lOMoARcPSD| 58569740
Đề cương Kinh tế học biến đổi khí hậu
Câu 1: Khí nhà kính là gì và gồm những loại khí nào? Hãy lấy các ví dụ về các khí nhà kính
phát sinh từ các hoạt động của con người.
Khí nhà kính (greenhouse gas) “loại khí trong khí quyển khnăng hấp thụ bức xạ sóng dài
(bức xạ hồng ngoại) được phản xạ từ bề mặt trái đất vào vũ trụ, sau đó phân tán nhiệt cho Trái Đất.
Ảnh hưởng ròng của quá trình này là khí nhà kính giữ lại một phần năng lượng hấp thụ và làm cho
bề mặt trái đất ấm lên” (IPCC, 1996, tr.48)
Theo điểm 25, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, khí nhà kính là các khí trong khí quyển
gây ra sự ấm lên toàn cầu và BDDKH (Quốc hội, 2014).
Các khí nhà kinh chủ yếu (được sắp xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít trong bầu khí quyển) bao gồm:
hơi nước (H,O), các-bon điôxít (CO2), mêtan (CH4), nitơ ôxit (N2O), ôzôn (O;)
chlorofluorocarbons (CFCs). Ngoài sáu khí nhà kính chủ yếu này, các khí nhà kính khác bao gồm:
Sulfurhexafluoride (SF6), hydrofluorocarbons (HFCs) và perfluorocarbons (PFCs). Ngoài ra, còn
một số khí nhà kinh khác nữa nhưng các khí này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong bầu khí quyển.
Nhìn chung, các loại khí nhà kinh thường xuất hiện một cách tự nhiên trong bầu khí quyển. Đồng
thời, các hoạt động của con người cũng góp phần tạo ra khi nhà kinh. Ví dụ, khí CO, được tạo ra
chủ yếu từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ, khí tự nhiên) và thay đổi sử dụng đất
(ví dụ như chặt phá rừng); khi CH, được tạo ra từ hoạt động nông nghiệp (trồng lúa, tiêu hóa thức
ăn của gia súc, chất thải gia súc, phân bón) và từ rác thải; khí N2O được tạo ra từ hoạt động nông
nghiệp (đất nông nghiệp, chất thải gia súc, phân bón, đốt phế phẩm nông nghiệp và đồng cỏ); khi
O; được tạo ra từ chất thải của các động cơ; khí CFCs được tạo ra từ sản xuất điện lạnh (tủ lạnh
và điều hòa không khí).
Câu 2: Giải thích hiệu ứng nhà kính tự nhiên và hiệu ứng nhà kính nhân tạo
- Tự nhiên: Nhiệt độ bề mặt Trái Đất được tạo nên bởi sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời
đếnbề mặt Trái Đất năng lượng bức xạ của Trái Đất vào trụ. Năng lượng mặt trời chủ yếu
dưới dạng ánh sáng nhìn thấy được (thường c tia sóng bước sóng ngắn), dễ dàng xuyên
qua cửa sổ khí quyển đến bề mặt trái đất. Khoảng 30% năng lượng đó phản xạ ngay lập tức
quay trở lại vũ trụ 70% năng lượng còn lại xuyên qua bầu khí quyển xuống Trái Đất. Khi xuống
đến TĐ, năng lượng MT được bề mặt hấp thụ, làm ấm chuyển thành nhiệt. Do lạnh hơn
rất nhiều so với MT nên TĐ ko bức xạ năng lượng nhận được từ MT trở lại vũ trụ dưới dạng ánh
sáng nhìn thấy được dưới dạng bức xạ hồng ngoại (thường bước sóng dài hơn bước sóng
ánh sáng mặt trời). Bức xạ hồng ngoại không thể xuyên thẳng qua không khí giống như ánh sáng
nhìn thấy di chuyển ra khỏi bề mặt của trái đất nhờ dòng không khí cuối cùng thoát ra
vũ trụ từ tầng khí nhà kính. Tuy nhiên tầng khí nhà kính trong khí quyển (bao gồm hơi nước, khí
CO
2
, ozon, CH
4,
N
2
O, Halocarbons các khí công nghiệp khác) sẽ ngăn chặn bức xnhiệt của
TĐ vào vũ trụ nên 1 phần bức xạ nhiệt của TĐ vào vũ trụ được các khí nhà kính giữ lại trong bầu
khí quyển, sau đó phân tán nhiệt cho TĐ để sưởi ấm toàn bộ ko gian bên trong làm ấm TĐ; 1
phần bức xạ nhiệt sẽ xuyên qua tầng khí nhà kính để vào vũ trụ. Nói cách khác, năng lượng thoát
lOMoARcPSD| 58569740
ra khỏi TĐ ít hơn năng lượng đến bề mặt TĐ. Kết quả của sự trao đổi ko cân bằng về nhiệt giữa
năng lượng từ MT đến bề mặt TĐ năng lượng bức xạ của TĐ vào trụ đã đã dẫn đến sự gia
tăng nhiệt độ của khí quyển TĐ. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng nhà kính.
- Nhân tạo: Nồng độ các khí nhà kính tự nhiên được duy trì ổn định trong suốt hàng triệu
nămqua, tuy nhiên trong vài thế kỷ trở lại đây, do sự phát triển của CNH, ợng sử dụng nhiên liệu
hóa thạch cao trong các phương tiện vận tải... mà lượng khí thải xả ra môi trường ngày càng lớn.
Do đó làm gia tăng các khí nhà kính, hiệu ứng nhà kính xảy ra nhanh hơn.
Câu 3: Phân biệt sự ấm lên toàn cầu và BĐKH
Sự ấm lên toàn cầu là một phần của Biến đổi khí hậu.
Khi các chuyên gia sử dụng thuật ngữ biến đổi khí hậu, đề cập đến những thay đổi đáng kể trong
khí hậu ảnh hưởng đến các khía cạnh như nhiệt độ, lượng mưa hoặc gió điều đó xảy ra trong
vài thập kỷ. Ngược lại, sự nóng lên toàn cầu đề cập đến sự gia tăng liên tục nhiệt độ trung bình
trên khắp hành tinh.
Sự nóng lên này do nồng độ của khí nhà kính đó trong bầu không khí bản thân nó không
hơn gì một khía cạnh của biến đổi khí hậu.
Câu 4: Phân tích các biểu hiện của BĐKH. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa.
Theo IPCC (2007), các biểu hiện của BĐKH bao gồm:
Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên do sự ấm lên của bầu khí quyển toàn cầu
Sự dâng cao mực nước biển do nước bị giãn nở khi nhiệt độ tăng và băng tan;
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển;
Sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của Trái đất;
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn
nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác;
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng thành phần của thủy
quyển, sinh quyển và địa quyển.
Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu, mực nước biển dâng, sự thay đổi chế độ mưa
sự gia tăng các hiện tượng khí hậu cực đoan (ví dụ như hạn hán, bão, lũ, lũ quét, lốc xoáy, nắng
nóng kéo dài, sóng nhiệt, rét đậm, rét hại kéo dài...) thường được coi các biểu hiện chính của
BĐKH.
Theo ước tính của WMO, nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất từ năm 2018 đến giữa năm 2022 cao
hơn khoảng 1,17 độ C so với mức trung bình năm 1850-1900. Giai đoạn 2018-2022 ghi nhận lượng
nhiệt tích trữ trong đại dương đạt mức cao nhất so với bất kỳ giai đoạn 5 năm nào khác. Theo
thống kê trung bình tính tới thời điểm hiện tại, hạn hán kéo dài, nắng nóng đỉnh điểm kéo dài cũng
thực tại dễ nhận thấy với nguyên nhân biến đổi khí hậu, mùa đông cũng trở nên ngắn hơn
lOMoARcPSD| 58569740
kéo theo đó những ngày nắng nóng kéo dài. Đó cũng biểu hiện nét cho hiện tượng hiệu
ứng nhà kính do tác động khí quyển.
Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm
các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy làm tăng lượng nước đổ vào
các biển đại dương. Các núi băng sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng
được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cửu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các
núi băng dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng nguồn nước uống canh
tác của khoảng 500 triệu người đang co lại khoảng 37m mỗi năm. Các bờ biển đang biến mất.
Bãi biển Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởi
nước biển dâng ngày càng cao. Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng
băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc
hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít
nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven
biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.
Những thay đổi trong điều kiện khí hậu lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng
sạch, thực phẩm và sức khỏe. Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn
san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều
đang phải hứng chịu những tác động từ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa
đại dương.
Biến đổi khí hậu có khả năng khiến các phần của chu trình nước tăng tốc do nhiệt độ trái đất ấm
lên làm tăng tốc độ bốc hơi trên toàn thế giới. Trung bình, nhiều bốc hơi hơn gây ra nhiều mưa
hơn. Tỷ lệ bốc hơi và lượng mưa cao hơn không được phân bổ đều trên khắp thế giới. Một số khu
vực thể hứng chịu lượng mưa lớn hơn bình thường c khu vực khác thể dễ bị hạn hán,
do các vị trí truyền thống của vành đai mưa và sa mạc thay đổi để phản ứng với khí hậu thay đổi.
Khí hậu nóng lên đang gây ra những thay đổi về thời tiết các khu vực khác nhau trên thế giới.
Đặc biệt, đang gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan hơn những chúng ta từng thấy trong
quá khứ.
Tình trạng ấm lên của khí quyển dẫn đến hiện tượng nước biển dâng ấm lên, kéo theo sự thay
đổi của một loạt hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, dông sét, lốc tố, hạn hán, mưa lớn…
Tháng 6 năm 2022, những đợt nắng nóng trên khắp Bắc Bán cầu từ châu Âu đến Mỹ làm rõ tính
chính xác của những vấn đề được đề cập trong bài nghiên cứu của các nhà khoa học, trong đó, có
tần suất của các đợt nắng nóng tăng cao. Tại châu Á, Nhật Bản đang trải qua đợt nắng nóng tồi tệ
nhất trong gần 150 năm qua. Ngày 28/6, nhiệt độ tại thủ đô Tokyo vượt mức 35 độ C trong ngày
thứ 3 liên tiếp. Khoảng 76 người đã nhập viện do thời tiết cực đoan Tokyo. Đây là đợt nắng nóng
tháng 6 tồi tệ nhất từng được ghi nhận kể từ năm 1875. Trong khi đó, Trung Quốc đã trải qua trận
lũ lụt trên diện rộng, sau khi hứng chịu những trận mưa lớn. Các đợt mưa lớn đang xuất hiện ngày
càng phổ biến dữ dội hơn do không khí ẩm n. Do đó, các đám mây bão cũng trở nên nặng
hơn trước khi chúng vỡ ra thành nước và rơi xuống gây mưa. Tuy vậy, tác động không giống nhau
giữa các khu vực, thậm chí có một số nơi không có đủ mưa.
lOMoARcPSD| 58569740
Câu 5: Phân tích các nguyên nhân gây ra BĐKH. Hãy lấy các dụ thực tiễn để minh họa về
BĐKH do con người gây ra.
Khí hậu bị biến đổi do hai nhóm nguyên nhân:
a. Nhóm nguyên nhân khách quan (do biến đổi của tự nhiên)
Những biến đổi của tự nhiên gây ra BĐKH bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của Mặt trời, sự
thay đổi quỹ đạo Trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dòng
hải lưu sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển, sự biến đổi về phát xạ của Mặt trời
hấp thụ bức xạ của Trái đất, hoạt động của núi lửa,... Theo Bộ Tài nguyên Môi trường (2016),
nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên là sự biến đổi từ từ, có chu kỳ rất dài; do đó nếu
có thì các yếu tố tự nhiên chỉ đóng góp một phần rất nhỏ vào tinh trạng BĐKH toàn cầu hiện nay.
b. Nhóm nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người)
Sự gia tăng lượng phát thải khí CO, và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con người cũng
góp phần làm cho bầu khí quyển ấm dần lên và từ đó kéo theo BĐKH toàn cầu. Thủ phạm đầu tiên
là khí CO, được thải ra từ các hoạt động đốt than, dầu và khí tự nhiên trong các nhà máy điện, xe
hơi và nhà máy sản xuất. Thủ phạm thứ hai là khí CH, được tạo ra từ trồng lúa, chất thải từ chăn
nuôi, quá trình phân hủy rác thải các bãi chôn lấp, từ hoạt động khai thác mỏ từ các đường
ống dẫn khi. Thủ phạm thứ ba là khí NO2 từ đất nông nghiệp, chất thải gia súc, phân bón và hóa
chất trong nông nghiệp. Việc phát thải khi CFC các hóa chất thành phần tương tự thủ
phạm thử tư làm cho bầu khí quyển ấm lên.
Quan điểm cho rằng các hoạt động của con người chịu trách nhiệm chính cho sự gia tăng nhiệt độ
trung bình toàn cầu, từ đó kéo theo BĐKH toàn cầu từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã nhận được sự
đồng thuận của hầu hết các nhà khoa học. Trong báo cáo đánh giá lần thứ năm (năm 2014), IPCC
cho rằng sự ấm lên toàn cầu BĐKH điều chắc chắn (với khả năng chắc chắn đến 90%)
95% của sự ấm lên toàn cầu và BĐKH là do gia tăng khí nhà kinh từ các hoạt động của con người.
lOMoARcPSD| 58569740
Hình 1.2 thể hiện mối liên hệ giữa khí nhà kính BĐKH. Sgia tăng khối lượng các khí nhà
kính làm gia tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển, dẫn đến sự mất cân bằng giữa năng
lượng đến bề mặt Trái đất và năng lượng từ Trái đất thoát ra khỏi Vũ trụ (đây chính là hiện tượng
hiệu ứng nhà kính) và làm cho nhiệt độ khí quyển tăng. Nhiệt độ khi quyển tăng sẽ làm cho nhiệt
độ của đại dương cũng tăng lên nhưng có độ trễ hơn về thời gian. Sự kết hợp của gia tăng nhiệt độ
khí quyển và gia tăng nhiệt độ đại dương sẽ kéo theo BĐKH toàn cầu với các biểu hiện: nhiệt độ
trung bình toàn cầu tăng lên, mực nước biển dâng, lượng mưa thay đổi và các hiện tượng khí hậu
cực đoan như bão, lũ lụt, hạn hán,... trở nên thường xuyên hơn.
Mối liên hệ giữa khí nhà kính và BĐKH cũng chỉ ra rằng sự ấm lên toàn cu khác với BĐKH; bởi
vì sự ấm lên toàn cầu – là sự gia tăng dần dẫn của nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ là một trong
các biểu hiện của BĐKH. Nói cách khác, BĐKH là một vấn đề rộng và phức tạp hơn rất nhiều so
với sự ấm lên toàn cầu.
Ví dụ thực tiễn để minh họa về BĐKH do con người gây ra.
Trong giai đoạn 2000-2010, tốc độ gia tăng phát thải CO2 63% từ mức 150,9 triệu tấn năm 2000
lên mức 246,8 triệu tấn năm 2010. Tuy nhiên, mức phát thải CO2 giai đoạn 2010-2020 cao gấp
hai lần so với tốc độ tăng thập niên trước. Cụ thể, tốc độ gia tăng phát thải CO2 đạt mức 128,4%
khi tăng từ mức 246,8 triệu tấn năm 2010 lên mức 563,8 triệu tấn năm 2020. Giai đoạn 2010-2020
là giai đoạn Việt Nam mở cửa thương mại sâu rộng lên mức 200% với việc ký kết thành công các
FTA song phương đa phương quan trọng. Điều này góp phần tăng trưởng GDP cũng như các
phát triển mạnh trong các lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ môi trường không được chú
lOMoARcPSD| 58569740
trọng do đẩy mạnh phát triển công nghiêp hóa khiến lượng phát thải CO2 đã gia tăng với tốc độ
cao.
Tổng lượng KNK phát thải trong ngành năng lượng năm 2020 tăng gấp đôi lên mức 347,5 triệu
tấn CO2e từ mức 171,6 triệu tấn CO2e năm 2014. Trong đó, công nghiệp năng lượng chiếm thị
phần lớn nhất với 43,9% năm 2014 tiếp tục ngành phát thải cao nhất với tỷ lệ 59,7% năm
2020. Nguyên nhân chính là do ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng hóa thạch.
Câu 6: Phân tích các tác động của BĐKH đến hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế-xã hội.
Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa.
