



















Preview text:
   
Trong lịch sử phát triển của toàn nhân loại thì bất cứ ai trong chúng ta 
đều không thể không kể đến sự hình thành và phát triển của hai nền quốc 
gia, đó là các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại 
Phương Tây. Hai nền quốc gia này ra đời và phát triển đã có những đóng 
góp quan trọng vào nhiều lĩnh vực của đời sống con người. 
I, Điều kiện hình thành nhà nước cổ đại ở Phương Đông 
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng 
tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối 
thiên kiIV TCN, xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt 
đầu ra đời, từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kỳ văn minh. Trong 
thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kì IV, đầu thiên kì III TCN, đến những thế 
kỉ trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi 
có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung 
Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này 
đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông 
Nin ở Ai Cập, sông Ophrat và sông Tigre ở Tây Á, sống Ấn (Indus) và 
sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. 
Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn ấy nên đất đai ở những 
nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát triển trong hoàn 
cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước, do đó 
cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo 
nên những nền văn minh vô cùng rực rỡ. Xã hội có giai cấp và nhà nước 
đã xuất hiện đầu tiên ở phương Đông, trên lưu vực các dòng sông lớn ở 
châu Phi và châu Á như sông Nin ở Ai Cập, sông C-phơ-rát và Ti-gơ-rơ ở     
Lưỡng Hà, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốc v. Ở 
đây có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho đời sống của con 
người. Những đồng bằng rộng lớn, màu mỡ hình thành trên lưu vực các 
con sông là điều kiện quan trọng để ngành kinh tế nông nghiệp xuất hiện 
từ rất sớm. Những nơi này có nhiều đất canh tác, có mưa đều đặn theo 
mùa, có khí hậu nóng ẩm (trừ Trung Quốc nhưng cũng không lạnh như 
ngày nay), dân cư sống tập trung khá đông theo từng bộ lạc, trên các thêm 
đất cao gần sông, dễ trồng vườn, trồng lúa và chăn nuôi. trên các them dat 
cao gan song, de trong vươn, trong lua va chan nuôi. 
Khoảng 3500 năm đến 2000 năm trước công nguyên, cư dân ở Tây Á, Ai 
Cập và cư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở 
ven các con sông. Họ sống bằng nghề nông là chủ yếu và biết trồng mỗi 
năm hai vụ. Đồng bằng ven sông đã bù đắp rất nhiều cho con người. Vào 
mùa mưa hàng năm nước sông dâng cao, phủ lên các chân ruộng thấp một 
lớp phủ sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm, dễ làm với cả những chiếc  cây bằng gỗ. 
Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ 
phải lo đến công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ 
thống gầu để múc nước ở chân ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng 
cao những khi cần. Ngoài ra, họ còn biết đắp đê để ngăn lũ nhờ thể con 
người có thể thu hoạch lúa ổn định hằng năm. Công việc trị thuỷ khiến 
mọi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổ chức công xã. 
Những con sông lớn tiềm ẩn thiên tai lũ lụt nên công tác trị thuỷ, thuỷ lợi 
trở thành một nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển kinh tế của cư dân 
thời kỳ này. Vì đặc trưng hoạt động trị thủy cần rất nhiều sức người, sức 
của nên tính gắn kết cộng đồng ở phương Đông rất cao. 
Nguồn đất và nguồn nước là quan trọng nhất nên các cuộc chiến tranh để 
tranh giành các nguồn lực này xảy ra thường xuyên. Địa hình ở đây mang     
tính khép kín nên các cuộc chiến chủ yếu là nội chiến giữa các tộc người 
sống trên cùng một vùng đất. 
Kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, hoàn toàn phụ thuộc vào điều 
kiện tự nhiên (điều kiện của các con sông, điều kiện khí hậu). Khi công 
cụ lao động bằng đồng ra đời, ngành nông nghiệp phát triển ngày càng 
mạnh mẽ. Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng xuất hiện sau ba lần 
phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp 
là đặc trưng của nền kinh tế phương Đông cổ đại. 
Kinh tế phát triển, sản phẩm lao động ngày càng nhiều đã phá vỡ chế độ 
sở hữu chung của chế độ công xã thị tộc. Chế độ tư hữu ra đời (tư hữu về 
tư liệu sinh hoạt) dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Trong xã hội đã dần 
hình thành ba giai cấp cơ bản: Giai cấp chủ nô là giai cấp giữ địa vị thống 
trị trong xã hội và bóc lột những giai cấp khác; Giai cấp nô lệ và giai cấp 
nông dân là giai cấp bị trị và bị bóc lột. Chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính 
gia trưởng. Số lượng nô lệ ít, nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chính 
trong xã hội mà chủ yếu phục vụ trong gia đình chủ nô. 
Sự xuất hiện nhà nước ở phương Đông cổ đại, ngoài yếu tố xuất hiện tư 
hữu, phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn có hai yếu tố làm thúc 
đẩy nhanh tiến trình hình thành nhà nước đó là yếu tố trị thuỷ và chiến 
tranh. Nhà nước phương Đông ra đời là một ngoại lệ của học thuyết Mác- 
Lênin về sự hình thành nhà nước. 
