1) Mâu thun ca công thc chung bn gì. Chìa khóa để gii
quyết mâu thun là gì?
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra
nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tim được trên thị
trường một loại hàng hóa đặc biệt khả năng tạo ra giá trị thặng cho mình. Đó là hàng hóa
sức lao động.
Chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn:
-
Các Mác người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong
công thức của tư bản = lý luận về hàng hóa sức lao động.
-
Sức lao động là cái có trước hàng a, còn lao động chính là quá
trình sử dụng sức lao động đó. Giống với các hàng hóa khác, hàng hóa sức
lao động cũng có 2 thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng.
-
Hàng hóa sức lao động là sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con
người thể sử dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất.
-
Giá trị sử dụng sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử
dụng) sức lao đông, tức là quá trình lao động để sản xuất ra 1 loại hàng hóa
,1 dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra 1 lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị mới đó du ra so với giá trị
sức lao động là giá trị thặng dư.
=> Đó điểm khác biệt với hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu
dùng hay sử dụng thì cả gtrị hay giá tr sử dụng đều biến mất theo thời
gian.
=> Đó chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cho công thức của tư bản.
2) Nhà bn mun làm giàu thì phi làm ti sao?
Để được nhiều giá trị thặng lớn n bản cần phương pháp nhất định. C.Mác
đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Sản xuất giá trị thặng tuyệt đối :
Giá trị thặng tuyệt đối giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời
gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất
yếu không thay đổi.
VÍ DỤ: nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng
4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư100%. Giả định nhà bản kéo dài ngày lao động thêm 2
giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ
suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’= 6g/4gx100% = 150%
Để nhiều giá trị thặng người mua hàng hóa sức lao động phải tim mọi cách để kéo dài
ngày lao động và tăng cường độ lao động
Tuy nhiên việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ còn phải có
thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị
sự phản kháng của giai cấp công nhân đấu tranh đòi giảm giờ làm. Hơn nữa, công nhân kiên
quyết đấu tranh đòi rút ngắn thời gian lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn, thông qua đấu
tranh, tùy tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy
định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động
tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh thần của người lao động.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động
của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động,
tức chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. vậy, kéo dài thời
gian lao động và tăng cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
2. Giá trị thặng tương đối:
Giá trị thặng tương đối giá trị thặng thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu; do
đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm
chí rút ngắn.
Ví dụ: ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị
thặng 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2
giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
m’ = 6g/2g x100% = 300% . Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao
động giảm khiến thời gian lao động tất yếu xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng sẽ
5 giờ. Khi đó:
m’ = 5g/1g x100% = 500%
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùngdịch vụ để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các liệu sinh hoạt
và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong
các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư
liệu tiêu dùng.
3. Giá trị thặng siêu ngạch
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở một hoặc vài xí
nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do cácnghiệp ấy sản xuất ra giá trị biệt thấp hơn so
với giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp
khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng siêu ngạch một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi,
nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường
xuyên. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà bản đã dẫn đến kết quả làm
tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối.
Tuy giá trị thặng tuyệt đối tương đối sự khác nhau nhưng cả hai loại đó đều một bộ
phận giá trị mới do công nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là lao động không được trả công.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, song
trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng tương đối chiếm ưu thế hơn. Ngày nay, để sản xuất
giá trị thặng dư (m) nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nói trên.
Ý
nghĩa
Hai phương pháp này ý nghĩa đối với việc sản xuất ra của cải vật chất, cụ thể:
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, việc kéo dài thời gian lao động và tăng
cường độ lao động ý nghĩa giải quyết được khó khăn về đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế
hoạch đề ra.
+ Cải tiến thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao động, gia tăng của cải
vật chất có ý nghĩa lâu bền.
Việc chạy đua giành giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, điều đó thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
Nếu gạt bỏ tính chất bản chủ nghĩa, thì hai phương pháp này ý nghĩa tích cực trong việc
đem lại của cải vật chất cho hội, góp phần gia tăng phúc lợi hội, tái sản xuất mở rộng
nước ta.
3) Chứng minh bản dịch vụ ( thương nghiệp cho vay, địa tô, ngân hàng…)
đều tham gia vào việc bóc lột lao động làm thuê cua người nông dân.