Báo cáo đánh giá đầu tiên về BĐKH của IPCC (1990) đã kết luận rằng, các khí nhà kính do con
người gây ra tiếp tục được tích tụ trong khí quyển sẽ dẫn đến sự biến đổi của khí hậu tốc độ
quy mô lớn, từ đó gây ra các tác động nghiêm trọng đến các hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế
- xã hội của con người.
Các hệ sinh thái như: đất, nguồn nước, rừng, rừng ngập mặn, rạn san hô, cửa sông, thảm cỏ biển,...
là những hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học cao và có những chức năng sinh thái vô cùng quan
trọng đối với con người. Các hệ sinh thái này phải gánh chịu các áp lực ngày càng gia tăng bởi
những thay đổi bất thường của khí hậu. Ví dụ: Nhiệt độ tăng làm tăng cường sự bốc hơi nước
dẫn đến hạn hán. Nhiệt đtăng cũng làm thay đổi chế độ mưa băng tan; từ đó ảnh hưởng đến
chế độ thủy văn và nguồn nước cả về số lượng và chất lượng. Nhiệt độ tăng làm thay đổi sự phân
bố và sự phong phú của nguồn lợi thủy sản có giá trị thương mại cao. Nước biển dâng sẽ làm giảm
diện tích đất canh tác trong nông nghiệp. do lũ lụt xâm nhập mặn. Dòng chảy từ mưa lớn gây
xói mòn bờ biển và làm mất các hệ sinh thái đất ngập nước. Nhìn chung, BĐKH sẽ ảnh hưởng đến
sức khỏe, chức năng năng suất của các hệ sinh thái. Hệ quả chung là sự phân bố, tính đa dạng
sinh học năng suất của các hệ sinh thái sẽ bị suy giảm. Khi những chức năng sinh thái này bị
suy giảm, các hệ sinh thái sẽ bị suy yếu ít khả năng phục hồi trước những tác động ngày
càng tăng của BĐKH.
Sự suy giảm chức năng của các hệ sinh thái sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, các hoạt động kinh tế - hội và phúc lợi của những người dân sống phụ thuộc vào các hàng
hóa và dịch vụ mà các hệ sinh thái này cung cấp. Ví dụ: Sự tẩy trắng san hô và sự thay đổi về thời
tiết sẽ ảnh hưởng đến sự phân bổ, tính đa dạng trữ lượng của nguồn lợi thủy sản, từ đó sẽ ảnh
hưởng đến ngư trường đánh bắt sản lượng đánh bắt của ngư dân. Tình trạng nước mặn xâm
nhập vào các tầng nước ngầm ven biển một mặt gây ảnh hưởng đến hoạt động nông nghiệp (do
đất nông nghiệp bị nhiễm mặn), mặt khác gây ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng (do môi trường
sống của các hệ sinh thái cửa sông trở nên lợ hơn). Ngập lụt ở khu vực ven biển do nước biển dâng
làm gia tăng việc tái định cư trên đất liền. Nhiệt độ tăng, đặc biệt là sóng nhiệt gây bệnh tật, thậm
chí tử vong người. Nhìn chung, hầu hết các hoạt động kinh tế - hội của con người đều chịu
ảnh hưởng bởi BĐKH
Câu 7: Phân tích các tác động của BĐKH đến các ngành kinh tế. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn
để minh họa
lOMoARcPSD| 58569740
Do phụ thuộc trực tiếp vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhạy cảm với BĐKH nên nông nghiệp
là ngành dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH. Những ảnh hưởng cụ thể bao gồm: (1)
thu hẹp diện tích đất phù hợp với sản xuất nông nghiệp do nghi biển dâng gây ngập lụt hoặc mặn
hóa các vùng đất canh tác do xâm nhập của nước biển; (ii) thiếu nước tưới do hạn hán và thay đổi
chế độ mưa; (ii) thay đổi mùa vụ sản xuất và gia tăng dịch bệnh của gia súc do tăng nhiệt độ trung
bình và các hiện tượng khí hậu cực đoan. Những ảnh hưởng đó làm giảm năng suất sản lượng
nông nghiệp, làm giảm cơ hội việc làm, đẩy giả lương thực lên cao đe dọa vấn đề an ninh lương
thực. Ở nhiều vùng trên thế giới, nơi sản xuất nông nghiệp đã ở mức thấp và các phương tiện ứng
phó với các sự kiện bất lợi còn hạn chế, BĐKH thậm chí sẽ làm giảm năng suất đến mức thấp hơn
làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng thất thường. Theo Ngân hàng Thế giới (2010), dưới
tác động của BĐKH, mỗi năm thể có hơn 3 triệu người bị chết vì suy dinh dưỡng khoảng 100
đến 400 triệu người có nguy bị đói và khoảng 1 đến 2 tỷ người sẽ không đủ nước phục vụ
nhu cầu sinh hoạt. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) (2018) cho rằng,
BĐKH tác động đến an ninh lương thực ở bốn khía cạnh: khả năng tiếp cận thực phẩm, khả năng
cung cấp thực phẩm, việc tiêu dùng thực phẩm và sự ổn định của hệ thống thực phẩm.
Bên cạnh nông nghiệp, các ngành nh vực khác cũng nguy bị ảnh hưởng bởi tác động của
BĐKH. Đối với ngành thủy sản, các khu vực đánh bắt nuôi trồng thủy sản đều bị ảnh hưởng
bởi sự thay đổi của nguồn nước (mặn hóa do nước biển dâng hoặc ngọt hóa do lũ lụt), dẫn đến sự
thay đổi về giống loài, trữ lượng và năng suất của nguồn lợi thủy sản. Các ngành kinh tế then chốt
ở vùng ven biển như du lịch và công nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng làm phá hủy
các tài sản hoặc nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng do tăng chi phí thông gió và làm mát.
Nước biển dâng nguy làm phá vỡ các công trình xây dựng dân dụng, các công trình
giao thông các khu dân cư. Bên cạnh đó, BĐKH tác động đến việc làm theo hai xu hướng
rệt là: BĐKH làm cho việc làm trong nông nghiệp trở nên bấp bênh hơn, rủi ro hơn và điều kiện
làm việc tồi tệ hơn; đồng thời BĐKH cũng làm cho một bộ phận lao động phải chuyển đổi việc
làm (ví dụ chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ), làm giảm thời gian làm
việc, giảm thu nhập và tăng lượng lao động di cư. Nhìn chung, BĐKH được dự đoán sẽ làm thay
đổi toàn diện sâu sắc quá trình phát triển của các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực như: nông
nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, năng lượng. việc làm, thương mại,...
Câu 8: Phân tích các tác động của BĐKH đến các vùng. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh
họa.
Các khu vực dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH các đảo nhỏ, vùng châu thổ của
các con sông lớn, dải ven biển vùng núi. Đây những khu vực năm vị trí phải gánh chịu
những ảnh hưởng trực diện nhất của BĐKH kết hợp với điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Theo
Ngân hàng Thế giới (2010), châu Phi cận Sahara với hai phần ba diện tích bề mặt tự nhiên sa
mạc hoặc đất đai cằn cỗi rất dễ bị hạn hán và lũ lụt và tình trạng trên được dự báo sẽ gia tăng gấp
nhiều lần trong bối cảnh BĐKH. Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có dân đông đúc sống
vùng duyên hải và các hải đảo trũng thấp (riêng Trung Quốc có khoảng 130 triệu dân Việt Nam
khoảng 40 triệu dân) rất dễ bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng. Trung Đông Bắc Phi khu
vực khô hạn nhất thế giới và nước là yếu tố đặc biệt dễ bị tổn thương trong bối cảnh BÐKH.
lOMoARcPSD| 58569740
IPCC (2007) cho rằng, các vùng đồng bằng của con con sông lớn như đồng bằng sông Nile Ai
Cập, đồng bằng sông Hằng Băng-la-đét đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam ba đồng
bằng trên thế giới bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi nước biển dâng gây ngập lụt.
Trong các khu vực địa lý, vùng ven biển và các quốc gia đảo nhỏ, đặc biệt ở châu Á và châu Phi,
những khu vực dễ bị tổn thương nhất bởi những ảnh hưởng từ mực nước biển dâng, bão, gió
lốc, lốc xoáy, ngập lụt và xâm thực bờ biển. Tính trên phạm vi toàn cầu, có ít nhất 150 triệu người
sống trong phạm vi 1m của mực nước thủy triều cao 250 triệu người sống trong phạm vi 5m
của mực nước thủy triều cao (USAID, 2009). BĐKH có nguy cơ gây ra những tác động mang tính
thảm họa và không thể đảo ngược đối với vùng ven biển, như: mất nhà cửa, phá hủy cơ sở hạ tầng
thiết yếu và mất các sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Các cộng đồng ven biển vốn đã
nghèo sẽ phải gánh chịu thêm nhiều rủi ro từ BĐKH cùng với c tổn thất nghiêm trọng về sức
khỏe, việc làm thu nhập, đòi hỏi sự trợ giúp đặc biệt trong công tác quản rủi ro thiên tai
BĐKH cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
Tại Việt Nam, đặc trưng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu thể chia thành ba địa bàn lãnh thổ
gồm đồng bằng, ven biển và miền núi.
- Đối với vùng đồng bằng, nước ta có hai vùng đồng bằng lớn đó Đồng bằng sông Hồng(ĐBSH)
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đối với ĐBSCLvùng chịu tác động nặng nề nhất của
BĐKH, theo tính toán kịch bản BĐKH, đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ tăng khoảng 3,4 độ C, mực
nước biển tăng thêm 1m sẽ có khoảng 40% diện tích đất bị ngập vĩnh viễn, khoảng 10% dân số
bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất, thêm vào đó BĐKH diễn ra ở ĐBSCL kéo theo hạn hán, xâm
nhập mặn, sạt lở và nhiều hệ lụy đi kèm như đã từng diễn ra những năm gần đây.
- Đối với vùng ven biển, nhất là khu vực ven biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam
Bộ, ảnh hưởng của BĐKH lớn nhất bão, áp thấp nhiệt đới. Đối với khu vực ven biển miền Trung
hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất, thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ hơn. Những vùng ven biển còn chịu ảnh
hưởng của xâm nhập mặn. Theo tính toán nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, một số khu vực
trũng đồng bằng ven biển miền trung sẽ bị ngập như ở Thanh Hóa.
- Đối với khu vực miền núi, đặc điểm khu vực miền núi của nước ta phân bố nhiều dân tộc ítngười,
trình độ dân trí thấp, do vậy ảnh hưởng của KH diễn ra khả năng chống đỡ hạn chế. Ảnh
hưởng chính của BĐKH khu vực này tính dị thường của BĐKH, trong nền chung nhiệt độ
tăng sẽ càng trầm trọng hơn thiếu nước về mùa khô, nhất là Tây Nguyên và Tây Bắc, suy giảm
đa dạng sinh học, sự thay đổi hệ sinh thái. Nhiệt độ giảm sâu tác động tới chăn nuôi gia súc, gia
cầm nhất đối với trâu bò, thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, khi nhiệt độ giảm sâu một
lượng lớn trâu miền núi phía Bắc chết nhiều. Ảnh hưởng của BĐKH gây ra quét, sạt lở
đất, lốc xoáy, mưa đá những hiện tượng khá phổ biến. Khu vực miền núi Bắc Trung Bộ với
nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng sinh học tác động tới
đời sống nhân dân.
Câu 9: Phân tích các tác động của BĐKH đến các nước phát triển đang phát triển. Hãy
lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa
lOMoARcPSD| 58569740
BĐKH ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia; nhưng các tác động của BĐKH được phân bổ không
đồng đều giữa các nước, trong đó các nước đang phát triển (thường là những nước nghèo nhất) sẽ
bị ảnh hưởng nhiều nhất sớm nhất với những tác động không thể đảo ngược của BĐKH,
những lý do sau:
Thứ nhất, các nước đang phát triển thường nằm các khu vực địa có điều kiện tự nhiên rất dễ
bị tổn thương trước tác động của BĐKH, ví dụ như vùng nhiệt đới khô hạn, vùng đất dốc khô cắn,
vùng ven biển thấp và các đảo nhỏ; hoặc ở những khu vực địa lý vốn đã ấm hơn so với các nước
phát triển nên sự ấm hơn nữa sẽ làm họ bị bất lợi hơn.
Thứ hai, các nền kinh tế các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên,
đặc biệt là tài nguyên biển ở khu vực châu Á Thái Bình Dương và tài nguyên đất ở châu Phi, trong
khi những nguồn tài nguyên này rất dễ bị tổn thương trước những tác động của BĐKH. Các tài
nguyên thiên nhiên này vốn đã bị suy thoái do tăng trưởng dân sốđô thị hóa nhanh cùng với tỷ
lệ nghèo đói cao, mật độ dân số đông.... làm cho việc quản lý trở nên phức tạp hơn trong bối cảnh
BĐKH; từ đó sẽ gây ảnh hưởng nhiều hơn đến các hoạt động kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên tê
thiên nhiên.
Thứ ba, các nước đang phát triển phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như nguồn thu nhập
tạo việc làm chủ yếu trong khi nông nghiệp ngành dễ bị tổn thương nhất trước tác động của
BĐKH. dụ, nông nghiệp chiếm trên một phần ba (1/3) doanh thu xuất khẩu của khoảng 50 nước
đang phát triển khoảng gần một nửa số việc làm các nước đang phát triển (UNDP, 2008).
châu Phi, nông nghiệp đóng góp 23% vào GDP (không kể Nam Phi) tạo việc làm cho khoảng
70% dân số (Ngân hàng Thế giới, 2010).
Thứ tư, sở hạ tầng các nước đang phát triển còn yếu kém, đặc biệt là nhà đường giao
thông được xây dựng với chất lượng kém, không được bảo dưỡng thường xuyên nên ít khả năng
chống chịu trước những cơn bão, những đợt nắng nóng hoặc lũ lụt kéo dài.
Với những đặc điểm trên, các nước đang phát triển dễ bị tổn thương nhất. Theo Stern (2006),
BĐKH có thể làm giảm hơn nữa thu nhập vốn đã thấp và làm gia tăng bệnh tật cũng như tỷ lệ tử
vong ở các nước đang phát triển. Sự giảm sút thu nhập của nông dân sẽ làm tăng nghèo đói và làm
giảm khả năng của các hộ gia đình trong việc đầu tư vào một tương lai tốt đẹp hơn, thậm chí buộc
họ phải sử dụng số tiền tiết kiệm ít ỏi chỉ để tồn tại. Ở cấp quốc gia, BĐKH sẽ làm giảm thu nhập
quốc dân làm tăng nhu cầu chi tiêu, từ đó làm xấu đi tình trạng tài chính công. Những sốc
khí hậu có thể gây ra những trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước đang phát triển
ngay cả khi nhiệt độ tăng dưới 1°C vào cuối thế kỷ 21. Với kịch bản nhiệt độ tăng 3 - 4°C, các tác
động của BĐKH rất lớn. Ngân hàng Thế giới (2010) ước tính rằng, các nước đang phát triển
phải gánh chịu khoảng 75 - 80% chi phi tổn thất do BĐKH trong khi có năng lực thích ứng kém
hơn so với các nước phát triển do thiếu năng lực tài chính và thể chế để quản lý các rủi ro khi hậu.
BĐKH sẽ gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến người nghèo trên thế giới. Châu Phi thể phải đối
mặt với tình trạng sản xuất lương thực thu hẹp và thiếu nước nghiêm trọng, trong khi các khu vực
ven biển ở Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á sẽ có nguy cơ lũ lụt rất lớn. Châu Mỹ La-tinh sẽ gặp
phải thiệt hại đối với tài nguyên rừng khu vực nông nghiệp do khí hậu khô hơn, trong khi
lOMoARcPSD| 58569740
Nam Mỹ, thay đổi hình mưa sự biến mất của các sông băng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến
nguồn nước. Trong khi các nước giàu hơn có thể có nguồn lực kinh để thích ứng với các tác động
của BĐKH thì các nước nghèo, nếu không viện trợ đáng kể, sẽ không thể thực hiện các biện
pháp phòng ngừa và thích ứng, đặc biệt là các biện pháp dựa vào các công nghệ mới nhất.
