



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA KINH TẾ TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
Phân tích sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975. Tự hào về truyền thống
của Đảng bản thân phải học tập và phấn đấu như thế nào để góp phần vào công tác
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước của Đảng ta hiện nay. GVHD
: TRẦN XUÂN THUYẾT SVTH
: PHẠM THỊ QUỲNH THƯƠNG MSSV 21030042 LỚP : 24QT01
Bình Dương 2023 - 2024
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA KINH TẾ TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
Phân tích sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975. Tự hào về truyền thống
của Đảng bản thân phải học tập và phấn đấu như thế nào để góp phần vào công tác
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước của Đảng ta hiện nay. GVHD
: TRẦN XUÂN THUYẾT SVTH
: PHẠM THỊ QUỲNH THƯƠNG MSSV 21030042 LỚP : 24QT01
Bình Dương: 2023 - 2024
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Khoa Kinh tế, Trường Đại học
Bình Dương đã đưa môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam vào chương trình học tập
chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
giảng viên bộ môn là thầy Trần Xuân Thuyết. Chính thầy là người đã tận tình dạy dỗ và
truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt học kỳ vừa qua.
Trong thời gian tham dự lớp học của thầy, em đã được tiếp cận với nhiều kiến thức bổ ích
và rất cần thiết cho quá trình học tập, làm việc sau này.
Em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận. Tuy nhiên, những kiến thức và kỹ năng về môn học này của em vẫn
còn nhiều hạn chế. Do đó, bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những sai sót. Kính mong
quý Thầy Cô xem xét và góp ý giúp bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của thầy Trần Xuân Thuyết đã
giúp đỡ chúng em trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn! Phạm Thị Quỳnh Thương MỤC LỤC
1. Đường lối trong giai đoạn 1954 - 1964… ........................................................................................ 1
a) Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954… ................................................... 1
b) Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối ................................................................ 2
Nội dung của đường lối
2. Đường lối trong giai đoạn 1965- 1975… .......................................................................................... 8
a) Bối cảnh lịch sử ................................................................................................................................. 8
b) Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối ................................................................ 9
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và liên hệ bản thân trong tình hình đất nước công
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ...................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................... 20 MỞ ĐẦU
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí,
khátvọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm,
làcuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt và phức tạp nhất trong lịch sử
chống ngoạixâm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh lâu dài ấy, đế quốc
Mỹ đã nhiều keo thấtbại phải bị động thay đổi chiến lược; ta đánh thắng từng chiến
lược chiến tranh của địch,giành thắng lợi từng bước làm thay đổi cục diện chiến
trường.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn
toàn cuộckháng chiến chống Mỹ, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ
nguyên mới đối vớinước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộckháng chiến lịch sử này đã cho thấy được sức
mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được thể
hiện sâu sắc qua những đường lối chính trị vàđường lối quân sự đúng đắn, những
chiến lược sáng tạo, nhạy bén trong cách phòng và đánhgiặc, truyền thống yêu
nước nồng nàn của đất nước ngàn năm văn hiến cho cuộc kháng chiếnchống đế
quốc Mỹ xâm lược lâu dài, cam go, quyết liệt. Việc xác định đường lối cách
mạngđộc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy
chiến lược, tàithao lược xuất sắc của Đảng, nhất là ở những thời điểm mang tính
bước ngoặt của cuộc khángchiến.Không chỉ là một cuộc chiến mang tầm lịch sử
mà khi ấy nghệ thuật quân sự và chiếntranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới
đỉnh cao, vô cùng độc đáo, mới mẻ. Sau một thờigian tìm hiểu và nghiên cứu và từ
những kiến thức thu được trong quá trình học tập , nhómem đã chọn đề tài: “Các
chiến lược trọng yếu trong kháng chiến chống Mỹ 1954-1975_Bàihọc kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử” NỘI DUNG
1. Đường lối trong giai đoạn 1954-1964
a) Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954:
Sau hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam có nhiều thuận lợi mới nhưng
cũng phải đối phó với nhiều thử thách phức tạp: Thuận lợi:
Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của
Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, chấu Phi và Mỹ La Tinh;
phong trào hòa bình dân chủ lên cao ở các nước tư bản; miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách
mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến; ý chí độc lập
thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam. Khó khăn:
Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh có âm mưa bá chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thể giới bước vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và TBCN; sự xuất
hiện bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nhất là giữa Liên Xô và Trung
Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn và lạc
hậu, miền Nam trở thành thuộc đia kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở
thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. 1
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau ở hai miền đất nước có
chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam
sau tháng 7/ 1954. Đặc điểm trên và những thuận lợi, khó khăn chính là cở
sở đế Đảng phân tích hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng
cả nước trong giai đoạn mới.
b) Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối:
Quá trình hình thành của đường lối
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được
đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước,
vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới
và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu
của tình hình trong lúc cách mạng
Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòà
bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyền vào thành thị; từ
phân tán chuyền sang tập trung.
