Những đặc trưng của văna Việt Nam
(LLCT) - Văn hóa, đặc trưng ca n hóa không phải phạm trù
bất biến, luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều
kiện tự nhiên sự phát triển của hội loài người. Trong bối cảnh
hội nhập khu vực toàn cầu hóa cùng với sự tác động nảy sinh
của các yếu tốn ngoài và nội tại hội Việt Nam, sự xung đột về h
giá trị giữa văn hóa nông nghiệp - nông thôn truyền thống với n
hóa công nghiệp - đô thị hiện đại vẫn tiếp diễn. Những giải pháp phát
triển văn a, con người Việt Nam trong hiện tại tương lai nhằm
gìn giữ phát triển 5 đặc trưng bản của văn hóa Việt Nam ngày
càng hoàn thiện hơn.
1. Đặc trưng ca n hóa
Văn hóa luôn mang hai m nghĩa tĩnh động. Xét từ góc độ tĩnh, thuộc
tính bản chất nht của văn hóa là tính “nội nguyên”(1), tức chỉ nguyên
nhân nội tại, những phát sinh trong nội bộ văn hóa. Ngoài ra, văn hóa n
tính giáo dục, thuộc tính n bản nổi bật, chức năng m cho sự
phát triển của kinh tế và văn hóa mối quan hệ nội tại tự nhiên sâu
sắc.
Trung Quốc, từ thời cđại, văn hóa đưc xem là văn tự và giáo hóa”.
phương y, từ văn hóa”(Culture) bắt nguồn từ tiếng Latinh, nghĩa
gốc là trồng trọt, nuôi ng, luyện tập, khai khẩn, khai phát. thế,
phương Đông hay phương Tây, văn hóa đều biểu trưng cho hoạt động của
li người đều coi trọng nghĩa từ nguyên của văn hóa mang tính
giáo dục. Tính giáo dục của văn hóa được thể hiện chủ yếu thông qua sự
kế thừa truyền bá. Văn hóa sngưng tụ tri thức và kỹ năng của loài
người, truyền bá, kế thừa, học tập lẫn nhau từ đời này qua đời khác.
Xét từ góc độ động, thuộc tính bản chất ng năng của văn hóa thể
hin trước hết tính thực tiễn của văn hóa. Trong tác phẩm Phê phán
kinh tế chính trị học, C.Mác viết: Giới tự nhiên không thể sáng tạo ra bất
kỳ máy móc, đầu máy, đin thoại, máy dệt tự động v.v.. Tất cả những i
đó đều sản vật do nền ng nghiệp của loài người sáng tạo ra. Sự thay
đổi vật chất của tự nhiên là do ý chí của loài người chế ngự tự nhiên hoặc
bộ máy hoạt động của loài người điều khiển giới tự nhiên. Tất cả những
điu đó đều do trí tuệ n tay con người ng tạo nên đều t
lực của vật hóa”
(2)
. Chỗ sâu sắc nhất trong quan điểm văn hóa của C.Mác
thhiện trong việc tác giđã khảo sát thuộc tính bản chất ng ng
của văn hóa từ hoạt động thực tiễn ca con người hiện thực. Trong nhiều
tác phm về triết học, kinh tế học của C.Mác, chúng ta được biết rằng,
những người tham gia vào lĩnh vực hoạt động n hóa sáng tạo văn
hóa kng phải là những con người trừu tượng mà những con người
lịch sử, những con người hiện thực, con người c thể, con người thực
tin, con người hội. Tính thực tiễn của văn hóa chính nhân hóa”.
Con người tác gisáng tạo văn hóa, chủ thể của quá trình hoạt động
lịch sử văn hóa.
