng rực rỡ.
* Về Tổ chức Nhà nước:
Nhà nước Văn Lang xuất hiện kết quả của một quá trình phát triển lâu dài
của nền văn minh sông Hồng từ hàng ngàn năm trước.
Từ buổi đầu thời đại đồng thau, cách ngày nay bốn ngàn năm, nghĩa vào
khoảng từ hai ngàn năm trước Công nguyên, những bộ lạc Việt đã định chắc chắn
ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Do nhu cầu trị thủy, do nhu cầu chống ngoại xâm và do
việc trao đổi kinh tế, n hóa ngày càng gia ng, giữa các bộ lạc sinh sống gần nhau
đã xu hướng tập hợp thống nhất lại. Trong số các blạc Lạc Việt bộ lạc
Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Vào khoảng thế kỷ VII trước ng nguyên, các
nhóm bộ lạc liên kết thành một quốc gia: nước Văn Lang. Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang
là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang, tự
xưng Hùng Vương. (Xem thêm truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền
thuyết Hùng Vương).
Các nền văn hoá bộ lạc hoà chung vào một văn hoá thống nhất – văn hoá Đông
Sơn. Do vậy, văn hoá Đông Sơn còn gọi là văn minh Văn Lang. Địa bàn của quốc
gia Văn Lang, tính thống nhất văn hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn, từ biên
giới Việt Trung cho đến Quảng Bình. Kinh đô của quốc gia Văn Lang đặt ở Phong
Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
- Đứng đầu bmáy chính trị của quốc gia Văn Lang vua Hùng. Ngôi vua
được truyền nối tới 18 đời. Vua người đứng đầu tổ chức nhà nước về mặt chính
trị, đồng thời người chỉ huy quân sự chủ trì các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng.
Dân chúng tin vua là người gần gũi với thần linh.
Nước Văn Lang của các vua Hùng được chia làm 15 bộ, vốn 15 liên minh
bộ lạc tập hợp lại với nhau. Giúp việc cho vua kinh đô các lạc hầu – là những
quan lại lớn nhỏ hợp thành triều đình trung ương. Đứng đầu mỗi bộ lạc chức lạc
tướng. Dưới bộ c công xã nông thôn, tức kẻ, chạ, chiềng. Mặc còn sơ khai,
nhưng nhà nước thời Hùng Vương cũng đã có quân đội và luật pháp.
Tổ chức hội thời Hùng Vương bao gồm một kết cấu từ Gia đình Dòng
tộc – Làng đến Nước.
lOMoARcPSD| 61464806
Thời kỳ Hùng Vương phản ánh quá trình chuyển dần tchế độ mẫu hệ sang
chế độ phụ hệ, xác lập chế độ phụ hệ, mặc vẫn còn tàn của chế độ mẫu hệ.
Các tiểu gia đình đã định hình rõ ràng trở thành đơn vị kinh tế, tế bào xã hội. Với
sự xuất hiện các tiểu gia đình, quan hệ huyết thống không còn chặt chẽ, công xã thị
tộc dần tan rã đem đến sự ra đời của công xã nông thôn.
Mỗi công nông thôn bao gồm một số gia đình sống tụ trong một vùng
địa lý. Trong công xã, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn bên cạnh quan hệ láng
giềng. Toàn bộ đất đai, sông ngòi, hồ ao… đều thuộc quyền quản sở hữu của công
xã. Ruộng đất cấy cày được phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng. Xã hội
đã có sự phân hóa nhất định.
Thời kỳ này nền sản xuất phát triển mạnh mẽ, đủ các điều kiện xuất hiện
sản phẩm thừa kéo theo là sự phân hóa thân phận con người và cho đến giai
đoạn cuối đã tồn tại ba tầng lớp xã hội:
Tầng lớp quý tộc: Bao gồm những người trong bộ máy thống trị, vốn những
quý tộc bộ lạc, lợi dụng địa vị và quyền hạn của mình để chiếm sản phẩm thặng dư
và sử dụng nó để bóc lột người sản xuất.
Tầng lớp nô lệ: Tầng lớp này có địa vị thấp nhất, làm nô lệ trong các gia đình
quý tộc.
Thành viên công xã: Họ là những người tự do, tầng lớp đông đảo nhất trong
xã hội, được công xã phân phối ruộng đất tham gia vào công việc sản xuất chung
trên ruộng đất của tập thể.
Như vây, thể thấy, hội Hùng Vương đã hình thành hai tầng lớp bản:
tầng lớp thống trị và tầng lớp bị thống trị. Mâu thuẫn giữa hai tầng lớp xuất hiện, và
tưởng giai cấp hình thành, chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của nhà nước đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam. Bằng những i liệu khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học,
sử học, nhân chủng học… cho chúng ta thấy, thời đại Hùng Vương đã xuất hiện trên
đất nước Việt Nam một nền văn hóa khá cao, một nền văn minh nông nghiệp rực rỡ
- văn minh nông nghiệp sông Hồng.
* Về Văn hoá vật chất:
- Phát triển nông nghiệp: Cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn dân nông nghiệp
trồng lúa. Một ssách cổ của Trung Quốc như Thủy Kinh chú, Giao Châu ngoại vực
ký… đã ghi chép về nghề nông trồng lúa của người Việt giai đoạn này. Người Việt
lOMoARcPSD| 61464806
đã biết canh tác trên nhiều loại đất khác nhau, hai hình thức canh tác chính là làm
rẫy làm ruộng, phổ biến ruộng lạc (ruộng nước). Cây trồng chủ yếu lúa tẻ
lúa nếp. Họ đã có kỹ thuật trị thuỷ như đắp đê chống lụt, đắp mương phai, làm thu
lợi để đưa nước vào ruộng. Các loại hình nông cụ của dân Đông Sơn đã khá đa
dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước
nhảy vọt trong kỹ thuật canh tác. Thời kỳ này đã phổ biến dùng cày trong nông
nghiệp thay cho cuốc trước đây. Người ta đã tìm thấy 4 kiểu lưỡi cày đồng, loại
kích thước lớn để dùng sức kéo trâu bò. Những tài liệu khảo cổ học cho ta thấy,
việc chăn nuôi trâu đã phát triển, họ biết sdụng trâu cày kéo. Trên trống
đồng còn để lại những hoa văn khắc hình bò, trong một số di chỉ khảo cổ học còn
tìm thấy hiện vật tượng đầu gà. Ngoài cây ơng thực chính là lúa, dân Đông Sơn
còn biết trồng các loại cây lấy củ, quả, trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông lấy sợi…
Mở rộng hình thức sinh tồn: Bên cạnh nghề trồng lúa, dân Đông Sơn n
chăn nuôi gia súc, gia cầm, đóng thuyền đánh cá, săn bắt, hái lượm. Các hình con
hình thuyền trên hoa văn trống đồng Đông Sơn phản ánh nghề kiếm của
dân Đông Sơn, sinh sống trên địa bàn gần sông nước. Tập quán sinh hoạt kiếm ăn ở
dưới nước cũng tập quán của người Lạc Việt khi mở rộng địa bàn sinh sống xuống
miền đồng bằng.
- Thủ công nghiệp đã hình thành với các nghề như nghề dệt, nghề gốm, nghề
mộc, nghề đan lát, chế tạo thuỷ tinh, nghề sơn, nghề chế tác đá, nghề luyện kim
rèn, đúc kim loại (đồng, sắt)…Trong thủ công nghiệp, nghề luyện kim và đúc đồng
phát triển rực rỡ. Kỹ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kỳ này. Số lượng
loại hình công cụ, khí, nhạc kbằng đồng tăng rất đáng kể. n Đông Sơn
đã đúc được các loại hình nông cụ khá đa dạng như: cuốc, xẻng, mai, thuổng, lưỡi
cày, dao hái, rìu bằng kim loại đã tạo nên một bước tiến quan trọng trong kỹ thuật
canh tác. dân Đông Sơn đúc được mũi giáo, mũi lao, kiếm, rìu dùng cho chiến
đấu; đúc được chuông, khèn, tượng người, tượng thú để đáp ứng cho sinh hoạt văn
hoá; đặc biệt họ đã đúc được một loại nhạc klớn đòi hỏi trình độ kỹ thuật khá
phức tạp là trống đồng với kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú - biểu tượng
của văn hóa dân tộc. Đó những trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng, đa
dạng về chủng loại, phong phú về số lượng, chứng tỏ trình độ kỹ thuật bàn tay
tài hoa của người thợ Đông Sơn.
lOMoARcPSD| 61464806
- Người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên, đảm bảo cho
cuộc sống của mình. Điều này thể hiện ở sự lựa chọn nơi cư trú. Cư dân Đông Sơn
dựng làng xóm ở những nơi đất cao, sườn núi, đồi đất thấp gần các con sông và đã
hình thành những làng xóm đông đúc nơi đồng bằng phì nhiêu.
- Trong cuộc chiến tranh giữ làng, giữ ớc, dân Đông Sơn đã biết xây dựng
thành luỹ bảo vệ, kỹ thuật xây thành quy thời kỳ này còn để lại dấu tích, đó
thành Cổ Loa.
- Trang phục của người Đông Sơn: Từ chỗ trần, mặc vỏ sui, sau đã biết dệt
vải làm trang phục. Nam giới đóng khố, nữ giới mặc váy yếm hoặc áo cánh xẻ trước
ngực, thắt lưng. Trang phục lễ hội váy lông chim hay cây kết thành, khố dài
thêu, trên đầu đội một chiếc cũng làm bằng lông vũ. Tóc bốn kiểu được cắt
ngắn, búi tó hoặc được tết, buộc.
- Cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn: gồm các thành phần chính là cơm – rau
– cá - thịt. Cách thức chế biến thức ăn gồm nấu, nướng, luộc, hấp, đồ…Tớc đó
dân chủ yếu ăn gạo nếp nhưng đến thời Đông Sơn đã có gạo tẻ, có lẽ bởi giống lúa
tẻ thích hợp hơn và phát triển mạnh ở vùng đất mới khi mrộng đất canh tác. Gạo
nếp được dùng nhiều cho ltết cầu cúng (Xem truyền thuyết nh chưng bánh dày).
Ngoài gạo, con người còn dùng các nguồn thực phẩm từ hoa màu, rau quả, thủy
sản…Mô hình cơmrau – cá trong cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự
ứng xử hài hòa, khôn khéo của cư n Đông Sơn với thiên nhiên và môi trường sinh
thái.
- Đồ trang sức của người Đông Sơn: vòng tay, vòng chân được làm bằng đồng,
thuỷ tinh, chưa thấy đồ vàng bạc hay đá quý.
- Nhà của dân Đông Sơn: đó những ngôi nhà sàn hoặc loại nhà trên nền
đất, mái cong hình thuyền, mái tròn được làm bằng gỗ, tre, nứa, - những vật
liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian.
- Về phương tiện đi lại: họ đi lại bằng thuyền bè, mảng trên sông nước. Ngoài
ra còn đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, dùng vật đựng trên lưng hoặc cưỡi
voi, ngựa đi lại trên các con đường mòn ven chân núi đồi.
* Về văn hoá tinh thần:
lOMoARcPSD| 61464806
- Về văn học nghệ thuật: Thời kỳ này hình thành các loại truyện thần thoại,
huyền thoại, truyền thuyết, sử thi (Lạc Long Quân Âu Cơ, Sơn Tinh, Hùng
Vương…).
- Về phong tục tín ngưỡng: những lễ nghi tín ngưỡng giai đoạn này gắn
chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó tục thờ mặt trời, mưa dông, các nghi l
phồn thực những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp trai gái, tục đua
thuyền, tục thả diều… Nhiều lễ hội nông nghiệp nhưlễ hội xuống đồng, đua thuyền,
lễ cơm mới, hội mùa, lễ hội cầu mưa, lễ hội cúng thần lễ hội làng vào đầu xuân
với nghi lễ hiến sinh trâu bò, hội cầu nước, hội khánh thành trống đồng…
- Đặc điểm nổi bật thời kỳ này người Đông Sơn những bước phát triển
mới trong tư duy: đó là tư duy về vũ trụ, tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp – phân loại,
chia đôi như đàn ông đàn bà, đực cái, trời và đất, âm và dương; đó là tư duy
khoa học như thiên văn học, khái niệm số đếm, khái niệm lịch pháp…Tư duy lưỡng
hợp – lưỡng phân thể hiện tư tưởng triết lý âm dương của người Việt.
- Về nghệ thuật âm nhạc và múa hát: Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật
quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của dân Đông Sơn. Nhạc
cụ đáng lưu ý trống đồng, sênh, phách, khèn, cồng chiêng. Trong ngày hội
nhảy múa, ca hát tập thể, hát đối đáp nam nữ, hát trong lao động, hát trong nghi thức
tín ngưỡng.
