Đề cương môn Giao tiếp trong môi trường đa văn hóa
Đề cương môn Giao tiếp trong môi trường đa văn hóa
Môn: Giao tiếp trong môi trường đa văn hóa
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Đề cương môn: Giao tiếp trong môi trường đa văn hóa
Câu 1: Vì sao phải nêu vấn đề giao tiếp đa/ liên văn hóa?
Xu thế không thể đảo ngược – toàn cầu hóa yêu cầu các “công dân toàn cầu”
- Giao tiếp đa văn hóa phá vỡ mọi rào cản
- GTĐVH giúp cải thiện sự tự tin
Kĩ năng giao tiếp tốt sẽ giúp bạn tăng hiệu suất làm việc, cũng như tự tin thể hiện quan điểm của
mình với những người không cùng văn hóa và ngôn ngữ. Với những cá nhân có kĩ năng giao
tiếp đa văn hóa tốt, họ sẽ quan sát và biết rõ văn hóa giao tiếp ở những quốc gia khác nhau để
tránh xảy ra những lỗi giao tiếp ngớ ngẩn.
Ví dụ: Về cách chào hỏi đối tác, đồng nghiệp ở Pháp và Mỹ có sự khác biệt lớn. Ở Pháp, việc
hôn chào nhau giữa người với người là việc thể hiện sự tôn trọng và vui mừng khi được gặp mặt,
nhưng người Mỹ lại không làm thế, một cái bắt tay chặt mới thể hiện sự quý mến nhau ở lần gặp đầu tiên.
Giao tiếp đa văn hóa là một trong những kĩ năng cần thiết của thời buổi hiện nay. Nếu bạn
vẫn muốn là một phần của sự phát triển vượt bậc như ngày nay, bạn buộc phải đi lên,
vượt qua mọi rào cản văn hóa để tiếp thu những kiến thức nhân loại.
Cuộc thăm dò do tổ chức GlobeScan tiến hành trong tháng 4 cho thấy 51% người dân ở 18 quốc
gia trên toàn thế giới thiên về quan điểm toàn cầu so với 43% thiên về quốc gia. Điều đáng chú
ý là quan điểm toàn cầu xuất phát từ đa số các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi
trong khi các nước giàu như Đức và Anh đa số dân lại ít có quan điểm toàn cầu hóa hơn. Theo
ông Lionel Bellier, Phó giám đốc GlobeScan, một trong những nguyên nhân khiến công dân các
nước phát triển ít ủng hộ toàn cầu hóa là vì người dân ở các nước phát triển dễ bị mất việc và họ
nhìn thấy nhiều khía cạnh tiêu cực của toàn cầu hóa. Ngược lại, công dân các nước đang phát
triển ngày càng cảm thấy quốc gia mình trở nên quan trọng hơn và được phương Tây lắng nghe
hơn so với cách đây hơn 20 năm.
Tổng quan về toàn cầu hóa
Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá (Globalization) là một hiện tượng, một quá trình, một xu
thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã
hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường, v.v…) giữa các quốc gia. Nói một
cách khác,“Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm
nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.”.
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị trường
toàn cầu làm tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia. Biểu hiện
của toàn cầu hoá có thể dưới dạng khu vực hoá – việc liên kết khu vực và các định chế, các tổ
chức khu vực, hay cụ thể, toàn cầu hoá là “quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn
cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế, giữa các nước
thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và nguồn lực (resources) qua biên giới giữa
các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức quốc tế nhằm quản lý các hoạt động
và giao dịch kinh tế quốc tế.”
Lý giải về “công dân toàn cầu”
Công dân toàn cầu (Global Citizen) là những người sống và làm việc ở nhiều quốc gia
khác nhau. Họ có thể có một hoặc nhiều quốc tịch. Hiện tượng xuất hiện khái niệm công dân
toàn cầu đã làm thay đổi cơ bản mọi khái niệm và giá trị về biên giới, lãnh thổ, chính trị, văn
hóa, quản lý nhà nước và cả ngành tư pháp quốc tế.
Môi trường liên/ đa văn hóa đòi hỏi người tương tác liên văn hóa
Trong thời kì hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, đòi hỏi con người ta cũng phải trở thành công dân
toàn cầu, một công dân biết thích nghi, biết hòa nhập với thế giới. Môi trường làm việc quốc tế,
chuyên nghiệp sẽ giúp bạn thành người có năng lực giải quyết các vấn đề một cách khoa học,
chính xác. Trong đó, ta phải học hỏi, ngày ngày trau dồi những kĩ năng cần thiết để hoàn thiện,
phát triển bản thân, học ngoại ngữ mỗi ngày.
Câu 2: Hoạt động ngôn ngữ trong một giao tiếp đa/ liên văn hóa luôn đi kèm những” yếu tố
ngoại ngôn”. Chỉ ra phân tích các yếu tố đi kèm với lời nói này.
Các yếu tố “ngoại ngôn” bao gồm:
Cử chỉ, nét mặt, tư thế, ngôn ngữ hình thể
Một trong những sai lầm chính trong các bài phát biểu, các bài thuyết trình, diễn thuyết là
chúng ta quá chú ý đến nội dung mà quên mất kĩ năng quan trọng khi nói trước đám đông là
ngôn ngữ hình thể. Không ai muốn nghe 1 bức tượng đơ trên sân khấu nói chuyện vì vậy bạn
nên nở nụ cười rạng rỡ, nhấn mạnh những nội dung quan trọng, biết đưa cảm xúc vào bài nói.
Nét mặt thì luôn được thả lỏng, tươi tắn, dịu dàng, thân thiện, bình tĩnh, không nên thể hiện sự
căng thẳng, lo lắng, thái độ hay vẻ mặt ủ rũ. Dùng những cử chỉ nhẹ nhàng, uyển chuyển phù hợp với hoàn cảnh.
Khoảng cách hay cự li giữa các thành viên cuộc giao tiếp
Theo nhà nhân chủng học người Mỹ Edward T.Hall, khoảng không mà chúng ta duy trì
giữa chúng ta những người mà chúng ta đang giao tiếp cho thấy tầm quan trọng của những
nghiên cứu về không gian giao tiếp. Trong quá trình này, cách mà chúng ta cảm nhận đối với
những người khác trong những thời điểm đặc biệt được ghi nhận. Trong nền văn hóa Mỹ, Hall
xác định 4 vùng khoảng cách cơ bản:
- Khoảng cách thân mật: tiếp xúc tới 45cm
- Khoảng cách cá nhân; từ 45cm đến 1,2m
- Khoảng cách xã hội; từ 1,2m đến 3,6m
- Khoảng cách cộng đồng: >3,6m
Các vật thể trang trí, các biểu tượng địa vị
Chúng ta nên sử dụng các vật trang trí liên quan đến hoàn cảnh nói, không rườm rà, không cần
quá đắt tiền, hãy đơn giản hóa vấn đề để tránh bị ảnh hưởng bởi những cái bên ngoài cuộc trò
chuyện làm mất tập trung,…
Ví dụ: khi tổ chức một bữa tiệc sinh nhật, cta nên trang trí dòng chữ “happy birthday”…, một
chút bóng bay và một cái bánh kem…
Bởi trong bất kì hoàn cảnh nào, cuộc hội thoại giao tiếp nào cũng đều có những ngoại cảnh,
những yếu tố xung quanh làm nền, nó sẽ tạo cảm giác không trống vắng, tự nhiên, gần gũi…
Trang phục, đồng phục, thức ăn, bia rượu
Trang phục lịch sự, phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau, tránh mặc những đồ gây phản cảm, mất mĩ quan.