CHO VAY :
Tư bản cho vay được hình thành trước khi nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được
xác lập dưới hình thái bản cho vay nặng lãi. Lợi tức cho vay cho vay trước cntb thường ở mức
rất cao do người đi vay hoặc các tầng lớp có thu nhập thường xuyên cao sử dụng để bù đắp thanh
toán tiêu dùng xa hoa hoặc là những người sản xuất nhỏ bù đắp phương tiện thanh toán trong
những hoàn cảnh cần thiết.
Trong quá trình hình thành phát triển nền kt thị trường tbcn đã hình thành hình thái bản
cho vay mới. Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là bộ phận tư bản xã hội dưới hình thái tiền
tệ, được tách ra từ sự vận động hoàn toàn của tư bản nhất định để gia nhập vào sự vận động tuần
hoàn của tư bản khác. Tư bản dưới hình thái tiền tệ trong trường hợp này không chỉ bao gồm tư
bản đang tồn tại dưới hình thái hiện vật là một lượng tiền mà
bao hàm cả những bản tồn tại dưới những hình thái hiện vật khác như nguyên nhiên vật liệu, tự
liệu lao động được quy thành những lượng tiền nhất định
bản cho vay trong cntb có đặc điểm:
- Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu. Chủ thể sở hữu bản không phải
chủ thể sử dụng, chủ thể sử dụng bản chỉ được sử dụng trong một thời hạn nhất định
không có quyền sở hữu.
- Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt. Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ
được quyền sử dụng trong một thời gian. Sau khi sử dụng, bản cho vay không mất giá trị sử
dụnggiá trị được bảo tồn, thậm chí còn tăng thêm. Giá cả của bản cho vay được quyết
định bởi giá trị sử dụng của nó là khả năng thu được lợi nhuận bình quân, do đó không những
không được quyết định bới giá trị mà còn thấp hơn nhiều so với giá trị.
- Thứ ba, hình thái bản phiến diện nhất song được sùng bái nhất.
bản cho vay vận động theo công thức T T’, tạo ra ảo tưởng tiền đẻ ra tiền không
phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
Tỷ suất lợi tức tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức bản cho vay. Nếuhiệu tỷ suất lợi
tức z’, tư bản cho vay là TBCV, thì công thức tính tỷ suất lợi tức như sau: Z’= Z/TBCVx100%
Tỷ suất lợi tức chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu tỷ suất lợi nhuận bình quân và
tình hình cung cầu về tư bản cho vay
Tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường tbcn vận động thông qua các hình thức tín
dụng. Tín dụng hình thức vận động của bản cho vay, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể
sở hữuchủ thể sử dụng tư bản cho vay dự trên các nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và có lợi
tức:
- Tín dụng thương mại là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua, bán
chịu. Hình thức thực hiện của tín dụng thương mại là kỳ phiếu thương mại ( thương phiếu). Sự
phát triển của tín dụng thương mại đẩy nhanh lưu thông hàng hóa, góp phần đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển của bản, tuy nhiên thông qua phát triển thương mại trung gian thể góp phần làm
trầm trọng thêm nguy khủng hoảng xuất thừa. Sự xuất hiện của kỳ phiếu thương mại cung cấp
cho nền kinh tế công cụ thanh toán mới, tạo điều kiện cho hình thành thanh toán không dùng tiền
mặt và tín dụng ngân hàng
- Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự trung gian của ngân hàng. Ngân hàng
tổ chức kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ, vai trò tập trung bản nhàn rỗi và tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để đưa tới nơi cần sử dụng, giai quyết mâu thuẫn giữa cung và
cầu về tư bản của các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo cho tuần hoàn của bản
biệt thể thực hiện liên tục với hiệu quả khác. Khác với tư bản cho vay chỉ là tư bẩn tiềm thế, tư
bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tham gia vào cạnh tranh giữa các ngành và góp phần bình
quân hóa tủ suất lợi nhuận, do đó tư bản ngân hàng thu được lợi nhuận bình quân
Trong nền kte thị trường tbcn căn cứ vào tính chất tín dụng thể phân biệt hai loại hình
tín dụng cơ bản là tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng:
Trong điều kiện quan hệ tính dụng ngày càng phát triển, các hình sản xuất kinh doanh
ngày càng được đổi mới không ngừng, nền kinh tế thị trường thúc đẩy hình thành các công ty cổ
phần. Các công ty này phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Các loại cổ phiếu, trái phiếu này
được C.Mác gọi là tư bản giả do đó nó được giao dịch tách biệt tương đối với quá trình sản xuất
kinh doanh thực. Tư bản giả được mua bán trên thị trường chứng khoán. Trong một số trường
hợp tư bản thật không còn nhưng tư bản giả vẫn còn. Tư bản giả khác tư bản thật không chỉ về
chất mà còn khác về tượng
- ( Trái phiếu những giấy ghi nợ do công ty, ngân hàng chính phủ phát hành để vay
nợ những người mua trái phiếu. Người có trái phiếu công ty chỉ là chủ nợ của công ty, chứ
không phải người đồng sở hữu công ty.)