C.Mác chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa ca loài người trước hết thuộc về
lao động vật chất cm tính, n giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp, đạo
đức, khoa học, nghệ thuật v.v.. đều phương thức đặc thù của sản xuất,
hơn nữa, n thực schi phối quy luật phổ biến của sản xuất. Nvậy,
lao động, thực tiễn v.v.. những hoạt động tự giác ý thức, mục đích
của loài người đã xác nhận sự tồn tại loài” của con người, đó chính
nguồn gốc bản chất chân thực của con người là nguồn gốc bản chất
của văn hóa. Lao động sn xuất vật chất hình thức bản của hoạt
động thực tiễn của loài người. Trong qtrình đó, con người phải dựa
vào tnhiên, chịu schế ước của hoàn cảnh tự nhiên, mặt khác, không
ngừng chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo tự nhiên mục
đích, yêu cu của chính li người. Yếu tố ch cực - sức sản xuất xã hội -
trong hoạt động thực tiễn ca sản xuất vật chất không những là sáng tạo
tự nhiên của con người (tức thế giới vật chất mà con người yêu cầu), mà
còn tạo nên tính đa dạng, phong pcủa chính con ngưi, thể hiện trong
mi quan hệ của con người với tự nhiên hội. Ý nghĩa giá trị chân
chính của sản phẩm lao động không những chỉ đáp ng nhu cu ăn, mặc,
ở, đi lại của con người để giữ mối liên hệ với việc tái sản xuất của chính
con người, mà còn thể hiện những ng tạo thiên bẩm, sự thông minh i
trí, sức mnh, dũng khí, tình yêu, cảm hứng, kng, kinh nghiệm, tri
thức, sự giao lưu của tinh thần, những niềm vui và mỹ cm mà con người
từng phát huy, từng ng tạo, từng đạt được trong qtrình sản xuất. Do
đó, hoạt động thực tiễn căn bản nhất của lao động loài ngưi bao gồm cả
những hoạt động sáng tạo n hóa: sáng tạo tự nhiên - hi - con người,
những sáng tạo tinh hoa của văn minh tinh thần nhân loại như nghệ thuật,
tôn giáo, triết học v.v.. n hóa vốn bản chất thực tiễn, quyết định
công năng lịch sử xã hội mt cách cơ bản nhất, nó tham dnăng động, tự
giác, sáng tạo ảnh hưởng đến công năng bản chất của hoạt động kinh
tế. Thuộc tính kinh tế ng năng của văn hóa sự thể hiện tập trung
nhất tính thực tiễn của văn hóa.
Hoạt đng lịch scủa hội loài người phợp vi bản cht thực tiễn
của văn hóa, m cho được những tính chất công năng của lực
lượng sản xuất. Bởi vậy, văn hóa tác dụng trực tiếp đến gii tự nhiên
và việc xây dựng, phát triển kinh tế - hội.
Với bản chất thực tiễn và công ng đối với hoạt động kinh tế, văn hóa
mt lực lượng sản xuất, thể hiện ở những đim sau:
Một là, văn hóa là một loại sức sản xuất đặc thù. Tính đặc thù của nó thể
hin chỗ, n hóa ảnh hưởng chế ước các hoạt động kinh tế mt cách
ch cực, năng động bằng các hiệu năng tổng hp các quan nim, hành vi,
trên một mức độ nhất định, đã trở thành lực lượng cấu thành ni tại
của hoạt động kinh tế.
Lao động sản xuất của li người gồm hai dạng ln: lao động vật chất
lao động tinh thần. Lao động tinh thn một trong những hoạt động thực
tin bản quan trọng nhất của loài người. Thực tiễn lao động sn
xuất của loài người những hoạt động ý thức, mục đích, tức sự
thống nhất giữa lao động chân tay lao động trí tuệ. Mọi hoạt động sản
xuất của con người những hành vi được tiến hành dưới sự chi phối ca
tưởng, ý thức, quan niệm trên cơ snhững điều kiện khoa học và k
thut nhất định. tất cả những điều trên không thể tách ri sở văn
hóa bối cảnh văn hóa nhất định. Với tư cách một thức đã định
của quan niệm hành vi, văn hóa thm thấu phát huy tác dụng của
mt cách sâu sắc xuyên suốt toàn bộ qtrình lao động vật chất và lao
động tinh thần của con người.
Hai là, văn hóa sức sản xuất mối quan hệ biện chứng. Lịch sphát
triển hội đã chứng minh rằng, sức sản xuất cùng một lúc giải quyết
được sự biến đổi vật chất giữa con người mang hình thái vật hóa thâm
nhập u vào quá trình biến đổi của tinh thn con người, bao trùm là hệ
thống quan nim, giá trị các dạng thức, hành vi của văn hóa, thúc đẩy
văn hóa phát triển, mở rộng. thế, văn hóa sức sản xuất trong toàn bộ
thực tiễn hội chủ yếu trong hoạt động kinh tế, chúng luôn thẩm thấu,
thúc đẩy lẫn nhau luôn đạt được sự thống nhất nội tại. t từ quan
đim sức sản xuất lớn tn hóa là sức sản xuất. Xét từ quan điểm đại
văn hóa thì sức sản xuất cũng là văn hóa.
Từ những lun gii trên, các nhà nghiên cứu về n hóa trong ngoài
nước đã đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật bốn
đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tính hệ thống. n hóa là một hệ thống hữu các giá trvề
văn hóa vật chất, hội tinh thần của cộng đồng người. Từ những
thành tố căn bản này đã nảy sinh bao gm những tập hợp nhỏ nhiều
tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.
Thứ hai, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị vật chất giá
trị tinh thần) trở thành thước đo vmức độ nhân bản ca hội và con
người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn
tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.
Thứ ba, tính lịch sử. Văn hóa bao gi cũng được hình thành qua một q
trình được tích lũy qua nhiều thế hệ, những thành tựu do cộng đồng
người trong qtrình tương tác vi môi trường tnhiên - hội sáng tạo
và luôn hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.