Ví dụ: Khi thuyết trình bài tập chúng ta nên mặc quần âu, đen, áo sơ mi hay những bộ trang phục
tương tự nhưng thoải mái để tránh ảnh hưởng đến phong thái thuyết trình của bản thân. Khi
trong cuộc giao tiếp với nhiều người, chúng ta không nên ăn những món ăn có mùi quá nồng vì
nó sẽ gây cảm giác khó chịu cho những người xung quanh.
Mùi thân thể (hay mùi nước hoa) và tiếng ồn, tạp âm,…
Ngoài trang phục lịch sự, hành động lịch thiệp,… chúng ta cũng cần có một sự chuẩn bị kĩ càng
về mùi hương trên cơ thể (ví dụ: nước hoa)- một mùi hương không quá nồng hay gắt mà dịu nhẹ
sẽ khiến cho cuộc đối thoại, giao tiếp trở nên thoải mái và khiến bản thân mình tự tin hơn.
Câu 3: Năng lực giao tiếp liên/ đa văn hóa là gì? Phân tích mối quan hệ tổng hòa của ba bình
diện: tri nhận, cảm xúc và hành vi trong năng lực giao tiếp liên/ đa văn hóa
a. Năng lực giao tiếp liên/ đa văn hóa là khả năng “tương tác hiệu quả và phù hợp với các
thành viên thuộc các nền văn hóa khác”, khả năng “dàn xếp có ý nghĩa văn hóa và thực
hiện các hành vi giao tiếp hiệu quả, phù hợp”.
• Tương tác hiệu quả và phù hợp với các thành viên thuộc nền văn hóa khác.
Một người có năng lực giao tiếp liên văn hóa tốt là một người có sự hiểu biết rộng, biết tìm
tòi về văn hóa nước khác trên các nền tảng mạng xã hội=> những hiệu quả tích cực, có những
đóng góp to lớn trong các công việc bàn bạc, kêu gọi hỗ trợ trong các công việc của công ty.
Và họ biết cách ứng xử với từng người thuộc nền văn hóa khác nhau mà không đem lại cảm
giác phân biệt văn hóa, vùng miền.
• Dàn xếp có ý nghĩa văn hóa và thực hiện các hành vi giao tiếp hiệu quả, phù hợp. Họ biết
cách làm hài lòng những người của nền văn hóa khác. Biết cách sắp xếp, lên kế hoạch
cho một cuộc giao tiếp đa văn hóa. Từ đó có những hành vi chuẩn mực, đúng đắn.
b. Cấu trúc năng lực giao tiếp liên/ đa vhoa gồm: ( GTL/ĐVH là sự hòa nhập của 3 bìnhdiện tương liên)
Tri nhận: được hiểu như là cách chúng ta biến các năng lượng vật chất từ môi trường
thành các kinh nghiệm có ý nghĩa trong đầu chúng ta.
Chẳng hạn như: cảm nhận 1 hành vi là lịch sự hay thô lỗ.
Có thể kể ra 3 thành tố có liên quan đến việc hình thành tri nhận của chúng ta là hệ thống:
thái độ/ niềm tin/ giá trị, thế giới quan, và tổ chức xã hội. -
Niềm tin được hiểu như là xác suất mang tính chủ quan rằng 1 sự vật hay
thực thể nào đó có thể xảy ra, xuất hiện hay mang 1 số đặc điểm nhất định. Chẳng hạn
chúng ta tin rằng ra cổng gặp phụ nữ là không may. Tuy nhiên, trong gt liên/ đa vhoa
thì khái niệm đúng/ sai của niềm tin không có ý nghĩa nhiều lắm bởi lẽ cái được coi
là đúng cho dân tộc này thì chưa hẳn được đánh giá như vậy ở nền văn hóa khác. -
Thế giới quan: là 1 thành tố quan trọng bậc nhất trong cấu trúc cảm nhận
của chúng ta. Nó có liên quan đến xu hướng của cả một nền vhoa đối với các phạm
trù như vũ trụ, con người, thần/ phật/ chúa và các khái niệm liên quan đến tồn tại.
Quan niệm của nhiều dtoc Châu Á chịu ảnh hưởng của phật giáo về thế giới quan bên
kia đã làm cho 1 số người cam phận với tình trạng hiện hành của họ. Cách nhìn nhận
như vậy ảnh hưởng đến ngôn ngữ mà họ sử dụng. -
Tổ chức xã hội: cx có tác động đến cách thức các cá nhân cảm nhận thế
giới. Hai loại tổ chức có vai trò quan trọng là gia đình và nhà trường. Đây là 2 nơi mà
các giá trị văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cảm xúc
Cảm xúc là “chất keo” kết nối mọi người lại với nhau, là nền tảng, bạn hiểu chính mình và liên
quan đến khả năng giao tiếp với người khác. Nếu chúng ta nói mà không có cảm xúc sẽ rất khó
để người khác đồng cảm và không gây được sự chú ý. Cảm xúc mang lại cho cuộc giao tiếp không nhàm chán, vô vị. Hành vi
Cách hành xử, hành vi của mỗi người trong cuộc giao tiếp liên văn hóa là khác nhau, nhưng vẫn
phải đảm bảo rằng hành động đó là lịch sự, tôn trọng người khác, hay nói cách khác, hành vi,
thái độ quyết định đến vật chất, đem lại cho ta con đường dễ dàng hay khó khăn.
Sự kết hợp của bình diện tri nhận và bình diện cảm xúc có quan hệ động mang tính tương
liên, tương tác chắt chẽ với bình diện hành vi biểu hiện ra bên ngoài. Từ đó, nó sẽ tạo nên khả
năng tương tác hiệu quả, phù hợp với những thành viên của các nền văn hóa khác trên cơ sở
nhận thức đúng đắn, phẩm chất tốt đẹp, thái độ tích cực, kiến thức phong phú và kĩ năng toàn diện.
c. Sự thực hiện năng lực giao tiếp liên/ đa văn hóa là kết quả của một tổng hòa các bìnhdiện
tri nhận, cảm xúc và hành vi.
Để có được cuộc giao tiếp đa văn hóa tốt đẹp, chúng ta phải đòi hỏi những người trong cuộc trò
chuyện đó phải có đầy đủ tư cách, phẩm chất, học vấn hay nói cách khác đó là “tri nhận”, “cảm
xúc”, “hành vi”. Không ai là hoàn hảo cả nhưng ta hãy cố gắng, trau dồi, rèn luyện để trở thành 1 công dân toàn cầu.
Những kết quả mà ta có được sau khi tổng hòa các bình diện tri nhận, cảm xúc và hành vi: + một người đa tài.
+ mở rộng mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới.