Với sự phát triển của sản xuất, kinh doanh và khoa học công nghệ, thị trường chứng
khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại hình thị trường chuyên biệt phục vụ các
quan hệ giao dịch mua bán chứng khoán. Thị trường chứng khoán có 2 cấp độ : Thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp
Với sự phán triển của thị trường chứng khoán, trong những năm gần đây, các công ty
chứng khoán còn phát hành các chứng quyền, các chứng quyền này cũng được mua bán đem lại
thu nhập cho người có chứng quyền.
Thị trường chứng khoán đáp ứng yêu cầu huy động vốn đầu tư dài hạn, tạo nên môi
trường đầu rất linh hoạt. Tuy nhiên thị trường này rất dễ biến động, chứa đựng nhiều rủi ro đối
với các nhà đầu tư chứng khoán.
ĐỊA TBCN :
1. bản kinh doanh nông nghiệp
bản kinh doanh nông nghiệp bộ phận tư bảnhội đầu vào lĩnh vực nông nghiệp
Sự hình thành và trở thành thống trị tư bản trong nông nghiệp dẫn tới trong nông nghiệp
tbcn 3 giai cấp bản : địa chủ người sở hữu ruộng đất, nhưng không trực tiếp kinh doanh
mà cho thuê đất ; nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp là người thuê ruộng đất của địa chủ để kinh
doanh theo phương thức sản xuất tbcn ; công nhân nông nghiệp là người lao động làm thuê cho
các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
2. Địa tô tbcn
Cũng như các nhà bản kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhà bản kinh doanh trên
lĩnh vực nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân
Khác với các chủ thể kinh doanh khác, nhà bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp
phải trả một lượng tiền cho địa chủ vì đã thuê đất của họ. Ký hiệu là R
Để có tiền trả cho địa chủ, ngoài số lợi nhuận bình quân thu được tương tự như kinh
doanh trên các lĩnh vực khác nhà bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp còn thu thêm một
phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận
siêu ngạch này phải trả cho địa chủ dưới dạng địa tô.
C.Mác khái quát, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi
nhuận bình quân các nàh bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa chủ.
Địa tbcn nhiều hình thức, trong đó chủ yếu địa chênh lệchđịa tuyệt đối
- Địa tô chệnh lệch là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài là lợi nhuận bình quân đc hình
thành trên những ruộng đất có điều kiện kinh doanh trung bình và thuận lợi ( ký hiệu R
d
). Địa tô
chênh lệch được tính bằng chênh lệch giữa cá sản xuất chung của nông sản, được hình thành
trong những điều kiện kinh doạn kém thuận lợi nhất, và giá cả sản xuất biệt trên những ruộng
đất điều kiện kinh doanh trung bình thuận lợi. Địa chênh lệch 2 loại : địa chênh
lệch I (hiệu R
d1
) địa chênh lệch II ( R
d2
)
- Trong đó, địa tô chệnh lệch I là địa tô địa chủ thu được do chỗ cho thuê ruộng đất
tốt và độ màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi. Địa tô chênh lệch II là địa tô mà địa chủ thu
được do chỗ cho thuê mảnh đất đã được đầu tư, thâm canh làm tăng độ màu mỡ của đất. ii)
Địa tô tuyệt đối, là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không kể độ màu mỡ tự
nhiên thuận lợi hay do thâm canh
Trong thực tế đời sống kinh tế, địa một trong những căn cứ để tính toán giá cả ruộng
đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác.
Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên sở so sánh với tỷ lệ lãi suất ngân hàng
theo công thức: giá cả đất đai = địa tô/ tỷ suất lợi tức nhận gửi ngân hàng
Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất
bản chủ nghĩa trong nông nghiệp còn sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế
liên quan đến thuế, đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai… Tất cả nhằm
kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm, phát triển một
nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững.

Preview text:

1)
Mâu thuẫn của công thức chung tư bản là gì. Chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn là gì? •
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra
nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tim được trên thị
trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động. •
Chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn: -
Các Mác là người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong
công thức của tư bản = lý luận về hàng hóa sức lao động. -
Sức lao động là cái có trước hàng hóa, còn lao động chính là quá
trình sử dụng sức lao động đó. Giống với các hàng hóa khác, hàng hóa sức
lao động cũng có 2 thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng. -
Hàng hóa sức lao động là sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con
người có thể sử dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất. -
Giá trị sử dụng sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử
dụng) sức lao đông, tức là quá trình lao động để sản xuất ra 1 loại hàng hóa
,1 dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra 1 lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị mới đó du ra so với giá trị
sức lao động là giá trị thặng dư.
=> Đó là điểm khác biệt với hàng hóa thông thường vì sau quá trình tiêu
dùng hay sử dụng thì cả giá trị hay giá trị sử dụng đều biến mất theo thời gian.
=> Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cho công thức của tư bản. 2)
Nhà tư bản muốn làm giàu thì phải làm gì và tại sao? •
Để có được nhiều giá trị thặng dư lớn nhà tư bản cần có phương pháp nhất định. C.Mác
đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. 1.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối :
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời
gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
VÍ DỤ: nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng
dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2
giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ
suất giá trị thặng dư sẽ là: m’= 6g/4gx100% = 150%
Để có nhiều giá trị thặng dư người mua hàng hóa sức lao động phải tim mọi cách để kéo dài
ngày lao động và tăng cường độ lao động
Tuy nhiên việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ còn phải có
thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị
sự phản kháng của giai cấp công nhân đấu tranh đòi giảm giờ làm. Hơn nữa, công nhân kiên
quyết đấu tranh đòi rút ngắn thời gian lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn, thông qua đấu
tranh, tùy tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy
định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động
tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh thần của người lao động.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động
của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động,
tức là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời
gian lao động và tăng cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. 2.
Giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu; do
đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị
thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2
giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
m’ = 6g/2g x100% = 300% . Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao
động giảm khiến thời gian lao động tất yếu xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5 giờ. Khi đó: m’ = 5g/1g x100% = 500%
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong
các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng. 3.
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở một hoặc vài xí
nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn so
với giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp
khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi,
nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường
xuyên. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm
tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai loại đó đều là một bộ
phận giá trị mới do công nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là lao động không được trả công.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, song
trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế hơn. Ngày nay, để sản xuất
giá trị thặng dư (m) nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nói trên. Ý nghĩa
– Hai phương pháp này có ý nghĩa đối với việc sản xuất ra của cải vật chất, cụ thể:
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, việc kéo dài thời gian lao động và tăng
cường độ lao động có ý nghĩa giải quyết được khó khăn về đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.
+ Cải tiến kĩ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao động, gia tăng của cải
vật chất có ý nghĩa lâu bền.