Thứ tư, tính nhân sinh. n hóa là hiện tượng thuộc v xã hội loài người,
gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, những giá trị do một
cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc vcon người, trong con người
mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa chủ thể của văn
hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.
2. Điều kiện hình thành nhng đặc trưng bản của văn hóa Việt
Nam
Văn hóa vốn một hoạt đng thuộc thế giới người nói chung và cũng
đặc trưng của mỗi cộng đồng người nói riêng. điều kiện sinh tn
của mỗi một con người, đồng thời cũng thành tựu của tng tộc người
i để phân biệt giữa cộng đồng người này với cộng đồng người
khác, là tấm chứng minh thư” để xác định tính của từng n tộc trong
cộng đồng nhân loại, là tấm giấy thông hành” giúp các quốc gia dân tộc
cùng ngồi đàm phán, thông điệp đưa các dân tộc xích li gần nhau,
sở, là nn tảng, là trụ cột, là sức mnh quan trọng đối vi sự phát triển
bền vững của xã hội.
Văn hóa với tim lực, sức sống thực lực độc đáo của mình, biểu hin
và tỏ rõ sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Cội nguồn của những đặc điểm, đặc trưng n hóa dân tộc cố nhiên phải
tìm trong những điều kiện lịch scủa n tộc. Nhưng trước đó, trong
suốt qtrình lịch sử, nhng điều kin địa nh hưởng đến phương
thức canh tác, hình thái kinh tế - hội - chính trị. Văn hóa sự trả lời,
sự ứng pcủa cộng đồng cư dân trước những thành thức của điều kiện
địa - khậu hội - lịch sử. Bởi vậy, khi n đến nét riêng biệt -
cái đặc trưng của văn hóa Việt Nam, phải tìm đến cội nguồn của t
thi đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghip làng m, phải cý
đến những điều kiện nền tảng địa môi trường thiên nhiên đã sản
sinh nên những đặc trưng, đặc điểm văn hóa ấy. Xét về mặt thiên nhiên,
văn hóa Việt Nam khởi thủy cùng chung trong khu vực Đông Nam Á.
Khởi thủy, không gian đa t nhiên Đông Nam Á bao gồm khu vực
sông Trường Giang kéo i về phương Nam, khu vực phía Nam dải Tần
Lãnh khu vực Atxam hiện tại. Môi trường thiên nhiên đây nảy sinh
và phát triển văn hóa nông nghiệp lúa nước.
Về mặt nhân chủng, đến giữa thiên niên kthứ nhất trước Công nguyên,
về bản, vùng Bách Việt (Việt - Mường) vùng phi Hoa, phi Ấn. Khi
Trung Quốc bành trướng xuống lưu vực sông Trường Giang, Việt Nam
Trung Quốc sự khác nhau căn bản: Việt Nam vùng châu Á gió
a, Trung Quốc vùng châu Á đại lục, Vit Nam vùng nông nghiệp
a nước, Trung Quốc vùng nông nghip khô ( trồng kê, cao lương, a
mạch) vùng Bách Việt co lại dần, chỉ còn lại Việt Nam - đại biểu duy
nhất n sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính
chất Dân tộc - Nnước (Nation- Etat), vừa với tính chất n tộc - Nn
dân (Nation - People). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những cái bất dị
giữa Việt Nam Trung Quốc
(3)
.
Việt Nam - Đông Nam Á là vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất
nhưng đa dạng, do đó, văn hóa bản địa phong phú, đa dạng trong s
thống nht. Trào u lịch scùng với việc tiếp thu các nhân tố ngoại sinh
từ Ấn Độ, Trung Hoa, phương y, những nền văn hóa của vùng càng đa
dạng ng có xu hướng phủ mờ i gốc - văn hóa bản thể, văn hóa ni
sinh trong vùng.
Do điều kiện tnhiên, kinh tế - hội và lịch shình thành quốc gia dân
tộc, n hóa Việt Nam sớm xu thế giao lưu, hi nhập, tiếp biến, nhờ
thế Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản sắc. Nền văn minh
Đại Việt được xếp là một trong 34 nền n minh đầu tiên của nhân loại.
Nhiều học giả thống nhất rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam được tạo ra
vùng lúa nước ng Hồng cách đây n 4 nghìn năm, được i luyện
khẳng định trong 2 nghìn năm chống đối thoại với Trung Quốc đã đ
tầm cỡ để tiếp biến văn hóa thành công. Trong suốt chiều dài lịch sử n
400 năm tiếp biến n hóa Việt Nam vi phương y dưới nhiều hình
thức, vừa cưỡng bức, vừa đối thoại văn hóa, thi điểm vừa
chống lại, vừa tiếp thu, nhưng n hóa Việt Nam vẫn vừa giữ được bản
sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.