Tại hội nghị lần thứ bảy ( tháng 3- 1955) và lần thứ tám ( tháng 8- 1955)
Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, cũng cố
hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lỗi là
phải ra sức cũng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ 2
cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh
để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền
Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị
quyết về cách mạng miền
Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những
đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh
độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960, đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-1964.
Nội dung của đường lối
Nhiệm vụ chung: “tăng cường đoàn kết dân tộc, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời
đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc 3
Trong niềm vui miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng chuẩn bị trở về Thủ đô. Ngày 19-9-1954, Người về
thăm Đền Hùng, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân
Tiên phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: “Các Vua Hùng
đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Người nêu những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là kiên quyết thi hành
hiệp định đình chiến, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, tiếp tục cải
cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng...“nhằm củng cố hoà bình,
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”. Về đối
ngoại, Người nêu lên chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tán thành 5
nguyên tắc chung sống hoà bình, lấy đó làm cơ sở để xây dựng và phát triển
mối quan hệ với các nước láng giềng Lào, Miên và các nước Đông Nam Á
khác. Với nước Pháp, cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn hoá trên
nguyên tắc bình đẳng, hai bên đều có lợi, đoàn kết với nhân dân Pháp và
nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng tập trung lãnh
đạo củng cố miền Bắc về mọi mặt, vì “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực
lượng đấu tranh của toàn dân ta”.
Trong việc khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết
phải khôi phục và nâng cao sản xuất nông nghiệp. Người đã phát động
phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm mùa xuân. kêu gọi cấy lúa xuân,
trồng các loại hoa màu ngắn ngày để cứu đói. Để đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, thì phải tiếp tục thực hiện "người cày có ruộng", vì vậy Đảng và
Chính phủ đã quyết định tiến hành cải cách ruộng đất đợt 5, đợt cuối cùng
của cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp phong kiến ở miền Bắc. Sau gần nửa năm
tiến hành khẩn trương và gian khô, cải cách ruộng đất đợt 5 đã căn bản hoàn 4
thành ở đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi. Thắng lợi đó đã "mở đường
cho đồng bào nông thôn ta xây dựng cuộc đời ấm no, góp phần xứng đáng
vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh để đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà". Tuy nhiên trong
quá trình này đã xảy ra những sai lầm cơ bản về nhận thức, đường lối,
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những sai lầm này đã ảnh
hưởng lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nói riêng
và cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nói chung.
Song song với việc phát triên nông nghiệp là đây mạnh phát triên công
nghiệp. Theo Người: Đời sống của nhân dân chi có thể được cải thiện khi
chúng ta dùng máy móc trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, để đưa
năng suất lao động lên cao. Người đã đi thăm và tìm hiểu tình hình sản xuất
cũng như đời sống của cán bộ, công nhân các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí
nghiệp, khu mỏ của các tỉnh Hải Phòng, Hồng Quảng, Nam Định, Lào Cai,
Phú Thọ, Nghệ An,Hà Nội...
Đi đôi với việc lãnh đạo khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng tới việc chỉ đạo phát triển nền văn hoá nước nhà. Người nói: Giáo dục
phải cung cấp cán bộ cho kinh tế.
Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được... Giáo dục không phát triển thì
không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Người còn nhắc nhở việc chăm
sóc sức khỏe cho toàn dân. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
quan tâm tới việc củng cố, xây dựng và phát triển quân đội và công an nhân
dân, những lực lượng có vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ nền độc
lập của dân tộc, giữ gìn hòa bình, chống thù trong giặc ngoài, chống bọn phá
hoại và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng đã làm rõ hơn những nội dung cụ thể về đường lối,
nhiệm vụ chiến lược và mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược
đồng thời tiến hành ở hai miền trong cuộc đấu tranh đòi thực hiện đúng
những điều khoản của Hiệp định Giơnevo. Người nhấn mạnh: "Xây dựng
chủ nghĩa xã hội thành công thì đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thắng lợi".
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập và dân chủ cho cả nước.