- Về nghệ thuật tạo hình: vẽ trên gỗ, khắc trên trống đồng, tạc tượng gồm hình
người và động vật bằng đất nung, bằng đồng thau và đá.
Di vật tiêu biểu nhất của văn minh Văn Lang văn hoá Đông Sơn trống
đồng Đông Sơn tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho tài năng sáng tạo của người Việt
cổ. Đời sống tinh thần của dân Đông Sơn đã được phản ánh cách điệu hóa
khắc họa sinh động trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng Đông Sơn tên một loại trống tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn
của người Việt cổ.
Chức năng chủ yếu của trống đồng vẫn chức năng của một nhạc khí dùng
trong các cuộc tế lễ, hội hè, dùng phát lệnh trong quân đội. Trống Đồng còn tượng
trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh ngày xưa. Các vị vua thưởng cho các
trưởng người dân tộc những chiếc trống đồng.Trống đồng được mai táng cùng với
lOMoARcPSD| 61464806
những người thủ lĩnh, biến thành vật chôn theo người chết như khu mộ táng Đông
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Qua những chiếc trống đồng nổi tiếng như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa… có
thể nhận biết phần nào tư duy khoa học cũng như tư duy mhọc của con người thời
kỳ này. Nghệ thuật Đông Sơn do người Đông Sơn tạo ra. Trống đồng Đông Sơn biểu
hiện tập trung phong cách nghệ thuật Đông Sơn. Với phong cách độc đáo, người
Đông Sơn khắc họa thu nhỏ xã hội Văn Lang với những ngôi nhà sàn, những đoàn
người nhảy múa với các nhạc khí trong tay trên mặt trống đồng, những con thuyền
với những người cầm khí trên tang trống, các hình chim, hình hươu…Đây không
chỉ sự ghi chép hiện thực đơn thuần mà còn biểu hiện duy của người Việt lúc
bấy giờ.
Nền văn minh Văn Lang với biểu tượng trống đồng Đông Sơn thực chất là nền
văn minh nông nghiệp lúa nước dựa trên nền tảng xóm làng bền chặt và một cơ cấu
chính trị nhà nước khai. Nền văn minh Văn Lang không những đã vươn tới một
trình độ phát triển khá cao còn xác lập được một lối sống dân tộc, đặt sở vững
vàng cho toàn bộ sự tồn tại và phát triển của quốc gia dân tộc sau này.
Văn minh Văn Lang cốt lõi của văn hóa Việt Nam, cội nguồn trực tiếp
của văn minh Đại Việt. Một phong cách, một bản sắc văn hóa Việt Nam đã hình
thành từ cái nôi Đông Sơn và trải dài trong suốt những chặng đường đi lên của dân
tộc.
2.2. Văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ thời Bắc thuộc
a. Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán:
Tiếp xúc và giao thoa văn hoá là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài bởi dân tộc
chủ thể. Nhìn phương diện thái độ của dân tộc chủ thể, stiếp nhận các yếu tố
ngoại sinh cũng hai dạng thể hiện: một tự nguyện tiếp nhận; hai bị cưỡng
bức tiếp nhận.
Tiếp xúc văn hoá ỡng bức sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài trong hoàn
cảnh dân tộc chủ thể bị đô hộ. Sự giao lưu, tiếp biến văn hoá không diễn ra một cách
tự nhiên bộ máy cai trcủa người nước ngoài thực hiện chính sách đồng hoá, tiêu
diệt văn hoá của dân bản địa, bắt buộc dân bản địa phải tiếp thu văn hoá ngoại
lai.
lOMoARcPSD| 61464806
Chính sách Hán hóa: Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người
Việt, giai cấp thống trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt
trên mọi phương diện. lĩnh vực chính trị - hội, chính quyền Hán cho di thực
mô hình tổ chức chính trị sinh hoạt xã hội Trung Hoa sang đất Việt. Chính quyền
trung ương của An Dương Vương bị xóa bỏ, Âu Lạc bị chia thành các châu, quận,
huyện, theo hệ thống hành chính địa phương Trung Quốc. Từ một quốc gia độc
lập, Việt Nam trở thành một địa phương của Trung Quốc. Chính quyền Hán thiết lập
một cấu hội, một bộ máy quan lại, một thể chế chính trị, xây dựng hthống
quân đội áp đặt hệ thống luật pháp để thống trị nhân dân Việt Nam, tiến hành thu
cống phẩm, bắt lao dịch bóc lột vkinh tế. Trên phương diện văn hóa, chính
quyền Hán sử dụng văn hóa Hán như một công cụ xâm lược quan trọng. Chúng bắt
nhân dân Âu Lạc theo một phương thức canh tác, một phong tục tập quán giống n
Trung Hoa. Người Hán di từ phương Bắc tới sống lẫn với người Việt. Người Việt
phải làm theo người Hán về nhiều phương diện: ăn mặc, học tập, làm ruộng, tổ chức
xã hội… lĩnh vực tư tưởng và tôn giáo, các học thuyết, các tôn giáo từ Trung Hoa
du nhập vào đất Việt như: Đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão Trang. Chính quyền Hán
dùng Nho giáo như một công cụ dịch đồng hóa người Việt, áp dụng Tam cương
Ngũ thường vào phong tục tập quán người Việt nhằm y dựng một hệ tưởng mới
ở đất Việt. Để thúc đẩy quá trình đồng hóa văn hóa, giai cấp thống trị Hán cho di cư
ồ ạt người Hán sang đất Việt, gồm quan lại dân nghèo người Hán. Chúng khuyến
khích nhóm người này lấy vợ Việt, sinh con trên đất Việt thịnh hành một bộ phận
gọi “dân lưu” Việt Nam nhằm thực hiện chủ trương thực dân theo nghĩa
bóng lẫn nghĩa đen.
Sự giao lưu văn hóa cưỡng bức: Có thể nói, dưới thời Bắc thuộc, nhân dân Âu
Lạc đã phải chấp nhận một cuộc giao u cưỡng bức vô cùng nghiệt ngã với nền văn
hóa Hán, một nền văn hóa Hán năng lực đồng hóa rất cao, đã từng đồng hóa cả
một cộng đồng Bách Việt rộng lớn từ phía Nam sông Dương Tử trải dài về Nam cho
đến núi Ngũ Lĩnh. Sự tiếp xúc cưỡng bức giao thoa văn hóa Việt – Hán để lại dấu
ấn trong nhiều lĩnh vực như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ
xã hội, chữ viết, tiếng nói… Chữ Hán và Nho giáo trở thành nội dung học tập trong
trường học do người Hán lập ra. Số ít nho người Việt được đào tạo sau này ra làm
quan Giao Chỉ cả Trung Quốc như Tiến, Cầm, Khương Công Phụ. Nho
giáo được truyền vào Việt Nam nhưng chỉ tầng lớp hội trên tiếp nhận, chưa có
lOMoARcPSD| 61464806
điều kiện để đi vào xã hội truyền thống người Việt. Cùng với chính sách đồng hóa
văn hóa bằng hình thức cưỡng bức, văn hóa Hán còn được truyền vào đất Việt
bằng phương thức giáo hóa và tự nguyện.
Bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa của người Việt, làm
biến đổi mọi thứ áp đặt trong văn hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt. Người
Việt bmất nước nhưng vẫn còn làng để bảo tồn giữ gìn những giá trị văn hóa
truyền thống của mình. Để tồn tại, người Việt đã phải liên tục tiến hành các cuộc đấu
tranh vũ trang giành độc lập và ra sức bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc.
b. Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn:
Giao lưu văn hoá tự nhiên là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài trong hoàn
cảnh tự nhiên, không sự bắt buộc, không phải stiếp nhận văn hoá của kẻ
thống trị
Văn hóa phương Nam tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du
nhập vào Việt Nam. Trước khi văn hóa Ấn Độ tràn vào, văn hóa Việt đã định hình
và phát triển từ thời văn hóa Văn Lang – Âu Lạc. Người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn
Độ vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Những thế kỷ đầu công nguyên, châu thổ Bắc Bộ là
địa bàn trung chuyển của văn hóa Ấn Độ, nhất tôn giáo. Các nhà sư từ Ấn Độ đi
qua Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh) để rồi tìm đường lên phương Bắc
và các nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ tìm kinh cũng qua Luy Lâu, coi đây là trạm
dừng chân. Người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong bối cảnh bị người Hán đô hộ
đồng hóa về văn hóa, một mặt người Việt vừa tiếp nhận văn hóa Hán, một mặt
chống lại Hán hóa và đối phó với chính trị. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
chỉ diễn ra trong tầng lớp dân chúng nhưng sức phát triển rất lớn. Đạo Phật từ Ấn
Độ được truyền sang Việt Nam tbuổi đầu công nguyên, do các tăng thương
gia Ấn Độ đến Việt Nam bằng đường biển. Chính Đạo Phật được truyền bá vào Việt
Nam từ Ấn Độ trước tiên nên trong ngôn ngữ Việt Nam đã xuất hiện tiếng “Bụt”
là do phiên âm tiếng Bouddha. Giao Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông
Nam Á. Người Việt thích ứng tiếp biến đạo Phật một cách dung dị vào tầng
văn hóa bản địa, bởi đạo Phật vốn có tinh thần bình đẳng và bác ái, chủ trương dân
chủ, không đẳng cấp. Trong xu hướng giao lưu tự nguyện lúc bấy giờ, người Việt đã
tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ, sử dụng làm ngọn cờ giải
phóng dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng. Trong qtrình phát triển, đạo Phật chia
lOMoARcPSD| 61464806
thành 2 phái: phái Tiểu thừa (Hynayana) phái Đại thừa (Mahayana). Phái Tiểu
thừa phát triển xuống phía Nam như Thái Lan, Campuchia, Đông Nam Á nên gọi là
Nam Tông. Phái Đại Thừa phát triển lên phương Bắc như Trung Hoa, Triều Tiên,
Nhật Bản nên gọi Bắc Tông. Đạo Phật được truyền vào Việt Nam ban đầu Tiểu
thừa – Nam Tông. Sau này, khi các thiền sư Trung Hoa sang truyền đạo Phật ở Việt
Nam lại mang màu sắc Đại thừa, rồi dần dần xu hướng Đại thừa là chyếu. Đạo
Phật khi được truyền vào Việt Nam thì tín ngưỡng của dân bản địa đa thần giáo
(thờ thần) nên khi vào đất Việt, Phật giáo cũng phải biến hóa cho phù hợp với phong
tục tập quán của cư dân bản địa và hòa nhập với tín ngưỡng dân gian bản địa, được
người Việt tiếp thu dễ dàng như “nước thấm vào lòng đất”. Thuyết “Nhân quả”,
“Nghiệp báo”, “Luân hồi” của đạo Phật cũng phù hợp với quan niệm dân gian của
người Việt.
Trong thời kỳ này, một số thương gia, tăng Ấn Độ đã đến đất Việt bằng
đường biển đường sông. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn a vật chất,
ngôn ngữ tinh thần Ấn Độ trong đó đạo Phật. Chẳng hạn một số từ chỉ cây
trồng (như mít, lài…), từ về Phật giáo(như Bụt, bồ đề, bồ tát, phù đồ, chùa, tháp,
tăng già…) được người Việt tiếp thu để làm phong phú vốn tiếng Việt của mình. Hay
về truyện kể dân gian, người Việt đã tiếp thu nguồn ảnh hưởng từ truyện cổ Ấn Độ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong phần “Thử tìm nguồn gốc truyện cổ tích
Việt Nam” [Kho tàng truyện cổ ch Việt Nam, Tập 5, Nguyễn Đổng Chi], nhấn
mạnh vào hai nguồn du nhập từ Ấn Độ Trung Quốc. Nguồn du nhập từ Ấn Độ
qua con đường tôn giáo giao lưu thương mại. Theo Nguyễn Đổng Chi, đối với
Ấn Độ: “Kho tàng của ta thường tiếp thu ở họ hầu hết là những truyện cổ tích thuộc
tiểu loại thần kỳ. Nhiều truyện của ta nếu không mặt trong sách Panchatantra,
một sưu tập những truyện giáo huấn khá phổ biến do Vinu Xacman biên soạn, thì
cũng mặt trong các bộ kinh Tam Tạng, Đại Tạng…” [Nguyễn Đổng Chi, Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam, T5; 504]. Bởi vậy, trong truyện kể dân gian Việt Nam
cũng có những type (kiểu truyện) motif tương đồng với truyện dân gian Ấn Độ.