Văn hóa Việt Nam những nét mang tính đặc trưng phbiển của văn
hóa nói chung những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng
bản riêng biệt y được hình tnh, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều
kin địa tự nhiên, lịch sử, chính trị - kinh tế - hi của Việt Nam.
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, n hóa
học, n hóa Việt Nam đã nhiều ý kiến đa chiu về đặc trưng n hóa
Việt Nam, tạo nên bức tranh phong phú, nhiu màu sắc, đôi khi là tương
phản, nhưng tổng hợp lại, văn hóa Việt Nam có những nét chung tương
đối khái quát, thể hiện ở 5 đặc trưng sau:
Một là, tính cộng đồng làng xã, thể hiện ở 6 phm chất: Tính đoàn kết,
giúp đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể
din; Tình yêu q hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những
phẩm chất tốt, tính cộng đồng làng cũng để lại nhiều tật xấu trong văn
hóa: Thói dựa dẫm; Thói cào bằng, chụp ; Bệnh diện, háo danh;
Bệnh thành tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức v.v..
Hai là, tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng
âm là: Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm;
Thiên hướng thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên
cạnh đó, tính trọng âm cũng mảnh đất hình thành những bệnh xấu như:
Bệnh thụ động, khép kín; Bệnh l mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu
tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại v.v..
Ba là, tính ưa hài hòa, thể hiện bốn phẩm chất: Tính mực tớc; Tính
ung dung; Tính vui vẻ, lc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa
cũng gây mặt hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh hòa vi quý;
Bệnh trung bình chủ nghĩa; Bệnh ớc đôi, thiếu quyết đoán...
Bốn là, tính kết hợp, thể hin hai khả ng: Khnăng bao quát tốt; Khả
năng quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả
xấu như: Thói hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ…
m là, tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện 2
phẩm chất tốt: Khả ng thích nghi cao; Tính ng tạo. Tính linh hoạt
nhiu khi cũng dẫn đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh
thiếu ý thức pháp luật…
Tổng hợp 5 đặc trưng bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất,
giá trcốt lõi tốt nhất lòng yêu ớc; tinh thần n tộc; lòng nhân ái,
thương người; tính cộng đồng làng xã; tính tinh tế.
Văn hóa, đặc trưng ca văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn
vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điu kiện tự nhiên và s
phát triển của hội loài ngưi. Trong bối cảnh hi nhập khu vực và toàn
cầu hóa cùng với sự tác động ny sinh của các yếu tố bên ngoài và nội
tại hội Việt Nam, sự xung đột vhệ giá trị giữa văn hóa nông nghip -
nông thôn truyền thống với n hóa ng nghiệp - đô thị hin đại vẫn tiếp
din. Những năm gn đây, nhiều nhà khoa học đã đang tập trung
nghiên cứu, đề xuất nhiều ng đi, nhiều giải pháp phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong hiện tại tương lai với mong muốn 5 đặc
trưng bản của văn hóa Việt Nam sđược bảo tồn và dịch chuyn theo
hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Một số đề tài đã được công bố, trong đó
nổi bật là đề tài cấp Nnước “Hệ giá trViệt Nam trong thời kng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế” thuộc chương trình Khoa
học Công ngh trọng điểm KX-04/11-15 Nghiên cu khoa học lun
chính trị giai đoạn 2011-2015 do GS,TSKH Trần Ngọc Thêm m Chủ
nhim. Trong đề tài này, khi bàn về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tác giả
đề xuất chuyển đổi đặc trưng văn hóa Việt Nam đến năm 2030 theo
hướng sau:
Đặc trưng 1: Tính cộng đồng làng n chuyển thành Tính cộng đồng
xã hội.
Đặc trưng 2: Tính trọng âm Đặc trưng 3: Tính ưa hài hòa n chuyển
thành Tính hài hòa thiên về dương tính.
Đặc trưng 4: Tính kết hợp n chuyển thành Tác phong công nghiệp.
Đặc trưng 5: Tính linh hoạt nên chuyển thành Tính linh hoạt trong
nguyên tắc
(4)
.
Hiện tại tương lai scòn nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vn
đề này. Những đề xuất của hsẽ được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm,
lựa chn nhm phục vụ mục đích cao cả xây dựng nền n hóa Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh
thn n tộc, nhân n, n chủ khoa học. Xây dựng văn hóa thực s
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của hội, sức mạnh nội sinh
quan trng bảo đảm sự phát triển bền vững bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
mục tiêu dân giàu, ớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bài đăng trên Tạp chí luận chính trị số 7-2015
(1) Nội nguyên (Endogenesis) là khái niệm trong sinh vật học, vốn chỉ s
hình thành n trong thể tế bào sinh vật. Chúng tôi dùng khái nim
này để chỉ sự hình thành vận độngn trong của văn hóa, nền văna.