II, điều kiện hình thành nhà nước cổ đại ở Phương Tây 
Hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã xuất hiện trên các bán đảo, có rất 
nhiều vịnh, hải cảng, khoáng sản quý. Khí hậu ôn đới. Ở đây kinh tế nông 
nghiệp xuất hiện nhưng kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp mới là 
kinh tế chủ đạo. Địa hình mở là điều kiện để các cuộc chiến tranh thôn 
tính diễn ra một cách thường xuyên.  1.2.1. Hi Lạp cổ đại     
Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đình ba 
của thần biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi 
Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. 
Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp. 
Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển 
Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan 
trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp 
gồm 3 phần: miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi 
Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi 
đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù phú với thành thị Athens 
nổi tiếng; miền Nam là bần đảo 
Peloponesus như hình bàn tay bốn ngôn xòe ra Địa Trung Hải – đây là nơi 
xuất hiện nhà nước thành bang đầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta. 
Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp 
không phì nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ 
công, còn lương thực chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập. 
Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự 
thuận lợi tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều 
cảng, vịnh, thuận lợi cho tàu bẻ hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng 
tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để giao thương 
Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành 
tựu của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi 
Lạp cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho 
sự phát triển của văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại  nói chung.  1.2.2. La Mã cổ đại     
Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp 
như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần 
bán đảo Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tưởng thành tự 
nhiên ngăn cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam 
đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương sống chạy 
dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông Nam. 
Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. 
Nơi đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng 
sông Pô (miền Bắc), đồng bằng sông Tibro (miễn Trung), các đồng bằng 
trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỗ rộng lớn thuận tiện cho 
việc phát triển nghễ nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ 
biển có nhiều căng, tàu bè ra vào dễ dàng, thuận lợi cho giao thông và  buôn bán.  ♠ Tóm lại 
Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp 
và La Mã đã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của 
những cư dân gốc du mục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, 
nền văn minh chủ yếu được hình thành trên những khu vực gần các con 
sông lớn, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây 
cổ đại hình thành và phát triển trên những khu vực điều kiện tự nhiên 
tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều kiện tự nhiên đó tuy khó 
khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền văn minh 
phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con đường 
giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè không chỉ tạo điều kiện phát triển 
trong mối quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, 
mang những thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền ba khắp nơi 
trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp 
hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương 
Tây cổ đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nỗ. Phương     
thức sản xuất chiếm nỗ thời bấy giờ đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất 
của nó trong xã hội phương Tây cổ đại. Chính sự phát triển của chế độ 
chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh 
thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với 
những con đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng 
đã thúc đẩy quá trình bành trưởng của các quốc gia được mệnh danh là đế 
quốc cổ đại Hi Lạp và La Mã khỏi nông nghiệp để trở thành một nền sản 
xuất độc lập. Đây là bước tiến lớn của họ, nhờ vậymà năng xuất lao động 
tăng lên không ngừng và cũng thể hiện nền thủ công nghiệp đã được 
chuyên môn hoa, đem lại năng xuất cao hơn 
III, Những điểm chung nhà nước cổ đại Phương Đông và Phương Tây  1. về kinh tế 
Các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây có sự giống và khác nhau 
về các đặc điểm kinh té.  - 
Kinh tế của họ phát triển đến thời cổ đại đều đã kinh qua nền sản 
xuấtnguyên thuỷ, công xã thị tộc. Hay nói cách khác sự tan rã của nền 
kinh tế nguyên thuỷ là tiền đề để hình thành nền kinh tế cổ đại ở cả các 
quốc gia phương đông và phương tây Vi đều trải qua nền sản xuất nguyên 
thuỷ nên họ đều có những điểm giống nhau, đều trải qua mô hình sản xuất 
công xã thị tộc, công xã nông thôn, đều có nền kinh tế đi lên từ nông  nghiệp 
-Kinh tế của họ phát triển đều dựa vào điều kiện tự nhiên, phát huy thế 
mạnh mà tự nhiên bạn tặng cũng như hạn chế đến mức tối đa các khó khăn 
từ điều kiện tự nhiên gây ra với kinh tế: 
ở phương đông là tận dụng lương mưa và đất phù sa để phát triển nông 
nghiệp, hạn chế hậu quả do lũ lụt gây ra, ở phương tây là phát huy thế 
mạnh về hàng hải và thủ công nghiệp, hạn chế khó khăn do thiếu hụt lương     
thực gây ra ở phương tây, đất đai không thuận lợi cho phát triển nông 
nghiệp nên phải dựa vào thương nghiệp để mua lương thực cho những  năm mất mùa)  - 
Ở cả các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây các ngành kinh 
tếnông nghiệp, thủ công nghiệp, thường nghiệp đều đã có đủ sự khác nhau 
chỉ ở chỗ họ lấy nghành kinh tế nào là mũi nhọn để phát triển mà thôi. 
2. về chính trị - xã hội 
Do cùng trải qua xã hội nguyên thuỷ trước khi hình thành các quốc gia cổ 
đại của mình nên giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây 
cũng có những nét giống nhau.  - 
Cơ sở của việc hình thành nhà nước là sự phân chia giai cấp và sự 
tưhữu về tư liệu sản xuất nên xã hội cổ đại phương đông và phương tây 
đều chia làm 2 tầng lớp là tầng lớp thống trị bao gồm tăng lữ, quý tộc ở 
phương đông và chủ nô ở phương tây, tầng lớp bị trị là những nông dân 
công xã, dân tự do và nô lệ  - 
Sự hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại dựa trên cơ sở 
sựbóc lột của tầng lớp thống trị với tầng lớp bị trị  - 
Kế tiếp xã hội cổ đại là xã hội chiếm nô, cả các quốc gia phương 
đôngvà phương tây đều như vậy nhưng do điều kiện tự nhiên và hoàn 
cảnh kinh tế mà các quốc gia cổ đại phương đông không phát triển chế độ 
chiếm nô đến điển hình và thành thục như ở các quốc gia cổ đại phương  tây. 