Chẳng hạn, motif “Bọc trăm trứng” nở ra 100 người con trai trong truyện Lạc Long
Quân Âu của Việt Nam giống với motif “cục thịt” của Gadhari sinh ra 100
con trai trong sử thi Mahadharata của Ấn Độ. Nhiều truyện kể dân gian Ấn Độ mang
những yếu tố Phật thoại khi thâm nhập vào Việt Nam thì các phần giáo lý mờ nhạt
đi, còn những yếu tố dân gian lại chuyển hóa mang sắc thái Việt. Một số truyện ngụ
lOMoARcPSD| 61464806
ngôn (Thày bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo…), truyền thuyết (Truyện Man Nương),
truyện cổ tích (Cây nêu ngày tết) của Việt Nam có những motif (tình tiết) giống với
truyện của Ấn Độ. Nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Đặng Đức Siêu
cũng nhận xét rằng: “có sự hiện diện của nhiều tinh hoa văn hóa Ấn Độ cổ đại như:
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, bài thuốc, vị thuốc, món ăn, cách
ươm trồng hoa trái…” trong văn hóa Việt thời Bắc thuộc.
Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc:
Chính quyền phương Bắc thi hành những chính sách văn a dịch với ý
đồ Hán hóa dân tộc Việt Nam. Để tồn tại, người Việt một mặt liên tục tiến hành các
cuộc đấu tranh trang giành độc lập, một mặt ra sức bảo tồn, phát triển nền văn
hóa dân tộc. Một quá trình đề kháng văn hóa dai dẳng và quyết liệt truyền đời. Từ
trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn phát huy vốn liếng
văn hóa bản địa đã tích lũy được qua hàng nghìn năm trước, đồng thời “không chối
từ” việc tiếp thu, tiếp nhận, thâu hóa và làm chủ những ảnh hưởng ngoại lai.
Trên sở một vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, người Việt đã biết biến
những của cải đi vay thành tài sản của dân tộc, biết tiếp thu có chọn lọc những nhân
tố văn hóa ngoại lai sáng tạo để làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, tăng
thêm tiềm lực cho mọi mặt của đất nước.
Về mặt văn hóa vật chất, người Việt đã tiếp thu kỹ thuật làm giấy của trung
Quốc để khai thác nguyên liệu của địa phương, chế biến những loại giấy tốt như giấy
trầm hương; người Việt tiếp thu ảnh hưởng của kỹ thuật gốm sứ Trung Quốc để sản
xuất ra những mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện đầu
voi, bình gốm có nạm hạt đá ở cổ…; người Việt tiếp thu ảnh hưởng của nghề dệt để
sản xuất được lụa nhiều loại vải chất lượng tốt; người Việt tiếp thu một số
giống cây trồng mới (kê, cao lương, một số loại đậu…), tiếp thu kỹ thuật nông nghiệp
mới như kỹ thuật bón phân bắc của người Trung Quốc, phát triển giống cây trồng
nhằm đa canh hóa mở rộng lúa hai vụ, sử dụng guồng nước làm thủy lợi, dùng
lối giã gạo bằng cối đạp thay cho giã gạo bằng chày tay; kỹ thuật dựng nhà: ng
nhà đất bằng thay cho nhà sàn…Trong nghề dệt, người Việt đã sản xuất được lụa,
vải bông, vải cát bá, vải chuối, vải bạch diệp… không chỉ dùng mà còn bán cho
người Trung Quốc.
Về văn hóa tinh thần:
lOMoARcPSD| 61464806
+ Trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, một thành tựu quan trọng của n
Việt là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc, đồng thời đã hấp thu ảnh hưởng của
ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, tiếp thu nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán về mặt
ngữ âm thanh điệu, tiếp thu nhiều tngữ gốc Hán để sáng tạo lớp từ Hán – Việt.
Tiếng Việt không bị mất đi mà còn được giầu có và hoàn thiện về mặt âm tiết, chữ
Nôm của người Việt ra đời trên cơ sở tiếp thu chữ viết của người Hán.
+ Nền phong hóa riêng của người Việt đã được xác lập từ thời Hùng Vương
nay phải đối đầu với những áp chế và ảnh hưởng của n hóa Hán. Vốn văn hóa dân
tộc vẫn được gìn giữ phát triển, ví dụ như giữ gìn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ
thần linh, tôn trọng phụ nữ, phong tục cưới xin, ma chay, lễ hội, các tục lệ như búi
tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu…
+ Tinh thần trọng Mẫu tôn trọng phụ nữ tthời Văn Lang Âu Lạc sản
phẩm văn hóa tinh thần của người Việt trong mối quan hệ với tự nhiên và hội mà
nền tảng của nó là phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước. Tinh thần tôn trọng
phụ nữ còn in đậm trong nhân dân cả khi đã chuyển sang chế độ phụ quyền như
những câu tục ngữ lệnh ông không bằng cồng ”, nhất vợ nhì giời”. Tinh thần
trọng Mẫu y vẫn được vun đắp trong suốt thời kBắc thuộc cả chiều i lịch sử.
tưởng nam tôn nữ ty của chế độ phụ quyền từ trung Hoa truyền vào Việt Nam đã
không được người dân hưởng ứng mà trong n gian đã lưu truyền tục thờ Mẫu, điển
hình tôn thờ các Nữ thần, các Mẫu. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình
ngoài xã hội vẫn luôn được đề cao.
Ngôi chùa được xây dựng vào loại sớm nhất trên đất Việt chùa Pháp n
(Thuận Thành, Bắc Ninh); chùa mang tên Dâu (Phật Mẫu Man Nương quê
vùng Dâu), trong chùa, tượng Bà Dâu to hơn mọi tượng Phật.
+ Người Việt đã tiếp thu một số thành tựu của văn hóa ngoại lai trong nhiều
lĩnh vực, vềâm nhạc bên cạnh trống, khèn, cồng chiêng đã tiếp thu một số nhạc cụ
của Trung Quốc như chuông, khánh, của Ấn Độ như trống cơm, của Trung Á là hồ
cầm; trong kiến trúc và điêu khắc đã tiếp thu kiến trúc cổ Trung Hoa, điêu khắc
tượng tròn của Ấn Độ; về tôn giáo đã tiếp thu những ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo để làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng của mình.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, GS. Trần Văn Giàu nhận định: “Bị đô hộ hàng
mươi thế kỷ bởi một nước có nền văn hóa cao hơn với số dân đông hơn gấp bội mà
lOMoARcPSD| 61464806
sau mấy ngàn năm “ta vẫn ta”, hẳn không phải những mũi tên nhọn hơn, bắp
thịt cứng hơn chủ yếu nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của
riêng nh, chứ văn hóa chỉ lấy sức đsức, lấy số đọ số tdân Việt Nam, nước Việt
Nam chỉ còn là đối tượng của khảo cổ học”.
2.3. Văn hóa Việt Nam thời tự chủ (từ năm 938 đến năm 1858)
Văn hóa Việt Nam thời tự chủ ba lần phục hưng văn hóa dân tộc: lần thứ
nhất vào thời Trần (thế kỷ XI – XIV), lần thứ hai vào thời Hậu (thế kỷ XV),
lần thứ ba vào thời Tây Sơn (Cuối thế kỷ XVIII). 2.3.1. Đặc trưng văn hóa thời Lý
– Trần
a. Về đời sống chính trị - kinh tế:
Quyết định dời đô của Công Uẩn một việc vô cùng quan trọng và ý nghĩa
to lớn.Kinh đôHoa (Ninh Bình) thời được dời về mảnh đất Thăng Long (Rồng
bay). Thời Lý đã xây dựng một nền chính trị ổn định, kinh tế phồn thịnh và văn hóa
được phục hưng, phát triển rực rỡ với trung tâm kinh thành thăng Long. Quốc
hiệu Đại Việt ra đời gắn với nền văn minh Đại Việt. Nhà Lý xây dựng hệ thống nhà
nước chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương với các lộ, phủ (hoặc chấn, đạo, châu
- tùy địa bàn dân hay địa lý). Đến đời Nhân Tông, cả nước Đại Việt có 24 phủ
- lộ, dưới phủ là huyện, hương. Hệ thống quan lại giúp vua cai quản đất nước, dựng
nghiệp triều hai loại: Đại thần tăng quan (các ntu hành đạo Phật như
quốc sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ). Đến đời Trần, vương triều
đã được thiết lập một cách chính quy, tạo ra quy củ cho việc trị nước yên dân phát
triển kinh tế, giáo dục. Chính ch đối ngoại của các vương triều vừa mềm mỏng,
khôn khéo vừa kiên quyết, chẳng hạn như với Trung Quốc (chịu sắc phong, chịu
cống phẩm, bảo vlãnh thổ) với Champa (bảo vệ biên giới, thảo phạt phương
Nam để giữ yên bờ cõi).
Về kinh tế:
+ Nông nghiệp: Các vua mở mang phát triển nông nghiệp, coi trọng lao
động nông nghiệp (chính sách khuyến nông, ruộng đất); xây dựng một số ng trình
thủy lợi (đào ng Đản Nãi, đào kênh Lam, khơi sông Lịch). Thời Trần đẩy mạnh
tổ chức đắp đê trị thủy. Đời sống của dân cư tương đối ổn định.
lOMoARcPSD| 61464806
+ Các nghề thủ công rất phát triển thời như nghề dệt, gốm, mỹ
nghệ…Thời Trần phát triển những làng nghề, phường thủ công, phố chợ - phố nghề
Thăng Long.
Thăng Long thời - Trần được chia làm hai phần: Hoàng thành Kinh
thành. Phần Kinh thành nằm phía đông bên ngoài Hoàng thành ra đến sát sông
Hồng. Nội thành của Thăng Long gồm 61 phường nhưng Thăng Long cũng như các
thành thị phương Đông đều mối liên hệ mật thiết giữa bphận ng thương
nghiệp bộ phận nông nghiệp của những xóm làng nông nghiệp xung quanh.
Những nghề thủ công tập trung nhiều nhất khu Đông Tây thành Thăng Long.
Thời Lý, một số xưởng thủ công của Nhà nước cũng đã xuất hiện như xưởng đúc
tiền, đóng thuyền, làm vũ khí, xe kiệu của vua quan...
b. Về văn hóa vật chất:
+ Nghệ thuật kiến trúc thời Trần: nhiều công trình kiến trúc được xây
dựng như các kinh thành: kinh thành Thăng Long, cung Tức Mặc (Nam Định), thành
Tây Đô (Thanh Hóa) gồm hệ thống cung điện, thành lũy, chùa chiền, đền miếu; h
thống chùa, đền, tháp được xây dựng nhiều nơi. Đặc điểm của kiến trúc thời
Trần là ở quy mô to lớn. Thành Thăng Long thời Lý là thành lũy lớn gồm hai vòng
thành, dài 25 km, trong Hoàng thành có cung điện cao 4 tầng. Thành Tây Đô (Vĩnh
Lộc, Thanh Hóa) được xây dựng vào cuối thời Trần, một công trình đồ sộ ghép
bằng những khối đá lớn. Hai khu di tích này đều được UNESCO công nhận di sản
văn hóa thế giới.
Các ngôi chùa thời - Trần cũng kiến trúc độc đáo với quy khá lớn.
Nền chùa Giạm (Quế Võ, Bắc Ninh) có diện tích lớn, chiều dài 120 mét; tháp nhiều
tầng như tháp Báo Thiên Thăng Long 12 tầng; tháp Sùng Thiện Diên Linh
Chùa Đọi (Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng; tháp Phổ Minh cao 14 tầng; tháp bình
Sơn (Vĩnh Phúc) cao 11 tầng; những chùa nhỏ nhưng kiến trúc độc đáo
như chùa Một Cột ở Thăng Long với cách tạo dáng như một bông sen từ dưới nước
vươn lên trên mặt hồ.
+ Điêu khắc thời Trần: nổi tiếng với những tác phẩm tượng thần, Phật,
tiên, thánh, vật linh (rồng, voi, trâu, tử, sấu…); đặc biệt con rồng thời
một hình tượng độc đáo và phổ biến (mình dài, uốn lượn nhiều khúc uyển chuyển,
với những thành phần cấu tạo tượng trưng cho mây nước, biểu tượng cho niềm mong
lOMoARcPSD| 61464806
ước của dân nông nghiệp, một số nhà nghiên cứu mỹ thuật gọi kiểu "rồng
giun"). Hình tượng con rồng thời Trần mạnh mẽ, uy nghiêm với cặp sừng phần
trau chuốt hơn.
Ngoài ra thời Lý – Trần còn có 4 công trình đúc đồng rất lớn là tứ đại khí Việt
Nam: chuông Quy Điền, đỉnh o Thiên, vạc PhMinh tượng Phật Di Lặc chùa
Quỳnh Lâm (xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
An Nam tứ đại kbốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo của đất nước Đại Việt
thời Lý, Trần bao gồm: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng chùa Quỳnh Lâm
vạc Phổ Minh. Mặc những vật quốc bảo song khi rơi vào tay giặc, tứ đại k
cái bị cướp, cái bị phá đi không còn hình dáng ban đầu.
c. Văn hóa tinh thần -
Hệ tư tưởng:
+ Đặc trưng nổi bật trong đời sống tinh thần thời Lý – Trần là sự dung hòa tam
giáo (Nho Đạo Phật), còn gọi là chính sách tam giáo đồng nguyên sng
thịnh của Phật giáo.
