






Preview text:
bài tập lịch sử văn minh thế giới
đại cương văn hoá (Trường Đại học Lao động - Xã hội) Bài tập C1: 1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế
quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính
sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm
lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời
sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay
gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng
soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời
đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với
Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị,
biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực
dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế
điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt
Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành
ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn
bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức
thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh
hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử,
giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. C2:
1. Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến: – Phong trào Cần Vương do
Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896), nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra sôi nổi
rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp
nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc
đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp 1 cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp
nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc
nên cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng thất bại năm 1896 là lúc chấm dứt vai
trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước Việt Nam.
2. Phong trào chống Pháp theo khuynh hướng tư sản: Phan Bội Châu thành lập Duy
Tân hội (chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến như ở Nhật, tổ chức đưa
thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật học tập. Năm 1912 lập tổ chức Việt
Nam Quang Phục hội với tôn chỉ là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam,
thành lập nước cộng hòa dân quốc Việt Nam. Nhưng chương trình, kế hoạch hoạt
động của hội lại thiếu tôn chỉ rõ ràng. Khi Phan bội Châu bị bắt thì ảnh hưởng của
tổ chức này đối với phong trào yêu nước Việt Nam chấm dứt.
3. Các phong trào yêu nước trên đều biểu dương tinh thần yêu nước, bất khuất của
dân tộc Việt Nam nhưng hầu hết đều thất bại vì:
– Các phong trào yêu nước từ các lập trường phong kiến đã thất bại là do không có
đường lối đúng đắn vì giai cấp phong kiến, địa chủ đã không còn khả năng dẫn dắt
dân tộc thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
– Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị
không rõ ràng, nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa
vào uy tín cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự thống
nhất cao trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì vậy nên khi người lãnh
đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
C3: Vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:
+ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước đã diễn ra tuy nhiên các
phong trào yêu nước này lại thất bại, song nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo,
chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng
đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bằng lòng yêu nước mãnh liệt và tầm nhìn sáng suốt của mình, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi
tìm đường cứu nước, sau gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt
động không ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần đầu tiên
Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo số ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu
hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn
giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng
vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
+ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước và chuẩn bị
những điều kiện cho sự thành lập Đảng
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái Quốc đã
phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những
bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh.
Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ
các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán
bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí.
Trong những năm 1928 – 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục
phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác – Lênin được Nguyễn Ái
Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào “vô sản
hoá” đã làm chuyển biến phong trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách
mạng một cách tự giác.
+ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập
Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung
Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Với sự
nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương
trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. C4: – Điểm giống nhau:
+ Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất
của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản
+ Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và
giành độc lập dân tộc.
+ Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng
cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
+ Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về
chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc
và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
+ Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
+ Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản – Điểm khác nhau:
+ Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương
chính trị xây dựng đường lối cách mạng cho Việt Nam nói riêng và các nước Đông Dương nói chung.
+ Xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng:
Cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau
đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng(nhiệm vụ dân tộc và dân chủ).
Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng
dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Mục tiêu của cương lĩnh xác định: làm cho Việt
Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ
chức cho quân đội công nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông
giáo dục theo hướng công nông hóa.
Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh
đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và
“đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương
chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên
không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn
đề cách mạng ruộng đất. + Lực lượng cách mạng
Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân
nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập
phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách
mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai
cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của
cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương
nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về
phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Cương lĩnh chính trị
– Chiến lược và sách lược: Cách mạng
– Mục tiêu chiến lược: Chủ trương làm tư Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách dân quyền, sau đó tiến thẳng lên XHCN,
mạng để đi tới xã hội cộng sản
bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
– Nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân
– Nhiệm vụ đánh phong kiến và đánh đế chủ nhân dân
quốc là hai nhiệm vụ có quan hệ khăng
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn khít.
phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn
– Động lực cách mạng là công nhân và
toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công, nông dân.
nông, binh; tổ chức ra quân đội công-
– Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nông.
nhân – Đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
– Về lực lượng cách mạn
– Nêu rõ hình thức, biện pháp đấu tranh,
+ Lực lượng cách mạng: công nhân, nông
quan hệ giữa CMVN và cách mạng thế
dân, tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc và giới.
các cá nhân yêu nước thuộc tầng lớp địa – Hạn chế: chủ vừa và nhỏ.
+ Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của
+ Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo xã hội Đông Dương. cách mạng
+ Không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng
– Về phương pháp cách mạng: Bạo lực
đầu, nặng về đấu tranh giai cấp và cách
cách mạng gồm có lực lượng chính trị và mạng ruộng đất. lực lượng vũ trang
+ Đánh giá không đúng khả năng cách
– Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết chặt chẽ
mạng của tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp tư
với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản dân tộc,khả năng lôi kéo bộ phận
sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản
trung, tiểu địa chủ tham gia Mặt trận dân Pháp.
tộc thống nhất, chống đế quốc và phong
– Vai trò lãnh đạo của Đảng: Nhân tố kiến.
quyết định nhất đến CMVN: có đường lối
đúng; CNMLN là nền tảng tư tưởng; thâu
phục giai cấp công nhân vào Đảng…
C5: Cao trào 1930-1931 : - Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ( 1929-1933) từ các nước
tư bản lan nhanh sang thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Thực dân Pháp thực hiện nhiều
thủ đoạn nhằm trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính quốc lên vai nhân
dân thuộc địa, trong đó có Việt Nam. - Nền kinh tế Việt Nam trên các mặt công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, tài chánh ... đều bị sa sút. Đời sống của các tầng lớp nhân dân
ngày càng khó khăn. - Từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng
thất bại, thực dân Pháp ra sức đẩy mạnh khủng bố trắng càng làm cho dân thêm căm thù
và quyết tâm đấu tranh giành quyền sống. - Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời ngày 3-2-1930, với Cương lĩnh đúng đắn đã biến sự căm thù của quần chúng thành
hành động cách mạng, Đảng đã kịp thời nắm quyền lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công - nông.
Cao trào 1936-1939: -Căn cứ vào tình hình trên, tại Hội nghị Trung ương Đảng 7-1936
Đảng ta xác định kẻ thù chính, trước mắt cách mạng Đông Dương lúc này chưa phải là
thực dân Pháp nói chung mà là bọn phản động thuộc địa Pháp không chịu thi hành những
chính sách tiến bộ của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. - Tạm gác hai khẩu hiệu ; Độc
lập dân tộc” và “ Người cày có ruộng”, chỉ đề ra chủ trương đòi tự do, dân sinh, dân chủ.
- Tập hợp mọi lực lượng yêu nước và dân chủ ở Đông Dương, kể cả những người Pháp
dân chủ ở Đông Dương, để thành lập một mặt trận chung lấy tên là “ Mặt trận dân chủ
thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương”, nhằm đấu tranh chống phát xít và chiến
tranh, chống bọn phản động thuộc địa Pháp, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà
bình. - Phát động quần chúng đấu tranh dưới nhiều hình thức như : đấu tranh chính trị,
hoà bình, công khai, hợp pháp để khi cần thì rút vào bí mật bảo toàn lực lượng của ta.
Cao trào 1939-1945: Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-5-1945, Hồng quân Liên
Xô chiếm Béclin, tiêu diệt phátxít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9-5-1945, phátxít
Đức đầu hàng không điều kiện, ở châu Á, phátxít Nhật đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội
nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945-
Hội nghị nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới và quyết định
phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phátxít Nhật và tay sai,
trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đâu tranh lúc này là: "Phản đôi xâm lược"; "Hoàn toán độc
lập"; "Chính quyền nhân dân". Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung,
thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố
hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch, v.v..
Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại
trong tình hình mới. về đối nội, sẽ lây Mười chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách
cơ bản của chính quyền cách mạng, về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đăng, hợp
tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết
sức tránh trường hợp một mình phải đối phó nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; phải tranh
thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhâl là nhân dân Pháp và
nhân dân Trung Quốc. Hội nghị quyết định cử úy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường
Chinh phụ trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương.
Ngay đêm 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
Dưới sự lãnh dạo cùa Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa
giành chính quyền. Từ ngày 14-8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều
đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và hỗ
trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền. Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc
Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tình, Quảng Nam và Khánh
Hòa giành chính quyền ở tỉnh lỵ.
Ngày 19-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần chúng sau
khi dụ míttinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau chóng tỏa đi các
hướng chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại lính bảo an, SỞ cảnh sát và các công sở
của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn
quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cư. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 có ý nghĩa quyết định đối với cả
nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các
tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế, ngày 25-8-1945, khởi nghĩa giành
thắng lợi ở Sài Gòn. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngàv 28-8-1945) cuộc Tồng
khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại cuộc míttinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính
phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố'
với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