3. 3.1. Giải thích sự giống nhau khác về chính trị, xã hội 
-Có sự giống nhau giống nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông và 
phương tây vì các quốc gia này đều hình thành trên cơ sở tuân theo quy 
luật khách quan tất yếu của lịch sử đó là “kể tiếp xã hội nguyên thuỷ cổ     
đại là xã hội chiếm nỗ với 2 giai cấp cơ bản: Giai cấp thống trị chủ nô và 
giai cấp bị trị nô lệ (Lịch sử thế giới cổ trung đại - Nghiệm Đinh Vị chủ  biên). 
Như ta đều biết nhà nước ra đời khi xã hội ẫn chưa nhiều mâu thuẫn, khi 
mà sự tư hữu về tư liệu sản xuất đã đạt tới một mức độ nhất định. Nhà 
nước cổ đại có vai trò quản lý, điều hoà mẫu thuẫn đó nhưng chủ yếu là 
thay mặt tầng lớp trên trong xã hội để trấn áp, bốc lột nhân dân. Vì thể về 
bản chất nhà nước là một cơ quan bốc lột nhân dân không phân biệt sự 
khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội 
Do cũng ra đời vào thời cổ đại nên xét cho cùng tổ chức chính trị, xã hội 
có một số điểm giống nhau nhất định như tỉnh sơ khai, tính bóc lột nguyên  thuỷ 
IV. Những điểm khác biệt của nhà nước cổ đại Phương Đông và Phương  Tây  2.3. Trong thương nghiệp 
2.3.1:Ở các quốc gia cổ đại phương đông nền kinh tế của họ mang tính tự 
cấp, tự túc là chủ yếu nên nền thương nghiệp chưa phát triển, buôn bán 
trao đổi chủ yếu dưới hình thức vật đổi lấy vật, tiền tệ đã xuất hiện nhưng 
chưa phổ biến. Nước có nền kinh tế thương nghiệp phát triển nhất phương 
đông là Lưỡng Hà cổ đại. 
2.3.2:Trong khi nền kinh tế thủ công nghiệp ở phương đông không phát 
triển được do nền kinh tế mang chất tự cấp, tự túc thì nên thương nghiệp 
ở phương tây đã có sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt là giao thương bằng 
đường biển. Các thuyền buồn của họ đã nối liền 3 châu lục Á, Phi, Âu và 
đem về vô số tài sản cho lái buôn a Tóm lại 
Vậy tại sao lại có sự khác nhau về kinh tế giữa các quốc gia phương đông 
và phương tây như vậy? đó là do giữa phương đông và phương tây có sự     
khác nhau về điều kiện tự nhiên. Ở buổi đầu của văn minh nhân loại con 
người phải sống phụ thuộc vào tự nhiên chứ chưa có ý muốn cũng như 
khả năng để chinh phục nó. Lao động là quá trình thúc đẩy sự tiến hoa của 
con người. Ở thời cổ đại con người còn ở một trình độ sản xuất chưa cao. 
Nền kinh tế nông nghiệp phương động phát triển trên cơ sở trị thủy các 
dòng sông lớn, đất đai ở đây được phù sa các sông lớn như sông Nin ở Ai 
Cập, Sông Tigoro và Ophorat ở Lưỡng Hà, Sông Ấn và sống Hằng ở Ấn 
Độ, Sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính các con sông 
này đã tạo nên các đồng bằng phi nhiều, các vụ mùa bội thu và quan trọng 
nhất là tạo ra các nhà nước cổ đại phương đông. Không một quốc gia 
phương đông cổ đại nào mà lại không có một dòng sông lớn chảy qua. 
Nhờ lớp đất phù sa có nơi dày tới vài mét nên nông nghiệp phương đông 
vẫn phát triển dù thời kì đó công cụ lao động của họ chủ yếu là gỗ, đá và 
đồng đó họ có thể canh tác mà không cần kinh tế chủ yếu của họ là thủ 
công nghiệp và thương nghiệp Đây là nơi hình thành và phát triển nền 
kinh tế hàng hoá cổ đại. Sau đầy ta sẽ đi rõ vào chi tiết từng ngành sản 
xuất để thấy rõ hơn sự khác biệt trên  2.1.Trong nông nghiệp: 
2.1. 1.Ở các quốc gia cổ đại phương đông nông nghiệp trồng lúa 
nước là ngành kinh tế chủ yếu, là cơ sở kinh tế của tất cả các 
quốc gia cổ đại phương đông. Bên cạnh việc lấy nghề nông làm 
gốc, cư dân phương đông thời cô đã biết chăn nuôi gia súc như: 
bò, cừu, lợn, và biết trồng các loại ngũ cốc khác nhau như: ngô, 
lúa mạch, kê, vùng và các loại cây ăn quả khác. Chính vì các 
nghành nông nghiệp phát triển theo hướng tự túc, tự cấp như 
vậy nền kinh tế hàng hoá không phát triển, nhu cầu trao đổi 
buôn bán hàng hoa ít. Lối sản xuất này của họ đã gần như bóp 
nghẹt kinh tế công thương nghiệp và tạo ra sự trì trệ tương đối 
nhưng vĩ 3 trong 4 quốc gia cổ đại phương đông nằm biệt lập 
với thế giới bên ngoài nên nền kinh tế tự túc, tự cấp là phù hợp     
với điều kiện phát triển của họ. Chỉ có Lưỡng Hà nằm ở nơi địa 
hình bằng phẳng nên phát triển hơi khác về kinh tế họ phát triển 
công thương nghiệp và là một trung tâm thương nghiệp lớn 
trong thế giới cổ đại họ có nhiều nét giống các quốc gia cổ đại 
phương tây nhưng về bản chất họ vẫn lấy nghề nông làm gốc 
điều này thể hiện rất rõ qua bộ luật Hammurabi bộ luật thành 
văn đầu tiên của thế giới bộ luật này chủ yếu bảo vệ nông nghiệp 
và quan hệ sản xuất nông nghiệp. 