+ gây ấn tượng trong mắt người khác…
Ví dụ: Những người nổi tiếng, có tầm ảnh hướng lớn như: Donald Trump, Bill Gate, Jack Ma…
tất cả họ đều hành động (hành vi) theo kế hoạch, biết tính toán trước sau, và họ sẵn sàng “tri
nhận” ( dám thất bại, coi đó là kinh nghiệm, bài học). Họ biết lắng nghe, đóng góp ý kiến. Câu
4: Một sự giao tiếp liên/ đa văn hóa gồm trc hết là hoạt động ngôn ngữ. Hãy chỉ ra và phân tích
các yếu tố xuất hiện gắn kết với nhau trong hoạt động ngôn ngữ này Hoạt động ngôn ngữ (giao
tiếp liên/ đa văn hóa) bao gồm:
Giọng điệu, cường độ
Trong hầu hết các cuộc trò chuyện, một điều đáng chú ý, đấy chính là sự tôn trọng đối với những
người trong cuộc giao tiếp. Tùy vào từng tình huống ta sẽ có giọng điệu khác nhau
Ví dụ 1: khi làm một MC, một người dẫn chương trình trong một sự kiện trao giải, ta cần thể
hiện sự tự tin, một lối nói lưu loát, chỉn chu và đem đến một chút không khí hồi hộp khi đọc tên
người được nhận thưởng
Ví dụ 2: Khi trong một cuộc trao đổi, đàm phán về một vấn đề quan trọng, ta cần nghiêm túc, không cười đùa.
Các kiểu phát ngôn nghi vấn, phủ định, mệnh lệnh, so sánh
Những phát ngôn: nghi vấn, so sánh… ta cần phải chuẩn chỉnh từng li từng tí. Hỏi hay trả lời
phải đúng vấn đề, tránh dài dòng.
Những câu mệnh lệnh sẽ thường là người có vị trí cao hơn sẽ đưa ra quy định bắt buộc mà ta phải tuân theo, Chọn lựa từ vựng
Dùng từ ngữ văn minh, lịch sự, dễ gần mà không kém phần sắc sảo thể hiện mình là một người
có bản lĩnh, không sợ khó khăn. Đặc biệt khi giao tiếp liên văn hóa, chúng ta phải thật cẩn trọng
trong việc sử dụng từ nếu không sẽ vô tình làm hiểu sai ý hay sẽ gây tổn thương đến người khác
bởi đó là cuộc hội thoại của những người đến từ các nước khác nhau trên thế giới.
Chúng ta không nên đưa văn phong nói vào văn viết.
Ví dụ: Không chỉ tiếng việt mà tiếng anh hay ngôn ngữ nào thì sẽ có những từ đa nghĩa, nên khi
sử dụng từ ta cần phải hiểu chắc từ đó và xem nó có đúng ngữ cảnh hay không. Cấu trúc văn bản/ diễn ngôn
Ngắn gọn nhưng chính xác và đủ ý. Diễn đạt lưu loát, cấu trúc phù hợp với hoàn cảnh. Chuyển
động và hành động giao tiếp
Không khua tay, chuyển động tay nhẹ nhàng, hành động lịch thiệp, tôn trọng người khác.
Tất cả những điều trên là rất cần thiết, nếu ta thực hiện được thì các cuộc giao tiếp liên
văn hóa đều diễn ra thành công và thu về được thành quả mà bạn không ngờ tới. Câu 5: Một sự
giao tiếp liên/ đa văn hóa đòi hỏi thành viên tham dự phải xem xét đến “giá trị văn hóa” thể hiện
qua các yếu tố nào? Nêu và phân tích cụ thể ý nghĩa của các yếu tố đó.
Các giá trị văn hóa được xem xét thông qua: Có mặt đúng giờ
Đây là một trong những phép tắc tối thiểu, thể hiện sự tôn trọng của mình với người khác. Nếu
gặp bất cứ vấn đề gì không may không thể đến đúng giờ được, cta nên gọi điện, nhắn tin trước
cho người ta hẹn gặp để họ không phải chờ và nó cũng thể hiện phép lịch sự với người khác.
Chúng ta nên có mặt trước cuộc gặp từ 15-30p.
Ví dụ: như phỏng vấn xin việc, cta nên đến càng sớm càng tốt để ổn định tinh thần thoải mái,
tránh đi sát giờ sẽ khiến bản thân lo lắng, hoang mang. Sắp xếp thứ tự chỗ ngồi
Chúng ta phải biết rõ vị trí, địa vị của mình để ngồi đúng vị trí. Xem mình có phải khách mời,
lãnh đạo hay ban tổ chức của một buổi họp. Việc bố trí chỗ ngồi trong phòng họp theo nguyên
tắc ưu tiên: trên trước, dưới sau, phải trước, trái sau, gần trước, xa sau…(thông thường người
đến trước ngồi phía trên (trừ chỗ dành cho khách mời và lãnh đạo). Cần sắp xếp chỗ ngồi cũng
thể hiện sự tôn trọng, sự tỉ mỉ,…
Không gian gặp mặt: private, public…
Với những cuộc gặp mặt cá nhân như: hẹn hò, trao đổi công việc chúng ta nên chọn không gian
yên tĩnh, ít người, thoải mái để dễ dàng nói chuyện
Với những cuộc gặp mặt tiệc, gặp lại bạn bè cũ… cta nên chọn không gian rộng như công viên,
những nơi có không gian rộng, náo nhiệt một chút. Hội nhóm: family, company, friends…
Trong bất kì cuộc giao tiếp nào chúng ta cũng nên phân biệt đâu là cuộc giao tiếp trong gia đình,
bạn bè hay đối tác… để có cách xưng hô, sự thoải mái trong trò chuyện, trao đổi… Nhưng chúng
ta cũng cần có sự tôn trọng, lịch sự, không phỉ báng… với người khác. Tôn ti: chức vụ, địa vị…
Ở trong gia đình hay ngoài xã hội, việc làm thì cũng đều cần có sự tôn ti: phân cấp, phần quyền…
nói như vậy không có nghĩa là người có địa vị cao hơn được quyền kiểm soát, định đoạt, quyết
định của cấp dưới hay người có địa vị thấp hơn.
Câu 6: Có những sự kiện giao tiếp nào? Kể tên và giới thiệu khái quát các sự kiện giao tiếp đó
Các sự kiện giao tiếp:
Các cuộc đàm phán và giao dịch
Thường là về vấn đề chính trị, giao dịch hành chính. Và những người trong cuộc gặp mặt đó đều
là những người có kinh nghiệm làm việc, có địa vị, có kiến thức thâm sâu. Trước khi cuộc gặp
diễn ra, mỗi bên phải có sự chuẩn bị đến hàng tháng để có thể đem lại kết quả tốt. Ví dụ 1: Các
tổ chức thế giới như: WHO đều có các cuộc họp với số lượng người đông để bàn về 1 vấn đề
đưa ra phương hướng giải quyết, tác hại.