Các nước phát triển có thu nhập cao cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi BĐKH. Trên thực tế, mức thiệt hại
tính bình quân đầu người ở các nước phát triển có thể sẽ cao hơn, bởi vì mặc dù các nước này chỉ
chiếm 16% dân số thế giới nhưng chiếm tới 20 - 25% chi phí thiệt hại trên toàn cầu (Ngân hàng
Thế giới, 2010). Tuy nhiên, sự giàu có sẽ giúp các nước này đương đầu tốt hơn với các tác động
từ BĐKH.
Bên cạnh những tác động bất lợi, BĐKH thể tạo ra các tác động có lợi, dụ như gia tăng sản
xuất nông nghiệp ở vùng khí hậu lạnh, làm giảm chi phí sưởi ấm ít tử vong do tiếp xúc với lạnh
hơn khi khí hậu ấm hơn. Các tác động tích cực có thể sẽ được trải nghiệm chủ yếu ở các vùng phía
Bắc của Bản cầu như Iceland, Siberia Canada. Stern (2006) cho rằng, BĐKH với kịch bản
nhiệt độ tăng 2 - 3°C vào cuối thế kỷ 21 - thể mang lại một số tác động ch cực cho một vài
nước phát triển - nằm ở các vùng vĩ độ cao, ví dụ như Canada, Nga và Scandinavia thông qua gia
tăng năng suất nông nghiệp, làm giảm tỷ lệ tử vong, giàu nhu cầu về sưỡi vào mùa đông và tạo ra
sự bùng nổ về du lịch nhờ nhiệt độ ấm hơn. Tuy nhiên, những khu vực này cũng sẽ phải gánh chịu
những thiệt hại của sự ấm lên toàn cầu làm phá hủy cơ sở hạ tầng, sức khỏe con người, sinh kế địa
phương và đa dạng sinh học nếu sự gia tăng nhiệt độ là rất lớn (ví dụ như kịch bản nhiệt độ tăng 5
- 6°C vào cuối thế kỷ 21). Hầu hết phần còn lại của thế giới, đặc biệt là các khu vực nhiệt đới
bán nhiệt đới, có khả năng gặp phải các tác động tiêu cực mạnh mẽ từ
BĐKH.
Nhìn chung, BĐKH một mối đe dọa nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển, là một trở
ngại lớn để tiếp tục giảm nghèo và phát triển bền vững trên nhiều khía cạnh. Sự không công bằng
về mức độ bị ảnh hưởng bởi BĐKH và khả năng đương đầu với BĐKH giữa các quốc gia có thể
làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng giữa các quốc gia trên thế giới. Sau khi Thỏa thuận Paris về
BĐKH được thông qua tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về
BĐKH COP 21 tại Paris (Pháp) vào năm 2015, các quốc gia tham dự COP 22 tại Marrakech,
Ma-rốc vào năm 2016 đã nhất trí theo đuổi con đường phát triển phát thải các-bon thấp và có khả
năng chống chịu trước những tác động của BĐKH (Low Carbon and Climate Resilience
Development Pathways) để biến những cam kết của Thỏa thuận Paris về BĐKH thành hiện thực.
Câu 10: Phân tích các tác động của BĐKH đến sự phát triển bền vững của các quốc gia. Hãy
lấy các ví dụ thực tiễn về Việt Nam để minh họa.
BĐKH không chỉ đơn thuần một vấn đề môi trường thách thức đối với sự phát triển bền
vững (IPCC, 2001). Các tác động tiềm tàng của BĐKH là mối đe dọa đối với phát triển bền vững
của các quốc gia. Phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
BĐKH gây ảnh hưởng đến ba lĩnh vực: (i) kinh tế (tác động đến các ngành kinh tế như nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng, du lịch,
thương mại); (ii) xã hội (tác động đến sức khỏe, nghèo đói, việc làm, bình đẳng giới); và (iii) môi
lOMoARcPSD| 58569740
trường (tác động đến tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, hệ sinh
thái và đa dạng sinh học, chất lượng không khí).
Nhìn chung, BĐKH thể dẫn tới những khủng hoảng về sinh thái (suy giảm các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và chất lượng môi trường), kinh tế (gia tăng thiệt hại về tài sản, mất các sinh kế, tăng
chi phí của các biện pháp ứng ứng phó) và hội (tạo ra những dòng người di cư khỏi các vùng
bị ảnh hưởng gây ra sự xáo trộn về trật tự hội). Những ảnh hưởng thực tế từ BĐKH có thể
lớn hơn rất nhiều so với ước tính; đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới
mọi nỗ lực phát triển của con người đều có nguy cơ bị hủy hoại bởi BĐKH.
Ví dụ thực tiễn
BĐKH cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, nổi bật là:
Một là, ảnh hưởng đến mục tiêu chấm dứt nghèo.
Những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, Việt Nam thường xuyên xuất hiện hiện tượng thời tiết
cực đoan, như: bão, hạn hán, giông, lốc, ống, quét, sạt lở đất…, tàn phá nghiêm trọng cây
lương thực và tài sản của người dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây
lương thực, gia tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp, kéo theo hệ lụy về nghèo đói gia tăng. Tổng
hợp thiệt hại do thiên tai năm 2019 của cả nước cho thấy, diện tích cây lương thực bị ảnh hưởng
là 40.017ha. Năm 2020, thiệt hại lên tới 209.378ha. Điều này cho thấy, thiệt hại do thiên tai năm
2020 lớn hơn nhiều so với năm 2019. Sau những đợt thiên tai, bão lũ, nhiều hộ gia đình đã rơi vào
cảnh “trắng tay”, nợ nần, thiếu đói; đồng thời, tỷ ltái nghèo diễn ra mạnh hơn. “Hiện nay cứ 3
người thoát nghèo lại có 1 người tái nghèo, chủ yếu do hậu quả thiên tai”.
Hai là, ảnh hưởng đến nền giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng bất lợi đến triển vọng đạt được mục tiêu giáo dục theo nhiều cách
khác nhau, làm gia tăng thiên tai, dịch bệnh… ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian, cơ hội đến
trường của trẻ. Báo cáo của UNICEF thực hiện cùng tổ chức “Fridays for Future” công bố năm
2021 cho thấy, có khoảng 1 tỷ trẻ em – gần một nửa trong số 2,2 tỷ trẻ em trên toàn thế giới –
sống tại 33 quốc gia được phân loại là có “nguy cơ cực kỳ cao” bởi tác động của biến đổi khí
hậu.
Báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) ngày 20/8/2021 cho thấy, thanh, thiếu niên
Việt Nam là một trong những nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất trước các tác động của biến đổi
khí hậu. Trong phân ch này, các quốc gia được xếp hạng dựa trên nguy cơ rủi ro của trem trước
các sốc về khí hậu môi trường, chẳng hạn như lốc xoáy và các đợt nắng nóng; cũng như mức
độ dễ bị tổn thương của trẻ em trước các cú sốc, dựa trên khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu
của trẻ em. Điều này đe dọa đến sức khỏe, giáo dục và sự an toàn của các em.
Tại Việt Nam, sau những trận mưa, bão, lũ, lụt, phần lớn cơ sở vật chất, các trang thiết bị giảng
dạy nhiều trường, lớp bị hư hỏng, nên nhiều học sinh không thể đến trường hoặc phải học chậm
hơn.
lOMoARcPSD| 58569740
Ba là, ảnh hưởng tới mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em
gái.
Biến đổi khí hậu gây ra những tác động khác nhau đối với phụ nữ nam giới. Các nghiên cứu
cho thấy, khoảng 80% số người chịu các tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hâu là p ụ
nữ. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, số phụ ntrẻ em tử vong bởi các thảm họa thiên nhiên
cao hơn 14 lần so với nam giới. Biến đổi khí hậu tác động lên cuộc sống và sinh kế của người dân
theo những cách thức khác nhau và phụ nữ luôn được coi là một trong những đối tượng dễ bị tổn
thương nhất do biến đổi khí hậu. Trên thực tế, biến đổi khí hậu có thể làm tồi tệ thêm những bất
bình đẳng giới, tạo thêm gánh nặng cho phụ nữ. Báo cáo thảo luận chính sách của Liên hợp quốc
Oxfam khẳng định, nhiều thiên tai xảy ra do biến đổi khí hậu dẫn đến di tăng lên Việt
Nam. Phụ nữ di cư thường kiếm được việc làm ít hơn nam giới và nếu họ ở lại khi các thành viên
khác trong gia đình di thì họ sẽ phải gánh vác trách nhiệm của nam giới. Một tình trạng phổ
biến khác nam giới trong gia đình thường làm việc xa nhà, nên khi thiên tai tàn phá thì phụ nữ
buộc phải gánh vác hầu hết các hậu quả của rủi ro thiên tai.
Sinh kế của người nghèo, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em nông thôn, phụ thuộc vào khai thác
tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt hải sản gần bờ. Cuộc sống của họ phụ thuộc khá nhiều
vào các hệ sinh thái có sẵn trong tự nhiên. Nhưng biến đổi khí hậu đang làm mất đi nhiều khu rừng
tự nhiên, hệ sinh thái đa dạng sinh học. Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ, trẻ em, vốn cuộc sống
chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn trong tự nhiên. Hơn nữa, phụ nữ, đặc
biệt là phụ nữ nông thôn, thường phải gánh vác nhiều công việc nặng nhọc, đóng vai trò người chủ
gia đình lao động chính những nơi khí hậu khắc nghiệt, tài nguyên khan hiếm, các vùng bị
nhiều thiên tai, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, khiến họ bị giảm cơ hội được
giải phóng và bình đẳng.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu làm giảm chất lượng nước và trữ lượng nước sạch, nguy cơ gia tăng các
bệnh truyền nhiễm đây chính các yếu tố đe dọa sức khỏe sinh sản, điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc bà mẹ và trẻ em.
Bốn là, ảnh hưởng tới mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên.
Biến đổi khí hậu với những biểu hiện bất thường của thời tiết cực đoan đang làm hoang mạc hóa,
đất đai bị xói mòn, gia tăng diện tích đất ngập mặn, ngập úng do lũ lụt hoặc hạn hán, làm thiếu đất
canh tác, mất đất trú, gây ra những thay đổi trong đời sống hội ảnh hưởng tới mục tiêu
bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả mọi người. Thống kê gần đây cho thấy, do ảnh hưởng biến
đổi khí hậu, trong 10 năm trở lại đây, đã có 1,7 triệu người di ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long
vì thiếu đất canh tác, không có việc làm ổn định, tỷ lệ di cư này là gấp hai lần trung bình cả nước.
Câu 11: Tại sao BĐKH cần được giải quyết trên phạm vi toàn cầu?
Câu 12: Giảm nhẹ BĐKH là gì? Có những chính sách giảm nhẹ BĐKH nào? Hãy lấy một số
ví dụ về các chính sách giảm nhẹ BĐKH trong ngành năng lượng và công nghiệp.
Giảm nhẹ (mitigation) để cập đến các biện pháp hoạt động nhằm làm giảm các tác động của
con người đến môi trường (tự nhiên nhân tạo) các chi phí con người phải gánh chịu.
lOMoARcPSD| 58569740
Trong lĩnh vực môi trường, giảm nhẹ liên quan đến các biện pháp giảm thiệt hại môi trường bằng
cách giảm lượng phát thải các chất ô nhiễm gây hại. Gần đây, giảm nhẹ thường được đề cập trong
bối cảnh BĐKH toàn cầu.
Nhìn chung, giảm nhẹ BĐKH bao gồm hai nhóm chính sách:
Thứ nhất, các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính từ các nguồn phát thải, ví dụ như từ các ngành
năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất, giao thông, thương mại, chủ yếu
thông qua tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng phát triển công nghệ mới nhằm làm cho
nền kinh tế thế giới không bị gắn nhiều với các-bon và các khí nhà kính khác.
Thứ hai, các hoạt động tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính, chủ yếu từ các hoạt động sử dụng
đất, thay đổi sử dụng đất, lâm nghiệp và từ các hệ sinh thái biển, ven biển và đại dương.
Ví dụ: Để giảm phát thải khí CO2, bên cạnh việc chuyển đổi sử dụng nhiên liệu từ nhiên liệu hóa
thạch (ví dụ như than, dầu mỏ, khí ga) sang nhiên liệu thay thế không tạo ra CO2 (ví dụ như năng
lượng tái tạo được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh
học), cần tăng cường trồng rừng và giảm chặt phá rừng (bởi vì rừng vai trò rất lớn trong việc
hấp thụ CO2 từ quá trình quang hợp của cây xanh).
Đối với công nghiệp, việc triển khai các công nghệ sẵntốt nhất và áp dụng thực tiễn tốt nhất có
thể làm giảm tiêu dùng năng lượng trong các ngành công nghiệp từ 20-25%, từ đó giúp làm giảm
phát thải CO2. Các biện pháp chính gồm sử dụng các thiết bị, ng nghệ tiêu hao ít năng lượng,
cải tiến các thiết bị hiện tại để sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, giảm gỉ khí hoặc hơi nước
nhằm tối ưu hiệu suất của các quy trình sx, từ đo cải thiện hiệu quả hoạt động của nhà máy nhờ
tiết kiệm chi phí năng lượng và giảm khí thải.
Câu 13: Thích ứng với BĐKH là gì? những chính sách thích ứng với KH nào? Hãy lấy một
số ví dụ về các chính sách thích ứng với BĐKH trong ngành nông nghiệp
Thích ứng quá trình điều chỉnh của hệ thống tự nhiên con người trước BĐKH dự kiến hoặc
thực tế và những tác động của BĐKH nhằm làm giảm/tránh những ảnh hưởng bất lợi và tận dụng
các cơ hội có lợi do BĐKH mang lại (IPCC, 2014).
Bằng các cách: Thích ứng về công nghệ, thích ứng về tài chính, thích ứng về thông tin, thíchứng
về thể chế, chính sách
Được thực hiện bởi: Khu vực tư nhân (cá nhân, doanh nghiệp), khu vực công (nhà nước)
lOMoARcPSD| 58569740
Chính sách thích ứng BĐKH
Thích ứng với BĐKH thể gặp nhiều khó khăn, bởi rủi ro từ BĐKH không chắc chắn. Trong
nhiều trường hợp, sống chung với BĐKH cũng là một cách thích ứng. Tuy nhiên, ngay cả khi con
người biết cần phải thực hiện những hành động nào để thích ứng với KH thì việc thúc đẩy
chính phủ, doanh nghiệp hoặc cả nhân hành động một thách thức. Một số công cụ chính sách
bản có thể được thiết kế áp dụng để thúc đẩy hành động thích ứng với BĐKH, bao gồm công
cụ mệnh lệnh - kiểm soát, công cụ kinh tế, công cụ kỹ thuật và công cụ giáo dục truyền thông.
Công cụ luật pháp - chính sách
Các công cụ mệnh mệnh - kiểm soát thiết lập các quy tắc có thể thực thi về mặt pháp lý cần phải
tuân thủ để tác động vào các cá nhân nhằm thay đổi hành vi của họ hưởng đến đạt mục tiêu đề ra.
Trong lĩnh vực thích ủng với BĐKH, nội dung thích ứng với BĐKH có thể được đưa vào luật, kế
hoạch, chương trình hành động, chiến lược phát triển cấp quốc gia.
Một trong những bộ luật khung sớm nhất về BĐKH Luật Biến đổi khí hậu (2008) của Vương
Quốc Anh với các nội dung quan trọng về xác định mục tiêu phát thải khí nhà kính dài hạn dựa
trên sở khoa học, khối lượng phát thải 5 năm, cách thức đạt được mục tiêu dài hạn lập kế
hoạch thích ứng liên tục với BĐKH dựa theo khả năng phục hổi. Luật ĐKH của Vương quốc Anh
được đánh giá là công cụ có hiệu lực trong việc thực hiện hiệu quả chính sách ủng phó với BĐKH.
Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường (2014) có một chương với các điều khoản quy định về ứng
phỏ với BĐKH, bao gồm giảm nhẹ và thích ứng.
lOMoARcPSD| 58569740
Bên cạnh luật, từ năm 2010, Kế hoạch Thích ủng Quốc gia (National Adaptation Plan NAP)
được xây dựng theo quy trình của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (UNFCCC) đã
giúp các quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển, lập kế hoạch thích ứng với BĐKH trong
trung dài hạn một cách toàn diện với các mục tiêu: (i) giảm thiểu khả năng dễ bị tổn thương
trước tác động của BĐKH bằng cách tăng cường năng lực thích ứng khả năng phục hồi; (ii)
thúc đẩy việc tích hợp thích ứng với BĐKH vào c chính sách, chương trình, hoạt động phát triển
ở tất cả các lĩnh vực liên quan và ở các cấp độ khác nhau. Kế hoạch Thích ứng Quốc gia được coi
một công cụ lập kế hoạch hiệu quả đối với thích ứng với BĐKH. Các kết quả đầu ra của Kế
hoạch Thích ủng quốc gia bao gồm các hoạt động, dự án thích ứng khẩn cấp trong ngắn hạn
được đề xuất trong Chương trình Hành động quốc gia thích ứng với BĐKH (National Adaptation
Program of Action – NAPA) và các hoạt động, dự án thích ứng theo ngành và địa phương. Ngoài
ra, Chiến lược Thích ủng Quốc gia (National Adaptation Strategy) cũng được xây dựng nhằm cụ
thể hóa Kế hoạch Thích ủng Quốc gia và Chương trình Hành động thích ứng quốc gia.
Công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế, còn được gọi là các công cụ dựa vào thị trường, sử dụng tín hiệu giá cả và tác
động vào các lợi ích chi phí kinh tế của các cá nhân nhằm thay đổi hành vi của họ để đạt mục tiêu
đề ra. Các công cụ kinh tế bao gồm thuế, trợ cấp, các nguồn tài chính (tín dụng, trái phiếu,...), các
công cụ chia sẻ rủi ro như bảo hiểm,... Khi được thiết kế hợp lý, các công cụ kinh tế có khả năng
mang lại những cách thức hiệu quả tiết kiệm chi phí trong việc đáp ứng các mục tiêu môi trường
khí hậu. Các công cụ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong thích ứng với BĐKH tài chính
thích ứng, bảo hiểm BĐKH, trợ cấp sau thiên tai, các quỹ dự phòng.... Các công cụ này đã được
trình bày cụ thể ở Chương 5 Kinh tế học thích ứng với BĐKH.
Công cụ kỹ thuật
Một trong những công cụ kỹ thuật được sử dụng phổ biến phục vụ công tác thích ứng với BĐKH
đánh giá tổn thương do BĐKH (Climate Change Vulnerability Assessment). Theo IPCC (2001),
tính dễ bị tổn thương là mức độ mà một hệ thống dễ bị ảnh hưởng hoặc không thể đối phó với các
tác động bất lợi của BĐKH, bao gồm dao động và biến đổi khí hậu cực đoan. Tinh dễ bị tổn thương
một hàm số của ba yếu cấu thành, bao gồm: sự phơi nhiễm, độ nhạy cảm và năng lực thích ứng.
Các kết quả đầu ra của đánh giá tổn thương do BĐKH bao gồm: (i) tả và phân tích tính dễ bị
tổn thương hiện tại của các nhóm dễ bị tổn thương đại diện (ví dụ như sinh kế nguy gặp
rủi ro khí hậu), (ii) mô tả và phân tích tính dễ bị tổn thương tiềm năng trong tương lai; (iii) so sánh
tinh dễ bị tổn thương trong các điều kiện kinh tế - hội, khí hậu hành động thích ứng khác
nhau; và (iv) để xuất các biện pháp thích ứng với BĐKH. Các kết quả của đánh giá tổn thương do
BĐKH sẽ được sử dụng trong quá trình ra quyết định về thích ứng của các bên liên quan (bao gồm
chính phủ, cộng đồng, doanh nghiệp, cá nhân).
Công cụ giáo dục và truyền thông
Giáo dục về thích ủng với BĐKH là việc thực hiện các biện pháp và chương trình giáo dục nhằm
xây dựng các hoạt động thích ứng hiệu quả với BĐKH. Giáo dục giúp người học hiểu được nguyên
nhân, hậu quả tác động của BĐKH, từ đó giúp họ thực hiện các biện pháp thích ứng phù hợp.
lOMoARcPSD| 58569740
Giáo dục cũng giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu được tầm quan trọng sự cấp bách của
việc thích ứng ở cấp quốc gia, ngành và địa phương cũng như giúp tăng cường khả năng phục hồi
của các cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trước các tác động của BĐKH.
Truyền thông về thích ứng với BĐKH bao gồm giáo dục, cung cấp thông tin, thuyết phục huy
động sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động thích ứng với BĐKH. Các chiến lược quốc gia
về BĐKH chỉ thể thành công nếu như khuyến khích được sự tham gia của các bên liên quan
khác nhau. Điều 4 của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH kêu gọi các quốc gia thúc
đẩy hợp tác trong giáo dục, đào tạo nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH khuyến
khích sự tham gia của xã hội vào ứng phó với BĐKH. Do đó, các chiến lược kế hoạch truyền
thông đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối giữa chính phủ với các tổ chức dân sự xã
hội, doanh nghiệp, cộng đồng quan hệ các tổ chức quốc tế; từ đó nâng cao nhận thức phổ
biến kiến thức về BĐKH cho các nhóm đối tượng khác nhau.
Nhìn chung, giáo dục và truyền thông giúp các bên liên quan trọng xã hội có nhận thức đúng đắn
sâu sắc về BĐKH, đồng thời chuyển từ nhận thức sang các hành động thiết thực sẽ là một trong
những yếu tố quyết định sự thành công của cuộc chiến đấu chống BĐKH.
Câu 14:. Trình bày những nội dung chính của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH
(năm 1992).
- Mục tiêu: được nêu trong Điều 2 là “ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức cóthể
ngăn chặn được các rủi ro nguy hiểm do tác động của con người đối với hệ thống khí hậu. Nồng
độ này cần đạt được trong một khoảng thời gian đủ để cho phép các hệ sinh thái thể thích ứng
một cách tự nhiên với BĐKH, đảm bảo sản xuất lương thực không bị đe dọa sự phát triển kinh
tế được thực hiện theo cách thức bền vững” (United Nations, 1992).
- Nguyên tác
Điều 3 của Công ước đã đưa ra một số nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu ổn định nồng độ khí
nhà kính trong khí quyển, bao gồm (United Nations, 1992):
Thứ nhất, các nước tham gia Công ước phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của thế hệ hiện tại
tương lai trên sở công bằng, trách nhiệm chung nhưng sự phân biệt, trong đó các nước
phát triển cần đi đầu trong cuộc chiến chống BĐKH và những ảnh hưởng bất lợi của BÐKH.
Thứ hai, cần xem xét đầy đủ nhu cầu cụ thể và hoàn cảnh đặc biệt của các nước đang phát triển,
đặc biệt các nước dễ bị tổn thương trước các tác động bất lợi của BĐKH của các nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển, phải chịu gánh nặng không cân xứng hoặc bất thường theo Công
ước.
Thứ ba, các nước tham gia Công ước cần thực hiện các biện pháp. phòng ngừa để dự đoán, ngăn
chặn hoặc giảm thiểu c nguyên nhân gây ra BĐKH các tác động bất lợi của BĐKH. Trong
trường hợp những mối đe dọa nghiêm trọng hoặc thiệt hại không thể đảo ngược, không được
sử dụng việc thiếu thông tin khoa học để làm lý do trì hoãn việc thực hiện các biện pháp đó. Các
chính sách biện pháp giải quyết BĐKH phải hiệu quả về chi phí để đảm bảo đạt được lợi ích
lOMoARcPSD| 58569740
toàn cầu với chi phí thấp nhất có thể. Những nỗ lực giải quyết BĐKH có thể được thực hiện bằng
sự hợp tác giữa các quốc gia.
Thứ , các nước tham gia Công ước quyền thúc đầy phát triển bền vững. Các chính sách
biện pháp bảo vệ hthống khí hậu phải phù hợp với c điều kiện cụ thể của từng nước phải
được lồng ghép vào các chương trình phát triển quốc gia, trong đó phát triển kinh tế đóng vai trò
then chốt trong việc áp dụng các biện pháp giải quyết BĐKH.
Thứ năm, các nước tham gia Công ước cần hợp tác để thúc đẩy hệ thống kinh tế quốc tế có thể tạo
ra tăng trưởng và phát triển bền vững cho tất cả các nước tham gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này giải quyết BĐKH. Các biện pháp ứng phó với
BĐKH không nên tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các nước hoặc làm cản trở thương mại quốc tế.
- Các cam kết chính
Các cam kết của các nước tham gia Công ước, bao gồm cam kết chung của tất cả các nước tham
gia cam kết của các nước phát triển, được thể hiện tại Điều 4 của Công ước như sau (United
Nations, 1992):
Tất cả các nước tham gia Công ước, với trách nhiệm chung nhưng sự phân biệt xét
đến ưu tiên, mục tiêu và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia, có những trách nhiệm sau:
y dựng, định kỳ cập nhật, xuất bản và công bố cho Hội nghị các Bên tham gia (COP) về tình
trạng kiếm phát thải knhà kính của quốc gia theo các nguồn phát thải và phần khí nhà kinh
đã được loại bỏ bởi các bể hấp thụ;
Xây dựng, thực hiện, công bổ và thường xuyên cập nhật các chương trình quốc gia và khu vực
về các biện pháp giảm nhẹ và thích úng;
Thúc đẩy hợp tác trong phát triển, ứng dụng, phổ biến chuyển giao công nghệ, các thực
tiễn quy trình kiểm soát, giảm nhẹ hoặc ngăn chặn phát thải khí nhà kính ở tất cả các ngành liên
quan, bao gồm năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và quản
chất thải;
Thúc đẩy bảo tồn, quản bền vững và tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khôi,
rừng, đại dương, các hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái biển và ven biển; Hợp tác xây dựng kế
hoạch thích ứng với các tác động của BĐKH;
lOMoARcPSD| 58569740
Lồng ghép BĐKH vào các chính sách kinh tế - xã hội - môi trường;
Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH nhằm tăng cường
hiểu biết về BĐKH cũng như làm giảm sự không chắc chắn về nguyên nhân, tác động, cường
độ, thời gian diễn ra của BĐKH hậu quả kinh tế - xã hội của các chiến lược ứng phó khác nhau;
Thúc đẩy hợp tác trong việc trao đổi thông tin về BĐKH một cách đầy đủ, công khai, kịp
thời;
Thúc đầy hợp tác trong giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH
khuyến khích sự tham gia của xã hội vào ứng phó với BĐKH.
Các nước thuộc Phụ lục I (gồm 43 nước công nghiệp phát triển các nước đang trong giai
đoạn chuyển đổi) cam kết áp dụng chính sách quốc gia thực hiện các biện pháp giảm nhẹ BĐKH
bằng cách hạn chế phát thải khí nhà kính tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính. Sự cam kết
này cho thấy các nước phát triển đang đi đầu trong việc thay đổi xu hướng phát thải khí nhà kính
của con người trong dài hạn. Các nước thuộc Phụ lục I thể thực hiện các chính sách biện
pháp giảm nhẹ BĐKH bằng cách phối hợp với nước khác và có thể giúp các nước khác đạt được
các mục tiêu đề ra trong Công ước.
Các nước thuộc Phụ lục II (gồm 24 nước thành viên của tổ chức OECD) trách nhiệm: (i)
cung cấp các nguồn tài chính mới và bổ sung để giúp các nước đang phát triển thực hiện các hoạt
động giảm phát thải khí nhà kính theo Công ước; (ii) giúp các nước đang phát triển thích ứng trước
những tác động bất lợi của BĐKH thông qua tài trợ cho các chi phí thích úng vói BĐKH; và (iii)
thúc đầy phát triển và chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường cho các nước đang phát
triển.
Như vậy, bản thân Công ước không đưa ra ràng buộc về giới hạn phát thải khí nhà kính cho từng
nước tham gia cũng như không có chế tài để thực thi. Nói cách khác, Công ước không có tính ràng
buộc về pháp lý. Tuy nhiên, Công ước cũng đưa ra khuôn khổ cho việc đàm phán các hiệp ước
quốc tế cụ thể (ví dụ như Nghị định thư) từ đó thể thiết lập những giới hạn ràng buộc về
phát thải khí nhà kính.
· Hội nghị các Bên tham gia (COP)
Theo Điều 7 của Công ước, Hội nghị các Bên tham gia (COP) – cơ quan tối cao của Công ước có
những trách nhiệm chính sau (United Nations, 1992):
lOMoARcPSD| 58569740
Định kỳ kiểm tra nghĩa vụ thực hiện Công ước của các bên tham gia, soát các quy định của
Công ước, tổng kết các kinh nghiệm thực hiện Công uóc;
Thúc đẩy tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin về các biện pháp ứng phó với
BĐKH của các nước tham gia và tác động của các giải pháp đó;
Đánh giá việc thực hiện Công ước của các ớc tham gia cũng như tác động kinh - hội
môi trường của các biện pháp ứng phó với BĐKH của các nước;
Xem xét, thông qua và công bố báo cáo định kỳ về việc thực hiện Công urớc;
Đưa ra các khuyến nghị về những vấn đề cần thiết cho việc thực hiện Công ước;
Huy động nguồn lực tài chính nhằm ứng phó với BĐKH.
Hội nghị BĐKH của Liên Hiệp Quốc - một hội nghị hàng năm được tổ chức trong khuôn khổ Công
ước - được coi hội nghị chính thức của các Bên tham gia Công ước (COP - Conference Of
Parties). Hội nghị các Bên tham gia được tổ chức lần đầu tiên (COP 1) vào năm 1995 tại
Berlin, Đức. Bên cạnh đó, Hội nghị các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP) cũng được tổ
chức đồng thời với Hội nghị các Bên tham gia Công ước (COP). Các bên tham gia Công ước
không phải các bên tham gia Nghị định thư thể tham gia vào các cuộc họp liên quan đến Nghị
định thư với tư cách là quan sát viên (United Nations, 1998).
Câu 15: Trình bày những nội dung chính của Nghị định thư Kyoto (năm 1997) *
Bối cảnh ra đời:
Các cam kết trong Công ước là không đủ để đáp ứng mục tiêu của Công ước nên các bên tham gia
công ước đã quyết định xây dựng các cam kết giảm phát thải khí nhà kính cho các nước phát triển
dưới hình thức một nghị định thư có tính pháp lý.
Được thông qua tại COP 3 Kyoto, Nhật Bản (được gọi Nghị định thư Kyoto) vào ngày
11/12/1997.
Hiện nay, 192 nước phê duyệt Công ước đã phê duyệt Nghị định thư Kyoto.
* Mục tiêu
Công nhận rằng các nước phát triển chủ yếu chịu trách nhiệm về mức phát thải khí nhà
kínhtrong khí quyển quá khứ và hiện tại Nghị định thư đặt gánh nặng nhiều hơn lên các nước
phát triển theo nguyên tắc "trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt”.
Thiết lập các mục tiêu giảm phát thải tính ràng buộc quốc tế đối với các nước phát
triển,theo đó, vào năm 2012, các quốc gia thuộc Phụ lục I phê chuẩn Nghị định thư phải hoàn
lOMoARcPSD| 58569740
thành nghĩa vụ giảm hạn chế phát thải khí nhà kính trong giai đoạn cam kết đầu tiên (2008-
2012).
* Các cam kết giảm phát thải khí nhà kính 6
khí nhà kính cần được cắt giảm là:
Carbon dioxide (C02)
Methane (CH4)
Nitrous oxide (N20)
Hydrofluorocarbons (HFCs)
Perfluorocarbons (PFCs)
Sulphur hexafluoride (SF6)
Ràng buộc về nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính đối với 37 nước công nghiệp Cộng đồng
Châu u (gồm 15 nước tại thời điểm đàm phán Nghị định thư) – là những nước thuộc Phụ lục I của
Công ước.
Các nước phải giảm ít nhất 5% của mức năm 1990 trong giai đoạn cam kết đầu tiên 2008-2012
Bảng: Cam kết hạn chế và giảm phát thải định lượng khí nhà kính của các nước thuộc Phụ lục I
theo Nghị định thư Kyoto trong thời kỳ cam kết đầu tiên (2008-2012)
tt
quốc gia
mục tiêu phát thải
(%) (năm cơ sở
1990)
1
European Community (15 countries), Bulgaria, Czech Republic, Estonia,
Latvia, Liechtenstein, Lithuania, Monaco, Romania, Slovakia, Slovenia,
Switzerland
-8
2
us
-7
3
Canada, Hungary, Japan, Poland
-6
4
Croatia
-5
5
New Zealand, Russian Federation, Ukraine
0
6
Norway
+1
7
Australia
+8

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58569740
Đề cương Kinh tế học biến đổi khí hậu
Câu 1: Khí nhà kính là gì và gồm những loại khí nào? Hãy lấy các ví dụ về các khí nhà kính
phát sinh từ các hoạt động của con người.