1.2:Ở các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế nông nghiệp không phát 
triển như các quốc gia cổ đại phương đông. Nền nông nghiệp của họ chủ 
yếu gắn với thị trường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Cây trồng chính 
của họ không phải là cây lúa nước họ chủ yếu trống lúa mì và các cây 
công nghiệp lâu năm như nho, ô liu Như vậy ta có thể thấy nền nông 
nghiệp của họ không chỉ để phục vụ nhu cầu cá nhân mà còn phục vụ nhu 
cầu của thị trường. Từ đó ta có thể thấy rõ sự phát triển của yếu tố thị 
trường trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là sự khác nhau cơ bản của 
sản xuất nông nghiệp phương đông và phương tây. 
2.2. Trong thủ công nghiệp 
2.1.2:Ở các quốc gia phương đông họ đã biết làm nhiều nghề thủ công với 
những dấu ấn riêng ở mỗi quốc gia như: đồ gốm sứ ở Trung Quốc, 
Lưỡng Hà, dệt ở Trung Quốc, làm giấy ở Ai Cập nhưng kinh tế thủ công 
nghiệp ở đây vẫn bị cho là nền kinh tế bộ trợ cho nông nghiệp. Vì vậy 
độ chuyên môn hoa trong sản xuất thủ công nghiệp chưa cao. Ở nhiều 
nơi nghề thủ công chỉ được coi như “nghề phụ” là việc làm thêm trong 
lúc nông nhàn. Điều này càng cho thấy rõ tinh chất tự cấp, tự túc trong 
nền nông nghiệp của các quốc gia cổ đại phương đông. 
2.1.2. Trong khi đó các quốc gia cổ đại phương tây lại có nền sản xuất thủ 
công nghiệp hoàn toàn khác các mặt hàng thủ công nổi tiếng của họ là 
rượu nho dầu ô liu và các sản phẩm như vũ khí và đồ gỗ. Nền thủ công     
nghiệp của họ cũng gắn liền với nhu cầu của thị trường. Nhưng cái khác 
biệt lớn nhất của họ so với các quốc gia phương đông là thủ công nghiệp  của họ đã tách rời 
Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, 
cơ sở tạo ra nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ 
mà điều kiện tự nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền 
văn minh phương Tây cổ đại truyền ba khắp thế giới dù bằng nhiều con 
đường khác nhau: hòa bình hoặc chiến tranh. 
Ở phương Đông đặc trưng kinh tế của họ là nền kinh tế nông nghiệp mang 
tính chất tự cấp tự tức Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp có tồn 
tại những không có điều kiện phát triển được coi như nghề phụ trong 
những lúc nông nhàn. Trái lại các quốc gia cổ đại phương tây nền đây lại 
thuận lợi cho việc trong một số cây công nghiệp lâu năm như nho, ôliu. 
Đây là nguyện liệu để sản xuất rượu nho và dầu ôliu 2 mặt hàng có thể 
cho là “đặc sản” của các quốc gia cổ đại phương tây. Hơn nữa đất đai của 
họ không thích hợp với sản xuất nông nghiệp nên để có nguồn lương thực 
đáp ứng nhu cầu họ phải tiến hành trao đổi, buôn bán với các quốc gia đồi 
dào lương thực ở phương đông như Ai Cập. Lưỡng Hà đây cũng là những 
thị trường tiêu thụ rộng lớn của họ.  3.2.1: Về chính trị  - 
Sự khác nhau đầu tiên và rất rõ ràng giữa các quốc gia cổ đại 
phươngđông và các quốc gia cổ đại phương tây là ở thể chế nhà nước, 
trong khi các quốc gia cổ đại phương đông theo chế độ tập quyền chuyên 
chế thì ở phương tây thể chế nhà nước của họ là chế độ dân chủ chủ nô. 