Ví dụ 2: Khi covid 19 diễn ra, Việt Nam đã có rất nhiều cuộc họp diễn ra online để đưa ra phương
sách, ngăn chặn dịch truyền nhiễm và các phương án trong trường hợp xấu nhất. Các buổi học, thuyết trình, hội thảo
Diễn ra trong trường học, đặc biệt là sinh viên đại học, cao đẳng đều có nhiều bài tập nhóm cần
trao đổi kiến thức, thuyết trình trước lớp
Hay các hội thảo chuyên đề để nâng cao kĩ năng sống, định hướng đúng đắn trong các công tác
đoàn, những vấn đề liên quan đến chuyên ngành, nghề nghiệp tương lai đều được diễn ra. Và
thường sẽ là với số lượng lớn, trao đổi thẳng thắn, giải đáp thắc mắc với các diễn giả. Đón đoàn và làm việc nhóm
Ví dụ: Khi các cơ quan cấp cao xuống địa phương, hay tổng thống, chủ tịch của nước khác sang
Việt Nam, chúng ta đều có sự bảo mật thông tin, sự bảo vệ chặt chẽ để đảm bảo an toàn, an ninh.
Mỗi khi có các cuộc tiếp đón như vậy, đều có sự chuẩn bị kĩ lưỡng về nghi thức đón tiếp, nơi nghỉ ngơi,…
Tiệc rượu, tiệc mặn, sự kiện xã hội
Diễn ra trong đám cưới, sự kiện trọng đại của công ty hay liên hoan của câu lạc bộ, đa phần thể
hiện niềm vui, hạnh phúc, lan tỏa, gặp mặt, gắn kết mọi người lại với nhau. Cuộc giao lưu tọa
đàm, cuộc gọi điện thoại, email, chat…
Hình thức trao đổi, giao tiếp online bằng mess hay zalo… có rất nhiều ứng dụng, các website có
thể thực hiện ở khoảng cách xa, không bị giới hạn phạm vị, khoảng cách địa lý. Và nó cũng giúp
ích khá nhiều trong việc giải quyết, hỗ trợ trao đổi mà không bị mất thời gian trong việc di
chuyển. Các cuộc tọa đọa thường diễn ra đồng thời bằng 2 hình thức onl và off để mọ người từ
nhiều nơi có thể theo dõi mà không phải tốn thời gian đi lại.
Câu 7: Tâm lý “bản tộc trung tâm” (văn hóa dân tộc mình là nhất) là một chướng ngại đối với
giao tiếp liên-đa văn hóa. Trình bày các bước tiến trên con đường khắc phục và hóa giải tâm lý
đó nhằm tham gia hữu hiệu vào quá trình giao tiếp liên-đa văn hóa.
a. Tâm lý “bản tộc trung tâm” trong giao tiếp liên-đa văn hóa là gì? Tác hại của tâm lý đó?
Tâm lý “ bản tộc trung tâm”( văn hóa dân tộc mình là nhất)
Trong giao tiếp liên văn hóa, người ta thường có xu hướng cho rằng điều mà ta và những người
có cùng phông nền văn hóa với ta tin là đúng chắc chắn sẽ là đúng. Và trong nhiều trường hợp,
người giao tiếp liên văn hóa không phân biệt được đúng/ sai, tốt/ xấu…Nhìn chung, họ luôn coi
cái họ có là tốt nhất, cách mà họ nghĩ là hay nhất và hành vi mà họ thực hiện là phù hợp nhất.
Do vậy, họ thường đề cao các giá trị, quan niệm, đức tin, hành vi ứng xử…trong văn hóa họ và
coi những gì khác với những “chuẩn mực” đó là “phi chuẩn mực”.
Tác hại của tâm lý “bản tộc trung tâm”
- Không tôn trọng người khác,
- Không có sự đồng cảm
- Coi lời nói, hành động, văn hóa của người khác với nền văn hóa của mình là sai trái.
- Trong các cuộc giao tiếp liên văn hóa mà có người mang tâm lý “bản tộc trung tâm”
thì sẽ rất khó hòa đồng, dẫn đến những tranh cãi không đáng có.
b. Các bước tiến trên con đường khắc phục và hóa giải tâm lý đó nhằm tham gia hữu hiệu
vào quá trình giao tiếp liên-đa văn hóa:
Đi từ “chối bỏ khác biệt văn hóa” hoặc “Chống lại khác biệt văn hóa”
Từ những khác biệt văn hóa trong giao tiếp liên văn hóa đã tạo ra những xung đột, những cuộc
đàm phán, trò chuyện không suôn sẻ. Việc “chối bỏ khác biệt văn hóa” xuất phát từ suy nghĩ,
định kiến của bản thân với những người khác, là người có tính cách tự cao, tự đại, luôn cho mình
là nhất và không chấp nhận bất kì sự khác biệt nào. Điều đó nó cũng gần tương tự giống với việc
“phân biệt chủng tộc” nhưng ở mức độ nhẹ hơn.
Ví dụ 1: Ta thấy ở Mỹ đã có rất nhiều nạn phân biệt người da trắng với người da đen-> bạo loạn,
làm tổn thương, làm bị thương những người vô tội bởi không ai sinh ra là hoàn hảo cả. Không
những vậy, việc chống lại khác biệt văn hóa cũng là một tội vì mỗi quốc gia, dân tộc, ở mỗi đất
nước sẽ có rất nhiều những văn hóa, phong tục khác nhau, chúng ta phải tộn trọng, gìn giữ, bảo
tồn và lên án những hành động thô bạo, chống đối, bôi nhọ văn hóa khác.
Ví dụ 2: Trong môi trường làm việc quốc tế, thiếu trang bị kiến thức từ các nền văn hóa mà ta
làm việc chung sẽ dẫn đến các vấn đề như giảm đi chất lượng thông tin truyền tải, gây hiểu lầm
hoặc tạo tranh cãi không đáng giữa những người đến từ các nền văn hóa khác nhau. Đến “giảm
thiểu sự khác biệt văn hóa” rồi “chấp nhận khác biệt văn hóa”
Họ dần nhận thức được rằng giữa các văn hóa sẽ có sự tương đồng với nhau. Từ đó thấu hiểu,
thông cảm với những có văn hóa khác mình. Đôi khi, họ sẽ thấy khó khăn trong sự khác biệt đó
nhưng theo thời gian, họ “chấp nhận” nó, coi nó như một điều mới mẻ, một bài học, một sự trải
nghiệm mới mà chỉ có những người sống trong môi trường liên văn hóa mới hiểu được. Tiến
tới “thích ứng khác biệt văn hóa”
Từ “ chấp nhận”, họ chuyển qua “thích ứng” với những khác biệt văn hóa. Có nghĩa rằng, tùy
theo từng tình huống cá biệt mà thay đổi cách ứng xử sao cho phù hợp.