Khí nhà kính (greenhouse gas) là “loại khí trong khí quyển có khả năng hấp thụ bức xạ sóng dài
(bức xạ hồng ngoại) được phản xạ từ bề mặt trái đất vào vũ trụ, sau đó phân tán nhiệt cho Trái Đất.
Ảnh hưởng ròng của quá trình này là khí nhà kính giữ lại một phần năng lượng hấp thụ và làm cho
bề mặt trái đất ấm lên” (IPCC, 1996, tr.48)
Theo điểm 25, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, khí nhà kính là các khí trong khí quyển
gây ra sự ấm lên toàn cầu và BDDKH (Quốc hội, 2014).
Các khí nhà kinh chủ yếu (được sắp xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít trong bầu khí quyển) bao gồm:
hơi nước (H,O), các-bon điôxít (CO2), mêtan (CH4), nitơ ôxit (N2O), ôzôn (O;) và
chlorofluorocarbons (CFCs). Ngoài sáu khí nhà kính chủ yếu này, các khí nhà kính khác bao gồm:
Sulfurhexafluoride (SF6), hydrofluorocarbons (HFCs) và perfluorocarbons (PFCs). Ngoài ra, còn
một số khí nhà kinh khác nữa nhưng các khí này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong bầu khí quyển.
Nhìn chung, các loại khí nhà kinh thường xuất hiện một cách tự nhiên trong bầu khí quyển. Đồng
thời, các hoạt động của con người cũng góp phần tạo ra khi nhà kinh. Ví dụ, khí CO, được tạo ra
chủ yếu từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ, khí tự nhiên) và thay đổi sử dụng đất
(ví dụ như chặt phá rừng); khi CH, được tạo ra từ hoạt động nông nghiệp (trồng lúa, tiêu hóa thức
ăn của gia súc, chất thải gia súc, phân bón) và từ rác thải; khí N2O được tạo ra từ hoạt động nông
nghiệp (đất nông nghiệp, chất thải gia súc, phân bón, đốt phế phẩm nông nghiệp và đồng cỏ); khi
O; được tạo ra từ chất thải của các động cơ; khí CFCs được tạo ra từ sản xuất điện lạnh (tủ lạnh
và điều hòa không khí).
Câu 2: Giải thích hiệu ứng nhà kính tự nhiên và hiệu ứng nhà kính nhân tạo -
Tự nhiên: Nhiệt độ bề mặt Trái Đất được tạo nên bởi sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời
đếnbề mặt Trái Đất và năng lượng bức xạ của Trái Đất vào vũ trụ. Năng lượng mặt trời chủ yếu
dưới dạng ánh sáng nhìn thấy được (thường là các tia sóng có bước sóng ngắn), dễ dàng xuyên
qua cửa sổ khí quyển đến bề mặt trái đất. Khoảng 30% năng lượng đó phản xạ và ngay lập tức
quay trở lại vũ trụ và 70% năng lượng còn lại xuyên qua bầu khí quyển xuống Trái Đất. Khi xuống
đến TĐ, năng lượng MT được bề mặt TĐ hấp thụ, làm ấm và chuyển thành nhiệt. Do TĐ lạnh hơn
rất nhiều so với MT nên TĐ ko bức xạ năng lượng nhận được từ MT trở lại vũ trụ dưới dạng ánh
sáng nhìn thấy được mà dưới dạng bức xạ hồng ngoại (thường có bước sóng dài hơn bước sóng
ánh sáng mặt trời). Bức xạ hồng ngoại không thể xuyên thẳng qua không khí giống như ánh sáng
nhìn thấy mà nó di chuyển ra khỏi bề mặt của trái đất nhờ dòng không khí và cuối cùng thoát ra
vũ trụ từ tầng khí nhà kính. Tuy nhiên tầng khí nhà kính trong khí quyển (bao gồm hơi nước, khí
CO2, ozon, CH4, N2O, Halocarbons và các khí công nghiệp khác) sẽ ngăn chặn bức xạ nhiệt của
TĐ vào vũ trụ nên 1 phần bức xạ nhiệt của TĐ vào vũ trụ được các khí nhà kính giữ lại trong bầu
khí quyển, sau đó phân tán nhiệt cho TĐ để sưởi ấm toàn bộ ko gian bên trong và làm ấm TĐ; 1
phần bức xạ nhiệt sẽ xuyên qua tầng khí nhà kính để vào vũ trụ. Nói cách khác, năng lượng thoát lOMoAR cPSD| 58569740
ra khỏi TĐ ít hơn năng lượng đến bề mặt TĐ. Kết quả của sự trao đổi ko cân bằng về nhiệt giữa
năng lượng từ MT đến bề mặt TĐ và năng lượng bức xạ của TĐ vào vũ trụ đã đã dẫn đến sự gia
tăng nhiệt độ của khí quyển TĐ. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng nhà kính. -
Nhân tạo: Nồng độ các khí nhà kính tự nhiên được duy trì ổn định trong suốt hàng triệu
nămqua, tuy nhiên trong vài thế kỷ trở lại đây, do sự phát triển của CNH, lượng sử dụng nhiên liệu
hóa thạch cao trong các phương tiện vận tải... mà lượng khí thải xả ra môi trường ngày càng lớn.
Do đó làm gia tăng các khí nhà kính, hiệu ứng nhà kính xảy ra nhanh hơn.
Câu 3: Phân biệt sự ấm lên toàn cầu và BĐKH
Sự ấm lên toàn cầu là một phần của Biến đổi khí hậu.
Khi các chuyên gia sử dụng thuật ngữ biến đổi khí hậu, đề cập đến những thay đổi đáng kể trong
khí hậu ảnh hưởng đến các khía cạnh như nhiệt độ, lượng mưa hoặc gió và điều đó xảy ra trong
vài thập kỷ. Ngược lại, sự nóng lên toàn cầu đề cập đến sự gia tăng liên tục nhiệt độ trung bình trên khắp hành tinh.
Sự nóng lên này là do nồng độ của khí nhà kính đó là trong bầu không khí và bản thân nó không
hơn gì một khía cạnh của biến đổi khí hậu.
Câu 4: Phân tích các biểu hiện của BĐKH. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa.
Theo IPCC (2007), các biểu hiện của BĐKH bao gồm: •
Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên do sự ấm lên của bầu khí quyển toàn cầu •
Sự dâng cao mực nước biển do nước bị giãn nở khi nhiệt độ tăng và băng tan; •
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển; •
Sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của Trái đất; •
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn
nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác; •
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy
quyển, sinh quyển và địa quyển.
Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu, mực nước biển dâng, sự thay đổi chế độ mưa
và sự gia tăng các hiện tượng khí hậu cực đoan (ví dụ như hạn hán, bão, lũ, lũ quét, lốc xoáy, nắng
nóng kéo dài, sóng nhiệt, rét đậm, rét hại kéo dài...) thường được coi là các biểu hiện chính của BĐKH.
Theo ước tính của WMO, nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất từ năm 2018 đến giữa năm 2022 cao
hơn khoảng 1,17 độ C so với mức trung bình năm 1850-1900. Giai đoạn 2018-2022 ghi nhận lượng
nhiệt tích trữ trong đại dương đạt mức cao nhất so với bất kỳ giai đoạn 5 năm nào khác. Theo
thống kê trung bình tính tới thời điểm hiện tại, hạn hán kéo dài, nắng nóng đỉnh điểm kéo dài cũng
là thực tại dễ nhận thấy với nguyên nhân biến đổi khí hậu, mùa đông cũng trở nên ngắn hơn và lOMoAR cPSD| 58569740
kéo theo đó là những ngày nắng nóng kéo dài. Đó cũng là biểu hiện rõ nét cho hiện tượng hiệu
ứng nhà kính do tác động khí quyển.
Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm
các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào
các biển và đại dương. Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng
được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cửu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các
núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh
tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm. Các bờ biển đang biến mất.
Bãi biển ở Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởi
nước biển dâng ngày càng cao. Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng
băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc
hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít
nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven
biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.
Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng
sạch, thực phẩm và sức khỏe. Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn
san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều
đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương.
Biến đổi khí hậu có khả năng khiến các phần của chu trình nước tăng tốc do nhiệt độ trái đất ấm
lên làm tăng tốc độ bốc hơi trên toàn thế giới. Trung bình, nhiều bốc hơi hơn gây ra nhiều mưa
hơn. Tỷ lệ bốc hơi và lượng mưa cao hơn không được phân bổ đều trên khắp thế giới. Một số khu
vực có thể hứng chịu lượng mưa lớn hơn bình thường và các khu vực khác có thể dễ bị hạn hán,
do các vị trí truyền thống của vành đai mưa và sa mạc thay đổi để phản ứng với khí hậu thay đổi.
Khí hậu nóng lên đang gây ra những thay đổi về thời tiết ở các khu vực khác nhau trên thế giới.
Đặc biệt, nó đang gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan hơn những gì chúng ta từng thấy trong quá khứ.
Tình trạng ấm lên của khí quyển dẫn đến hiện tượng nước biển dâng và ấm lên, kéo theo sự thay
đổi của một loạt hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, dông sét, lốc tố, hạn hán, mưa lớn…
Tháng 6 năm 2022, những đợt nắng nóng trên khắp Bắc Bán cầu từ châu Âu đến Mỹ làm rõ tính
chính xác của những vấn đề được đề cập trong bài nghiên cứu của các nhà khoa học, trong đó, có
tần suất của các đợt nắng nóng tăng cao. Tại châu Á, Nhật Bản đang trải qua đợt nắng nóng tồi tệ
nhất trong gần 150 năm qua. Ngày 28/6, nhiệt độ tại thủ đô Tokyo vượt mức 35 độ C trong ngày
thứ 3 liên tiếp. Khoảng 76 người đã nhập viện do thời tiết cực đoan ở Tokyo. Đây là đợt nắng nóng
tháng 6 tồi tệ nhất từng được ghi nhận kể từ năm 1875. Trong khi đó, Trung Quốc đã trải qua trận
lũ lụt trên diện rộng, sau khi hứng chịu những trận mưa lớn. Các đợt mưa lớn đang xuất hiện ngày
càng phổ biến và dữ dội hơn do không khí ẩm hơn. Do đó, các đám mây bão cũng trở nên nặng
hơn trước khi chúng vỡ ra thành nước và rơi xuống gây mưa. Tuy vậy, tác động không giống nhau
giữa các khu vực, thậm chí có một số nơi không có đủ mưa. lOMoAR cPSD| 58569740
Câu 5: Phân tích các nguyên nhân gây ra BĐKH. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa về
BĐKH do con người gây ra.
Khí hậu bị biến đổi do hai nhóm nguyên nhân:
a. Nhóm nguyên nhân khách quan (do biến đổi của tự nhiên)
Những biến đổi của tự nhiên gây ra BĐKH bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của Mặt trời, sự
thay đổi quỹ đạo Trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dòng
hải lưu và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển, sự biến đổi về phát xạ của Mặt trời và
hấp thụ bức xạ của Trái đất, hoạt động của núi lửa,... Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016),
nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên là sự biến đổi từ từ, có chu kỳ rất dài; do đó nếu
có thì các yếu tố tự nhiên chỉ đóng góp một phần rất nhỏ vào tinh trạng BĐKH toàn cầu hiện nay.
b. Nhóm nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người)
Sự gia tăng lượng phát thải khí CO, và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con người cũng
góp phần làm cho bầu khí quyển ấm dần lên và từ đó kéo theo BĐKH toàn cầu. Thủ phạm đầu tiên
là khí CO, được thải ra từ các hoạt động đốt than, dầu và khí tự nhiên trong các nhà máy điện, xe
hơi và nhà máy sản xuất. Thủ phạm thứ hai là khí CH, được tạo ra từ trồng lúa, chất thải từ chăn
nuôi, quá trình phân hủy rác thải ở các bãi chôn lấp, từ hoạt động khai thác mỏ và từ các đường
ống dẫn khi. Thủ phạm thứ ba là khí NO2 từ đất nông nghiệp, chất thải gia súc, phân bón và hóa
chất trong nông nghiệp. Việc phát thải khi CFC và các hóa chất có thành phần tương tự là thủ
phạm thử tư làm cho bầu khí quyển ấm lên.
Quan điểm cho rằng các hoạt động của con người chịu trách nhiệm chính cho sự gia tăng nhiệt độ
trung bình toàn cầu, từ đó kéo theo BĐKH toàn cầu từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã nhận được sự
đồng thuận của hầu hết các nhà khoa học. Trong báo cáo đánh giá lần thứ năm (năm 2014), IPCC
cho rằng sự ấm lên toàn cầu và BĐKH là điều chắc chắn (với khả năng chắc chắn đến 90%) và
95% của sự ấm lên toàn cầu và BĐKH là do gia tăng khí nhà kinh từ các hoạt động của con người. lOMoAR cPSD| 58569740
Hình 1.2 thể hiện mối liên hệ giữa khí nhà kính và BĐKH. Sự gia tăng khối lượng các khí nhà
kính làm gia tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển, dẫn đến sự mất cân bằng giữa năng
lượng đến bề mặt Trái đất và năng lượng từ Trái đất thoát ra khỏi Vũ trụ (đây chính là hiện tượng
hiệu ứng nhà kính) và làm cho nhiệt độ khí quyển tăng. Nhiệt độ khi quyển tăng sẽ làm cho nhiệt
độ của đại dương cũng tăng lên nhưng có độ trễ hơn về thời gian. Sự kết hợp của gia tăng nhiệt độ
khí quyển và gia tăng nhiệt độ đại dương sẽ kéo theo BĐKH toàn cầu với các biểu hiện: nhiệt độ
trung bình toàn cầu tăng lên, mực nước biển dâng, lượng mưa thay đổi và các hiện tượng khí hậu
cực đoan như bão, lũ lụt, hạn hán,... trở nên thường xuyên hơn.
Mối liên hệ giữa khí nhà kính và BĐKH cũng chỉ ra rằng sự ấm lên toàn cầu khác với BĐKH; bởi
vì sự ấm lên toàn cầu – là sự gia tăng dần dẫn của nhiệt độ trung bình toàn cầu – chỉ là một trong
các biểu hiện của BĐKH. Nói cách khác, BĐKH là một vấn đề rộng và phức tạp hơn rất nhiều so
với sự ấm lên toàn cầu.
Ví dụ thực tiễn để minh họa về BĐKH do con người gây ra.
Trong giai đoạn 2000-2010, tốc độ gia tăng phát thải CO2 là 63% từ mức 150,9 triệu tấn năm 2000
lên mức 246,8 triệu tấn năm 2010. Tuy nhiên, mức phát thải CO2 giai đoạn 2010-2020 cao gấp
hai lần so với tốc độ tăng thập niên trước. Cụ thể, tốc độ gia tăng phát thải CO2 đạt mức 128,4%
khi tăng từ mức 246,8 triệu tấn năm 2010 lên mức 563,8 triệu tấn năm 2020. Giai đoạn 2010-2020
là giai đoạn Việt Nam mở cửa thương mại sâu rộng lên mức 200% với việc ký kết thành công các
FTA song phương và đa phương quan trọng. Điều này góp phần tăng trưởng GDP cũng như các
phát triển mạnh trong các lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ môi trường không được chú lOMoAR cPSD| 58569740
trọng do đẩy mạnh phát triển công nghiêp hóa khiến lượng phát thải CO2 đã gia tăng với tốc độ cao.
Tổng lượng KNK phát thải trong ngành năng lượng năm 2020 tăng gấp đôi lên mức 347,5 triệu
tấn CO2e từ mức 171,6 triệu tấn CO2e năm 2014. Trong đó, công nghiệp năng lượng chiếm thị
phần lớn nhất với 43,9% năm 2014 và tiếp tục là ngành phát thải cao nhất với tỷ lệ 59,7% năm
2020. Nguyên nhân chính là do ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng hóa thạch.
Câu 6: Phân tích các tác động của BĐKH đến hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế-xã hội.
Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa.
Báo cáo đánh giá đầu tiên về BĐKH của IPCC (1990) đã kết luận rằng, các khí nhà kính do con
người gây ra tiếp tục được tích tụ trong khí quyển sẽ dẫn đến sự biến đổi của khí hậu ở tốc độ và
quy mô lớn, từ đó gây ra các tác động nghiêm trọng đến các hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế
- xã hội của con người.