Đây là 2 hình thức nhà nước cơ bản mà dựa vào nó các quốc gia phong 
kiến, hiện đại dùng để tổ chức bộ máy nhà nước. Ở các quốc gia phương 
đông “vua có quyền lực tuyệt đối. Tên của các ông vua được gọi theo cá 
cách khác nhau ở Ai Cập gọi vua là Pharaông, ở Lưỡng Hà gọi là Patêxi 
hay Enxi Vua được coi là con của thần hay thượng để nói chung vua các     
quốc gia phương đông có quyền lực vô hạn. Trái với các quốc gia phương 
đông các quốc gia phương tây cổ đại theo chế độ dân chủ chủ nô. Hội 
đồng nhân dẫn giữ vai trò quyết định, vua được chọn chi nhằm tổ chức 
nhà nước quyền lực của vua bị giới hạn bởi các cơ quan như “viện nguyên 
lão”, “đại hội công dân” hay thậm chí bởi một ông vua khác(chế độ của  thành bang Xpac)  - 
Sự khác nhau giữa các quốc gia phương đông và phương tây còn ở 
thờiđiểm ra đời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương đông là 
những nhà nước đầu tiên của nhân loại theo một công cụ bằng sắt. Một 
yếu tố tự nhiên khác làm cho sự phân hoá đông – tây là khi hậu và địa 
hình. Như ta đã biết một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào 
điều kiện khí hậu và địa hình. Ví dụ ở nước ta cũng như đa số các quốc 
gia phương đông nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển do nó hình 
thành trên cơ sở các đồng bằng rộng lớn có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Sợ 
đi 2 yếu tố này đi với nhau vì nó bổ xung lẫn nhau vì có những nơi như ở 
La Mã cổ đại có các đồng bằng khá lớn như đồng bằng Pô và đồng bằng 
Tibro nhưng nền kinh tế nông nghiệp không dữ vai trò chủ đạo vi khí hậu 
ở đây là khí hậu Địa Trung Hải tuy có nhiều nét giống với khí hậu nhiệt 
đới nhưng lượng mưa hàng năm ít hơn nhiều, còn ở một số vùng như ở 
Trung Phi và một số vùng núi cao ở nước ta lượng mưa trong năm khá 
cao nhưng do địa hình gồ ghề không có các đồng bằng châu thổ rộng lớn 
nên không có điều kiện phát triển nhà nước. 
Theo như những gì nãy giờ ta phân tích về sự quan trọng của sông ngòi, 
địa hình, khí hậu làm nền tảng cho nền nông nghiệp phương đông thì 
những điều kiện đó không có đủ như ở các quốc gia phương tây. Vậy cơ 
sở tự nhiên để hình thành các quốc gia cổ đại phương tây là gì? Như đã 
nói từ đầu nên kinh tế các quốc gia cổ đại phương tây là nền kinh tế dựa 
trên sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp, nông nghiệp chỉ là thứ 
yếu, là nguyên liệu cho thủ công nghiệp và thương nghiệp vì thế các quốc 
gia cổ đại phương tây không cần các điều kiện như ở phương đông. Nhưng     
họ cũng là con người, cũng phải tuân theo các quy luật nhất định nhà nước 
chỉ hình thành khi kinh tế đạt đến một mức nào đó khi mà quan hệ công 
xã thị tộc bị giải thể vì sự tư hữu trong tư liệu sản xuất. Các quốc gia 
phương tây không cần các điêu kiện như phương đông vì họ dựa trên thủ 
công nghiệp và thương nghiệp. Hi Lạp và La Mã đều là các quốc gia nằm 
trên các bản đảo lớn ăn ra biển, có nhiều vũng, vịnh kín gió thuận lợi cho 
phát triển hàng hải. Hơn nữa 2 bán đảo Bancăng và Italia đều nằm trong 
vùng biển Địa Trung Hải vùng biển này 3 mặt là 3 châu lục Á, Phi, Âu 
bao bọc nên tương đối yên bình, ít bão lớn. Vì thế từ thời cổ đại khi kĩ 
thuật đông tàu chưa phát triển hoàn thiện người ta vẫn có thể vượt biển để 
buôn bán. Đất đai và khí hậu ở đây lại thuận lợi cho việc trong một số cây 
công nghiệp lâu năm như nho, ôliu. Đây là nguyện liệu để sản xuất rượu 
nho và dầu ôliu 2 mặt hàng có thể cho là “đặc sản” của các quốc gia cổ 
đại phương tây. Hơn nữa đất đai của họ không thích hợp với sản xuất nông 
nghiệp nên để có nguồn lương thực đáp ứng nhu cầu họ phải tiến hành 
trao đổi, buôn bán với các quốc gia đồi dào lương thực ở phương đông 
như Ai Cập. Lưỡng Hà đây cũng là những thị trường tiêu thụ rộng lớn của  họ.  - 
Sự khác nhau giữa các quốc gia phương đông và phương tây còn ở 
thờiđiểm ra đời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương đông là 
những nhà nước đầu tiên của nhân loại theo một số tài liệu như “Lịch sử 
thế giới cổ trung đại” do Nghiễm Đinh Vy chủ biên hay “Lịch sử thế giới 
cổ đại” của Chiêm Tế thì các quốc gia cổ đại phương đông hình thành từ 
khoảng thiên niên ki IV – III TCN, tức là khi nhà nước của họ thành lập 
thì con người còn đang ở thời kì đá đồng và đã nhiên chưa có sự xuất hiện 
của công cụ bằng sắt. “Thậm chí người Ai Cập mới chỉ biết đến công cụ 
bằng đá và gỗ (Lịch sử thế giới cổ trung đại). Trong khi đó các quốc gia 