+ Nho giáo thời kỳ này chưa mạnh nhưng bắt đầu có ảnh hưởng trong xã hội,
tác động mạnh đến giáo dục phát triển. Các triều đại Lý – Trần cần đến Nho giáo để
xây dựng chế độ trung ương tập quyền. Để đào tạo nhân tài tuyển lựa quan lại
cho bộ máy hành chính, nhà bắt đầu chăm lo việc học tập thi cử. Năm 1070,
nhà xây dựng n Miếu nơi thờ đạo Nho; năm 1076 mở Quốc Tử Giám, tổ
chức thi Nho học từ năm 1075.
- Nền văn hóa dân gian:
Sau khi nước ngiành được độc lập thống nhất thì nhiều giá trị của nền
văn hóa dân tộc được phục hồi phát triển. Những truyền thuyết về người anh hùng
dân tộc được bảo lưu và bổ sung những yếu tố mới có tính thời cuộc (chi tiết các vị
thần hiển linh, âm phù cho các triều đại chiến thắng giặc ngoại xâm); những cuộc
diễn xướng hội Đền Hùng, Hội Dô, Hội Gióng, Hội Hoa Lư…; xuất hiện nhiều
truyền thuyết về các anh hùng dân tộc, về các nhân vật kiệt xuất gắn với các triều
đại: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Phạm
Ngũ Lão, Nguyên Phi Lan, Từ Đạo Hạnh, Minh Không…; những truyện cổ tích
phản ánh mâu thuẫn giữa địa chủ nông dân, phản ánh thân phận con người nhất
là thân phận người phụ nữ ngày càng xuất hiện nhiều (Cây tre trăm đốt, Kéo cày giả
lOMoARcPSD| 61464806
nợ, Hòn Vọng phu, Người thiếu phụ Nam Xương, Truyện chàng Trương Chi…).
Các thể loại tục ngữ, ca dao, dân ca cũng nảy nở phát triển; các loại hình chèo,
rối nước, múa hát cung đình, các loại dân ca nghi lễ như hát xoan (Phú Thọ), hát Ải
Lao (Bắc Ninh), hát hội Dô (Hà Tây), hát múa Đông Anh (Thanh Hóa); dân ca nghề
nghiệp như hát phường vải, hát phường cấy, hát phường nón; các trò chơi dân gian…
đều được khôi phục phát triển; dân ca trữ tình như hát đối đáp nam nữ, dân ca
Quan họ, các lối hát như hát ví, hát đúm, hát ghẹo, hát lý, hát xẩm… lẽ cũng được
hình thành ở thời kỳ này.
- Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển:
Phật giáo và Giáo dục phát triển đã cung cấp cho nền văn hóa Đại Việt một đội
ngũ đông đảo các nhà văn, nhà thơ từ hai nguồn: trí thức Phật giáo trí thức Nho
giáo với những sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm.
-Các lĩnh vực luật pháp, shọc, y dược học, thiên văn, lịch pháp, binh pháp,
văn học dân gian... được quan tâm, có nhiều thành tựu đáng chú ý, xuất hiện các bộ
sách như: về luật pháp bộ Hình thư thời Lý, Quốc triều hình luật, Hình luật thư
thời Trần; về sử học có Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu…
- Ngành nghệ thuật sân khấu thời Trần khá phát triển. Các loại
hình như ca, múa, nhạc, chèo, tuồng, rối nước, xiếc, nhã nhạc cung đình… đã
định hình bản sắc dân tộc, làm nền tảng cho nền nghệ thuật biểu diễn của Việt
Nam.
2.3.2. Đặc trưng văn hóa thời Hậu Lê
(Sinh viên tự tìm hiểu)
2.3.3. Đặc trưng văn hóa thời Tây Sơn
(Sinh viên tự tìm hiểu)
2.4. Văn hóa Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp từ năm 1858 đến năm 1945
((thời kỳ Pháp thuộc và tiếp biến văn hóa phương Tây)
Đặc trưng văn hóa Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945 Giai
đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn:
- Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Pháp. -
Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.
a. Về hệ tư tưởng
lOMoARcPSD| 61464806
Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển
mình của hệ tư tưởng Việt Nam. Văn hóa Việt Nam thời kỳ này đã tồn tại với nhiều
hệ tưởng khác nhau, tác động lẫn nhau, hòa hợp lẫn nhau, tự biến dạng do khúc
xạ qua môi trường xã hội.
Các ý thức hệ tưởng xưa từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại căn bản
dựa trên cấu làng với những người nông dân trồng lúa nước. lịch sử bao
nhiêu biến động thì hệ tưởng của họ vẫn hệ tưởng thần thoại với một hệ
thống thần linh đa dạng.
b. Về văn hóa vật chất
- Sự khởi sắc của đô thị: Qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Việt Nam, giao thông, công nghiệp (kinh tế hàng hóa) cùng với đô thị cũng phát
triển. Tính chất của đô thị ở Việt Nam cũng dần biến đổi. Từ cuối thế kỷ XIX, Tính
chất là một trung tâm chính trị, văn hóa không còn bao trùm như trước, tính chất là
một trung tâm công thương nghiệp đã nét hơn. Đầu thế kỷ XX, Nội đã
một đô thị sầm uất, nhiều người buôn bán, tập trung các nhà máy, sở giao dịch,
trụ sở các công ty. Hải Phòng trở thành hải cảng lớn thứ hai Đông Dương. Sài Gòn
Chợ Lớn trở thành một đô thị của công nghiệp, thương nghiệp lớn miền Nam.
Cùng với Hà Nội, Sài Gòn, nhiều tỉnh lỵ trước đây chỉ là những đô thị hành chính,
nay thêm phần phố phường buôn bán nNam Định, Hải ơng, Hồng Gai, Huế,
Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…
- Về Kiến trúc :Đô thị - Thành phố phát triển kéo theo xây dựng các công trình
đô thị, phát triển kiến trúc đô thị. Kiến trúc cổ truyền phương Đông có sự hòa nhập
với kiến trúc phương Tây.
- Giao thông: Cùng với việc mở mang thành phố sự phát triển giao thông vận
tải. hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy đều được chú trọng xây
dựng.
- Văn hóa ăn: Sự phát triển đô thị, sự xuất hiện tầng lớp trung lưu sản
thành thị làm cho cuộc sống thành thị có sự thay đổi nhanh chóng. Thành phần ẩm
thực thêm nhiều món mới. nông thôn, cấu bữa ăn truyền thống vẫn gồm
những thành phần bản Cơm - Rau - (Thịt).. Còn các đô thị lớn như
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng… thêm những món ăn bổ sung từ thức ăn động vật như
các loại gia súc, gia cầm; những món ăn được chế biến từ bột và sản phẩm sữa
lOMoARcPSD| 61464806
như bánh mì, bơ, sữa, pho mát; các loại rau quả ôn đới như su hào, bắp cải, rốt,
khoai tây, nho, táo…; các món ăn chế biến theo kiểu Tây như thịt hộp, bít tết, súp,
trứng ốpla, xúc xích, patê, dăm bông…; cách thức ăn uống kiểu Tây như dùng thìa,
dĩa, dao, đĩa …và các loại thức uống Tây như bia, sâm banh, lave, phê, ca
cao…Thực đơn ẩm thực Việt trở nên phong phú hơn vì có thêm những món ăn tiếp
thu phương Tây này. Những từ "cơm Tây", "món ăn Tây" cũng dần trở nên quen
thuộc.
- Về văn hóa mặc: thành thị, văn minh phương Tây với lối âu phục của đàn
ôngnhư mặc comple, đội mũ cát, đi giày da, áo sơ mi, quần Tây, cà vạt thay thế cho
kiểu áo the đen, khăn đóng, mũ xếp truyền thống; còn phụ nữ cũng mặc "tân thời":
áo đầm, váy Tây, kiểu áo lơ muya, quần trắng dài cùng giày dép cao gót hay những
kiểu áo hở tay, hcổ thay cho lối mặc xưa với yếm lụa đào, quần lĩnh, áo the, đi
guốc mộc.
- Về nhà tiện nghi: nhà kiểu Tây, kiến trúc kiểu Tây với các tầng lầu,
công trình phụ khép kín, giường đệm, ban công và nhiều cửa sổ cao rộng xuất
hiện ngày một nhiều trong tầng lớp trung lưu giàu có.
- Về đời sống kinh tế: Trong sản xuất nông nghiệp có sự bổ sung về cây trồng,
kỹ thuật chăm bón, kỹ thuật khí…Nền nông nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận một
số cây trồng mới như một số rau quả ôn đới (su hào, bắp cải, khoai tây, cà rốt, hành
tây, tỏi tây…); cây công nghiệp như cao su, phê, canhkina; kỹ thuật chăm bón
như dùng loại phân tổng hợp; kỹ thuật khí như sử dụng máy móc khí
nông nghiệp máy bơm nước. Về công nghiệp, xuất hiện một số ngành công nghiệp
mới như công nghiệp khai khoáng (khai thác than đá, quặng mỏ), công nghiệp điện
lực, cơ khí, hóa chất, luyện kim, xi măng, công nghiệp nhẹ như sản xuất rượu cồn,
rượu bia, diêm, đường, thuốc lá, xà phòng, nhựa…
c. Về n hóa tinh thần - Báo
chí ra đời và phát triển:
- Về văn học nghệ thuật:
Văn học nghệ thuật đã thể hiện "bước chuyển mình" và đạt được những thành
tựu to lớn.
Văn học yêu nước vẫn giữ vai trò tiên phong trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược. Những thế hệ các nhà văn, nhà thơ yêu nước đã cống hiến cho văn

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61464806
NỘI DUNG ÔN TẬP HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
(Một số nội dung chính)
I – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1. Định nghĩa văn hóa
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vất chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình
” [Trần Ngọc Thêm,
Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999, tr 10].
1.2. Phân biệt các khái niệm văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật
a. Khái niệm Văn minh
Từ “Văn minh” có thể hiểu là “trình độ phát triển văn hóa luôn có bề dày của
quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh là một lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát
triển của văn hóa
ở từng giai đoạn. Nói đến văn minh, người ta nghĩ đến các tiện
nghi, khi văn hóa chứa cả giá trị vật chất và tinh thần thì văn minh chủ yếu lại thiên
về các giá trị vật chất. Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và
tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: văn hóa mang tính dân tộc; còn văn
minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại,
bởi lẽ nhu cầu sử dụng vật chất là rất lớn, xuyên quốc gia.
Như vậy, văn minh khác văn hóa ở 3 điểm: thứ nhất, trong khi văn hóa có bề
dày của quá khứ (Văn hóa do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội
loài người) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại (xuất hiện khi con người đã có
trình độ phát triển). Thứ hai, trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh
thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Thứ ba, trong khi văn hóa
mang tính dân tộc rõ rệt (như văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật
bản, văn hóa Hàn Quốc, văn hóa Nga, văn hóa Pháp…) thì văn minh mang tính quốc
tế (như nền văn minh tin học, văn minh kỹ thuật hậu công nghiệp...). Tuy nhiên, văn
hóa và văn minh đều do con người sáng tạo ra.
b. Khái niệm văn hiến và văn vật
- Theo Từ điển Tiếng Việt, “Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời”, còn
“văn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử”.
Bảng: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật (Theo Trần Ngọc Thêm) VĂN VẬT VĂN HIẾN VĂN HÓA VĂN MINH lOMoAR cPSD| 61464806
Thiên về giá trị Thiên về giá trị Chứa cả giá trị Thiên về giá trị vật chất tinh thần
vật chất lẫn tinh vật chất – kĩ thuật thần Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp Gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị
1.3. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
a. Tính hệ thống
Văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hóa là cả một hệ thống. Hệ
thống văn hóa là một tổ chức hữu cơ, gồm các yếu tố, các hiện tượng, các sự kiện
thuộc một nền văn hóa có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Tính hệ
thống ấy thể hiện ở cấu trúc của văn hóa: bao gồm văn hóa vật chất (văn hóa sản
xuất, văn hóa đời sống), văn hóa tinh thần (văn hóa tâm linh, văn hóa tri thức, văn
hóa nghệ thuật), văn hóa xã hội (văn hóa cộng đồng, văn hóa giao tiếp).
Do văn hóa có tính hệ thống cho nên nó bao trùm mọi hoạt động của xã hội,
thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Văn hóa là nền tảng của xã hội, cho nên
nó làm tăng thêm sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự ổn định xã hội, cung cấp cho xã
hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
b. Tính giá trị
Giá trị văn hóa là những gì tốt đẹp nhất của văn hóa mà con người ước muốn.
Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Từ đó cho phép phân biệt
văn hóa và phi văn hóa, phản văn hóa, phân biệt giá trị với phi giá trị (ví dụ: thiên
tai địch họa, lực lượng khủng bố, mafia).
Nhờ thường xuyên xem xét, điều chỉnh, nhìn nhận từ thực tế các giá trị mà văn
hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện
và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực,
làm động lực cho sự phát triển xã hội. lOMoAR cPSD| 61464806
c. Tính nhân sinh
Văn hóa là hiện tượng xã hội, là thành tựu của con người, do con người sáng
tạo ra, phục vụ lợi ích của con người. Văn hóa có những giá trị xã hội ( do nhân tạo
như trên) khác với các giá trị tự nhiên (do thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được
biến đổi bởi con người. Ví dụ như việc dùng lửa để nấu chín thức ăn, việc dùng
nguyên liệu có trong tự nhiên để chế biến thành các món ăn, việc dùng nguyên liệu
gỗ, đá… có trong tự nhiên để chế tác thành những tác phẩm nghệ thuật (bức tượng,
đồ dùng), việc gắn những hiện tượng tự nhiên vào những truyền thuyết, truyện cổ
tích v.v… là những sáng tạo văn hóa mà chủ thể sáng tạo là con người.
Văn hóa phải phục vụ lợi ích của con người, vì những mục đích tốt đẹp, gắn
với sự phát triển xã hội.
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây liên kết con người với nhau,
văn hóa gắn liền với hoạt động của con người trong xã hội. Do đó nó thực hiện chức
năng giao tiếp
giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. d. Tính lịch sử
Văn hóa được truyền từ đời này qua đời khác. Một nền văn hóa được hình
thành qua nhiều thế hệ vốn có tính bền vững và lâu dài. Văn hóa là sự tích tụ hàng
ngàn năm lịch sử. Tính lịch sử tạo nên một nền văn hóa có bề dày và chiều sâu, nó
buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại, phân bổ lại các giá
trị, bồi đắp thêm những cái mới hoặc loại trừ những cái cũ đã lỗi thời để kết tinh nên
nền văn hóa truyền thống.
Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng
quan trọng thứ tư của văn hóa
II- DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc)
Chủ nhân của văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam là người Việt cổ, gồm hai thành
phần là Lạc Việt và Âu Việt. Văn hoá Đông Sơn tồn tại từ sơ kỳ đồng thau đến sơ
kỳ sắt, khoảng thiên niên kỷ I trước công nguyên.
Nền văn hóa này tồn tại ở cả miền núi, đồng bằng và ven biển phía bắc và
Trung Bộ Việt Nam. Văn hóa Đông Sơn tập trung ở lưu vực ba con sông lớn là sông
Hồng, sông Mã, sông Cả, với các loại hình di chỉ, di tích khảo cổ học (nơi cư trú, lOMoAR cPSD| 61464806
mộ táng, công xưởng) đã minh chứng cho một nền văn hóa khá cao và một nền văn
minh nông nghiệp – văn minh sông Hồng rực rỡ.
* Về Tổ chức Nhà nước:
Nhà nước Văn Lang xuất hiện là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài
của nền văn minh sông Hồng từ hàng ngàn năm trước.
Từ buổi đầu thời đại đồng thau, cách ngày nay bốn ngàn năm, nghĩa là vào
khoảng từ hai ngàn năm trước Công nguyên, những bộ lạc Việt đã định cư chắc chắn
ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Do nhu cầu trị thủy, do nhu cầu chống ngoại xâm và do
việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, giữa các bộ lạc sinh sống gần nhau
đã có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt có bộ lạc
Văn Lang là hùng mạnh hơn cả. Vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên, các
nhóm bộ lạc liên kết thành một quốc gia: nước Văn Lang. Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang
là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang, tự
xưng là Hùng Vương. (Xem thêm truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương).
Các nền văn hoá bộ lạc hoà chung vào một văn hoá thống nhất – văn hoá Đông
Sơn. Do vậy, văn hoá Đông Sơn còn gọi là văn minh Văn Lang. Địa bàn của quốc
gia Văn Lang, tính thống nhất văn hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn, từ biên
giới Việt – Trung cho đến Quảng Bình. Kinh đô của quốc gia Văn Lang đặt ở Phong
Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
- Đứng đầu bộ máy chính trị của quốc gia Văn Lang là vua Hùng. Ngôi vua
được truyền nối tới 18 đời. Vua là người đứng đầu tổ chức nhà nước về mặt chính
trị, đồng thời là người chỉ huy quân sự và chủ trì các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng.
Dân chúng tin vua là người gần gũi với thần linh.
Nước Văn Lang của các vua Hùng được chia làm 15 bộ, vốn là 15 liên minh
bộ lạc tập hợp lại với nhau. Giúp việc cho vua ở kinh đô có các lạc hầu – là những
quan lại lớn nhỏ hợp thành triều đình ở trung ương. Đứng đầu mỗi bộ lạc là chức lạc
tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn, tức kẻ, chạ, chiềng. Mặc dù còn sơ khai,
nhưng nhà nước thời Hùng Vương cũng đã có quân đội và luật pháp.
Tổ chức xã hội thời Hùng Vương bao gồm một kết cấu từ Gia đình – Dòng
tộc – Làng đến Nước. lOMoAR cPSD| 61464806
Thời kỳ Hùng Vương phản ánh quá trình chuyển dần từ chế độ mẫu hệ sang
chế độ phụ hệ, xác lập chế độ phụ hệ, mặc dù vẫn còn tàn dư của chế độ mẫu hệ.
Các tiểu gia đình đã định hình rõ ràng và trở thành đơn vị kinh tế, tế bào xã hội. Với
sự xuất hiện các tiểu gia đình, quan hệ huyết thống không còn chặt chẽ, công xã thị
tộc dần tan rã đem đến sự ra đời của công xã nông thôn.
Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số gia đình sống tụ cư trong một vùng
địa lý. Trong công xã, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn bên cạnh quan hệ láng
giềng. Toàn bộ đất đai, sông ngòi, hồ ao… đều thuộc quyền quản lý sở hữu của công
xã. Ruộng đất cấy cày được phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng. Xã hội
đã có sự phân hóa nhất định.
Thời kỳ này nền sản xuất phát triển mạnh mẽ, có đủ các điều kiện xuất hiện
sản phẩm thừa và kéo theo nó là sự phân hóa thân phận con người và cho đến giai
đoạn cuối đã tồn tại ba tầng lớp xã hội:
Tầng lớp quý tộc: Bao gồm những người trong bộ máy thống trị, vốn là những
quý tộc bộ lạc, lợi dụng địa vị và quyền hạn của mình để chiếm sản phẩm thặng dư
và sử dụng nó để bóc lột người sản xuất.
Tầng lớp nô lệ: Tầng lớp này có địa vị thấp nhất, làm nô lệ trong các gia đình quý tộc.
Thành viên công xã: Họ là những người tự do, là tầng lớp đông đảo nhất trong
xã hội, được công xã phân phối ruộng đất và tham gia vào công việc sản xuất chung
trên ruộng đất của tập thể.
Như vây, có thể thấy, xã hội Hùng Vương đã hình thành hai tầng lớp cơ bản:
tầng lớp thống trị và tầng lớp bị thống trị. Mâu thuẫn giữa hai tầng lớp xuất hiện, và
tư tưởng giai cấp hình thành, chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của nhà nước đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam. Bằng những tài liệu khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học,
sử học, nhân chủng học… cho chúng ta thấy, thời đại Hùng Vương đã xuất hiện trên
đất nước Việt Nam một nền văn hóa khá cao, một nền văn minh nông nghiệp rực rỡ
- văn minh nông nghiệp sông Hồng.
* Về Văn hoá vật chất:
- Phát triển nông nghiệp: Cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp
trồng lúa. Một số sách cổ của Trung Quốc như Thủy Kinh chú, Giao Châu ngoại vực
ký… đã ghi chép về nghề nông trồng lúa của người Việt ở giai đoạn này. Người Việt lOMoAR cPSD| 61464806
đã biết canh tác trên nhiều loại đất khác nhau, có hai hình thức canh tác chính là làm
rẫy và làm ruộng, phổ biến là ruộng lạc (ruộng nước). Cây trồng chủ yếu là lúa tẻ và
lúa nếp. Họ đã có kỹ thuật trị thuỷ như đắp đê chống lụt, đắp mương phai, làm thuỷ
lợi để đưa nước vào ruộng. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đa
dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước
nhảy vọt trong kỹ thuật canh tác. Thời kỳ này đã phổ biến dùng cày trong nông
nghiệp thay cho cuốc trước đây. Người ta đã tìm thấy 4 kiểu lưỡi cày đồng, có loại
có kích thước lớn để dùng sức kéo trâu bò. Những tài liệu khảo cổ học cho ta thấy,
việc chăn nuôi trâu bò đã phát triển, họ biết sử dụng trâu bò cày kéo. Trên trống
đồng còn để lại những hoa văn khắc hình bò, trong một số di chỉ khảo cổ học còn
tìm thấy hiện vật tượng đầu gà. Ngoài cây lương thực chính là lúa, cư dân Đông Sơn
còn biết trồng các loại cây lấy củ, quả, trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông lấy sợi…
Mở rộng hình thức sinh tồn: Bên cạnh nghề trồng lúa, cư dân Đông Sơn còn
chăn nuôi gia súc, gia cầm, đóng thuyền đánh cá, săn bắt, hái lượm. Các hình con cá
và hình thuyền trên hoa văn trống đồng Đông Sơn phản ánh nghề kiếm cá của cư
dân Đông Sơn, sinh sống trên địa bàn gần sông nước. Tập quán sinh hoạt kiếm ăn ở
dưới nước cũng là tập quán của người Lạc Việt khi mở rộng địa bàn sinh sống xuống miền đồng bằng.
- Thủ công nghiệp đã hình thành với các nghề như nghề dệt, nghề gốm, nghề
mộc, nghề đan lát, chế tạo thuỷ tinh, nghề sơn, nghề chế tác đá, nghề luyện kim –
rèn, đúc kim loại (đồng, sắt)…Trong thủ công nghiệp, nghề luyện kim và đúc đồng
phát triển rực rỡ. Kỹ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kỳ này. Số lượng
và loại hình công cụ, vũ khí, nhạc khí bằng đồng tăng rất đáng kể. Cư dân Đông Sơn
đã đúc được các loại hình nông cụ khá đa dạng như: cuốc, xẻng, mai, thuổng, lưỡi
cày, dao hái, rìu … bằng kim loại đã tạo nên một bước tiến quan trọng trong kỹ thuật
canh tác. Cư dân Đông Sơn đúc được mũi giáo, mũi lao, kiếm, rìu dùng cho chiến
đấu; đúc được chuông, khèn, tượng người, tượng thú để đáp ứng cho sinh hoạt văn
hoá; đặc biệt họ đã đúc được một loại nhạc khí lớn đòi hỏi trình độ kỹ thuật khá
phức tạp là trống đồng với kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú - biểu tượng
của văn hóa dân tộc. Đó là những trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng, đa
dạng về chủng loại, phong phú về số lượng, chứng tỏ trình độ kỹ thuật và bàn tay
tài hoa của người thợ Đông Sơn. lOMoAR cPSD| 61464806
- Người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên, đảm bảo cho
cuộc sống của mình. Điều này thể hiện ở sự lựa chọn nơi cư trú. Cư dân Đông Sơn
dựng làng xóm ở những nơi đất cao, sườn núi, đồi đất thấp gần các con sông và đã
hình thành những làng xóm đông đúc nơi đồng bằng phì nhiêu.
- Trong cuộc chiến tranh giữ làng, giữ nước, cư dân Đông Sơn đã biết xây dựng
thành luỹ bảo vệ, kỹ thuật xây thành quy mô thời kỳ này còn để lại dấu tích, đó là thành Cổ Loa.
- Trang phục của người Đông Sơn: Từ chỗ ở trần, mặc vỏ sui, sau đã biết dệt
vải làm trang phục. Nam giới đóng khố, nữ giới mặc váy yếm hoặc áo cánh xẻ trước
ngực, có thắt lưng. Trang phục lễ hội có váy lông chim hay lá cây kết thành, khố dài
thêu, trên đầu đội một chiếc mũ cũng làm bằng lông vũ. Tóc có bốn kiểu được cắt
ngắn, búi tó hoặc được tết, buộc.
- Cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn: gồm các thành phần chính là cơm – rau
– cá - thịt. Cách thức chế biến thức ăn gồm nấu, nướng, luộc, hấp, đồ…Trước đó cư
dân chủ yếu ăn gạo nếp nhưng đến thời Đông Sơn đã có gạo tẻ, có lẽ bởi giống lúa
tẻ thích hợp hơn và phát triển mạnh ở vùng đất mới khi mở rộng đất canh tác. Gạo
nếp được dùng nhiều cho lễ tết cầu cúng (Xem truyền thuyết Bánh chưng bánh dày).