Các hệ sinh thái như: đất, nguồn nước, rừng, rừng ngập mặn, rạn san hô, cửa sông, thảm cỏ biển,...
là những hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học cao và có những chức năng sinh thái vô cùng quan
trọng đối với con người. Các hệ sinh thái này phải gánh chịu các áp lực ngày càng gia tăng bởi
những thay đổi bất thường của khí hậu. Ví dụ: Nhiệt độ tăng làm tăng cường sự bốc hơi nước và
dẫn đến hạn hán. Nhiệt độ tăng cũng làm thay đổi chế độ mưa và băng tan; từ đó ảnh hưởng đến
chế độ thủy văn và nguồn nước cả về số lượng và chất lượng. Nhiệt độ tăng làm thay đổi sự phân
bố và sự phong phú của nguồn lợi thủy sản có giá trị thương mại cao. Nước biển dâng sẽ làm giảm
diện tích đất canh tác trong nông nghiệp. do lũ lụt và xâm nhập mặn. Dòng chảy từ mưa lớn gây
xói mòn bờ biển và làm mất các hệ sinh thái đất ngập nước. Nhìn chung, BĐKH sẽ ảnh hưởng đến
sức khỏe, chức năng và năng suất của các hệ sinh thái. Hệ quả chung là sự phân bố, tính đa dạng
sinh học và năng suất của các hệ sinh thái sẽ bị suy giảm. Khi những chức năng sinh thái này bị
suy giảm, các hệ sinh thái sẽ bị suy yếu và ít có khả năng phục hồi trước những tác động ngày càng tăng của BĐKH.
Sự suy giảm chức năng của các hệ sinh thái sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, các hoạt động kinh tế - xã hội và phúc lợi của những người dân sống phụ thuộc vào các hàng
hóa và dịch vụ mà các hệ sinh thái này cung cấp. Ví dụ: Sự tẩy trắng san hô và sự thay đổi về thời
tiết sẽ ảnh hưởng đến sự phân bổ, tính đa dạng và trữ lượng của nguồn lợi thủy sản, từ đó sẽ ảnh
hưởng đến ngư trường đánh bắt và sản lượng đánh bắt của ngư dân. Tình trạng nước mặn xâm
nhập vào các tầng nước ngầm ven biển một mặt gây ảnh hưởng đến hoạt động nông nghiệp (do
đất nông nghiệp bị nhiễm mặn), mặt khác gây ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng (do môi trường
sống của các hệ sinh thái cửa sông trở nên lợ hơn). Ngập lụt ở khu vực ven biển do nước biển dâng
làm gia tăng việc tái định cư trên đất liền. Nhiệt độ tăng, đặc biệt là sóng nhiệt gây bệnh tật, thậm
chí tử vong ở người. Nhìn chung, hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội của con người đều chịu ảnh hưởng bởi BĐKH
Câu 7: Phân tích các tác động của BĐKH đến các ngành kinh tế. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa lOMoAR cPSD| 58569740
Do phụ thuộc trực tiếp vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhạy cảm với BĐKH nên nông nghiệp
là ngành dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH. Những ảnh hưởng cụ thể bao gồm: (1)
thu hẹp diện tích đất phù hợp với sản xuất nông nghiệp do nghi biển dâng gây ngập lụt hoặc mặn
hóa các vùng đất canh tác do xâm nhập của nước biển; (ii) thiếu nước tưới do hạn hán và thay đổi
chế độ mưa; (ii) thay đổi mùa vụ sản xuất và gia tăng dịch bệnh của gia súc do tăng nhiệt độ trung
bình và các hiện tượng khí hậu cực đoan. Những ảnh hưởng đó làm giảm năng suất và sản lượng
nông nghiệp, làm giảm cơ hội việc làm, đẩy giả lương thực lên cao và đe dọa vấn đề an ninh lương
thực. Ở nhiều vùng trên thế giới, nơi sản xuất nông nghiệp đã ở mức thấp và các phương tiện ứng
phó với các sự kiện bất lợi còn hạn chế, BĐKH thậm chí sẽ làm giảm năng suất đến mức thấp hơn
và làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng thất thường. Theo Ngân hàng Thế giới (2010), dưới
tác động của BĐKH, mỗi năm có thể có hơn 3 triệu người bị chết vì suy dinh dưỡng khoảng 100
đến 400 triệu người có nguy cơ bị đói và khoảng 1 đến 2 tỷ người sẽ không có đủ nước phục vụ
nhu cầu sinh hoạt. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) (2018) cho rằng,
BĐKH tác động đến an ninh lương thực ở bốn khía cạnh: khả năng tiếp cận thực phẩm, khả năng
cung cấp thực phẩm, việc tiêu dùng thực phẩm và sự ổn định của hệ thống thực phẩm.
Bên cạnh nông nghiệp, các ngành lĩnh vực khác cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi tác động của
BĐKH. Đối với ngành thủy sản, các khu vực đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đều bị ảnh hưởng
bởi sự thay đổi của nguồn nước (mặn hóa do nước biển dâng hoặc ngọt hóa do lũ lụt), dẫn đến sự
thay đổi về giống loài, trữ lượng và năng suất của nguồn lợi thủy sản. Các ngành kinh tế then chốt
ở vùng ven biển như du lịch và công nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng làm phá hủy
các tài sản hoặc nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng do tăng chi phí thông gió và làm mát.
Nước biển dâng và lũ có nguy cơ làm phá vỡ các công trình xây dựng dân dụng, các công trình
giao thông và các khu dân cư. Bên cạnh đó, BĐKH tác động đến việc làm theo hai xu hướng rõ
rệt là: BĐKH làm cho việc làm trong nông nghiệp trở nên bấp bênh hơn, rủi ro hơn và điều kiện
làm việc tồi tệ hơn; đồng thời BĐKH cũng làm cho một bộ phận lao động phải chuyển đổi việc
làm (ví dụ chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ), làm giảm thời gian làm
việc, giảm thu nhập và tăng lượng lao động di cư. Nhìn chung, BĐKH được dự đoán sẽ làm thay
đổi toàn diện và sâu sắc quá trình phát triển của các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực như: nông
nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, năng lượng. việc làm, thương mại,...
Câu 8: Phân tích các tác động của BĐKH đến các vùng. Hãy lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa.
Các khu vực dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH là các đảo nhỏ, vùng châu thổ của
các con sông lớn, dải ven biển và vùng núi. Đây là những khu vực năm ở vị trí phải gánh chịu
những ảnh hưởng trực diện nhất của BĐKH kết hợp với điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Theo
Ngân hàng Thế giới (2010), châu Phi cận Sahara với hai phần ba diện tích bề mặt tự nhiên là sa
mạc hoặc đất đai cằn cỗi rất dễ bị hạn hán và lũ lụt và tình trạng trên được dự báo sẽ gia tăng gấp
nhiều lần trong bối cảnh BĐKH. Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có dân cư đông đúc sống ở
vùng duyên hải và các hải đảo trũng thấp (riêng Trung Quốc có khoảng 130 triệu dân và Việt Nam
có khoảng 40 triệu dân) rất dễ bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng. Trung Đông và Bắc Phi là khu
vực khô hạn nhất thế giới và nước là yếu tố đặc biệt dễ bị tổn thương trong bối cảnh BÐKH. lOMoAR cPSD| 58569740
IPCC (2007) cho rằng, các vùng đồng bằng của con con sông lớn như đồng bằng sông Nile ở Ai
Cập, đồng bằng sông Hằng ở Băng-la-đét và đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam là ba đồng
bằng trên thế giới bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi nước biển dâng gây ngập lụt.
Trong các khu vực địa lý, vùng ven biển và các quốc gia đảo nhỏ, đặc biệt ở châu Á và châu Phi,
là những khu vực dễ bị tổn thương nhất bởi những ảnh hưởng từ mực nước biển dâng, bão, gió
lốc, lốc xoáy, ngập lụt và xâm thực bờ biển. Tính trên phạm vi toàn cầu, có ít nhất 150 triệu người
sống trong phạm vi 1m của mực nước thủy triều cao và 250 triệu người sống trong phạm vi 5m
của mực nước thủy triều cao (USAID, 2009). BĐKH có nguy cơ gây ra những tác động mang tính
thảm họa và không thể đảo ngược đối với vùng ven biển, như: mất nhà cửa, phá hủy cơ sở hạ tầng
thiết yếu và mất các sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Các cộng đồng ven biển vốn đã
nghèo sẽ phải gánh chịu thêm nhiều rủi ro từ BĐKH cùng với các tổn thất nghiêm trọng về sức
khỏe, việc làm và thu nhập, đòi hỏi sự trợ giúp đặc biệt trong công tác quản lý rủi ro thiên tai và
BĐKH cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
Tại Việt Nam, đặc trưng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể chia thành ba địa bàn lãnh thổ
gồm đồng bằng, ven biển và miền núi.
- Đối với vùng đồng bằng, nước ta có hai vùng đồng bằng lớn đó là Đồng bằng sông Hồng(ĐBSH)
và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đối với ĐBSCL là vùng chịu tác động nặng nề nhất của
BĐKH, theo tính toán kịch bản BĐKH, đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ tăng khoảng 3,4 độ C, mực
nước biển tăng thêm 1m sẽ có khoảng 40% diện tích đất bị ngập vĩnh viễn, khoảng 10% dân số
bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất, thêm vào đó BĐKH diễn ra ở ĐBSCL kéo theo hạn hán, xâm
nhập mặn, sạt lở và nhiều hệ lụy đi kèm như đã từng diễn ra những năm gần đây.
- Đối với vùng ven biển, nhất là khu vực ven biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam
Bộ, ảnh hưởng của BĐKH lớn nhất là bão, áp thấp nhiệt đới. Đối với khu vực ven biển miền Trung
hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất, thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ hơn. Những vùng ven biển còn chịu ảnh
hưởng của xâm nhập mặn. Theo tính toán nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, một số khu vực
trũng đồng bằng ven biển miền trung sẽ bị ngập như ở Thanh Hóa.
- Đối với khu vực miền núi, đặc điểm khu vực miền núi của nước ta phân bố nhiều dân tộc ítngười,
trình độ dân trí thấp, do vậy ảnh hưởng của BĐKH diễn ra khả năng chống đỡ hạn chế. Ảnh
hưởng chính của BĐKH khu vực này là tính dị thường của BĐKH, trong nền chung nhiệt độ
tăng sẽ càng trầm trọng hơn thiếu nước về mùa khô, nhất là Tây Nguyên và Tây Bắc, suy giảm
đa dạng sinh học, sự thay đổi hệ sinh thái. Nhiệt độ giảm sâu tác động tới chăn nuôi gia súc, gia
cầm nhất là đối với trâu bò, thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, khi nhiệt độ giảm sâu một
lượng lớn trâu bò ở miền núi phía Bắc chết nhiều. Ảnh hưởng của BĐKH gây ra lũ quét, sạt lở
đất, lốc xoáy, mưa đá là những hiện tượng khá phổ biến. Khu vực miền núi Bắc Trung Bộ với
nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng sinh học tác động tới đời sống nhân dân.
Câu 9: Phân tích các tác động của BĐKH đến các nước phát triển và đang phát triển. Hãy
lấy các ví dụ thực tiễn để minh họa lOMoAR cPSD| 58569740
BĐKH ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia; nhưng các tác động của BĐKH được phân bổ không
đồng đều giữa các nước, trong đó các nước đang phát triển (thường là những nước nghèo nhất) sẽ
bị ảnh hưởng nhiều nhất và sớm nhất với những tác động không thể đảo ngược của BĐKH, vì những lý do sau:
Thứ nhất, các nước đang phát triển thường nằm ở các khu vực địa lý có điều kiện tự nhiên rất dễ
bị tổn thương trước tác động của BĐKH, ví dụ như vùng nhiệt đới khô hạn, vùng đất dốc khô cắn,
vùng ven biển thấp và các đảo nhỏ; hoặc ở những khu vực địa lý vốn đã ấm hơn so với các nước
phát triển nên sự ấm hơn nữa sẽ làm họ bị bất lợi hơn.
Thứ hai, các nền kinh tế ở các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên,
đặc biệt là tài nguyên biển ở khu vực châu Á Thái Bình Dương và tài nguyên đất ở châu Phi, trong
khi những nguồn tài nguyên này rất dễ bị tổn thương trước những tác động của BĐKH. Các tài
nguyên thiên nhiên này vốn đã bị suy thoái do tăng trưởng dân số và đô thị hóa nhanh cùng với tỷ
lệ nghèo đói cao, mật độ dân số đông.... làm cho việc quản lý trở nên phức tạp hơn trong bối cảnh
BĐKH; từ đó sẽ gây ảnh hưởng nhiều hơn đến các hoạt động kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên tê thiên nhiên.
Thứ ba, các nước đang phát triển phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như là nguồn thu nhập và
tạo việc làm chủ yếu trong khi nông nghiệp là ngành dễ bị tổn thương nhất trước tác động của
BĐKH. Ví dụ, nông nghiệp chiếm trên một phần ba (1/3) doanh thu xuất khẩu của khoảng 50 nước
đang phát triển và khoảng gần một nửa số việc làm ở các nước đang phát triển (UNDP, 2008). Ở
châu Phi, nông nghiệp đóng góp 23% vào GDP (không kể Nam Phi) và tạo việc làm cho khoảng
70% dân số (Ngân hàng Thế giới, 2010).
Thứ tư, cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển còn yếu kém, đặc biệt là nhà ở và đường giao
thông được xây dựng với chất lượng kém, không được bảo dưỡng thường xuyên nên ít có khả năng
chống chịu trước những cơn bão, những đợt nắng nóng hoặc lũ lụt kéo dài.
Với những đặc điểm trên, các nước đang phát triển dễ bị tổn thương nhất. Theo Stern (2006),
BĐKH có thể làm giảm hơn nữa thu nhập vốn đã thấp và làm gia tăng bệnh tật cũng như tỷ lệ tử
vong ở các nước đang phát triển. Sự giảm sút thu nhập của nông dân sẽ làm tăng nghèo đói và làm
giảm khả năng của các hộ gia đình trong việc đầu tư vào một tương lai tốt đẹp hơn, thậm chí buộc
họ phải sử dụng số tiền tiết kiệm ít ỏi chỉ để tồn tại. Ở cấp quốc gia, BĐKH sẽ làm giảm thu nhập
quốc dân và làm tăng nhu cầu chi tiêu, từ đó làm xấu đi tình trạng tài chính công. Những cú sốc
khí hậu có thể gây ra những trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước đang phát triển
ngay cả khi nhiệt độ tăng dưới 1°C vào cuối thế kỷ 21. Với kịch bản nhiệt độ tăng 3 - 4°C, các tác
động của BĐKH là rất lớn. Ngân hàng Thế giới (2010) ước tính rằng, các nước đang phát triển
phải gánh chịu khoảng 75 - 80% chi phi tổn thất do BĐKH trong khi có năng lực thích ứng kém
hơn so với các nước phát triển do thiếu năng lực tài chính và thể chế để quản lý các rủi ro khi hậu.
BĐKH sẽ gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến người nghèo trên thế giới. Châu Phi có thể phải đối
mặt với tình trạng sản xuất lương thực thu hẹp và thiếu nước nghiêm trọng, trong khi các khu vực
ven biển ở Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á sẽ có nguy cơ lũ lụt rất lớn. Châu Mỹ La-tinh sẽ gặp
phải thiệt hại đối với tài nguyên rừng và khu vực nông nghiệp do khí hậu khô hơn, trong khi ở lOMoAR cPSD| 58569740
Nam Mỹ, thay đổi mô hình mưa và sự biến mất của các sông băng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến
nguồn nước. Trong khi các nước giàu hơn có thể có nguồn lực kinh để thích ứng với các tác động
của BĐKH thì các nước nghèo, nếu không có viện trợ đáng kể, sẽ không thể thực hiện các biện
pháp phòng ngừa và thích ứng, đặc biệt là các biện pháp dựa vào các công nghệ mới nhất.
Các nước phát triển có thu nhập cao cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi BĐKH. Trên thực tế, mức thiệt hại
tính bình quân đầu người ở các nước phát triển có thể sẽ cao hơn, bởi vì mặc dù các nước này chỉ
chiếm 16% dân số thế giới nhưng chiếm tới 20 - 25% chi phí thiệt hại trên toàn cầu (Ngân hàng
Thế giới, 2010). Tuy nhiên, sự giàu có sẽ giúp các nước này đương đầu tốt hơn với các tác động từ BĐKH.