cổ đại phương tây bước vào quá trình hình thành nhà nước muộn hơn 
nhiều theo một số tài liệu thì đó là vào khoảng thế kỉ VIIIVII TCN. Đây 
cũng là sự khác nhau về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông  và phương tây.      - 
Điểm khác nhau tiếp theo về chính trị giữa các quốc gia cổ đại 
phươngđông và phương tây là các quốc gia cổ đại phương đông tồn tại 
một cách khá cách biệt với thế giới bên ngoài nên họ tồn tại và phát triển 
một cách khá độc lập liên tục mà không chịu ảnh hưởng của nền văn minh 
nào khác từ bên ngoài nếu bị xâm lược thì thường giành lại độc lập sau 
đó. Trong khi đó chính trị, xã hội của các quốc gia cổ đại phương tây chịu 
ảnh hưởng khá lớn từ các lực lượng bên ngoài. Họ thường phải chịu những 
cuộc xâm lược của các bộ tộc khác tiêu biểu là cuộc xâm lược của người 
Giecmanh cuộc xâm lược này đã làm sụp đổ đế chế La Mã đồng thời cũng 
chấm dứt lịch sử cổ đại châu Âu mở ra thời kì phong kiến.  - 
Về mặt tổ chức nhà nước thì các quốc gia cổ đại phương đông lãnh 
thổcủa họ thường khá rộng lớn và là một nhà nước thống nhất ví dụ như 
Ai Cập, Trung Quốc, Lưỡng Hà. Lịch sử Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc 
cũng có một số thời kì bị chia cắt nhưng các vùng chia cắt thường không 
khác nhau lắm về chính trị, xã hội, hơn nữa thì chúng thường được nhanh 
chóng thống nhất trở lại.  - 
Sự khác nhau giữa các quốc gia phương đông và phương tây còn ở 
thờiđiểm ra đời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương đông là 
những nhà nước đầu tiên của nhân loại theo một nô lệ của các quốc gia cổ 
đại phương tây cao gấp hàng chục lần số lượng chủ nô và bình dân.  - 
Một đặc điểm khác của xã hội cổ đại phương đông và phương tây 
là: do hình thức thành bang phát triển nên tỉ lệ dân thành thị của họ rất 
cao, thành thị là trung tâm của thành bang, là nơi tập trung của cư dân. 
Trái lại ở các quốc gia phương tây tỉ lệ dân nông thôn lại cao hơn thành 
thị điều này nói lên sự khác biệt về kinh tế xã hội giữa các quốc gia cổ đại 
phương đông và các quốc gia phương tây cổ đại đồng thời nó cũng rất có 
ảnh hưởng với xã hội các quốc gia này trong những giai đoạn phát triển  sau.     
3.2.2: Sự khác nhau về xã hội:  - 
Theo quy luật khách quan của lịch sử thì tiếp theo xã hội cổ đại sẽ 
là xãhội chiếm nó nhưng do một số nguyên nhân về điều kiện tự nhiên và 
xã hội nên ở phương đông tồn tại một cách đại dẳng chế độ công xã nông 
thôn 1 hình thức tổ chức xã hội mà trong độ duy trì nền kinh tế tự nhiên 
và nhiều tần dư của công xã nguyên thuỷ. Vì vậy nên xã hội chiếm nó ở 
phương đông không phát triển đến mức thành thục, điển hình như ở các 
quốc gia phương tây nơi số lượng nô lệ đông gấp hàng chục lần chủ nô và  bình dân.  - 
Điều khác nhau tiếp theo giữa các quốc gia cổ đại phương đông 
vàphương tây là về lực lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. 
Ở các quốc gia phương tây với nền kinh tế thủ công nghiệp và thường 
nghiệp phát triển, lực lượng chính làm ra của cải vật chất là những người 
nỗ lệ. một thứ “công cụ biết nói", còn ở các quốc gia cổ đại phương đông 
với nền kinh tế nông nghiệp phát triển thị vai trò này thuộc về những nông 
dân công xã. Lực lượng lao động chính khác nhau cũng cho thấy sự khác 
nhau về bản chất xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc 
gia cổ đại phương tây.  - 
Do sự khác biệt trong lực lượng sản xuất chính giữa xã hội cổ 
đạiphương đông và xã hội cổ đại phương tây nên mâu thuẫn xã hội giữa 
các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng khác nhau. Ở xã hội 
cổ đại phương đông đó là mẫu thuẫn giữa 2 giai tầng chính là giai cấp 
thống trị( vua, quan, quý tộc) và giai cấp bị trị nông dân công xã nô và 
thợ thủ công). Ở các quốc gia cổ đại phương tây thì có vẻ phức tạp hơn vì 
ngoài 2 giai cấp đổi kháng là chủ nô và nô lệ thì lại có thêm một tầng lớp 
không bóc lột ai nhưng cũng không bị ai bóc lột, họ là những người dân 
tự do nghèo, Mác đã gọi họ là tầng lớp “vô sân ăn bám” họ sống nhờ vào 
phúc lợi xã hội mà không cần phải lao động gì. Đó cũng là sự khác biệt 
giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia đại phương tây.      - 
Trong cơ cấu xã hội của các quốc gia cổ đại phương động và 
phươngtây cũng có sự khác nhau. Trong xã hội cổ đại phương đông nông 
dân công xã chiếm phần lớn dân số trong khi đó số lượng nô lệ của các 
quốc gia cổ đại phương tây cao gấp hàng chục lần số lương chủ nô và  bình dân. 