Ngoài gạo, con người còn dùng các nguồn thực phẩm từ hoa màu, rau quả, thủy
sản…Mô hình cơm – rau – cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự
ứng xử hài hòa, khôn khéo của cư dân Đông Sơn với thiên nhiên và môi trường sinh thái.
- Đồ trang sức của người Đông Sơn: vòng tay, vòng chân được làm bằng đồng,
thuỷ tinh, chưa thấy đồ vàng bạc hay đá quý.
- Nhà của cư dân Đông Sơn: đó là những ngôi nhà sàn hoặc loại nhà trên nền
đất, có mái cong hình thuyền, mái tròn được làm bằng gỗ, tre, nứa, lá - những vật
liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian.
- Về phương tiện đi lại: họ đi lại bằng thuyền bè, mảng trên sông nước. Ngoài
ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, dùng vật đựng trên lưng hoặc cưỡi
voi, ngựa đi lại trên các con đường mòn ven chân núi đồi. * Về văn hoá tinh thần: lOMoAR cPSD| 61464806
- Về văn học nghệ thuật: Thời kỳ này hình thành các loại truyện thần thoại,
huyền thoại, truyền thuyết, sử thi (Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh, Hùng Vương…).
- Về phong tục và tín ngưỡng: những lễ nghi và tín ngưỡng giai đoạn này gắn
chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời, mưa dông, các nghi lễ
phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp trai gái, tục đua
thuyền, tục thả diều… Nhiều lễ hội nông nghiệp nhưlễ hội xuống đồng, đua thuyền,
lễ cơm mới, hội mùa, lễ hội cầu mưa, lễ hội cúng thần và lễ hội làng vào đầu xuân
với nghi lễ hiến sinh trâu bò, hội cầu nước, hội khánh thành trống đồng…
- Đặc điểm nổi bật thời kỳ này là người Đông Sơn có những bước phát triển
mới trong tư duy: đó là tư duy về vũ trụ, tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp – phân loại,
chia đôi như đàn ông và đàn bà, đực và cái, trời và đất, âm và dương; đó là tư duy
khoa học như thiên văn học, khái niệm số đếm, khái niệm lịch pháp…Tư duy lưỡng
hợp – lưỡng phân thể hiện tư tưởng triết lý âm dương của người Việt.
- Về nghệ thuật âm nhạc và múa hát: Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật
quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của cư dân Đông Sơn. Nhạc
cụ đáng lưu ý có trống đồng, sênh, phách, khèn, cồng chiêng. Trong ngày hội có
nhảy múa, ca hát tập thể, hát đối đáp nam nữ, hát trong lao động, hát trong nghi thức tín ngưỡng.
- Về nghệ thuật tạo hình: vẽ trên gỗ, khắc trên trống đồng, tạc tượng gồm hình
người và động vật bằng đất nung, bằng đồng thau và đá.
Di vật tiêu biểu nhất của văn minh Văn Lang – văn hoá Đông Sơn là trống
đồng Đông Sơn – tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho tài năng sáng tạo của người Việt
cổ. Đời sống tinh thần của cư dân Đông Sơn đã được phản ánh cách điệu hóa và
khắc họa sinh động trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng Đông Sơn là tên một loại trống tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ.
Chức năng chủ yếu của trống đồng vẫn là chức năng của một nhạc khí dùng
trong các cuộc tế lễ, hội hè, dùng phát lệnh trong quân đội. Trống Đồng còn tượng
trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh ngày xưa. Các vị vua thưởng cho các tù
trưởng người dân tộc những chiếc trống đồng.Trống đồng được mai táng cùng với lOMoAR cPSD| 61464806
những người thủ lĩnh, biến thành vật chôn theo người chết như ở khu mộ táng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Qua những chiếc trống đồng nổi tiếng như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa… có
thể nhận biết phần nào tư duy khoa học cũng như tư duy mỹ học của con người thời
kỳ này. Nghệ thuật Đông Sơn do người Đông Sơn tạo ra. Trống đồng Đông Sơn biểu
hiện tập trung phong cách nghệ thuật Đông Sơn. Với phong cách độc đáo, người
Đông Sơn khắc họa thu nhỏ xã hội Văn Lang với những ngôi nhà sàn, những đoàn
người nhảy múa với các nhạc khí trong tay trên mặt trống đồng, những con thuyền
với những người cầm vũ khí trên tang trống, các hình chim, hình hươu…Đây không
chỉ là sự ghi chép hiện thực đơn thuần mà còn biểu hiện tư duy của người Việt lúc bấy giờ.
Nền văn minh Văn Lang với biểu tượng trống đồng Đông Sơn thực chất là nền
văn minh nông nghiệp lúa nước dựa trên nền tảng xóm làng bền chặt và một cơ cấu
chính trị nhà nước sơ khai. Nền văn minh Văn Lang không những đã vươn tới một
trình độ phát triển khá cao mà còn xác lập được một lối sống dân tộc, đặt cơ sở vững
vàng cho toàn bộ sự tồn tại và phát triển của quốc gia dân tộc sau này.
Văn minh Văn Lang là cốt lõi của văn hóa Việt Nam, là cội nguồn trực tiếp
của văn minh Đại Việt. Một phong cách, một bản sắc văn hóa Việt Nam đã hình
thành từ cái nôi Đông Sơn và trải dài trong suốt những chặng đường đi lên của dân tộc.
2.2. Văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ thời Bắc thuộc
a. Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán:
Tiếp xúc và giao thoa văn hoá là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài bởi dân tộc
chủ thể. Nhìn ở phương diện thái độ của dân tộc chủ thể, sự tiếp nhận các yếu tố
ngoại sinh cũng có hai dạng thể hiện: một là tự nguyện tiếp nhận; hai là bị cưỡng bức tiếp nhận.
Tiếp xúc văn hoá cưỡng bức là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài trong hoàn
cảnh dân tộc chủ thể bị đô hộ. Sự giao lưu, tiếp biến văn hoá không diễn ra một cách
tự nhiên mà bộ máy cai trị của người nước ngoài thực hiện chính sách đồng hoá, tiêu
diệt văn hoá của cư dân bản địa, bắt buộc cư dân bản địa phải tiếp thu văn hoá ngoại lai. lOMoAR cPSD| 61464806
Chính sách Hán hóa: Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người
Việt, giai cấp thống trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt
trên mọi phương diện. Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, chính quyền Hán cho di thực
mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội Trung Hoa sang đất Việt. Chính quyền
trung ương của An Dương Vương bị xóa bỏ, Âu Lạc bị chia thành các châu, quận,
huyện, xã theo hệ thống hành chính địa phương Trung Quốc. Từ một quốc gia độc
lập, Việt Nam trở thành một địa phương của Trung Quốc. Chính quyền Hán thiết lập
một cơ cấu xã hội, một bộ máy quan lại, một thể chế chính trị, xây dựng hệ thống
quân đội và áp đặt hệ thống luật pháp để thống trị nhân dân Việt Nam, tiến hành thu
cống phẩm, bắt lao dịch và bóc lột về kinh tế. Trên phương diện văn hóa, chính
quyền Hán sử dụng văn hóa Hán như một công cụ xâm lược quan trọng. Chúng bắt
nhân dân Âu Lạc theo một phương thức canh tác, một phong tục tập quán giống như
Trung Hoa. Người Hán di cư từ phương Bắc tới sống lẫn với người Việt. Người Việt
phải làm theo người Hán về nhiều phương diện: ăn mặc, học tập, làm ruộng, tổ chức
xã hội… Ở lĩnh vực tư tưởng và tôn giáo, các học thuyết, các tôn giáo từ Trung Hoa
du nhập vào đất Việt như: Đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão – Trang. Chính quyền Hán
dùng Nho giáo như một công cụ nô dịch và đồng hóa người Việt, áp dụng Tam cương
Ngũ thường vào phong tục tập quán người Việt nhằm xây dựng một hệ tư tưởng mới
ở đất Việt. Để thúc đẩy quá trình đồng hóa văn hóa, giai cấp thống trị Hán cho di cư
ồ ạt người Hán sang đất Việt, gồm quan lại và dân nghèo người Hán. Chúng khuyến
khích nhóm người này lấy vợ Việt, sinh con trên đất Việt và thịnh hành một bộ phận
gọi là “dân Mã lưu” ở Việt Nam nhằm thực hiện chủ trương thực dân theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Sự giao lưu văn hóa cưỡng bức: Có thể nói, dưới thời Bắc thuộc, nhân dân Âu
Lạc đã phải chấp nhận một cuộc giao lưu cưỡng bức vô cùng nghiệt ngã với nền văn
hóa Hán, một nền văn hóa Hán có năng lực đồng hóa rất cao, đã từng đồng hóa cả
một cộng đồng Bách Việt rộng lớn từ phía Nam sông Dương Tử trải dài về Nam cho
đến núi Ngũ Lĩnh. Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán để lại dấu
ấn trong nhiều lĩnh vực như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ
xã hội, chữ viết, tiếng nói… Chữ Hán và Nho giáo trở thành nội dung học tập trong
trường học do người Hán lập ra. Số ít nho sĩ người Việt được đào tạo sau này ra làm
quan ở Giao Chỉ và cả ở Trung Quốc như Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ. Nho
giáo được truyền bá vào Việt Nam nhưng chỉ tầng lớp xã hội trên tiếp nhận, chưa có lOMoAR cPSD| 61464806
điều kiện để đi vào xã hội truyền thống người Việt. Cùng với chính sách đồng hóa
văn hóa bằng hình thức cưỡng bức, văn hóa Hán còn được truyền bá vào đất Việt
bằng phương thức giáo hóa và tự nguyện.
Bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa của người Việt, làm
biến đổi mọi thứ áp đặt trong văn hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt. Người
Việt bị mất nước nhưng vẫn còn làng để bảo tồn và giữ gìn những giá trị văn hóa
truyền thống của mình. Để tồn tại, người Việt đã phải liên tục tiến hành các cuộc đấu
tranh vũ trang giành độc lập và ra sức bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc.
b. Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn:
Giao lưu văn hoá tự nhiên là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài trong hoàn
cảnh tự nhiên, không có sự bắt buộc, không phải sự tiếp nhận văn hoá của kẻ thống trị
Văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du
nhập vào Việt Nam. Trước khi văn hóa Ấn Độ tràn vào, văn hóa Việt đã định hình
và phát triển từ thời văn hóa Văn Lang – Âu Lạc. Người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn
Độ vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Những thế kỷ đầu công nguyên, châu thổ Bắc Bộ là
địa bàn trung chuyển của văn hóa Ấn Độ, nhất là tôn giáo. Các nhà sư từ Ấn Độ đi
qua Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh) để rồi tìm đường lên phương Bắc
và các nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ tìm kinh cũng qua Luy Lâu, coi đây là trạm
dừng chân. Người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong bối cảnh bị người Hán đô hộ
và đồng hóa về văn hóa, một mặt người Việt vừa tiếp nhận văn hóa Hán, một mặt
chống lại Hán hóa và đối phó với chính trị. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
chỉ diễn ra trong tầng lớp dân chúng nhưng có sức phát triển rất lớn. Đạo Phật từ Ấn
Độ được truyền bá sang Việt Nam từ buổi đầu công nguyên, do các tăng sĩ và thương
gia Ấn Độ đến Việt Nam bằng đường biển. Chính Đạo Phật được truyền bá vào Việt
Nam từ Ấn Độ trước tiên nên trong ngôn ngữ Việt Nam đã xuất hiện tiếng “Bụt” –
là do phiên âm tiếng Bouddha. Giao Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông
Nam Á. Người Việt thích ứng và tiếp biến đạo Phật một cách dung dị vào cơ tầng
văn hóa bản địa, bởi đạo Phật vốn có tinh thần bình đẳng và bác ái, chủ trương dân
chủ, không đẳng cấp. Trong xu hướng giao lưu tự nguyện lúc bấy giờ, người Việt đã
tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ, sử dụng nó làm ngọn cờ giải
phóng dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng. Trong quá trình phát triển, đạo Phật chia lOMoAR cPSD| 61464806
thành 2 phái: phái Tiểu thừa (Hynayana) và phái Đại thừa (Mahayana). Phái Tiểu
thừa phát triển xuống phía Nam như Thái Lan, Campuchia, Đông Nam Á nên gọi là
Nam Tông. Phái Đại Thừa phát triển lên phương Bắc như Trung Hoa, Triều Tiên,
Nhật Bản nên gọi là Bắc Tông. Đạo Phật được truyền vào Việt Nam ban đầu là Tiểu
thừa – Nam Tông. Sau này, khi các thiền sư Trung Hoa sang truyền đạo Phật ở Việt
Nam lại mang màu sắc Đại thừa, rồi dần dần xu hướng Đại thừa là chủ yếu. Đạo
Phật khi được truyền bá vào Việt Nam thì tín ngưỡng của dân bản địa là đa thần giáo
(thờ thần) nên khi vào đất Việt, Phật giáo cũng phải biến hóa cho phù hợp với phong
tục tập quán của cư dân bản địa và hòa nhập với tín ngưỡng dân gian bản địa, được
người Việt tiếp thu dễ dàng như “nước thấm vào lòng đất”. Thuyết “Nhân quả”,
“Nghiệp báo”, “Luân hồi” của đạo Phật cũng phù hợp với quan niệm dân gian của người Việt.