Ví dụ: Khi là người nước ngoài đến Việt Nam, bạn sẽ bị “choáng ngợp” bởi những sự thay đổi,
lối sống, môi trường, văn hóa nơi đây. Nhưng sau khi trải nghiệm, được sống và làm việc như
một người Việt, bạn sẽ hiểu được nó và ứng biến với nó một cách linh hoạt. Và cao hơn – “hòa
nhập khác biệt văn hóa”
Chúng ta “ hòa nhập mà không hòa tan”, có nghĩa rằng: chúng ta hòa vào cùng với những văn
hóa từ các nước phương Tây, từ những dân tộc khác nhau trên thế giới nhưng vẫn giữ được nét
đẹp, vừa mang nét riêng cá nhân mà cũng vừa mang nét chung của vùng đất mới. Chúng ta hiểu
về văn hóa của các nước để hội nhập bởi trong thời đại ngày nay, có rất nhiều công ty nước ngoài
đã và đang đầu tư vào thị trường Việt Nam, nếu chúng ta không tìm hiểu, học hỏi và không có
ngoại ngữ thì rất khó có cơ hội phát triển, thăng tiến. Vì vậy, ta cần trau dồi những kĩ năng quan
trọng, cần thiết để trở thành một người “giao tiếp liên văn hóa”.
Câu 8: Diễn giải cụ thể các biểu hiện của các ứng xử “chối bỏ khác biệt văn hóa”, “chống lại
khác biệt văn hóa”, “giảm thiểu khác biệt văn hóa”, “chấp nhận khác biệt văn hóa”, “thích ứng
khác biệt văn hóa” trong giao tiếp liên-đa văn hóa.
- Người giao tiếp liên-đa văn hóa với tâm lý “chối bỏ khác biệt văn hóa” là người
khôngnhận thức được khác biệt (giữa các nền) văn hóa: Họ tự cho văn hóa của họ là văn hóa
nhân loại. Nếu có một chút nhận thức về khác biệt văn hóa giữa họ và những người đến từ những
nền văn hóa khác đang giao tiếp cùng họ thì đó là khác biệt giữa “đa số” (là họ) và “thiểu số”
(những người đến từ nền văn hóa khác).
- Người giao tiếp liên-đa văn hóa với tâm lý “chống lại khác biệt văn hóa” là ngườithường
phê phán nặng nề các hành vi và biểu đạt văn hóa khác với văn hóa mình. Nhưng ở chiều ngược
lại, cũng có những người lại đề cao chúng và phê phán mạnh mẽ những hành vi và biểu đạt
tương ứng trong văn hóa của chính họ.
Ở đây, sự khác biệt văn hóa được nhìn nhận theo các khuôn mẫu và mang tính phân cực kiểu
như: “chúng ta” và “họ”.
- Người giao tiếp liên-đa văn hóa với tâm lý “giảm thiểu khác biệt văn hóa” là người
nghĩrằng các yếu tố tạo ra thế giới quan văn hóa (cultural worldview) của chính họ cũng đồng
thời là các yếu tố mang tính phổ quát, cho rằng các giá trị và đức tin căn bản nào đó luôn vượt
qua mọi biên giới văn hóa.
- Người giao tiếp liên-đa văn hóa “chấp nhận khác biệt văn hóa” chấp nhận rằng thế
giớiquan của họ cũng chỉ là một trong số các thế giới quan đồng phức mà thôi. Họ chấp nhận,
tôn trọng và muốn tìm hiểu về dị biệt văn hóa, nhưng chưa đủ hiểu biết về văn hóa của người
đến từ nền văn hóa khác để thích ứng cùng.
- Người giao tiếp liên-đa văn hóa “thích ứng khác biệt văn hóa” là người có khả năng tạora
được những hành vi phù hợp trong các chu cảnh văn hóa đích khác nhau. Ở đây xuất hiện sự
thấu cảm liên văn hóa và người ta có thể chuyển tính nhạy cảm liên văn hóa của mình thành
năng lực giao tiếp liên văn hóa.
=> Có thể nói, DMIS (development model of intercultural sensitivity) đã giúp ta thấy được quá
trình chuyển hóa nội tại từ bản tộc trung tâm thực tại sang bản tộc tương đối trong môi trường tương tác liên văn hóa.
Câu 9: Phân tích định nghĩa “năng lực giao tiếp liên văn hóa” sau đây của Byram: “Năng lực
giao tiếp liên văn hóa là khả năng giao tiếp và tương tác qua biên giới ngôn ngữ và văn hóa một
cách phù hợp và hiệu quả”.
• “Năng lực giao tiếp liên văn hóa” là khả năng giao tiếp và tương tác giữa những đối thể
(người giao tiếp với nhau), giữa những người cùng hoặc khác văn hóa.
Ví dụ: người có thể nói được nhiều thứ tiếng, tự tin giao tiếp với bất cứ ai. Hay những người làm
biên phiên dịch cho những người khác ngôn ngữ của nhau.
• Những đối thể giao tiếp liên văn hóa này đến từ các nền văn hóa khác nhau và dân tộc (tiếng nói) khác nhau.
Trong các cuộc gặp mặt mang tính chính trị, chủ quyền lãnh thổ, phát triển kinh tế, đều có mặt
của rất nhiều đại diện từ các quốc gia. Như vậy, ngoài việc chung mục đích để họp bàn, trao
đổi…họ còn có những sự học hỏi. Mặc dù vậy, họ cũng không gặp khó khăn trong việc hiểu
tiếng của một quốc gia bởi công nghệ thông tin phát triển.
• Những đối thể giao tiếp liên văn hóa này do vậy giao tiếp được với nhau trên thực tế là
vì họ đang thực hiện một sự tương tác qua biên giới ngôn ngữ và văn hóa.
Những người đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau, họ giao tiếp không chỉ bằng lời nói, ngôn
ngữ chung toàn cầu bằng tiếng anh mà còn dùng phi ngôn ngữ để diễn tả ý muốn, bày tỏ quan
điểm của bản thân đồng tình hay không đồng tình.
• Sự tương tác qua biên giới ngôn ngữ và văn hóa thực hiện một cách phù hợp và hiệu quả
này là do người giao tiếp liên văn hóa “thích ứng khác biệt văn hóa” – tức là các đối thể
giao tiếp liên văn hóa có sự thấu cảm liên văn hóa.
Có được sự giao tiếp hiệu quả, đòi hỏi mỗi người phải thích nghi, thích ứng được với nền văn
hóa khác. Bởi chỉ có như vậy thì chúng ta mới thấu hiểu, dễ dàng bắt chuyện, đưa ra quan điểm.
Đồng thời phải có sự tìm hiểu kĩ trước khi bắt đầu với một cuộc giao tiếp đa văn hóa: phải có
chiến lực, chiến thuật của riêng mình.
• Sự tương tác qua biên giới ngôn ngữ và văn hóa thực hiện 1 cách phù hợp và hiệu quả
nhất khi người giao tiếp liên văn hóa đó thực sự thực hiện “hòa nhập khác biệt văn hóa”:
hòa nhập với các thế giới quan văn hóa khác nhau và trở thành “con người song văn hóa hay đa văn hóa”.
Muốn thành công trong việc bắt kịp xu hướng thời đại, phát triển bản thân, chúng ta bắt buộc
phải trau dồi những kĩ năng cần thiết, luyện tập, học hỏi để trở thành một công dân toàn cầu, có
cái nhìn bao quát toàn diện, tìm hiểu văn hóa ở các nước phương Tây. Một người đa văn hóa sẽ
rất có ích và có lợi cho bất kì công việc nào.