Một đặc điểm kacs của Xh phương đông và phương tây là do hình thức 
thành bang pt nên tỉ lệ dân thành thị của họ rất cao, thành thị là trung tâm 
của các bang, nơi tập trung cư dân, trái lại ở các nước phương tây thì tỉ lệ 
dân nông thông lại cao hơn thành thị điều này nói nên sự khác biệt về kt 
xh giữa các quốc gia phương đông và phương tây và cx ảnh hưởng đén sự  pt sau này. 
3.3.2. Giải thích sự khác nhau về chính trị, xã hội  - 
Nguyên nhân hình thành chế độ tập quyền chuyển chế ở phương 
độngvà nền dân chủ chủ nô ở phương tây. Do ở phương đông nền kinh tế 
nông nghiệp tự túc, tự cấp phát triển còn ở phương tây có nền kinh tế hàng 
hoá công thương nghiệp phát triển nên yêu cầu về chính trị, xã hội khác 
nhau. Ở phương đông với nền kinh tế nông nghiệp thì thuỷ lợi là vấn đề 
hàng đầu, nhưng trị thuỷ phải có sự góp sức của nhiều người vì thế chế 
độ tập quyền chuyên chế giúp vua có khả năng trong điều hành các công 
việc chung dễ dàng hơn. Ngoài ra các vị vua phương đông thường mượn 
thần quyền để tăng uy tin của mình. Trái lại ở phương tây họ hình thành 
các quốc gia cổ đại muộn hơn nên có thể tiếp thu thành tựu phương đông. 
Trong các quốc gia phương đông cổ đại Lưỡng Hà là nước dân chủ hơn 
cả cộng thêm với việc thương nghiệp ở đây phát triển nền theo tôi các 
quốc gia phương tây đã học tập và hoàn thiện chế độ ở Lưỡng Hà và lập 
ra các nhà nước dân chủ chủ nô nhằm hạn chế sự chuyên quyền của vua 
đồng thời tạo tính dân chủ trọng xã hội. Hơn nữa nền kinh tế công thương 
nghiệp của họ không cần có một vị vua chuyên quyền để cai trị, nền kinh 
tế công thương coi trọng sự công bằng hơn nữa họ muốn không chỉ có địa     
vị kinh tế mà còn có địa vị xã hội nên đó cũng có thể là lý do hình thành 
nhà nước dân chủ chủ nô ở các quốc gia cổ đại phương tây.  - 
Nguyên nhân nhà nước chiếm hữu nô lệ phương tây phát triển một 
cách thuần thục và điển hình trong khi ở các quốc gia phương đông thì 
không do ở phương tây, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ 
lực lượng dân tự do không đáp ứng kịp từ đồ này sinh nhu cầu cần một 
lực lượng chính chuyên môn hoá sản xuất, phục vụ cho nhu cầu công 
thương nghiệp hơn nữa giữa các quốc gia cổ đại phương tây thường sảy 
ra chiến tranh để cướp đoạt nỗ lễ, của cải vì thế số lượng bình dân giảm 
nhưng số lượng nô lệ lại tăng vì thế bóc lột bình dân như ở các nước 
phương đông không không còn phù hợp. Vì thế theo em ban đầu nô lệ ở 
phương tây cũng mang tỉnh gia trưởng như ở phương đồng nhưng sau đó 
do nhu cầu phát triển kinh tế công thường nghiệp nên xã hội chiếm nô ở 
đây ngày càng phát triển tới mức thành thục và điển hình.  - 
Nguyên nhân của sự chênh lệch về thời gian hình thành giữa các 
quốc gia cổ đại phương đông và phương tây: do ở phương đông có điều 
kiện tự nhiên thuận lợi khí hậu phù hợp, đất phù sa màu mỡ rất thuận lợi 
cho sản xuất nông nghiệp nhưng cũng phải lo làm thuỷ lợi phòng lũ lụt 
nên từ rất sớm các công xã nông thôn đã hợp nhất thành các liên minh bộ 
lạc lớn rồi từ đó hình thành các quốc gia cổ đại vì thế ngay cả khi loài 
người còn đang ở thời kị đá - đồng, khi mà công cụ bằng sắt chưa xuất 
hiện thì họ vẫn có thể thành lập các nhà nước cổ đại. Trái lại, ở phương 
tây đất canh tác không màu mỡ bằng, khí hậu không phù hợp để canh tác 
nông nghiệp vì thế chỉ khi công cụ bằng sắt ra đời từ khoảng giữa TNKI 
TCN thì các quốc gia cổ đại phương tây mới hình thành. Ở đây ta lại có 
thắc mắc tại sao các quốc gia phương tây phát triển công thương nghiệp 
lại cần sự phát triển nông nghiệp ở thời đồ sắt lý do rất đơn giản vì nông 
nghiệp là cơ sở của mọi ngành kinh tế, là hình thức kinh tế giúp con người     
tồn tại, không ở đầu là không cần nông nghiệp phát triển kể cả các quốc 
gia phương tây vì nông nghiệp là cơ sở để duy trì sự tồn tại của xã hội  - 
Nguyên nhân sự khác nhau về giai cấp đối kháng giữa các quốc gia 
cổ đại phương đông và phương tây lý do sự khác nhau đồ đến từ thể chế 
chính trị, xã hội. Ở các quốc gia phương đông cổ đại hình thức chính trị 
xã hội chủ yếu của họ là hình thức tập quyền chuyên chế vì thế mâu thuẫn 
giai cấp chủ yếu sảy ra giữa nông dân công xã và quý tộc, quan lại trong 
khi đó ở các quốc gia cổ đại phương tây nền dân chủ chủ nô phát triển 
mâu thuẫn chủ yếu là giữa chủ nô và nô lệ nhưng trong xã hội cổ đại 
phương tây lại có sự phức tạp hơn phương đông ở chỗ ngoài hai giai cấp 
đối kháng chủ yếu là chủ nô và nô lệ còn xuất hiện giai cấp bình dân họ 
không bị bóc lột như nổ lệ nhưng cũng không bóc lột trực tiếp đối với nô 
lệ họ sống nhờ vào phúc lợi xã hội (giai cấp vô sản ăn bám) . Giai cấp này 
hình thành trên cơ sở sự phát triển của chế độ chiếm nó khi của cải trong 
xã hội đã tích luỹ 1 lượng của cải đủ nuôi sống cả xã hội. Họ sống nhờ 
vào chính quyền chiếm nó nên có quan hệ lệ thuộc vào giai cấp trên, 
nhưng họ vẫn là dân nghèo nên cũng có những mâu thuẫn nhất định với  giai cấp trên.  - 
Nguyên nhân lãnh thổ của các quốc gia phương đông cổ đại lại rộng 
lớn và thường xuyên ở tình trạng thống nhất hơn các quốc gia phương tây. 