Trong thời kỳ này, một số thương gia, tăng sĩ Ấn Độ đã đến đất Việt bằng
đường biển và đường sông. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất,
ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có đạo Phật. Chẳng hạn một số từ chỉ cây
trồng (như mít, lài…), từ về Phật giáo(như Bụt, bồ đề, bồ tát, phù đồ, chùa, tháp,
tăng già…) được người Việt tiếp thu để làm phong phú vốn tiếng Việt của mình. Hay
về truyện kể dân gian, người Việt đã tiếp thu nguồn ảnh hưởng từ truyện cổ Ấn Độ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong phần “Thử tìm nguồn gốc truyện cổ tích
Việt Nam” [Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập 5, Nguyễn Đổng Chi], nhấn
mạnh vào hai nguồn du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc. Nguồn du nhập từ Ấn Độ
qua con đường tôn giáo và giao lưu thương mại. Theo Nguyễn Đổng Chi, đối với
Ấn Độ: “Kho tàng của ta thường tiếp thu ở họ hầu hết là những truyện cổ tích thuộc
tiểu loại thần kỳ. Nhiều truyện của ta nếu không có mặt trong sách Panchatantra,
một sưu tập những truyện giáo huấn khá phổ biến do Vinu Xacman biên soạn, thì
cũng có mặt trong các bộ kinh Tam Tạng, Đại Tạng…” [Nguyễn Đổng Chi, Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam, T5; 504]. Bởi vậy, trong truyện kể dân gian Việt Nam
cũng có những type (kiểu truyện) và motif tương đồng với truyện dân gian Ấn Độ.
Chẳng hạn, motif “Bọc trăm trứng” nở ra 100 người con trai trong truyện Lạc Long
Quân và Âu Cơ của Việt Nam giống với motif “cục thịt” của Gadhari sinh ra 100
con trai trong sử thi Mahadharata của Ấn Độ. Nhiều truyện kể dân gian Ấn Độ mang
những yếu tố Phật thoại khi thâm nhập vào Việt Nam thì các phần giáo lý mờ nhạt
đi, còn những yếu tố dân gian lại chuyển hóa mang sắc thái Việt. Một số truyện ngụ lOMoAR cPSD| 61464806
ngôn (Thày bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo…), truyền thuyết (Truyện Man Nương),
truyện cổ tích (Cây nêu ngày tết) của Việt Nam có những motif (tình tiết) giống với
truyện của Ấn Độ. Nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Đặng Đức Siêu
cũng nhận xét rằng: “có sự hiện diện của nhiều tinh hoa văn hóa Ấn Độ cổ đại như:
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, bài thuốc, vị thuốc, món ăn, cách
ươm trồng hoa trái…” trong văn hóa Việt thời Bắc thuộc.
Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc:
Chính quyền phương Bắc thi hành những chính sách văn hóa nô dịch với ý
đồ Hán hóa dân tộc Việt Nam. Để tồn tại, người Việt một mặt liên tục tiến hành các
cuộc đấu tranh vũ trang giành độc lập, một mặt ra sức bảo tồn, phát triển nền văn
hóa dân tộc. Một quá trình đề kháng văn hóa dai dẳng và quyết liệt truyền đời. Từ
trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy vốn liếng
văn hóa bản địa đã tích lũy được qua hàng nghìn năm trước, đồng thời “không chối
từ” việc tiếp thu, tiếp nhận, thâu hóa và làm chủ những ảnh hưởng ngoại lai.
Trên cơ sở một vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, người Việt đã biết biến
những của cải đi vay thành tài sản của dân tộc, biết tiếp thu có chọn lọc những nhân
tố văn hóa ngoại lai và sáng tạo để làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, tăng
thêm tiềm lực cho mọi mặt của đất nước.
Về mặt văn hóa vật chất, người Việt đã tiếp thu kỹ thuật làm giấy của trung
Quốc để khai thác nguyên liệu của địa phương, chế biến những loại giấy tốt như giấy
trầm hương; người Việt tiếp thu ảnh hưởng của kỹ thuật gốm sứ Trung Quốc để sản
xuất ra những mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu
voi, bình gốm có nạm hạt đá ở cổ…; người Việt tiếp thu ảnh hưởng của nghề dệt để
sản xuất được lụa và nhiều loại vải có chất lượng tốt; người Việt tiếp thu một số
giống cây trồng mới (kê, cao lương, một số loại đậu…), tiếp thu kỹ thuật nông nghiệp
mới như kỹ thuật bón phân bắc của người Trung Quốc, phát triển giống cây trồng
nhằm đa canh hóa và mở rộng lúa hai vụ, sử dụng guồng nước làm thủy lợi, dùng
lối giã gạo bằng cối đạp thay cho giã gạo bằng chày tay; kỹ thuật dựng nhà: dùng
nhà đất bằng thay cho nhà sàn…Trong nghề dệt, người Việt đã sản xuất được lụa,
vải bông, vải cát bá, vải tơ chuối, vải bạch diệp… không chỉ dùng mà còn bán cho người Trung Quốc. Về văn hóa tinh thần: lOMoAR cPSD| 61464806
+ Trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, một thành tựu quan trọng của cư dân
Việt là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc, đồng thời đã hấp thu ảnh hưởng của
ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, tiếp thu nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán về mặt
ngữ âm và thanh điệu, tiếp thu nhiều từ ngữ gốc Hán để sáng tạo lớp từ Hán – Việt.
Tiếng Việt không bị mất đi mà còn được giầu có và hoàn thiện về mặt âm tiết, chữ
Nôm của người Việt ra đời trên cơ sở tiếp thu chữ viết của người Hán.
+ Nền phong hóa riêng của người Việt đã được xác lập từ thời Hùng Vương
nay phải đối đầu với những áp chế và ảnh hưởng của văn hóa Hán. Vốn văn hóa dân
tộc vẫn được gìn giữ và phát triển, ví dụ như giữ gìn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ
thần linh, tôn trọng phụ nữ, phong tục cưới xin, ma chay, lễ hội, các tục lệ như búi
tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu…
+ Tinh thần trọng Mẫu – tôn trọng phụ nữ từ thời Văn Lang – Âu Lạc là sản
phẩm văn hóa tinh thần của người Việt trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội mà
nền tảng của nó là phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước. Tinh thần tôn trọng
phụ nữ còn in đậm trong nhân dân cả khi đã chuyển sang chế độ phụ quyền như
những câu tục ngữ “lệnh ông không bằng cồng bà”, “nhất vợ nhì giời”. Tinh thần
trọng Mẫu ấy vẫn được vun đắp trong suốt thời kỳ Bắc thuộc và cả chiều dài lịch sử.
Tư tưởng nam tôn nữ ty của chế độ phụ quyền từ trung Hoa truyền vào Việt Nam đã
không được người dân hưởng ứng mà trong dân gian đã lưu truyền tục thờ Mẫu, điển
hình là tôn thờ các Nữ thần, các Mẫu. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và
ngoài xã hội vẫn luôn được đề cao.
Ngôi chùa được xây dựng vào loại sớm nhất trên đất Việt là chùa Pháp Vân
(Thuận Thành, Bắc Ninh); chùa mang tên Bà Dâu (Phật Mẫu Man Nương quê ở
vùng Dâu), trong chùa, tượng Bà Dâu to hơn mọi tượng Phật.
+ Người Việt đã tiếp thu một số thành tựu của văn hóa ngoại lai trong nhiều
lĩnh vực, vềâm nhạc bên cạnh trống, khèn, cồng chiêng đã tiếp thu một số nhạc cụ
của Trung Quốc như chuông, khánh, của Ấn Độ như trống cơm, của Trung Á là hồ
cầm; trong kiến trúc và điêu khắc đã tiếp thu kiến trúc cổ Trung Hoa, điêu khắc
tượng tròn của Ấn Độ; về tôn giáo đã tiếp thu những ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo để làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng của mình.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, GS. Trần Văn Giàu nhận định: “Bị đô hộ hàng
mươi thế kỷ bởi một nước có nền văn hóa cao hơn với số dân đông hơn gấp bội mà lOMoAR cPSD| 61464806
sau mấy ngàn năm “ta vẫn là ta”, hẳn không phải vì những mũi tên nhọn hơn, bắp
thịt cứng hơn mà chủ yếu là nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của
riêng mình, chứ văn hóa chỉ lấy sức đọ sức, lấy số đọ số thì dân Việt Nam, nước Việt
Nam chỉ còn là đối tượng của khảo cổ học”.
2.3. Văn hóa Việt Nam thời tự chủ (từ năm 938 đến năm 1858)
Văn hóa Việt Nam thời tự chủ có ba lần phục hưng văn hóa dân tộc: lần thứ
nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XIV), lần thứ hai vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV),
lần thứ ba vào thời Tây Sơn (Cuối thế kỷ XVIII). 2.3.1. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần
a. Về đời sống chính trị - kinh tế:
Quyết định dời đô của Lý Công Uẩn là một việc vô cùng quan trọng và ý nghĩa
to lớn.Kinh đôHoa Lư (Ninh Bình) thời Lý được dời về mảnh đất Thăng Long (Rồng
bay). Thời Lý đã xây dựng một nền chính trị ổn định, kinh tế phồn thịnh và văn hóa
được phục hưng, phát triển rực rỡ với trung tâm là kinh thành thăng Long. Quốc
hiệu Đại Việt ra đời gắn với nền văn minh Đại Việt. Nhà Lý xây dựng hệ thống nhà
nước chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương với các lộ, phủ (hoặc chấn, đạo, châu
- tùy địa bàn dân cư hay địa lý). Đến đời Lý Nhân Tông, cả nước Đại Việt có 24 phủ
- lộ, dưới phủ là huyện, hương. Hệ thống quan lại giúp vua cai quản đất nước, dựng
nghiệp triều Lý có hai loại: Đại thần và tăng quan (các nhà tu hành đạo Phật như
quốc sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ). Đến đời Trần, vương triều
đã được thiết lập một cách chính quy, tạo ra quy củ cho việc trị nước yên dân và phát
triển kinh tế, giáo dục. Chính sách đối ngoại của các vương triều Lý vừa mềm mỏng,
khôn khéo vừa kiên quyết, chẳng hạn như với Trung Quốc (chịu sắc phong, chịu
cống phẩm, bảo vệ lãnh thổ) và với Champa (bảo vệ biên giới, thảo phạt phương
Nam để giữ yên bờ cõi). Về kinh tế:
+ Nông nghiệp: Các vua Lý mở mang phát triển nông nghiệp, coi trọng lao
động nông nghiệp (chính sách khuyến nông, ruộng đất); xây dựng một số công trình
thủy lợi (đào sông Đản Nãi, đào kênh Lam, khơi sông Tô Lịch). Thời Trần đẩy mạnh
tổ chức đắp đê trị thủy. Đời sống của dân cư tương đối ổn định. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Các nghề thủ công rất phát triển ở thời Lý như nghề dệt, gốm, mỹ
nghệ…Thời Trần phát triển những làng nghề, phường thủ công, phố chợ - phố nghề ở Thăng Long.
Thăng Long thời Lý - Trần được chia làm hai phần: Hoàng thành và Kinh
thành. Phần Kinh thành nằm ở phía đông bên ngoài Hoàng thành ra đến sát sông
Hồng. Nội thành của Thăng Long gồm 61 phường nhưng Thăng Long cũng như các
thành thị phương Đông đều có mối liên hệ mật thiết giữa bộ phận công thương
nghiệp và bộ phận nông nghiệp của những xóm làng nông nghiệp xung quanh.
Những nghề thủ công tập trung nhiều nhất ở khu Đông ở Tây thành Thăng Long.