(2) C.Mác: Phê phán kinh tế chính trị học, t.3 (1857-1859), Nxb Nhân
dân, 1963, tr.358.
(3) Xem thêm Trần Quốc Vượng: n hóa Việt Nam - Tìm i suy
ngẫm, Nxb n hóa n tộc, Tạp chí n hóa nghệ thuật, Nội, 2000,
tr.56-77.
(4) Xem Trần Ngọc Tm (chủ biên): Một số vấn đề về hgiá trị Việt
Nam trong giai đoạn hiện tại, Nxb Đại học Quốc gia thành phố HC
Minh, 2015, tr.56-77.
PGS, TS Văn Toan
Trung m nghiên cứu Ấn Độ,
Học vin Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Preview text:

Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam
(LLCT) - Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù
bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều
kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh
hội nhập khu vực và toàn cầu hóa cùng với sự tác động và nảy sinh
của các yếu tố bên ngoài và nội tại xã hội Việt Nam, sự xung đột về hệ
giá trị giữa văn hóa nông nghiệp - nông thôn truyền thống với văn
hóa công nghiệp - đô thị hiện đại vẫn tiếp diễn. Những giải pháp phát
triển văn hóa, con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai nhằm
gìn giữ và phát triển 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

1. Đặc trưng của văn hóa
Văn hóa luôn mang hai hàm nghĩa tĩnh và động. Xét từ góc độ tĩnh, thuộc
tính bản chất nhất của văn hóa là tính “nội nguyên”(1), tức chỉ nguyên
nhân nội tại, những phát sinh trong nội bộ văn hóa. Ngoài ra, văn hóa còn
có tính giáo dục, thuộc tính căn bản và nổi bật, có chức năng làm cho sự
phát triển của kinh tế và văn hóa có mối quan hệ nội tại tự nhiên và sâu sắc.
Ở Trung Quốc, từ thời cổ đại, văn hóa được xem là “văn tự và giáo hóa”.
Ở phương Tây, từ “văn hóa”(Culture) bắt nguồn từ tiếng Latinh, nghĩa
gốc là trồng trọt, nuôi dưỡng, luyện tập, khai khẩn, khai phát. Vì thế, ở
phương Đông hay phương Tây, văn hóa đều biểu trưng cho hoạt động của
loài người và đều coi trọng nghĩa từ nguyên của văn hóa là mang tính
giáo dục. Tính giáo dục của văn hóa được thể hiện chủ yếu thông qua sự
kế thừa và truyền bá. Văn hóa là sự ngưng tụ tri thức và kỹ năng của loài
người, truyền bá, kế thừa, học tập lẫn nhau từ đời này qua đời khác.
Xét từ góc độ động, thuộc tính bản chất và công năng của văn hóa thể
hiện trước hết là ở tính thực tiễn của văn hóa. Trong tác phẩm Phê phán
kinh tế chính trị học, C.Mác viết: “Giới tự nhiên không thể sáng tạo ra bất
kỳ máy móc, đầu máy, điện thoại, máy dệt tự động v.v.. Tất cả những cái
đó đều là sản vật do nền công nghiệp của loài người sáng tạo ra. Sự thay
đổi vật chất của tự nhiên là do ý chí của loài người chế ngự tự nhiên hoặc
bộ máy hoạt động của loài người điều khiển giới tự nhiên. Tất cả những
điều đó đều do trí tuệ và bàn tay con người sáng tạo nên và nó đều là trí
lực của vật hóa”(2). Chỗ sâu sắc nhất trong quan điểm văn hóa của C.Mác
thể hiện trong việc tác giả đã khảo sát thuộc tính bản chất và công năng
của văn hóa từ hoạt động thực tiễn của con người hiện thực. Trong nhiều
tác phẩm về triết học, kinh tế học của C.Mác, chúng ta được biết rằng,
những người tham gia vào lĩnh vực hoạt động văn hóa và sáng tạo văn
hóa không phải là những con người trừu tượng mà là những con người
lịch sử, những con người hiện thực, con người cụ thể, con người thực
tiễn, con người xã hội. Tính thực tiễn của văn hóa chính là “nhân hóa”.
Con người là tác giả sáng tạo văn hóa, là chủ thể của quá trình hoạt động lịch sử văn hóa.