Có thể coi, mô hình năng lực giao tiếp liên văn hóa của Byram là mô hình tụ tỏa, với trung tâm là nhận thức: -
Tỏa: từ nhận thức hình thành thái độ, từ thái độ thụ đắc kiến thức, từ kiến
thức thành kĩ năng diễn giải cuối cùng thành kĩ năng thực hành -
Tụ: từ kĩ năng thực hành phát triển kĩ năng diễn giải, từ kĩ năng diễn giải
kiểm chứng làm phong phú kiến thức, từ kiến thức điều chỉnh, củng cố thái độ, từ thái
độ điều chỉnh, tăng cường nhận thức.
Câu 10: Nêu và phân tích 5 năng lực cần thiết để có thể thực hiện liên văn hóa trong giao tiếp liên-đa văn hóa. -
Biết nhận thức văn hóa có phê phán: Khả năng đánh giá có phê phán và
trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng các các hành vi cùng các sản phẩm được tạo ra trong
văn hóa tại đất nước của chính mình cũng như trong các văn hóa và tại các nước khác.
Chúng ta phải có nhận thức rõ ràng: đâu là văn hóa sai lệch, đâu là văn hóa tốt đẹp để giữ gìn,
phát huy những văn hóa truyền thống, tránh đăng tải, truyền tin thất thiệt về văn hóa. Đồng thời
cũng phê phán những hành vi gây nhiễu văn hóa, chỉnh sửa, đăng tải trên mạng xã hội những văn hóa không đúng. -
Có thái độ hiếu kì, tò mò, cởi mở, sẵn sàng rũ bỏ đức tin sai lệch về các
nền văn hóa khác và đức tin về văn hóa của chính mình.
Ngày nay, người am hiểu văn hóa không chỉ nơi mình sinh ra mà còn am hiểu văn hóa ở các
nước khác đều rất được trọng dụng, bởi ở trong môi trường làm việc nào, nếu ta biết càng nhiều
những kĩ năng sống sẽ giúp ích cho công ty, mở rộng mối quan hệ hợp tác. Vì vậy, chúng ta cần
trau dồi, tìm hiểu và sẵn sàng khám phá những điều mới, biết đâu trong khoảng thời gian đó,
mình lại tìm được thứ mình thích. -
Có kiến thức về các nhóm xã hội cũng như sản phẩm và qui trình của các
nhóm đó tại đất nước của chính mình và tại đất nước của người tương tác với mình.
Trên các trang mạng xã hội, không thiếu những thông tin, kiến thức mà chúng ta cần để tìm hiểu,
những câu trả lời xác đáng, có sự hiểu biết về các nhóm xã hội, nhóm tuổi từ đó biết được nhu
cầu, nắm được những nỗi lo lắng, niềm tin và đem lại khảo sát, các sản phẩm như sự mong đợi.
Ví dụ: Một người làm nghiên cứu, họ không chỉ am hiểu những vấn đề xoay quanh công việc
nghiên cứu mà họ còn đi khảo sát dựa trên mục đích, yêu cầu, và học hỏi những kiến thức ngoài
chuyên ngành để có sản phẩm chất lượng, báo cáo chính xác. -
Có khả năng diễn giải một văn kiện hay sự kiện từ một nền văn hóa khác,
giải thích và liên hệ nó với các văn kiện hay sự kiện từ văn hóa của chính mình.
Hiểu nội dung, cách viết của văn hóa khác là rất quan trọng. Khi được giao soạn thảo các văn
kiện, các bức thư gửi đi nước ngoài nếu ta không nắm rõ được các quy trình, khả năng diễn giải
của mình với người tương tác thì sẽ rất khó khăn và mất thời gian, có thể bỏ lỡ thời điểm, cơ hội
quan trọng để bày tỏ mong muốn, sự chân thành.Việc đọc nhiều các văn kiện từ các nền văn hóa
khác nhau sẽ giúp bạn tiếp thu được một lượng kiến thức lớn về phong cách làm việc, những
quy định nên làm hay nên tránh. -
Có khả năng thụ đắc kiến thức mới về một nền văn hóa và các hành vi văn
hóa cũng như khả năng vận dụng kiến thức, thái độ, kĩ năng dưới áp lực của giao tiếp và tương tác thực tế.
Ngày ngày trau dồi những kiến thức mới về 1 nền văn hóa và tìm hiểu các hành vi văn hóa, từ
đó vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày, trong công việc, trong giao tiếp liên văn hóa để
thành thạo, thực hành nhiều nhất có thể, tránh những sai sót không đáng có trong môi trường
quốc tế. Thể hiện 1 thái độ nghiêm túc, chuẩn chỉnh, không giễu cợt nền văn hóa khác. Năng
lực liên văn hóa là một quá trình suốt đời và không có bất kì thời điểm nào để ta khẳng định rằng
mình là người hoàn toàn có năng lực giao tiếp liên văn hóa. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng cơ
hội để có thể thực hành, tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hóa khác nhau.
Câu 11: Phân tích các biểu hiện của tâm lý hay ý thức gọi là “Bản tộc trung tâm” trong giao tiếp liên-đa văn hóa. -
Trong giao tiếp liên-đa văn hóa, người ta thường có xu hướng cho rằng điều
mà ta vànhững người có cùng phông nền văn hóa với ta tin là đúng chắc chắn sẽ là đúng.
Bất cứ ai cũng đều đã từng có suy nghĩ: “mình là nhất” 1 lần trong đời. Và trong môi trường
quốc tế, thì những ý nghĩ, những quan niệm về học tập, lối sống hay thậm chí là văn hóa đều trở
thành đề tài bàn tán, trao đổi. Thông thường những người có cùng nền văn hóa họ sẽ hiểu nhau,
dễ trao đổi, nói chuyện với nhau hơn, nên việc phân chia vùng miền, văn hóa ở từng khu vực sẽ
dễ dàng tìm được người thấu hiểu những khó khăn mà ta gặp phải. Chính vì như vậy, khi một
người cho rằng cái này đúng và một số người có cùng văn hóa cũng cho là đúng thì hiển nhiên
họ sẽ tin điều đúng là chính xác và phớt lờ những quan điểm của người khác. Từ đó sẽ hình
thành thói quen, tâm lý: “ bản tộc trung tâm”.
Ví dụ: Khi một học sinh A làm bài tập ra kết quả nhưng không chắc chắn về đáp án nên đã quay
sang hỏi bạn bên cạnh kết quả. Thật trùng hợp là kết quả của hai bạn giống nhau. Bạn A tin
tưởng và cho rằng cả hai đều đúng, không hỏi ai nữa. Nhưng khi trả bài thì kết quả lại sai. Điều
này cũng giống với tư tưởng: người cùng phông nền văn hóa với mình là đúng và sẽ chắc chắn là đúng. -
Và trong rất nhiều trường hợp, người giao tiếp liên-đa văn hóa không thực
sự ý thứcrằng điều được coi là đúng, hay hoặc tốt trong văn hóa này chưa chắc đã là
là đúng, hay hoặc tốt - thậm chí, có thể là sai, dở hay xấu trong văn hóa kia.