Nhân dân ta ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 15 (1-
1959), Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, đã đầy
mạnh cuộc đấu tranh chính trị đồng thời với đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ
trang, tiến công địch trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự và đã giành
được thắng lợi ngày càng to lớn. Tháng 3-1961, các lực lượng vũ trang cách
mạng ở miền Nam đã được hợp nhất lại, thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Mục tiêu chiến lược: "nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải
quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà bị chia cắt.
Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa
nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu
chung trước mắt là hòa bình thống nhất tổ quốc”. 6
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: “Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước:
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ
căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho
cả nước đi lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết
định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.Con đường thống
nhất đất nước: trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng
kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần hiệp nghị Giơnevơ,
sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt Nam,
vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù
hợp với xu hướng chung của thế giới: “Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng
cao cảnh giác, sẵn sang đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn
tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì
nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc
lập và thống nhất tổ quốc”.
Triển vọng của Cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống
nhất nướcnhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức
tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum
họp một nhà, cả nước sẽ đi lên XHCN. 7
Ý nghĩa của đường lối
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp
với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình
quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền
tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế
giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do
đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của
cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của
Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa
đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi
miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những
thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
2. Đường lối trong giai đoạn 1965-1975
a) Bối cảnh lịch sử: 8
Từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân Mỹ và các nước chư hầu vào miền
Nam nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến
lược “chiến tranh đặc biệt”. Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ”
với quy mô lớn, đồng thời dùng không quân, hải quân phá hoại miền bắc.
Trước tình hình đó, Đảng tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi cả nước. Thuận lợi:
Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cách mạng thế giới đang ở thế
tấn công. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục
tiêu về kinh tế, văn hóa. Ở miền Nam, từ năm 1963 cuộc đấu tranh của quân
dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của “Chiến tranh đặc biệt”
(ngụy quân, ngụy quyền và ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân ta tấn công
liên tục. Đến năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị phá sản. Khó khăn:
Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng ngày càng gay gắt, không có
lợi cho cách mạng Việt Nam. Mỹ mở cuộc “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam
làm cho tương quan lực lượng bất lợi cho ta. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cho
Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
b) Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối :
Quá trình hình thành của đường lối: 9
Quá trình hình thành đường lối cách mạng kháng chiến chống Mỹ trong giai
đoạn 1964- 1975 tiếp tục thừa kế đường lối chỉ đạo của giai đoạn trước
(1961- 1962 ), đồng thời đưa ra đường lối mới trong ba hội nghị trung ương
Đảng lần thứ 9, 10, 11 để phù hợp với tình hình cách mạng lúc đó.
Hội nghị của Bộ Chính trị đầu 1961 và 1962 nêu chủ trương giữ vững và
phát triển thế tiến công giành được sau “đồng khởi” 1960, đưa cách mạng
miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng
trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa quần
chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị,
phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới ngang tầm với đấu
tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị
song đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh
vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng
chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.
Hội nghị TW Đảng lần IX (11-1963): xác định đúng đắn quan điểm quốc tế,
hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để đánh và thắng Mỹ.
Hội nghị khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều
có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu
tranh vũ trang. Xác định nhiệm vụ của miền Bắc là căn cứ địa, hậu phương
đối với cách mạng miền Nam, nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn
sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.Hội nghị Trung ương lần thứ XI
(tháng 3/1965) và lần thứ XII (tháng 12/1965): tập trung đánh giá tình hình
và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước.
Nội dung của đường lối: 10
Trong giai đoạn trước đó, Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam
nhưng thất bại và chuyển sang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình
hình đó, Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ 11
(tháng 3-1965) và lần thứ 12 (tháng 12-1965) tập trung đánh giá tình hình và
vạch ra đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước trên cả nước. Nội dung
đường lối gồm các vấn đề chính sau:
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng nhận
định cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ là một cuộc chiến tranh xâm lược thực
dân kiểu mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động nên
nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Mỹ đưa quân vào miền Nam
trong thế thua, thất bại thảm hại của chiến tranh đặc biệt (1961-1965), và
lâm vào cuộc khủng hoảng quân sự chính trị trầm trọng. Hơn nữa phong trào
cách mạng ở hai miền đang phát triển mạnh: miền Bắc được xây dựng và
phát triển về mọi mặt và là hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam.
Từ sự phân tích đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc cả nước từ Bắc chí Nam. Như vậy
so với nhiệm vụ chung trong đại hội lần 3 mà Đảng đã xác định thì nhiệm vụ
giai đoạn này nhấn mạnh đến nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ
trọng tâm và quan trọng nhất.