Bên cạnh những tác động bất lợi, BĐKH có thể tạo ra các tác động có lợi, ví dụ như gia tăng sản
xuất nông nghiệp ở vùng khí hậu lạnh, làm giảm chi phí sưởi ấm và ít tử vong do tiếp xúc với lạnh
hơn khi khí hậu ấm hơn. Các tác động tích cực có thể sẽ được trải nghiệm chủ yếu ở các vùng phía
Bắc của Bản cầu như Iceland, Siberia và Canada. Stern (2006) cho rằng, BĐKH – với kịch bản
nhiệt độ tăng 2 - 3°C vào cuối thế kỷ 21 - có thể mang lại một số tác động tích cực cho một vài
nước phát triển - nằm ở các vùng vĩ độ cao, ví dụ như Canada, Nga và Scandinavia thông qua gia
tăng năng suất nông nghiệp, làm giảm tỷ lệ tử vong, giàu nhu cầu về sưỡi vào mùa đông và tạo ra
sự bùng nổ về du lịch nhờ nhiệt độ ấm hơn. Tuy nhiên, những khu vực này cũng sẽ phải gánh chịu
những thiệt hại của sự ấm lên toàn cầu làm phá hủy cơ sở hạ tầng, sức khỏe con người, sinh kế địa
phương và đa dạng sinh học nếu sự gia tăng nhiệt độ là rất lớn (ví dụ như kịch bản nhiệt độ tăng 5
- 6°C vào cuối thế kỷ 21). Hầu hết phần còn lại của thế giới, đặc biệt là các khu vực nhiệt đới và
bán nhiệt đới, có khả năng gặp phải các tác động tiêu cực mạnh mẽ từ BĐKH.
Nhìn chung, BĐKH là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển, là một trở
ngại lớn để tiếp tục giảm nghèo và phát triển bền vững trên nhiều khía cạnh. Sự không công bằng
về mức độ bị ảnh hưởng bởi BĐKH và khả năng đương đầu với BĐKH giữa các quốc gia có thể
làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng giữa các quốc gia trên thế giới. Sau khi Thỏa thuận Paris về
BĐKH được thông qua tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về
BĐKH – COP 21 tại Paris (Pháp) vào năm 2015, các quốc gia tham dự COP 22 tại Marrakech,
Ma-rốc vào năm 2016 đã nhất trí theo đuổi con đường phát triển phát thải các-bon thấp và có khả
năng chống chịu trước những tác động của BĐKH (Low Carbon and Climate Resilience
Development Pathways) để biến những cam kết của Thỏa thuận Paris về BĐKH thành hiện thực.
Câu 10: Phân tích các tác động của BĐKH đến sự phát triển bền vững của các quốc gia. Hãy
lấy các ví dụ thực tiễn về Việt Nam để minh họa.
BĐKH không chỉ đơn thuần là một vấn đề môi trường mà là thách thức đối với sự phát triển bền
vững (IPCC, 2001). Các tác động tiềm tàng của BĐKH là mối đe dọa đối với phát triển bền vững
của các quốc gia. Phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
BĐKH gây ảnh hưởng đến ba lĩnh vực: (i) kinh tế (tác động đến các ngành kinh tế như nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng, du lịch,
thương mại); (ii) xã hội (tác động đến sức khỏe, nghèo đói, việc làm, bình đẳng giới); và (iii) môi lOMoAR cPSD| 58569740
trường (tác động đến tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, hệ sinh
thái và đa dạng sinh học, chất lượng không khí).
Nhìn chung, BĐKH có thể dẫn tới những khủng hoảng về sinh thái (suy giảm các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và chất lượng môi trường), kinh tế (gia tăng thiệt hại về tài sản, mất các sinh kế, tăng
chi phí của các biện pháp ứng ứng phó) và xã hội (tạo ra những dòng người di cư khỏi các vùng
bị ảnh hưởng và gây ra sự xáo trộn về trật tự xã hội). Những ảnh hưởng thực tế từ BĐKH có thể
lớn hơn rất nhiều so với ước tính; đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới và
mọi nỗ lực phát triển của con người đều có nguy cơ bị hủy hoại bởi BĐKH. Ví dụ thực tiễn
BĐKH cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, nổi bật là:
Một là, ảnh hưởng đến mục tiêu chấm dứt nghèo.
Những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, Việt Nam thường xuyên xuất hiện hiện tượng thời tiết
cực đoan, như: bão, hạn hán, giông, lốc, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất…, tàn phá nghiêm trọng cây
lương thực và tài sản của người dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây
lương thực, gia tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp, kéo theo hệ lụy về nghèo đói gia tăng. Tổng
hợp thiệt hại do thiên tai năm 2019 của cả nước cho thấy, diện tích cây lương thực bị ảnh hưởng
là 40.017ha. Năm 2020, thiệt hại lên tới 209.378ha. Điều này cho thấy, thiệt hại do thiên tai năm
2020 lớn hơn nhiều so với năm 2019. Sau những đợt thiên tai, bão lũ, nhiều hộ gia đình đã rơi vào
cảnh “trắng tay”, nợ nần, thiếu đói; đồng thời, tỷ lệ tái nghèo diễn ra mạnh hơn. “Hiện nay cứ 3
người thoát nghèo lại có 1 người tái nghèo, chủ yếu do hậu quả thiên tai”.
Hai là, ảnh hưởng đến nền giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng bất lợi đến triển vọng đạt được mục tiêu giáo dục theo nhiều cách
khác nhau, làm gia tăng thiên tai, dịch bệnh… ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian, cơ hội đến
trường của trẻ. Báo cáo của UNICEF thực hiện cùng tổ chức “Fridays for Future” công bố năm
2021 cho thấy, có khoảng 1 tỷ trẻ em – gần một nửa trong số 2,2 tỷ trẻ em trên toàn thế giới –
sống tại 33 quốc gia được phân loại là có “nguy cơ cực kỳ cao” bởi tác động của biến đổi khí hậu.
Báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) ngày 20/8/2021 cho thấy, thanh, thiếu niên
Việt Nam là một trong những nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất trước các tác động của biến đổi
khí hậu. Trong phân tích này, các quốc gia được xếp hạng dựa trên nguy cơ rủi ro của trẻ em trước
các cú sốc về khí hậu và môi trường, chẳng hạn như lốc xoáy và các đợt nắng nóng; cũng như mức
độ dễ bị tổn thương của trẻ em trước các cú sốc, dựa trên khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu
của trẻ em. Điều này đe dọa đến sức khỏe, giáo dục và sự an toàn của các em.
Tại Việt Nam, sau những trận mưa, bão, lũ, lụt, phần lớn cơ sở vật chất, các trang thiết bị giảng
dạy nhiều trường, lớp bị hư hỏng, nên nhiều học sinh không thể đến trường hoặc phải học chậm hơn. lOMoAR cPSD| 58569740
Ba là, ảnh hưởng tới mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái.
Biến đổi khí hậu gây ra những tác động khác nhau đối với phụ nữ và nam giới. Các nghiên cứu
cho thấy, khoảng 80% số người chịu các tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hâu là pḥ ụ
nữ. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, số phụ nữ và trẻ em tử vong bởi các thảm họa thiên nhiên
cao hơn 14 lần so với nam giới. Biến đổi khí hậu tác động lên cuộc sống và sinh kế của người dân
theo những cách thức khác nhau và phụ nữ luôn được coi là một trong những đối tượng dễ bị tổn
thương nhất do biến đổi khí hậu. Trên thực tế, biến đổi khí hậu có thể làm tồi tệ thêm những bất
bình đẳng giới, tạo thêm gánh nặng cho phụ nữ. Báo cáo thảo luận chính sách của Liên hợp quốc
và Oxfam khẳng định, nhiều thiên tai xảy ra do biến đổi khí hậu dẫn đến di cư tăng lên ở Việt
Nam. Phụ nữ di cư thường kiếm được việc làm ít hơn nam giới và nếu họ ở lại khi các thành viên
khác trong gia đình di cư thì họ sẽ phải gánh vác trách nhiệm của nam giới. Một tình trạng phổ
biến khác là nam giới trong gia đình thường làm việc xa nhà, nên khi thiên tai tàn phá thì phụ nữ
buộc phải gánh vác hầu hết các hậu quả của rủi ro thiên tai.
Sinh kế của người nghèo, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em nông thôn, phụ thuộc vào khai thác
tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt hải sản gần bờ. Cuộc sống của họ phụ thuộc khá nhiều
vào các hệ sinh thái có sẵn trong tự nhiên. Nhưng biến đổi khí hậu đang làm mất đi nhiều khu rừng
tự nhiên, hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ, trẻ em, vốn cuộc sống
chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong tự nhiên. Hơn nữa, phụ nữ, đặc
biệt là phụ nữ nông thôn, thường phải gánh vác nhiều công việc nặng nhọc, đóng vai trò người chủ
gia đình và lao động chính ở những nơi khí hậu khắc nghiệt, tài nguyên khan hiếm, các vùng bị
nhiều thiên tai, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, khiến họ bị giảm cơ hội được
giải phóng và bình đẳng.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu làm giảm chất lượng nước và trữ lượng nước sạch, nguy cơ gia tăng các
bệnh truyền nhiễm và đây chính là các yếu tố đe dọa sức khỏe sinh sản, điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc bà mẹ và trẻ em.
Bốn là, ảnh hưởng tới mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên.
Biến đổi khí hậu với những biểu hiện bất thường của thời tiết cực đoan đang làm hoang mạc hóa,
đất đai bị xói mòn, gia tăng diện tích đất ngập mặn, ngập úng do lũ lụt hoặc hạn hán, làm thiếu đất
canh tác, mất đất cư trú, gây ra những thay đổi trong đời sống xã hội và ảnh hưởng tới mục tiêu
bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả mọi người. Thống kê gần đây cho thấy, do ảnh hưởng biến
đổi khí hậu, trong 10 năm trở lại đây, đã có 1,7 triệu người di cư ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long
vì thiếu đất canh tác, không có việc làm ổn định, tỷ lệ di cư này là gấp hai lần trung bình cả nước.
Câu 11: Tại sao BĐKH cần được giải quyết trên phạm vi toàn cầu?
Câu 12: Giảm nhẹ BĐKH là gì? Có những chính sách giảm nhẹ BĐKH nào? Hãy lấy một số
ví dụ về các chính sách giảm nhẹ BĐKH trong ngành năng lượng và công nghiệp.
Giảm nhẹ (mitigation) để cập đến các biện pháp và hoạt động nhằm làm giảm các tác động của
con người đến môi trường (tự nhiên và nhân tạo) và các chi phí mà con người phải gánh chịu. lOMoAR cPSD| 58569740
Trong lĩnh vực môi trường, giảm nhẹ liên quan đến các biện pháp giảm thiệt hại môi trường bằng
cách giảm lượng phát thải các chất ô nhiễm gây hại. Gần đây, giảm nhẹ thường được đề cập trong
bối cảnh BĐKH toàn cầu.
Nhìn chung, giảm nhẹ BĐKH bao gồm hai nhóm chính sách:
Thứ nhất, các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính từ các nguồn phát thải, ví dụ như từ các ngành
năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất, giao thông, thương mại, chủ yếu
thông qua tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển công nghệ mới nhằm làm cho
nền kinh tế thế giới không bị gắn nhiều với các-bon và các khí nhà kính khác.
Thứ hai, các hoạt động tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính, chủ yếu từ các hoạt động sử dụng
đất, thay đổi sử dụng đất, lâm nghiệp và từ các hệ sinh thái biển, ven biển và đại dương.
Ví dụ: Để giảm phát thải khí CO2, bên cạnh việc chuyển đổi sử dụng nhiên liệu từ nhiên liệu hóa
thạch (ví dụ như than, dầu mỏ, khí ga) sang nhiên liệu thay thế không tạo ra CO2 (ví dụ như năng
lượng tái tạo được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh
học), cần tăng cường trồng rừng và giảm chặt phá rừng (bởi vì rừng có vai trò rất lớn trong việc
hấp thụ CO2 từ quá trình quang hợp của cây xanh).
Đối với công nghiệp, việc triển khai các công nghệ sẵn có tốt nhất và áp dụng thực tiễn tốt nhất có
thể làm giảm tiêu dùng năng lượng trong các ngành công nghiệp từ 20-25%, từ đó giúp làm giảm
phát thải CO2. Các biện pháp chính gồm sử dụng các thiết bị, công nghệ tiêu hao ít năng lượng,
cải tiến các thiết bị hiện tại để sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, giảm rò gỉ khí hoặc hơi nước
nhằm tối ưu hiệu suất của các quy trình sx, từ đo cải thiện hiệu quả hoạt động của nhà máy nhờ
tiết kiệm chi phí năng lượng và giảm khí thải.
Câu 13: Thích ứng với BĐKH là gì? Có những chính sách thích ứng với BĐKH nào? Hãy lấy một
số ví dụ về các chính sách thích ứng với BĐKH trong ngành nông nghiệp
Thích ứng là quá trình điều chỉnh của hệ thống tự nhiên và con người trước BĐKH dự kiến hoặc
thực tế và những tác động của BĐKH nhằm làm giảm/tránh những ảnh hưởng bất lợi và tận dụng
các cơ hội có lợi do BĐKH mang lại (IPCC, 2014).
• Bằng các cách: Thích ứng về công nghệ, thích ứng về tài chính, thích ứng về thông tin, thíchứng
về thể chế, chính sách
• Được thực hiện bởi: Khu vực tư nhân (cá nhân, doanh nghiệp), khu vực công (nhà nước) lOMoAR cPSD| 58569740
Chính sách thích ứng BĐKH
Thích ứng với BĐKH có thể gặp nhiều khó khăn, bởi vì rủi ro từ BĐKH là không chắc chắn. Trong
nhiều trường hợp, sống chung với BĐKH cũng là một cách thích ứng. Tuy nhiên, ngay cả khi con
người biết cần phải thực hiện những hành động nào để thích ứng với BĐKH thì việc thúc đẩy
chính phủ, doanh nghiệp hoặc cả nhân hành động là một thách thức. Một số công cụ chính sách
cơ bản có thể được thiết kế và áp dụng để thúc đẩy hành động thích ứng với BĐKH, bao gồm công
cụ mệnh lệnh - kiểm soát, công cụ kinh tế, công cụ kỹ thuật và công cụ giáo dục truyền thông.
Công cụ luật pháp - chính sách
Các công cụ mệnh mệnh - kiểm soát thiết lập các quy tắc có thể thực thi về mặt pháp lý cần phải
tuân thủ để tác động vào các cá nhân nhằm thay đổi hành vi của họ hưởng đến đạt mục tiêu đề ra.
Trong lĩnh vực thích ủng với BĐKH, nội dung thích ứng với BĐKH có thể được đưa vào luật, kế
hoạch, chương trình hành động, chiến lược phát triển cấp quốc gia.
Một trong những bộ luật khung sớm nhất về BĐKH là Luật Biến đổi khí hậu (2008) của Vương
Quốc Anh với các nội dung quan trọng về xác định mục tiêu phát thải khí nhà kính dài hạn dựa
trên cơ sở khoa học, khối lượng phát thải 5 năm, cách thức đạt được mục tiêu dài hạn và lập kế
hoạch thích ứng liên tục với BĐKH dựa theo khả năng phục hổi. Luật ĐKH của Vương quốc Anh
được đánh giá là công cụ có hiệu lực trong việc thực hiện hiệu quả chính sách ủng phó với BĐKH.
Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường (2014) có một chương với các điều khoản quy định về ứng
phỏ với BĐKH, bao gồm giảm nhẹ và thích ứng. lOMoAR cPSD| 58569740
Bên cạnh luật, từ năm 2010, Kế hoạch Thích ủng Quốc gia (National Adaptation Plan – NAP)
được xây dựng theo quy trình của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (UNFCCC) đã
giúp các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, lập kế hoạch thích ứng với BĐKH trong
trung và dài hạn một cách toàn diện với các mục tiêu: (i) giảm thiểu khả năng dễ bị tổn thương
trước tác động của BĐKH bằng cách tăng cường năng lực thích ứng và khả năng phục hồi; (ii)
thúc đẩy việc tích hợp thích ứng với BĐKH vào các chính sách, chương trình, hoạt động phát triển
ở tất cả các lĩnh vực liên quan và ở các cấp độ khác nhau. Kế hoạch Thích ứng Quốc gia được coi
là một công cụ lập kế hoạch hiệu quả đối với thích ứng với BĐKH. Các kết quả đầu ra của Kế
hoạch Thích ủng quốc gia bao gồm các hoạt động, dự án thích ứng khẩn cấp và trong ngắn hạn
được đề xuất trong Chương trình Hành động quốc gia thích ứng với BĐKH (National Adaptation
Program of Action – NAPA) và các hoạt động, dự án thích ứng theo ngành và địa phương. Ngoài
ra, Chiến lược Thích ủng Quốc gia (National Adaptation Strategy) cũng được xây dựng nhằm cụ
thể hóa Kế hoạch Thích ủng Quốc gia và Chương trình Hành động thích ứng quốc gia. Công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế, còn được gọi là các công cụ dựa vào thị trường, sử dụng tín hiệu giá cả và tác
động vào các lợi ích chi phí kinh tế của các cá nhân nhằm thay đổi hành vi của họ để đạt mục tiêu
đề ra. Các công cụ kinh tế bao gồm thuế, trợ cấp, các nguồn tài chính (tín dụng, trái phiếu,...), các
công cụ chia sẻ rủi ro như bảo hiểm,... Khi được thiết kế hợp lý, các công cụ kinh tế có khả năng
mang lại những cách thức hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong việc đáp ứng các mục tiêu môi trường
và khí hậu. Các công cụ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong thích ứng với BĐKH là tài chính
thích ứng, bảo hiểm BĐKH, trợ cấp sau thiên tai, các quỹ dự phòng.... Các công cụ này đã được
trình bày cụ thể ở Chương 5 Kinh tế học thích ứng với BĐKH.
Công cụ kỹ thuật
Một trong những công cụ kỹ thuật được sử dụng phổ biến phục vụ công tác thích ứng với BĐKH
là đánh giá tổn thương do BĐKH (Climate Change Vulnerability Assessment). Theo IPCC (2001),
tính dễ bị tổn thương là mức độ mà một hệ thống dễ bị ảnh hưởng hoặc không thể đối phó với các
tác động bất lợi của BĐKH, bao gồm dao động và biến đổi khí hậu cực đoan. Tinh dễ bị tổn thương
là một hàm số của ba yếu cấu thành, bao gồm: sự phơi nhiễm, độ nhạy cảm và năng lực thích ứng.
Các kết quả đầu ra của đánh giá tổn thương do BĐKH bao gồm: (i) mô tả và phân tích tính dễ bị
tổn thương ở hiện tại của các nhóm dễ bị tổn thương đại diện (ví dụ như sinh kế có nguy cơ gặp
rủi ro khí hậu), (ii) mô tả và phân tích tính dễ bị tổn thương tiềm năng trong tương lai; (iii) so sánh
tinh dễ bị tổn thương trong các điều kiện kinh tế - xã hội, khí hậu và hành động thích ứng khác
nhau; và (iv) để xuất các biện pháp thích ứng với BĐKH. Các kết quả của đánh giá tổn thương do
BĐKH sẽ được sử dụng trong quá trình ra quyết định về thích ứng của các bên liên quan (bao gồm
chính phủ, cộng đồng, doanh nghiệp, cá nhân).
Công cụ giáo dục và truyền thông
Giáo dục về thích ủng với BĐKH là việc thực hiện các biện pháp và chương trình giáo dục nhằm
xây dựng các hoạt động thích ứng hiệu quả với BĐKH. Giáo dục giúp người học hiểu được nguyên
nhân, hậu quả và tác động của BĐKH, từ đó giúp họ thực hiện các biện pháp thích ứng phù hợp. lOMoAR cPSD| 58569740
Giáo dục cũng giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu được tầm quan trọng và sự cấp bách của
việc thích ứng ở cấp quốc gia, ngành và địa phương cũng như giúp tăng cường khả năng phục hồi
của các cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trước các tác động của BĐKH.
Truyền thông về thích ứng với BĐKH bao gồm giáo dục, cung cấp thông tin, thuyết phục và huy
động sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động thích ứng với BĐKH. Các chiến lược quốc gia
về BĐKH chỉ có thể thành công nếu như khuyến khích được sự tham gia của các bên liên quan
khác nhau. Điều 4 của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH kêu gọi các quốc gia thúc
đẩy và hợp tác trong giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH và khuyến
khích sự tham gia của xã hội vào ứng phó với BĐKH. Do đó, các chiến lược và kế hoạch truyền
thông đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối giữa chính phủ với các tổ chức dân sự xã
hội, doanh nghiệp, cộng đồng và quan hệ các tổ chức quốc tế; từ đó nâng cao nhận thức và phổ
biến kiến thức về BĐKH cho các nhóm đối tượng khác nhau.
Nhìn chung, giáo dục và truyền thông giúp các bên liên quan trọng xã hội có nhận thức đúng đắn
và sâu sắc về BĐKH, đồng thời chuyển từ nhận thức sang các hành động thiết thực sẽ là một trong
những yếu tố quyết định sự thành công của cuộc chiến đấu chống BĐKH.
Câu 14:. Trình bày những nội dung chính của Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (năm 1992).
- Mục tiêu: được nêu trong Điều 2 là “ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức cóthể
ngăn chặn được các rủi ro nguy hiểm do tác động của con người đối với hệ thống khí hậu. Nồng
độ này cần đạt được trong một khoảng thời gian đủ để cho phép các hệ sinh thái có thể thích ứng
một cách tự nhiên với BĐKH, đảm bảo sản xuất lương thực không bị đe dọa và sự phát triển kinh
tế được thực hiện theo cách thức bền vững” (United Nations, 1992). - Nguyên tác
Điều 3 của Công ước đã đưa ra một số nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu ổn định nồng độ khí
nhà kính trong khí quyển, bao gồm (United Nations, 1992):
Thứ nhất, các nước tham gia Công ước phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của thế hệ hiện tại
và tương lai trên cơ sở công bằng, trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt, trong đó các nước
phát triển cần đi đầu trong cuộc chiến chống BĐKH và những ảnh hưởng bất lợi của BÐKH.
Thứ hai, cần xem xét đầy đủ nhu cầu cụ thể và hoàn cảnh đặc biệt của các nước đang phát triển,
đặc biệt là các nước dễ bị tổn thương trước các tác động bất lợi của BĐKH và của các nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển, phải chịu gánh nặng không cân xứng hoặc bất thường theo Công ước.
Thứ ba, các nước tham gia Công ước cần thực hiện các biện pháp. phòng ngừa để dự đoán, ngăn
chặn hoặc giảm thiểu các nguyên nhân gây ra BĐKH và các tác động bất lợi của BĐKH. Trong
trường hợp có những mối đe dọa nghiêm trọng hoặc thiệt hại không thể đảo ngược, không được
sử dụng việc thiếu thông tin khoa học để làm lý do trì hoãn việc thực hiện các biện pháp đó. Các
chính sách và biện pháp giải quyết BĐKH phải hiệu quả về chi phí để đảm bảo đạt được lợi ích lOMoAR cPSD| 58569740
toàn cầu với chi phí thấp nhất có thể. Những nỗ lực giải quyết BĐKH có thể được thực hiện bằng
sự hợp tác giữa các quốc gia.
Thứ tư, các nước tham gia Công ước có quyền thúc đầy phát triển bền vững. Các chính sách và
biện pháp bảo vệ hệ thống khí hậu phải phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng nước và phải
được lồng ghép vào các chương trình phát triển quốc gia, trong đó phát triển kinh tế đóng vai trò
then chốt trong việc áp dụng các biện pháp giải quyết BĐKH.
Thứ năm, các nước tham gia Công ước cần hợp tác để thúc đẩy hệ thống kinh tế quốc tế có thể tạo
ra tăng trưởng và phát triển bền vững cho tất cả các nước tham gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này giải quyết BĐKH. Các biện pháp ứng phó với
BĐKH không nên tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các nước hoặc làm cản trở thương mại quốc tế. - Các cam kết chính
Các cam kết của các nước tham gia Công ước, bao gồm cam kết chung của tất cả các nước tham
gia và cam kết của các nước phát triển, được thể hiện tại Điều 4 của Công ước như sau (United Nations, 1992):
- Tất cả các nước tham gia Công ước, với trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt và có xét
đến ưu tiên, mục tiêu và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia, có những trách nhiệm sau:
+ Xây dựng, định kỳ cập nhật, xuất bản và công bố cho Hội nghị các Bên tham gia (COP) về tình
trạng kiếm kê phát thải khí nhà kính của quốc gia theo các nguồn phát thải và phần khí nhà kinh
đã được loại bỏ bởi các bể hấp thụ;
+ Xây dựng, thực hiện, công bổ và thường xuyên cập nhật các chương trình quốc gia và khu vực
về các biện pháp giảm nhẹ và thích úng;
+ Thúc đẩy và hợp tác trong phát triển, ứng dụng, phổ biến và chuyển giao công nghệ, các thực
tiễn và quy trình kiểm soát, giảm nhẹ hoặc ngăn chặn phát thải khí nhà kính ở tất cả các ngành liên
quan, bao gồm năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý chất thải;
+Thúc đẩy bảo tồn, quản lý bền vững và tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khôi,
rừng, đại dương, các hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái biển và ven biển; Hợp tác xây dựng kế
hoạch thích ứng với các tác động của BĐKH; lOMoAR cPSD| 58569740
Lồng ghép BĐKH vào các chính sách kinh tế - xã hội - môi trường;
+ Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH nhằm tăng cường
+ hiểu biết về BĐKH cũng như làm giảm sự không chắc chắn về nguyên nhân, tác động, cường
độ, thời gian diễn ra của BĐKH và hậu quả kinh tế - xã hội của các chiến lược ứng phó khác nhau;
+ Thúc đẩy và hợp tác trong việc trao đổi thông tin về BĐKH một cách đầy đủ, công khai, kịp thời;
+ Thúc đầy và hợp tác trong giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH và
khuyến khích sự tham gia của xã hội vào ứng phó với BĐKH.
- Các nước thuộc Phụ lục I (gồm 43 nước công nghiệp phát triển và các nước đang trong giai
đoạn chuyển đổi) cam kết áp dụng chính sách quốc gia và thực hiện các biện pháp giảm nhẹ BĐKH
bằng cách hạn chế phát thải khí nhà kính và tăng cường các bể hấp thụ khí nhà kính. Sự cam kết
này cho thấy các nước phát triển đang đi đầu trong việc thay đổi xu hướng phát thải khí nhà kính
của con người trong dài hạn. Các nước thuộc Phụ lục I có thể thực hiện các chính sách và biện
pháp giảm nhẹ BĐKH bằng cách phối hợp với nước khác và có thể giúp các nước khác đạt được
các mục tiêu đề ra trong Công ước.
- Các nước thuộc Phụ lục II (gồm 24 nước thành viên của tổ chức OECD) có trách nhiệm: (i)
cung cấp các nguồn tài chính mới và bổ sung để giúp các nước đang phát triển thực hiện các hoạt
động giảm phát thải khí nhà kính theo Công ước; (ii) giúp các nước đang phát triển thích ứng trước
những tác động bất lợi của BĐKH thông qua tài trợ cho các chi phí thích úng vói BĐKH; và (iii)
thúc đầy phát triển và chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường cho các nước đang phát triển.
Như vậy, bản thân Công ước không đưa ra ràng buộc về giới hạn phát thải khí nhà kính cho từng
nước tham gia cũng như không có chế tài để thực thi. Nói cách khác, Công ước không có tính ràng
buộc về pháp lý. Tuy nhiên, Công ước cũng đưa ra khuôn khổ cho việc đàm phán các hiệp ước
quốc tế cụ thể (ví dụ như Nghị định thư) mà từ đó có thể thiết lập những giới hạn ràng buộc về phát thải khí nhà kính.
· Hội nghị các Bên tham gia (COP)
Theo Điều 7 của Công ước, Hội nghị các Bên tham gia (COP) – cơ quan tối cao của Công ước có
những trách nhiệm chính sau (United Nations, 1992): lOMoAR cPSD| 58569740
- Định kỳ kiểm tra nghĩa vụ thực hiện Công ước của các bên tham gia, rà soát các quy định của
Công ước, tổng kết các kinh nghiệm thực hiện Công uóc;
- Thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin về các biện pháp ứng phó với
BĐKH của các nước tham gia và tác động của các giải pháp đó;
- Đánh giá việc thực hiện Công ước của các nước tham gia cũng như tác động kinh tê - xã hội
môi trường của các biện pháp ứng phó với BĐKH của các nước;
- Xem xét, thông qua và công bố báo cáo định kỳ về việc thực hiện Công urớc;
Đưa ra các khuyến nghị về những vấn đề cần thiết cho việc thực hiện Công ước;
- Huy động nguồn lực tài chính nhằm ứng phó với BĐKH.
Hội nghị BĐKH của Liên Hiệp Quốc - một hội nghị hàng năm được tổ chức trong khuôn khổ Công
ước - được coi là hội nghị chính thức của các Bên tham gia Công ước (COP - Conference Of
Parties). Hội nghị các Bên tham gia được tổ chức lần đầu tiên (COP 1) vào năm 1995 tại
Berlin, Đức. Bên cạnh đó, Hội nghị các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP) cũng được tổ
chức đồng thời với Hội nghị các Bên tham gia Công ước (COP). Các bên tham gia Công ước mà
không phải là các bên tham gia Nghị định thư có thể tham gia vào các cuộc họp liên quan đến Nghị
định thư với tư cách là quan sát viên (United Nations, 1998).
Câu 15: Trình bày những nội dung chính của Nghị định thư Kyoto (năm 1997) * Bối cảnh ra đời:
Các cam kết trong Công ước là không đủ để đáp ứng mục tiêu của Công ước nên các bên tham gia
công ước đã quyết định xây dựng các cam kết giảm phát thải khí nhà kính cho các nước phát triển
dưới hình thức một nghị định thư có tính pháp lý.
Được thông qua tại COP 3 ở Kyoto, Nhật Bản (được gọi là Nghị định thư Kyoto) vào ngày 11/12/1997.
Hiện nay, 192 nước phê duyệt Công ước đã phê duyệt Nghị định thư Kyoto. * Mục tiêu •
Công nhận rằng các nước phát triển chủ yếu chịu trách nhiệm về mức phát thải khí nhà
kínhtrong khí quyển ở quá khứ và hiện tại Nghị định thư đặt gánh nặng nhiều hơn lên các nước
phát triển theo nguyên tắc "trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt”. •
Thiết lập các mục tiêu giảm phát thải có tính ràng buộc quốc tế đối với các nước phát
triển,theo đó, vào năm 2012, các quốc gia thuộc Phụ lục I phê chuẩn Nghị định thư phải hoàn lOMoAR cPSD| 58569740
thành nghĩa vụ giảm và hạn chế phát thải khí nhà kính trong giai đoạn cam kết đầu tiên (2008- 2012).
* Các cam kết giảm phát thải khí nhà kính 6
khí nhà kính cần được cắt giảm là: • Carbon dioxide (C02) • Methane (CH4) • Nitrous oxide (N20) • Hydrofluorocarbons (HFCs) • Perfluorocarbons (PFCs)
• Sulphur hexafluoride (SF6)
Ràng buộc về nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính đối với 37 nước công nghiệp và Cộng đồng
Châu u (gồm 15 nước tại thời điểm đàm phán Nghị định thư) – là những nước thuộc Phụ lục I của Công ước.
Các nước phải giảm ít nhất 5% của mức năm 1990 trong giai đoạn cam kết đầu tiên 2008-2012
Bảng: Cam kết hạn chế và giảm phát thải định lượng khí nhà kính của các nước thuộc Phụ lục I
theo Nghị định thư Kyoto trong thời kỳ cam kết đầu tiên (2008-2012) tt quốc gia mục tiêu phát thải (%) (năm cơ sở 1990)
1 European Community (15 countries), Bulgaria, Czech Republic, Estonia, -8
Latvia, Liechtenstein, Lithuania, Monaco, Romania, Slovakia, Slovenia, Switzerland 2 us -7
3 Canada, Hungary, Japan, Poland -6 4 Croatia -5
5 New Zealand, Russian Federation, Ukraine 0 6 Norway +1 7 Australia +8