Việc chạy đua giành giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, điều đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa, thì hai phương pháp này có ý nghĩa tích cực trong việc
đem lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần gia tăng phúc lợi xã hội, tái sản xuất mở rộng ở nước ta. 3)
Chứng minh là tư bản dịch vụ ( thương nghiệp cho vay, địa tô, ngân hàng…)
đều tham gia vào việc bóc lột lao động làm thuê cua người nông dân. CHO VAY : • •
Tư bản cho vay được hình thành trước khi nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được
xác lập dưới hình thái tư bản cho vay nặng lãi. Lợi tức cho vay cho vay trước cntb thường ở mức
rất cao do người đi vay hoặc các tầng lớp có thu nhập thường xuyên cao sử dụng để bù đắp thanh
toán tiêu dùng xa hoa hoặc là những người sản xuất nhỏ bù đắp phương tiện thanh toán trong
những hoàn cảnh cần thiết. •
Trong quá trình hình thành phát triển nền kt thị trường tbcn đã hình thành hình thái tư bản
cho vay mới. Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là bộ phận tư bản xã hội dưới hình thái tiền
tệ, được tách ra từ sự vận động hoàn toàn của tư bản nhất định để gia nhập vào sự vận động tuần
hoàn của tư bản khác. Tư bản dưới hình thái tiền tệ trong trường hợp này không chỉ bao gồm tư
bản đang tồn tại dưới hình thái hiện vật là một lượng tiền mà
bao hàm cả những tư bản tồn tại dưới những hình thái hiện vật khác như nguyên nhiên vật liệu, tự
liệu lao động được quy thành những lượng tiền nhất định •
Tư bản cho vay trong cntb có đặc điểm: -
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu. Chủ thể sở hữu tư bản không phải
là chủ thể sử dụng, chủ thể sử dụng tư bản chỉ được sử dụng trong một thời hạn nhất định và
không có quyền sở hữu. -
Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt. Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ
được quyền sử dụng trong một thời gian. Sau khi sử dụng, tư bản cho vay không mất giá trị sử
dụng và giá trị mà được bảo tồn, thậm chí còn tăng thêm. Giá cả của tư bản cho vay được quyết
định bởi giá trị sử dụng của nó là khả năng thu được lợi nhuận bình quân, do đó không những
không được quyết định bới giá trị mà còn thấp hơn nhiều so với giá trị. -
Thứ ba, là hình thái tư bản phiến diện nhất song được sùng bái nhất. •
Tư bản cho vay vận động theo công thức T – T’, tạo ra ảo tưởng là tiền đẻ ra tiền không
phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay. •
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay. Nếu ký hiệu tỷ suất lợi
tức z’, tư bản cho vay là TBCV, thì công thức tính tỷ suất lợi tức như sau: Z’= Z/TBCVx100% •
Tỷ suất lợi tức chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu là tỷ suất lợi nhuận bình quân và
tình hình cung cầu về tư bản cho vay •
Tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường tbcn vận động thông qua các hình thức tín
dụng. Tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể
sở hữu và chủ thể sử dụng tư bản cho vay dự trên các nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và có lợi tức: -
Tín dụng thương mại là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua, bán
chịu. Hình thức thực hiện của tín dụng thương mại là kỳ phiếu thương mại ( thương phiếu). Sự
phát triển của tín dụng thương mại đẩy nhanh lưu thông hàng hóa, góp phần đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển của tư bản, tuy nhiên thông qua phát triển thương mại trung gian có thể góp phần làm
trầm trọng thêm nguy cơ khủng hoảng xuất thừa. Sự xuất hiện của kỳ phiếu thương mại cung cấp
cho nền kinh tế công cụ thanh toán mới, tạo điều kiện cho hình thành thanh toán không dùng tiền
mặt và tín dụng ngân hàng -
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự trung gian của ngân hàng. Ngân hàng
là tổ chức kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ, có vai trò tập trung tư bản nhàn rỗi và tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để đưa tới nơi cần sử dụng, giai quyết mâu thuẫn giữa cung và
cầu về tư bản của các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo cho tuần hoàn của tư bản cá
biệt có thể thực hiện liên tục với hiệu quả khác. Khác với tư bản cho vay chỉ là tư bẩn tiềm thế, tư
bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tham gia vào cạnh tranh giữa các ngành và góp phần bình
quân hóa tủ suất lợi nhuận, do đó tư bản ngân hàng thu được lợi nhuận bình quân •
Trong nền kte thị trường tbcn căn cứ vào tính chất tín dụng có thể phân biệt hai loại hình
tín dụng cơ bản là tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng: •