Về quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “ quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, “ kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ trong bất kì tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc và giải
phóng miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới hòa binh thống nhất nước nhà”6. Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở khoa học. Thủ tướng 11
Phạm Văn Đồng nói “ đế quốc Mỹ sử dụng phương tiện khoa học để tiến
hành chiến tranh. Còn ta lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh chống Mỹ cứu nước
một cách khoa học”. Sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh chống Mỹ cứu nước
một cách khoa học của ĐCSVN được thể hiện ở chỗ Đảng đã vận dụng
phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng ta quán
triệt quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử. Phương
châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạng cuộc chiến tranh nhân dân
chống “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, mà Mỹ tiến
hành bằng không quân và hải quân, nhằm
phá hoại tiềm lực kinh tế-quốc phòng, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc
cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam,
hỗ trợ cho chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam;
thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở
những cuộc tiến công lớn tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong
thời gian khá ngắn trên chiến trường miền Nam. Trong chiến tranh cục bộ,
Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu ồ ạt vào miền Nam trực
tiếp tham chiến; đồng thời tăng cường không quân và hải quân đánh phá
miền Bắc. Đây là bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở
Việt Nam, cũng là lần đầu nước Mỹ xuất quân đi xâm lược với số lượng lớn
nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Giới cầm quyền Mỹ đã huy
động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất vào cuộc chiến tranh xâm lượt Việt Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: giữ vững và phát
triển thế tiến công kiên quyết tiến công và tiếp tục tiến công. “Tiếp tục kiên 12
trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị, triệt để vận
dụng cả ba mũi giáp công”7, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự,
chính trị, binh-địch vận) là sáng tạo của nhân dân miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong ba mũi
giáp công ấy, binh- địch vận là mũi giáp công quan trọng. Phong trào Đồng
khởi ở miền Trung Nam Bộ và Nam Bộ (1959-1960), mà điển hình là ở tỉnh
Bến Tre, binh- địch vận trở thành mũi tiến công chủ yếu với các hình thức
phong phú như dùng nội tuyến diệt ác ôn, nghi binh hù dọa địch, dùng lực
lượng gia đình binh sĩ kêu gọi địch đầu hàng..., đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược, địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị,
kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của
các binh đoàn chủ lực, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện
làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm
chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ mở những cuộc tiến công
chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến
công và nổi dậy đồng loạt, đè bẹp quân địch, giành thắng
lợi cuối cùng. Trong giai đoạn này, đấu tranh quân sự có một vị trí ngày
càng quan trọng và có tác dụng trực tiếp.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế
(chuyển sang kinh tế thời chiến), đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững
mạng về kinh tế và quốc phong trong điều kiện có chiến tranh, tiến hanh
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để
bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và động viên sức người sức
của cao nhất chi viện cho miền Nam, đồng thời chuẩn bị tinh thần đánh bại
địch trong trường họp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. 13
Hội nghị xác định “Tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng
kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền bắc, đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của
địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc
chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển
nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả hai miền nam lần miền bắc. ra sức
động viên lực lượng của miền bắc chi viện cho miền nam”. Hội nghị quyết
định nhiệm vụ cấp bách của ta ở miền Bắc lúc này là phải kịp thời chuyển
hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường
lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới. Miền Bắc phải có đủ sức
mạnh, kịp thời với yêu cầu tự bảo vệ, chống lại các cuộc ném bom bắn phá
và phong toả của địch.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền
Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì miền
Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu vững chắc của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Phải tiến hành đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo vệ chi
viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây
không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của tất
cẳ nhân dân lúc này là: tất cả để đánh thắng giặc mỹ xâm lược”
Ý nghĩa của đường lối:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng: 14
- Một là, thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến
công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
- Hai là, thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và sự kết hợp chặt chẽ hai
chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ
khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
- Ba là, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, nên tạo sức mạnh mới để dân
tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xăm lượt.
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm.
a) Kết quả và ý nghĩa lịch sử Kết quả
- Ở miền Bắc: Công cuộc xây dựng chế độ XHCN đạt được những thành tựu đáng tự hào.
Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hình thành. Dù
chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất nhưng văn hoá, xã hội, y
tế, giáo dục không những được duy trì mà còn phát triển mạnh. Sản xuất
nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường. Quân dân
miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ điển hình
là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” (1972). Miền Bắc hoàn thành 15