Với tâm lý: “ bản tộc trung tâm” điều đó có nghĩa rằng. họ luôn coi trọng những hành vi, quan
điểm của nền văn hóa mình là trên hết, dù nó là tốt hay xấu thì cũng không ảnh hưởng đến người
khác. Vì vậy, họ thường sẽ vô tình trở thành “kẻ xấu” trong mắt người có khác nền văn hóa. Tại
sao lại nói như vậy, Nếu như những điều mà ở văn hóa này là tốt là đúng và nó cũng tốt và đúng
với văn hóa khác thì không sao, nhưng nếu nó ngược lại, trở thành xấu và tồi tệ với văn hóa khác
thì sẽ gây ra tranh cãi và gây hiểu lầm. Dù là vô tình hay cố ý thì cũng là sai, ta nên cẩn trọng
trong lời nói, hành động trong mọi trường hợp đặc biệt là trong môi trường giao tiếp liên văn hóa. -
Do vậy người ta có xu hướng tin rằng cái mà họ có là tốt nhất, cách mà họ
nghĩ là haynhất và hành vi mà họ thực hiện là phù hợp nhất.
Người luôn có suy nghĩ: “bản tộc trung tâm” sẽ rất khó trong việc tiếp cận nền văn hóa các nước
khác, không thấu hiểu được những khó khăn mà mỗi nền văn hóa phải trải qua. Họ chỉ nhìn vào
bề nổi để phán xét, đưa ra cái nhìn phiến diện về con người, về phong tục…Đây là những hành
động không đúng với nhân đạo. Họ tin cái mà họ đã có và đang có là tất cả, là tốt nhất mà quên
mất bản thân còn thiếu gì. Họ hành xử một các thô tục với nền văn hóa khác, suy nghĩ sai lệch. -
Cũng từ đó, họ thường đề cao các giá trị, quan niệm, đức tin, hành vi ứng
xử, phongcách giao tiếp… trong văn hóa của họ.
Họ coi các giá trị văn hóa, những đức tin trong phật giáo, tôn giáo mà họ theo là chuẩn mực.
Phong cách giao tiếp của mỗi người là khác nhau, không ai giống ai kể cả trong cùng một nền
văn hóa. Và khi niềm tin yêu của họ vượt quá giới hạn sẽ là sự đề cao quá mức. Họ coi những
thứ khác phông nền văn hóa với họ là sai trái, họ ứng xử tự nhiên, tự mãn. -
Nguy tệ hơn, họ coi những gì khác với những “chuẩn mực” (trong văn hóa
của mình) là“phi chuẩn mực”.
Sau tất cả, những thứ họ nhìn thấy là “phi chuẩn mực”, miệt thị những gì khác với phông nền
văn hóa của mình. Từ đó, làm ra những hành động thô bạo, không tôn trọng người khác. Ví dụ:
Khi H’Hen đăng quang hoa hậu hòa vũ Việt Nam, đã có người đăng lên trang Fb của mình những
lời dè bỉu màu da, miệt thị sắc tộc, xúc phạm cô gái người dân tộc Ê đê đó. Câu 12: Một trong
những điều gây hại cho sự giao tiếp liên-đa văn hóa được gọi là “tiền niệm”. Phân tích diễn giải
ngắn gọn về điều này.
* “Tiền niệm” hiểu nôm na là những ý niệm có trước, sẵn trong tâm thức chủ thể giao tiếpTiền
niệm vốn chủ yếu là những hiểu biết mang tính giả tri chứ không phải là các trải nghiệm chân
tri của chính ta về họ.
* “Tiền niệm” cũng có thể gọi những “dự tưởng”
- “Dự tưởng” là những ý niệm, quan điểm, cách nhìn nhận mang tính giả tri (tri thức sai) mà ta
có được về một điều gì đó trước khi ta thực sự có những trải nghiệm chân tri về điều đó. Kiến
thức giả tri đó phần lớn là từ các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là những thông
tin giật gân, thiếu cơ sở, thiếu kiểm chứng…và/ hoặc thông qua những câu chuyện được thuật
lại với những nhận xét mang tính chủ quan của những người có cùng phông nền văn hóa với ta
và đã từng tiếp xúc trực tiếp với môi trường và con người thuộc nền văn hóa khác. Các dự tưởng này bao gồm:
+ Khuôn mẫu: được hình thành trên cơ sở khái quát thái quá. Chúng là những hình ảnh, ý niệm,
quan niệm, đức tin có tính cố hữu và phi ngoại lệ về 1 người/ nhóm người nào đó.
+ Thành kiến: là những quan điểm hay tình cảm không đúng mực, không công tâm dành cho ai
đó mà ta chưa thực sự hiểu họ. Thành kiến theo hướng có lợi cho đối thể là thiên kiến, và bất lợi
cho đối thể là định kiến.
+ Mặc cảm: tập hợp những cảm giác lẫn lộn và vô thức được tạo ra trong tương quan tangười. *
“Tiền niệm” cũng gắn liền với những trạng thái tâm lí xuất hiện ảnh hưởng của các giả
tri đóHoang mang, không đúng sự thật. Chính diễn giải văn hóa của các đối tác cùng các dự
tưởng sai lầm, cứng nhắc về người khác, đã tạo ra những diễn giải sai lệch dẫn đến các hiểu
lầm, gây sốc văn hóa=> người ta có những hành xử sai lệch=>giao tiếp sai lệch=> tạo ra xung
đột văn hóa=> ngưng trệ văn hóa. *
Các “tiền niệm” như nước sẵn trong một cái cốc, chúng khiến cho cái cốc không tiếp nhậnthêm nước mới.
Câu 13: Nêu tên và phân tích một số phẩm chất cần có trong năng lực giao tiếp liên-đa văn hóa. -
Nhạy cảm: Đây là phẩm chất quan trọng nhất trong giao tiếp liên văn hóa.
Nó giúp người giao tiếp thấy được tính/ sự phù hợp trong các tương tác cụ thể xét theo
tất cả các thành tố giao tiếp hoặc tính nổi trội của một/một số thành tố giao tiếp trong
các tương tác đó. Một người nhạy cảm có thể nhìn ra được suy nghĩ, đoán được ý muốn
của người khác, giúp cho cuộc đối thoại giao tiếp trở nên dễ dàng, nắm bắt được cảm xúc của người khác.
Trong giao tiếp, việc quan tâm đến đối tượng giao tiếp giúp chúng ta hiểu hơn về họ, tạo được
cảm tình với họ và sẽ nhận lại được sự quan tâm từ họ. Quan tâm đến nhau là cơ sở cho việc xây
dựng và duy trì các mối quan hệ tốt đẹp. -
Khoan dung: Phẩm chất này giúp người giao tiếp tránh hoặc giảm thiểu
được các nguy cơ sốc văn hóa, xung đột văn hóa và ngừng trệ giao tiếp do các hành vi
chưa phù hợp của đối thể hoặc do người giao tiếp cho là như vậy.
Khoan dung hay có nghĩa là nhượng bộ, chấp nhận cái mới, cố gắng vượt qua được những cú
sốc văn hóa, biết phân biệt cái nào là tốt, là xấu để tránh xa, tạo sự an toàn cho bản thân. Vì vậy,
chúng ta cần tạo mối quan hệ giao tiếp hàng ngày để không cảm thấy cô đơn, một mình. Biết
điểm dừng ở thời điểm quan trọng, biết hạn chế tiếp xúc với thói xấu ở nền văn hóa khác. -
Cầu thị: Cầu thị là phẩm chất cần có để tiếp nhận cái mới và để điều chỉnh
hành vi phù hợp trong môi trường liên văn hóa.