C.Mác chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa của loài người trước hết thuộc về
lao động vật chất cảm tính, tôn giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp, đạo
đức, khoa học, nghệ thuật v.v.. đều là phương thức đặc thù của sản xuất,
hơn nữa, còn thực sự chi phối quy luật phổ biến của sản xuất. Như vậy,
lao động, thực tiễn v.v.. những hoạt động tự giác có ý thức, có mục đích
của loài người đã xác nhận rõ “sự tồn tại loài” của con người, đó chính là
nguồn gốc bản chất chân thực của con người và là nguồn gốc bản chất
của văn hóa. Lao động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản của hoạt
động thực tiễn của loài người. Trong quá trình đó, con người phải dựa
vào tự nhiên, chịu sự chế ước của hoàn cảnh tự nhiên, mặt khác, không
ngừng chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo tự nhiên vì mục
đích, yêu cầu của chính loài người. Yếu tố tích cực - sức sản xuất xã hội -
trong hoạt động thực tiễn của sản xuất vật chất không những là sáng tạo
tự nhiên của con người (tức thế giới vật chất mà con người yêu cầu), mà
còn tạo nên tính đa dạng, phong phú của chính con người, thể hiện trong
mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội. Ý nghĩa và giá trị chân
chính của sản phẩm lao động không những chỉ đáp ứng nhu cầu ăn, mặc,
ở, đi lại của con người để giữ mối liên hệ với việc tái sản xuất của chính
con người, mà còn thể hiện những sáng tạo thiên bẩm, sự thông minh tài
trí, sức mạnh, dũng khí, tình yêu, cảm hứng, kỹ năng, kinh nghiệm, tri
thức, sự giao lưu của tinh thần, những niềm vui và mỹ cảm mà con người
từng phát huy, từng sáng tạo, từng đạt được trong quá trình sản xuất. Do
đó, hoạt động thực tiễn căn bản nhất của lao động loài người bao gồm cả
những hoạt động sáng tạo văn hóa: sáng tạo tự nhiên - xã hội - con người,
những sáng tạo tinh hoa của văn minh tinh thần nhân loại như nghệ thuật,
tôn giáo, triết học v.v.. Văn hóa vốn có bản chất thực tiễn, nó quyết định
công năng lịch sử xã hội một cách cơ bản nhất, nó tham dự năng động, tự
giác, sáng tạo và ảnh hưởng đến công năng bản chất của hoạt động kinh
tế. Thuộc tính kinh tế và công năng của văn hóa là sự thể hiện tập trung
nhất tính thực tiễn của văn hóa.
Hoạt động lịch sử của xã hội loài người phù hợp với bản chất thực tiễn
của văn hóa, làm cho nó có được những tính chất và công năng của lực
lượng sản xuất. Bởi vậy, văn hóa có tác dụng trực tiếp đến giới tự nhiên
và việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội.
Với bản chất thực tiễn và công năng đối với hoạt động kinh tế, văn hóa là
một lực lượng sản xuất, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, văn hóa là một loại sức sản xuất đặc thù. Tính đặc thù của nó thể
hiện ở chỗ, văn hóa ảnh hưởng và chế ước các hoạt động kinh tế một cách
tích cực, năng động bằng các hiệu năng tổng hợp các quan niệm, hành vi,
và trên một mức độ nhất định, đã trở thành lực lượng cấu thành nội tại
của hoạt động kinh tế.
Lao động sản xuất của loài người gồm hai dạng lớn: lao động vật chất và
lao động tinh thần. Lao động tinh thần là một trong những hoạt động thực
tiễn cơ bản và quan trọng nhất của loài người. Thực tiễn lao động sản
xuất của loài người là những hoạt động có ý thức, có mục đích, tức là sự
thống nhất giữa lao động chân tay và lao động trí tuệ. Mọi hoạt động sản
xuất của con người là những hành vi được tiến hành dưới sự chi phối của
tư tưởng, ý thức, quan niệm trên cơ sở những điều kiện khoa học và kỹ
thuật nhất định. Và tất cả những điều trên không thể tách rời cơ sở văn
hóa và bối cảnh văn hóa nhất định. Với tư cách là một mô thức đã định
của quan niệm và hành vi, văn hóa thẩm thấu và phát huy tác dụng của nó
một cách sâu sắc xuyên suốt toàn bộ quá trình lao động vật chất và lao
động tinh thần của con người.
Hai là, văn hóa và sức sản xuất có mối quan hệ biện chứng. Lịch sử phát
triển xã hội đã chứng minh rằng, sức sản xuất cùng một lúc giải quyết
được sự biến đổi vật chất giữa con người và mang hình thái vật hóa thâm
nhập sâu vào quá trình biến đổi của tinh thần con người, bao trùm là hệ
thống quan niệm, giá trị và các dạng thức, hành vi của văn hóa, thúc đẩy
văn hóa phát triển, mở rộng. Vì thế, văn hóa và sức sản xuất trong toàn bộ
thực tiễn xã hội chủ yếu là trong hoạt động kinh tế, chúng luôn thẩm thấu,
thúc đẩy lẫn nhau và luôn đạt được sự thống nhất nội tại. Xét từ quan
điểm sức sản xuất lớn thì văn hóa là sức sản xuất. Xét từ quan điểm đại
văn hóa thì sức sản xuất cũng là văn hóa.
Từ những luận giải trên, các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài
nước đã đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật bốn đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về
văn hóa vật chất, xã hội và tinh thần của cộng đồng người. Từ những
thành tố căn bản này đã nảy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều
tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.
Thứ hai, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị vật chất và giá
trị tinh thần) trở thành thước đo về mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn
tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.
Thứ ba, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một quá
trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng
người trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên - xã hội sáng tạo
và luôn hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.
Thứ tư, tính nhân sinh. Văn hóa là hiện tượng thuộc về xã hội loài người,
gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một
cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc về con người, ở trong con người và
mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ thể của văn
hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.
2. Điều kiện hình thành và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam
Văn hóa vốn là một hoạt động thuộc thế giới người nói chung và cũng là
đặc trưng của mỗi cộng đồng người nói riêng. Nó là điều kiện sinh tồn
của mỗi một con người, đồng thời cũng là thành tựu của từng tộc người
và là cái để phân biệt giữa cộng đồng người này với cộng đồng người
khác, là tấm “chứng minh thư” để xác định cá tính của từng dân tộc trong
cộng đồng nhân loại, là “tấm giấy thông hành” giúp các quốc gia dân tộc
cùng ngồi đàm phán, là thông điệp đưa các dân tộc xích lại gần nhau, là
cơ sở, là nền tảng, là trụ cột, là sức mạnh quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Văn hóa với tiềm lực, sức sống và thực lực độc đáo của mình, biểu hiện
và tỏ rõ sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Cội nguồn của những đặc điểm, đặc trưng văn hóa dân tộc cố nhiên phải
tìm trong những điều kiện lịch sử của dân tộc. Nhưng trước đó, và trong
suốt quá trình lịch sử, những điều kiện địa lý có ảnh hưởng đến phương
thức canh tác, hình thái kinh tế - xã hội - chính trị. Văn hóa là sự trả lời,
sự ứng phó của cộng đồng cư dân trước những thành thức của điều kiện
địa lý - khí hậu và xã hội - lịch sử. Bởi vậy, khi bàn đến nét riêng biệt -
cái đặc trưng của văn hóa Việt Nam, phải tìm đến cội nguồn của nó từ
thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý
đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản
sinh nên những đặc trưng, đặc điểm văn hóa ấy. Xét về mặt thiên nhiên,
văn hóa Việt Nam khởi thủy cùng chung trong khu vực Đông Nam Á.
Khởi thủy, không gian địa lý tự nhiên Đông Nam Á bao gồm khu vực
sông Trường Giang kéo dài về phương Nam, khu vực phía Nam dải Tần
Lãnh và khu vực Atxam hiện tại. Môi trường thiên nhiên ở đây nảy sinh
và phát triển văn hóa nông nghiệp lúa nước.
Về mặt nhân chủng, đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên,
về cơ bản, vùng Bách Việt (Việt - Mường) là vùng phi Hoa, phi Ấn. Khi
Trung Quốc bành trướng xuống lưu vực sông Trường Giang, Việt Nam
và Trung Quốc có sự khác nhau căn bản: Việt Nam là vùng châu Á gió
mùa, Trung Quốc là vùng châu Á đại lục, Việt Nam là vùng nông nghiệp
lúa nước, Trung Quốc là vùng nông nghiệp khô ( trồng kê, cao lương, lúa
mạch) và vùng Bách Việt co lại dần, chỉ còn lại Việt Nam - đại biểu duy
nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính
chất Dân tộc - Nhà nước (Nation- Etat), vừa với tính chất Dân tộc - Nhân
dân (Nation - People). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những cái bất dị
giữa Việt Nam và Trung Quốc(3).
Việt Nam - Đông Nam Á là vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất
nhưng đa dạng, do đó, văn hóa bản địa phong phú, đa dạng trong sự
thống nhất. Trào lưu lịch sử cùng với việc tiếp thu các nhân tố ngoại sinh
từ Ấn Độ, Trung Hoa, phương Tây, những nền văn hóa của vùng càng đa
dạng và càng có xu hướng phủ mờ cái gốc - văn hóa bản thể, văn hóa nội sinh trong vùng.
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và lịch sử hình thành quốc gia dân
tộc, văn hóa Việt Nam sớm có xu thế giao lưu, hội nhập, tiếp biến, nhờ
thế Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản sắc. Nền văn minh
Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu tiên của nhân loại.
Nhiều học giả thống nhất rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam được tạo ra ở
vùng lúa nước sông Hồng cách đây hơn 4 nghìn năm, được tôi luyện và
khẳng định trong 2 nghìn năm chống và đối thoại với Trung Quốc đã đủ
tầm cỡ để tiếp biến văn hóa thành công. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn
400 năm tiếp biến văn hóa Việt Nam với phương Tây dưới nhiều hình
thức, vừa có cưỡng bức, vừa có đối thoại văn hóa, có thời điểm vừa
chống lại, vừa tiếp thu, nhưng văn hóa Việt Nam vẫn vừa giữ được bản
sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.
Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn
hóa nói chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng
cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều
kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, Văn hóa
học, Văn hóa Việt Nam đã có nhiều ý kiến đa chiều về đặc trưng văn hóa
Việt Nam, tạo nên bức tranh phong phú, nhiều màu sắc, đôi khi là tương
phản, nhưng tổng hợp lại, văn hóa Việt Nam có những nét chung tương
đối khái quát, thể hiện ở 5 đặc trưng sau:
Một là, tính cộng đồng làng xã, thể hiện rõ ở 6 phẩm chất: Tính đoàn kết,
giúp đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể
diện; Tình yêu quê hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những
phẩm chất tốt, tính cộng đồng làng xã cũng để lại nhiều tật xấu trong văn
hóa: Thói dựa dẫm; Thói cào bằng, chụp mũ; Bệnh sĩ diện, háo danh;
Bệnh thành tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức v.v..
Hai là, tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng
âm là: Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm;
Thiên hướng thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên
cạnh đó, tính trọng âm cũng là mảnh đất hình thành những bệnh xấu như:
Bệnh thụ động, khép kín; Bệnh lề mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu
tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại v.v..
Ba là, tính ưa hài hòa, thể hiện ở bốn phẩm chất: Tính mực thước; Tính
ung dung; Tính vui vẻ, lạc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa
cũng gây mặt hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi quý;
Bệnh trung bình chủ nghĩa; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán...
Bốn là, tính kết hợp, thể hiện ở hai khả năng: Khả năng bao quát tốt; Khả
năng quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả
xấu như: Thói hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ…
Năm là, tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện ở 2
phẩm chất tốt: Khả năng thích nghi cao; Tính sáng tạo. Tính linh hoạt
nhiều khi cũng dẫn đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh
thiếu ý thức pháp luật…
Tổng hợp 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất,
giá trị cốt lõi tốt nhất là lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái,
thương người; tính cộng đồng làng xã; tính tinh tế.
Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn
vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự
phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn
cầu hóa cùng với sự tác động và nảy sinh của các yếu tố bên ngoài và nội
tại xã hội Việt Nam, sự xung đột về hệ giá trị giữa văn hóa nông nghiệp -
nông thôn truyền thống với văn hóa công nghiệp - đô thị hiện đại vẫn tiếp
diễn. Những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã và đang tập trung
nghiên cứu, đề xuất nhiều hướng đi, nhiều giải pháp phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai với mong muốn 5 đặc
trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam sẽ được bảo tồn và dịch chuyển theo
hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Một số đề tài đã được công bố, trong đó
nổi bật là đề tài cấp Nhà nước “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” thuộc chương trình Khoa
học và Công nghệ trọng điểm KX-04/11-15 Nghiên cứu khoa học lý luận
chính trị giai đoạn 2011-2015 do GS,TSKH Trần Ngọc Thêm làm Chủ
nhiệm. Trong đề tài này, khi bàn về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tác giả
đề xuất chuyển đổi đặc trưng văn hóa Việt Nam đến năm 2030 theo hướng sau:
Đặc trưng 1: Tính cộng đồng làng xã nên chuyển thành Tính cộng đồng xã hội.
Đặc trưng 2: Tính trọng âm và Đặc trưng 3: Tính ưa hài hòa nên chuyển
thành Tính hài hòa thiên về dương tính.
Đặc trưng 4: Tính kết hợp nên chuyển thành Tác phong công nghiệp.
Đặc trưng 5: Tính linh hoạt nên chuyển thành Tính linh hoạt trong nguyên tắc(4).
Hiện tại và tương lai sẽ còn nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn
đề này. Những đề xuất của họ sẽ được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm,
lựa chọn nhằm phục vụ mục đích cao cả là xây dựng nền Văn hóa Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Xây dựng văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015
(1) Nội nguyên (Endogenesis) là khái niệm trong sinh vật học, vốn chỉ sự
hình thành bên trong cơ thể tế bào sinh vật. Chúng tôi dùng khái niệm
này để chỉ sự hình thành và vận động bên trong của văn hóa, nền văn hóa.
(2) C.Mác: Phê phán kinh tế chính trị học, t.3 (1857-1859), Nxb Nhân dân, 1963, tr.358.
(3) Xem thêm Trần Quốc Vượng: Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy
ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr.56-77.
(4) Xem Trần Ngọc Thêm (chủ biên): Một số vấn đề về hệ giá trị Việt
Nam trong giai đoạn hiện tại, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr.56-77. PGS, TS Lê Văn Toan
Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Document Outline

  • (LLCT) - Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hóa cùng với sự tác đ...
  • 2. Điều kiện hình thành và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam
  • PGS, TS Lê Văn Toan