Do ở phương đông có nhu cầu chung sức trị thuỷ các dòng sông lớn nên 
các tiểu quốc thường có xu hướng hợp nhất với nhau vì thế các quốc gia 
phương đông cổ đại thường có lãnh thổ rộng lớn và thống nhất lãnh thổ 
hơn các quốc gia phương tây cổ đại (trừ đế chế Roma). Còn ở các quốc 
gia cổ đại phương tây tiêu biểu là Hi Lạp các quốc gia thường mang tính 
chất thành bang diện tích nhỏ và không có sự thống nhất về lãnh thổ là do 
không có nhu cầu trị thụy các dòng sống lớn, sự phát triển của kinh tế 
công thương nghiệp không đòi hỏi nhu cầu thống nhất lãnh thổ nhưng về 
cơ bản vẫn là do bị địa hình chia cắt bởi núi cao, sông dài. Chính sự chia     
cắt về tự nhiên và việc các thành bang không thống nhất với nhau đã khiến 
lãnh thổ Hi Lạp cổ đại chưa từng có 1 vương triều thống nhất có chăng 
chỉ là một số thành bang mạnh vươn lên làm “minh chủ một thời gian rồi 
sau này lại trở về cục diện ban đầu. 
= Sự khác biệt chủ yếu giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương 
tây là về xã hội kinh tế, chính trị điều kiện tự nhiên giống nhau đến mấy 
cũng không rõ ràng bằng nhà nước đó dựa vào nô lệ hay nông dân công 
xã là lực lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. Theo tôi đó là 
cái thước đo xem nhà nước cổ đại này thuộc các quốc gia cổ đại phương  đông hay phươngtây 
4. Đặc trưng của pháp luật phương Đông cổ đại 
- Về kỹ thuật xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật của các quốc gia 
phương Đông được xây dựng tương đối đa dạng để đáp ứng nhu cầu 
điều chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện ngày càng nhiều. 
- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, chưa có sự phân định thành các chế  định luật, ngành luật 
- Pháp luật vẫn mang tính chất “trọng hình, khinh dân”, 
- Từ ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật rất cụ thể, mô tả 
dàidòng, trùng lắp và không mang tính khái quát. 
- Pháp luật công khai thừa nhận sự bất bình đẳng.  
- Pháp luật phương Đông cổ đại mang tính chất đồng thái phục thù. 
- Pháp luật cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan niệm tín ngưỡng tôn giáo, 
lễ và các hệ tư tưởng chính trị 
- Hệ thống hình phạt dã man, thường sử dụng nhục hình.     
1. pháp luật La Mã cổ đại 
Thời kỳ Cộng hòa sơ kỳ (TK VI – III TCN): xuất hiện Bộ luật thành văn 
đầu tiên là Bộ luật 12 bảng. 
Pháp luật thời kỳ này có các đặc trưng:   • 
Pháp luật công khai thừa nhận bất bình đẳng: về giai cấp, về đẳng  cấp, về giới tính.  • 
Pháp luật mang tính trọng hình khinh dân. 
 Pháp luật hình sự còn mang tính chất đồng thái phục thù.  • 
Pháp luật ít bị ảnh hưởng bởi tôn giáo.  • 
Kỹ thuật lập pháp chưa cao. 
Thời kỳ Cộng hòa hậu kỳ (TK III TCN – TK V) 
Pháp luật thời kỳ này có các đặc trưng:   • 
Pháp luật vẫn công khai thừa nhận sự bất bình đẳng: về giai cấp, về  đẳng cấp.  • 
Pháp luật dân sự, thương mại rất phát triển và mang tính kinh điển 
và được pháp luật các thời kỳ sau kế thừa. Có rất nhiều khái niệm 
pháp lý mang tính chuẩn mực và nhiều quy định rất phát triển trong 
chế định hợp đồng, hôn nhân gia đình, thừa kế.  • 
Pháp luật ít bị ảnh hưởng bởi tôn giáo.  • 
Kỹ thuật lập pháp cao, có những khái niệm pháp lý mang tính chuẩn  mực.