Kiến thức là mênh mông, vô hạn, nó giống như cát trên sa mạc nước ở đại dương, cái chúng ta
biết chỉ là những hạt cát, giọt nước còn những chưa biết thì bao la và rộng lớn. Có những người
giỏi ở lĩnh vực này, có người lại giỏi ở lĩnh vực khác. Để thành công trong cuộc sống, ta cần tiếp
thu ý kiến để bản thân được tiến bộ. Với những người cầu thị, họ luôn luôn tìm kiếm và học hỏi
những kiến thức mới, học hỏi từ người đi trước. Trong giao tiếp cũng vậy, mỗi người sẽ học hỏi,
chia sẻ những kinh nghiệm, văn hóa của mình cho người khác bằng nhiều cách khác nhau: thăm
quan di tích lịch sử, kể chuyện…biết đâu được những kiến thức đó sẽ giúp mọi thứ trở nên thuận
lợi hơn, hiện đại hơn. -
Công tâm: Phẩm chất này có vai trò quan trọng trong cách ta nhìn nhận về
văn hóa nguồn và văn hóa đích, cũng như trong việc giảm thiểu tính bản tộc trung tâm.
Công tâm hay có nghĩa là công bằng, bất kể bạn đến từ quốc gia nào: đang phát triển hay phát
triển, nghèo hay giàu…thì đều đáng được tôn trọng, và đối xử như nhau. Đây cũng là cách thể
hiện sự tôn trọng, sự chân thành của mình với đối thể. -
Đồng cảm: Đồng cảm (hay “thấu cảm”) giúp người giao tiếp thấu hiểu và
chia sẻ với đối thể, tạo dựng tính đồng nhóm (in-group) trong quan hệ liên nhân.
Ta hãy tự đặt mình vào người khác để nghĩ, đơn giản là để thấu hiểu tình trạng và hoàn cảnh, cố
gắng thấu hiểu cảm xúc, hiểu lý do tại sao họ lại làm thế. Đây không phải là điều dễ dàng, nó
phải được dạy dỗ, những trải nghiệm bao gồm cả những nỗi đau ngay từ khi còn bé. Một người
sống sung túc, hạnh phúc không thể hiểu được cảm giác sống nghèo hèn, đầu đường xó chợ nếu
chưa từng trải qua hoặc chưa từng chứng kiến. -
Linh hoạt: giúp ta xử lý các tình huống có vấn đề trong các tương tác liên
văn hóa một cách hiệu quả và phù hợp. Sự nhanh nhạy, khéo léo sẽ giúp bạn thoát khỏi
những ràng buộc. Linh hoạt sẽ giúp chúng ta phản ứng nhanh trong việc nắm bắt những
cơ hội có lợi hoặc giải quyết các vấn đề khó khăn. Đây là một cách để rèn luyện tính
quyết đoán. Thiếu đi sự linh hoạt, những cảm xúc hoặc áp lực tâm lý tiêu cực có thể
ảnh hưởng đến tính cách và các mối quan hệ xã hội, khiến bạn khó thành công.Trong
hoàn cảnh cuộc sống thiên biến vạn hóa, công việc cũng không mãi suôn sẻ, những
bước ngoặc trong cuộc đời là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, linh hoạt trong mỗi
con người là điều kiện cần để thích nghi với cuộc sống, để nắm bắt thời cuộc, không bị tụt hậu theo sau.
Câu 14: Trình bày một số điều cần tránh hay cần lưu ý trong giao tiếp liên-đa văn hóa.
• Tránh áp đặt: Tránh ra lệnh và áp đặt; nên gợi ý và ướm thử.
Không giỏi ngoại ngữ là một thiệt thòi lớn đối với cá nhân, chính vì vậy, khi bạn thấy ai đó trong
nhóm của bạn tự ti về khả năng nói, giao tiếp, chúng ta hãy cố gắng giúp đỡ, hỗ trợ, dùng những
từ ngữ dễ hiểu đồng thời sử dụng ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt, tránh gây áp lực với người nghe.
Nếu thấy không khí hơi trầm, chúng ta có thể gợi ý về một chủ đề nào đó để bàn tán và khơi gợi
câu chuyện một cách tự nhiên nhất.
• Tránh phê phán cực đoan: Tránh than phiền, phàn nàn và phê phán; nên sử dụng các hành
động đền bù nếu buộc phải làm vậy.
Không dùng những lời phê phán, miệt thị, hành xử bất lịch sự với người khác. Nó không chỉ làm
xấu mặt bạn mà còn làm cho họ có cái nhìn không hay về con người, đất nước nơi bạn sinh ra
và lớn lên. Tránh than phiền, chia sẻ chuyện riêng tư, những tiêu cực với người khác bởi nó sẽ
là con dao hai lưỡi với bạn, hãy truyền những điều tích cực, niềm vui với người khác. Chân
thành quan tâm: Tỏ rõ sự quan tâm chân thành và phù hợp với đối thể.
Chân thành bày tỏ thái độ, hành vi của mình, không nên miễn cưỡng. Bởi một câu nói “cảm ơn”
hay “xin lỗi” cũng khiến người khác cảm thấy mềm lòng, nhẹ nhõm. Hãy dùng tấm chân tình
của mình để thể hiện nó.
• Tôn trọng quan điểm: Tôn trọng quan điểm, ý kiến, cách nhìn nhận của đối thể. Tôn
trọng người khác cũng là tôn trọng mình. Vì vậy, chúng ta hãy lắng nghe, tiếp nhận thông
tin một cách hào hứng, tràn đầy sự tò mò. Nhận thức được sự khác biệt về mặt tư duy và
lối suy nghĩ sẽ giúp bạn tránh được khá nhiều tranh luận trong quá trình làm việc với
người nước ngoài. Thực tế thì mỗi nền văn hóa lớn trên thế giới đều định hình ra những
quan niệm và lối sống hoàn toàn khác nhau, chính vì vậy nên sự khác biệt về suy nghĩ là
rất lớn. Bởi vậy, sẽ rất khó để bạn có thể thay đổi suy nghĩ của một người đến từ nền văn
hóa khác với bạn. Việc đơn giản hơn là hãy chấp nhận sự khác biệt này và cùng tìm ra
hướng đi để có thể đạt được mục tiêu chung của tất cả mọi người.
• Tránh căng thẳng: Tránh xung đột và tranh cãi; tìm giải pháp
Nếu xảy ra tranh cãi, ta nên ngồi xuống nói chuyện thẳng thắn với nhau, đưa ra hướng giải quyết
phù hợp để tránh gây tổn thương về tinh thần và thể chất.
• Nhìn nhận tích cực: Nhìn nhận sự việc theo hướng tích cực và lạc quan.
Có cái nhìn tích cực trong mọi tình huống, luôn nở nụ cười, đón nhận những thử thách mới mẻ,
sống hết mình vì đam mê, trở thành một công dân toàn cầu, kết nối mọi người gần lại với nhau.