Thời Lý, một số xưởng thủ công của Nhà nước cũng đã xuất hiện như xưởng đúc
tiền, đóng thuyền, làm vũ khí, xe kiệu của vua quan...
b. Về văn hóa vật chất:
+ Nghệ thuật kiến trúc thời Lý – Trần: nhiều công trình kiến trúc được xây
dựng như các kinh thành: kinh thành Thăng Long, cung Tức Mặc (Nam Định), thành
Tây Đô (Thanh Hóa) gồm hệ thống cung điện, thành lũy, chùa chiền, đền miếu; hệ
thống chùa, đền, tháp được xây dựng ở nhiều nơi. Đặc điểm của kiến trúc thời Lý
Trần là ở quy mô to lớn. Thành Thăng Long thời Lý là thành lũy lớn gồm hai vòng
thành, dài 25 km, trong Hoàng thành có cung điện cao 4 tầng. Thành Tây Đô (Vĩnh
Lộc, Thanh Hóa) được xây dựng vào cuối thời Trần, là một công trình đồ sộ ghép
bằng những khối đá lớn. Hai khu di tích này đều được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Các ngôi chùa thời Lý - Trần cũng có kiến trúc độc đáo với quy mô khá lớn.
Nền chùa Giạm (Quế Võ, Bắc Ninh) có diện tích lớn, chiều dài 120 mét; tháp nhiều
tầng như tháp Báo Thiên ở Thăng Long có 12 tầng; tháp Sùng Thiện Diên Linh ở
Chùa Đọi (Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng; tháp Phổ Minh cao 14 tầng; tháp bình
Sơn (Vĩnh Phúc) cao 11 tầng; Có những chùa nhỏ bé nhưng có kiến trúc độc đáo
như chùa Một Cột ở Thăng Long với cách tạo dáng như một bông sen từ dưới nước vươn lên trên mặt hồ.
+ Điêu khắc thời Lý – Trần: nổi tiếng với những tác phẩm tượng thần, Phật,
tiên, thánh, vật linh (rồng, voi, trâu, sư tử, cá sấu…); đặc biệt con rồng thời Lý là
một hình tượng độc đáo và phổ biến (mình dài, uốn lượn nhiều khúc uyển chuyển,
với những thành phần cấu tạo tượng trưng cho mây nước, biểu tượng cho niềm mong lOMoAR cPSD| 61464806
ước của cư dân nông nghiệp, một số nhà nghiên cứu mỹ thuật gọi là kiểu "rồng
giun"). Hình tượng con rồng thời Trần mạnh mẽ, uy nghiêm với cặp sừng và có phần trau chuốt hơn.
Ngoài ra thời Lý – Trần còn có 4 công trình đúc đồng rất lớn là tứ đại khí Việt
Nam: chuông Quy Điền, đỉnh Báo Thiên, vạc Phổ Minh và tượng Phật Di Lặc ở chùa
Quỳnh Lâm (xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo của đất nước Đại Việt
thời Lý, Trần bao gồm: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng chùa Quỳnh Lâm
và vạc Phổ Minh. Mặc dù là những vật quốc bảo song khi rơi vào tay giặc, tứ đại khí
cái bị cướp, cái bị phá đi không còn hình dáng ban đầu.
c. Văn hóa tinh thần - Hệ tư tưởng:
+ Đặc trưng nổi bật trong đời sống tinh thần thời Lý – Trần là sự dung hòa tam
giáo (Nho – Đạo – Phật), còn gọi là chính sách tam giáo đồng nguyên và sự hưng thịnh của Phật giáo.
+ Nho giáo thời kỳ này chưa mạnh nhưng bắt đầu có ảnh hưởng trong xã hội,
tác động mạnh đến giáo dục phát triển. Các triều đại Lý – Trần cần đến Nho giáo để
xây dựng chế độ trung ương tập quyền. Để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại
cho bộ máy hành chính, nhà lý bắt đầu chăm lo việc học tập và thi cử. Năm 1070,
nhà Lý xây dựng Văn Miếu là nơi thờ đạo Nho; năm 1076 mở Quốc Tử Giám, tổ
chức thi Nho học từ năm 1075. - Nền văn hóa dân gian:
Sau khi nước nhà giành được độc lập và thống nhất thì nhiều giá trị của nền
văn hóa dân tộc được phục hồi và phát triển. Những truyền thuyết về người anh hùng
dân tộc được bảo lưu và bổ sung những yếu tố mới có tính thời cuộc (chi tiết các vị
thần hiển linh, âm phù cho các triều đại chiến thắng giặc ngoại xâm); những cuộc
diễn xướng ở hội Đền Hùng, Hội Dô, Hội Gióng, Hội Hoa Lư…; xuất hiện nhiều
truyền thuyết về các anh hùng dân tộc, về các nhân vật kiệt xuất gắn với các triều
đại: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Phạm
Ngũ Lão, Nguyên Phi Ỷ Lan, Từ Đạo Hạnh, Minh Không…; những truyện cổ tích
phản ánh mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, phản ánh thân phận con người nhất
là thân phận người phụ nữ ngày càng xuất hiện nhiều (Cây tre trăm đốt, Kéo cày giả lOMoAR cPSD| 61464806
nợ, Hòn Vọng phu, Người thiếu phụ Nam Xương, Truyện chàng Trương Chi…).
Các thể loại tục ngữ, ca dao, dân ca cũng nảy nở và phát triển; các loại hình chèo,
rối nước, múa hát cung đình, các loại dân ca nghi lễ như hát xoan (Phú Thọ), hát Ải
Lao (Bắc Ninh), hát hội Dô (Hà Tây), hát múa Đông Anh (Thanh Hóa); dân ca nghề
nghiệp như hát phường vải, hát phường cấy, hát phường nón; các trò chơi dân gian…
đều được khôi phục và phát triển; dân ca trữ tình như hát đối đáp nam nữ, dân ca
Quan họ, các lối hát như hát ví, hát đúm, hát ghẹo, hát lý, hát xẩm… có lẽ cũng được
hình thành ở thời kỳ này.
- Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển:
Phật giáo và Giáo dục phát triển đã cung cấp cho nền văn hóa Đại Việt một đội
ngũ đông đảo các nhà văn, nhà thơ từ hai nguồn: trí thức Phật giáo và trí thức Nho
giáo với những sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm.
-Các lĩnh vực luật pháp, sử học, y dược học, thiên văn, lịch pháp, binh pháp,
văn học dân gian... được quan tâm, có nhiều thành tựu đáng chú ý, xuất hiện các bộ
sách như: về luật pháp có bộ Hình thư thời Lý, Quốc triều hình luật, Hình luật thư
thời Trần; về sử học có Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu…
- Ngành nghệ thuật và sân khấu thời Lý – Trần khá phát triển. Các loại
hình như ca, múa, nhạc, chèo, tuồng, rối nước, xiếc, nhã nhạc cung đình… đã
định hình bản sắc dân tộc, làm nền tảng cho nền nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam.
2.3.2. Đặc trưng văn hóa thời Hậu Lê
(Sinh viên tự tìm hiểu)
2.3.3. Đặc trưng văn hóa thời Tây Sơn
(Sinh viên tự tìm hiểu)
2.4. Văn hóa Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp từ năm 1858 đến năm 1945
((thời kỳ Pháp thuộc và tiếp biến văn hóa phương Tây)
Đặc trưng văn hóa Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945 Giai
đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn:
- Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Pháp. -
Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.
a. Về hệ tư tưởng lOMoAR cPSD| 61464806
Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển
mình của hệ tư tưởng Việt Nam. Văn hóa Việt Nam thời kỳ này đã tồn tại với nhiều
hệ tư tưởng khác nhau, tác động lẫn nhau, hòa hợp lẫn nhau, tự biến dạng do khúc
xạ qua môi trường xã hội.
Các ý thức hệ tư tưởng xưa cũ từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại mà căn bản
dựa trên cơ cấu làng xã với những người nông dân trồng lúa nước. Dù lịch sử có bao
nhiêu biến động thì hệ tư tưởng của họ vẫn là hệ tư tưởng thần thoại với một hệ
thống thần linh đa dạng.
b. Về văn hóa vật chất
- Sự khởi sắc của đô thị: Qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Việt Nam, giao thông, công nghiệp (kinh tế hàng hóa) cùng với đô thị cũng phát
triển. Tính chất của đô thị ở Việt Nam cũng dần biến đổi. Từ cuối thế kỷ XIX, Tính
chất là một trung tâm chính trị, văn hóa không còn bao trùm như trước, tính chất là
một trung tâm công – thương nghiệp đã rõ nét hơn. Đầu thế kỷ XX, Hà Nội đã là
một đô thị sầm uất, có nhiều người buôn bán, tập trung các nhà máy, sở giao dịch,
trụ sở các công ty. Hải Phòng trở thành hải cảng lớn thứ hai ở Đông Dương. Sài Gòn
– Chợ Lớn trở thành một đô thị của công nghiệp, thương nghiệp lớn ở miền Nam.
Cùng với Hà Nội, Sài Gòn, nhiều tỉnh lỵ trước đây chỉ là những đô thị hành chính,
nay thêm phần phố phường buôn bán như ở Nam Định, Hải Dương, Hồng Gai, Huế,
Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…
- Về Kiến trúc :Đô thị - Thành phố phát triển kéo theo xây dựng các công trình
đô thị, phát triển kiến trúc đô thị. Kiến trúc cổ truyền phương Đông có sự hòa nhập
với kiến trúc phương Tây.
- Giao thông: Cùng với việc mở mang thành phố là sự phát triển giao thông vận
tải. hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy đều được chú trọng xây dựng.
- Văn hóa ăn: Sự phát triển đô thị, sự xuất hiện tầng lớp trung lưu và tư sản
thành thị làm cho cuộc sống ở thành thị có sự thay đổi nhanh chóng. Thành phần ẩm
thực có thêm nhiều món mới. Ở nông thôn, cơ cấu bữa ăn truyền thống vẫn gồm
những thành phần cơ bản là Cơm - Rau - Cá (Thịt).. Còn ở các đô thị lớn như Hà
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng… có thêm những món ăn bổ sung từ thức ăn động vật như
các loại gia súc, gia cầm; những món ăn được chế biến từ bột mì và sản phẩm sữa lOMoAR cPSD| 61464806
như bánh mì, bơ, sữa, pho mát; các loại rau quả ôn đới như su hào, bắp cải, cà rốt,
khoai tây, nho, táo…; các món ăn chế biến theo kiểu Tây như thịt hộp, bít tết, súp,
trứng ốpla, xúc xích, patê, dăm bông…; cách thức ăn uống kiểu Tây như dùng thìa,
dĩa, dao, đĩa …và các loại thức uống Tây như bia, sâm banh, lave, cà phê, ca
cao…Thực đơn ẩm thực Việt trở nên phong phú hơn vì có thêm những món ăn tiếp
thu phương Tây này. Những từ "cơm Tây", "món ăn Tây" cũng dần trở nên quen thuộc.
- Về văn hóa mặc: ở thành thị, văn minh phương Tây với lối âu phục của đàn
ôngnhư mặc comple, đội mũ cát, đi giày da, áo sơ mi, quần Tây, cà vạt thay thế cho
kiểu áo the đen, khăn đóng, mũ xếp truyền thống; còn phụ nữ cũng mặc "tân thời":
áo đầm, váy Tây, kiểu áo lơ muya, quần trắng dài cùng giày dép cao gót hay những
kiểu áo hở tay, hở cổ thay cho lối mặc xưa với yếm lụa đào, quần lĩnh, áo the, đi guốc mộc.
- Về nhà ở và tiện nghi: nhà ở kiểu Tây, kiến trúc kiểu Tây với các tầng lầu,
công trình phụ khép kín, có giường đệm, có ban công và nhiều cửa sổ cao rộng xuất
hiện ngày một nhiều trong tầng lớp trung lưu giàu có.
- Về đời sống kinh tế: Trong sản xuất nông nghiệp có sự bổ sung về cây trồng,
kỹ thuật chăm bón, kỹ thuật cơ khí…Nền nông nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận một
số cây trồng mới như một số rau quả ôn đới (su hào, bắp cải, khoai tây, cà rốt, hành
tây, tỏi tây…); cây công nghiệp như cao su, cà phê, canhkina; kỹ thuật chăm bón
như dùng loại phân vô cơ tổng hợp; kỹ thuật cơ khí như sử dụng máy móc cơ khí
nông nghiệp và máy bơm nước. Về công nghiệp, xuất hiện một số ngành công nghiệp
mới như công nghiệp khai khoáng (khai thác than đá, quặng mỏ), công nghiệp điện
lực, cơ khí, hóa chất, luyện kim, xi măng, công nghiệp nhẹ như sản xuất rượu cồn,
rượu bia, diêm, đường, thuốc lá, xà phòng, nhựa…
c. Về văn hóa tinh thần - Báo
chí ra đời và phát triển: -
Về văn học nghệ thuật:
Văn học nghệ thuật đã thể hiện "bước chuyển mình" và đạt được những thành tựu to lớn.
Văn học yêu nước vẫn giữ vai trò tiên phong trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược. Những thế hệ các nhà văn, nhà thơ yêu nước đã cống hiến cho văn