Trong điều kiện quan hệ tính dụng ngày càng phát triển, các mô hình sản xuất kinh doanh
ngày càng được đổi mới không ngừng, nền kinh tế thị trường thúc đẩy hình thành các công ty cổ
phần. Các công ty này phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Các loại cổ phiếu, trái phiếu này
được C.Mác gọi là tư bản giả do đó nó được giao dịch tách biệt tương đối với quá trình sản xuất
kinh doanh thực. Tư bản giả được mua bán trên thị trường chứng khoán. Trong một số trường
hợp tư bản thật không còn nhưng tư bản giả vẫn còn. Tư bản giả khác tư bản thật không chỉ về
chất mà còn khác về tượng -
( Trái phiếu là những giấy ghi nợ do công ty, ngân hàng chính phủ phát hành để vay
nợ những người mua trái phiếu. Người có trái phiếu công ty chỉ là chủ nợ của công ty, chứ
không phải người đồng sở hữu công ty.) •
Với sự phát triển của sản xuất, kinh doanh và khoa học công nghệ, thị trường chứng
khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại hình thị trường chuyên biệt phục vụ các
quan hệ giao dịch mua bán chứng khoán. Thị trường chứng khoán có 2 cấp độ : Thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp •
Với sự phán triển của thị trường chứng khoán, trong những năm gần đây, các công ty
chứng khoán còn phát hành các chứng quyền, các chứng quyền này cũng được mua bán đem lại
thu nhập cho người có chứng quyền. •
Thị trường chứng khoán đáp ứng yêu cầu huy động vốn đầu tư dài hạn, tạo nên môi
trường đầu tư rất linh hoạt. Tuy nhiên thị trường này rất dễ biến động, chứa đựng nhiều rủi ro đối
với các nhà đầu tư chứng khoán. ĐỊA TÔ TBCN : 1.
Tư bản kinh doanh nông nghiệp
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp
Sự hình thành và trở thành thống trị tư bản trong nông nghiệp dẫn tới trong nông nghiệp
tbcn có 3 giai cấp cơ bản : địa chủ là người sở hữu ruộng đất, nhưng không trực tiếp kinh doanh
mà cho thuê đất ; nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp là người thuê ruộng đất của địa chủ để kinh
doanh theo phương thức sản xuất tbcn ; công nhân nông nghiệp là người lao động làm thuê cho
các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp 2. Địa tô tbcn
Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhà tư bản kinh doanh trên
lĩnh vực nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân
Khác với các chủ thể kinh doanh khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp
phải trả một lượng tiền cho địa chủ vì đã thuê đất của họ. Ký hiệu là R
Để có tiền trả cho địa chủ, ngoài số lợi nhuận bình quân thu được tương tự như kinh
doanh trên các lĩnh vực khác nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp còn thu thêm một
phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận
siêu ngạch này phải trả cho địa chủ dưới dạng địa tô.
C.Mác khái quát, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi
nhuận bình quân mà các nàh tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa chủ.
Địa tô tbcn có nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối -
Địa tô chệnh lệch là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài là lợi nhuận bình quân đc hình
thành trên những ruộng đất có điều kiện kinh doanh trung bình và thuận lợi ( ký hiệu Rd ). Địa tô
chênh lệch được tính bằng chênh lệch giữa cá sản xuất chung của nông sản, được hình thành
trong những điều kiện kinh doạn kém thuận lợi nhất, và giá cả sản xuất cá biệt trên những ruộng
đất có điều kiện kinh doanh trung bình và thuận lợi. Địa tô chênh lệch có 2 loại : địa tô chênh
lệch I ( ký hiệu là Rd1 ) và địa tô chênh lệch II ( Rd2 ) -
Trong đó, địa tô chệnh lệch I là địa tô mà địa chủ thu được do chỗ cho thuê ruộng đất
tốt và độ màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi. Địa tô chênh lệch II là địa tô mà địa chủ thu
được do chỗ cho thuê mảnh đất đã được đầu tư, thâm canh và làm tăng độ màu mỡ của đất. ii)
Địa tô tuyệt đối, là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không kể độ màu mỡ tự
nhiên thuận lợi hay do thâm canh •
Trong thực tế đời sống kinh tế, địa tô là một trong những căn cứ để tính toán giá cả ruộng
đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác.
Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ lãi suất ngân hàng
theo công thức: giá cả đất đai = địa tô/ tỷ suất lợi tức nhận gửi ngân hàng •
Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế
liên quan đến thuế, đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai… Tất cả nhằm
kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm, phát triển một
nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững.