










Preview text:
Môn học: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Chương 6. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Giảng viên phụ trách: LÊ HỮU TRUNG
Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước,
Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh
6.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
6.1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật bao gồm trong đó nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội khác nhau tùy theo từng ngành luật. [2]
Mỗi văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng trong đó những quy phạm pháp luật riêng.
Tuy nhiên, xét về tổng thể thì tất cả các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm
pháp luật không thể mâu thuẩn với nhau hoặc chồng chéo, trái ngược nhau. [3]
Muốn cho pháp luật phát huy được sức mạnh tổng hợp, Nhà nước phải tạo ra hệ
thống pháp luật thống nhất, hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời.
Nếu không, Nhà nước sẽ không thể thực hiện được ý chí của mình trong việc đảm bảo
trật tự công cộng, sự công bằng và an toàn cho các thành viên trong xã hội được. [4]
Cho nên sức mạnh tổng hợp của hệ thống pháp luật chỉ có thể tạo nên từ sự tập hợp
các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Xuất phát từ chỗ, pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra và bảo đảm sự
tuân thủ bằng biện pháp cưỡng chế. Có thể định nghĩa Hệ thống pháp luật như sau: [5]
Định nghĩa HỆ THỐNG PHÁP LUẬT:
“ Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ nội tại thống nhất
với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật và các ngành luật độc lập, thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo một hình
thức, trình tự và thủ tục nhất định do pháp luật quy định.” [6]
Theo đó, hệ thống pháp luật được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm cả cấu
trúc bên trong của hệ thống và hình thức biểu hiện bên ngoài là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. [7]
6.1.2. Các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật
Là hệ thống cấu trúc bên trong của pháp luật, là tổng thể các quy phạm pháp luật có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các cấu trúc theo từng
cấp độ khác nhau: Quy phạm pháp luật; Chế định pháp luật và Ngành luật. [8]
6.1.2.1. Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc của pháp
luật, nó vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ thể.
Tất cả các bộ phận cấu thành khác của hệ thống pháp luật đều được hình thành do sự
kết hợp của những quy phạm pháp luật. [9]
Quy phạm pháp luật mang tính khái quát vì chúng là các quy tắc xử sự chung do
Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh một hoặc những hành vi cụ thể, được áp dụng
trên một phạm vi rộng lớn và trong một thời gian dài. 1/11 ) lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Đồng thời nó lại mang tính cụ thể vì đó là các mô hình hành vi đã được chuẩn mực hóa
để điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể. [10]
6.1.2.2. Chế định pháp luật
Là thành tố ở cấp độ thứ hai của hệ thống cấu trúc của pháp luật.
Chế định pháp luật là một nhóm những quy phạm pháp luật có những điểm chung giống
nhau, được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội tương
ứng và nó mang tính đặc thù của nhóm quan hệ mà nó điều chỉnh. [11]
Tuy nhiên, nhóm quan hệ xã hội đó không hề biệt lập mà có quan hệ mật thiết với những
quan hệ xã hội khác, chịu tác động qua lại và ảnh hưởng của những quan hệ xã hội khác. [12]
Ví dụ: Quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái phát sinh do việc ly hôn tạo nên
nhóm quan hệ xã hội tương đối độc lập trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm những quan hệ xã hội như thế
gọi là chế định pháp luật: chế định về ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình. [13]
Mặc dù mỗi chế định có tính đặc thù riêng, nhưng chúng không tồn tại biệt lập mà đều
có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau (chịu ảnh hưởng và tác động của các chế
định khác) trong hệ thống pháp luật.
Ví dụ: Trong ngành Luật Dân sự, có nhiều chế định như chế định về hợp đồng dân sự,
chế định về thừa kế, chế định về quyền tác giả, ... [14]
6.1.2.3. Ngành luật
Ngành luật là thành tố ở cấp độ thứ ba tạo nên hệ thống pháp luật.
Ngành luật được xác lập trên cơ sở phân chia các quy phạm pháp luật theo từng loại, bao
gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên kết chặt chẽ với nhau để tập trung
điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một phạm vi hay trong một lĩnh vực
nhất định của đời sống xã hội. [15]
Mỗi ngành luật trong hệ thống pháp luật đều mang tính độc lập, có đối tượng, phạm vi
và phương pháp điều chỉnh riêng.
Tuy nhiên, nó không hoàn toàn biệt lập và đối kháng với các ngành luật khác. [16]
6.1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Các quy phạm pháp luật với tính cách là hạt nhân của hệ thống cấu trúc bên trong của
pháp luật, nó luôn tồn tại (được chứa đựng) trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. [17]
Văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau, giá trị pháp lý cao thấp khác
nhau, do các cơ quan nhà nước khác nhau ban hành.
Nhưng dù đa dạng, phong phú đến đâu chúng đều hợp thành một hệ thống, nghĩa là
giữa các văn bản có mối liên hệ mật thiết với nhau. [18]
Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mang tính thứ bậc.
Tính chất đó được xác định bởi hiệu lực pháp luật của từng loại văn bản, phù hợp với
thẩm quyền của các cơ quan ban hành chúng. [19]
Ví dụ: Hiến pháp và luật có giá trị pháp lý cao nhất, vì do cơ quan quyền lực cao nhất ban hành. 2/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Hiệu lực đặc biệt tối cao của Hiến pháp quy định tính hiệu lực của tất cả các loại văn
bản khác, và nhờ vậy, nó xác lập mối liên hệ thống nhất và nhất quán trong chính bản
thân hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. [20]
Trên cơ sở hiệu lực tối cao của Hiến pháp để xác định tính thứ bậc cho từng loại văn
bản, theo thứ tự: Hiến pháp – các đạo luật – pháp lệnh – các văn bản dưới luật.
Tính thứ bậc của các văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
ra tính thống nhất của toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. [21]
Đồng thời là điều kiện quan trọng để tạo ra tính hệ thống cơ cấu của pháp luật, thỏa
mãn những tiêu chuẩn về tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, trình độ kỹ thuật
pháp lý... của hệ thống pháp luật nói chung. [22]
Hệ thống pháp luật phải đạt 4 tiêu chuẩn:
1. Tính toàn diện.
Hệ thống pháp luật phải bao quát tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, bởi vì tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi phải có pháp luật điều chỉnh. [23]
Nếu pháp luật bỏ trống một lĩnh vực nào thì rối loạn ở lĩnh vực đó và sẽ ảnh hưởng
đến toàn bộ xã hội do mối quan hệ qua lại giữa các quan hệ xã hội với nhau.
Ví du: Nếu pháp luật không điều chỉnh mối quan hệ hôn nhân thì sẽ gây rối loạn gia
đình, rối loạn gia đình sẽ gây xáo trộn đời sống xã hội. [24]
2. Tính đồng bộ.
Nếu các văn bản quy phạm pháp luật không đồng bộ, văn bản này mâu thuẫn, trái ngược,
chồng chéo với văn bản khác thì pháp luật không thể điều chỉnh các quan hệ pháp luật có
hiệu quả, không thể đảm bảo được trật tự công cộng được vì nơi này áp dụng văn bản
này, nơi khác áp dụng văn bản khác. Hệ thống pháp luật như vậy gây xáo
trộn trật tự xã hội. [25]
Tính đồng bộ của pháp luật đòi hỏi phải có sự đồng bộ giữa các ngành luật trong
một hệ thống, phải có ranh giới rõ ràng giữa các ngành luật, giữa các phân ngành và
chế định pháp luật để tránh mâu thuẫn và chồng chéo.
Ví dụ: Phải có sự phân biệt rõ ràng giữa Luật Dân sự và Luật Thương mại. [26]
Ngoài ra, tính đồng bộ đòi hỏi phải có phân cấp giữa các cơ quan nhà nước ban hành
pháp luật để tránh mâu thuẫn và trái ngược nhau giữa các văn bản luật. [27]
3. Tính phù hợp.
Pháp luật có tính xã hội, được hình thành do nhu cầu của xã hội, mà xã hội thì luôn thay
đổi không ngừng làm cho các quan hệ xã hội cũng dần dần phải thay đổi theo. Vì vậy, để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, hệ thống pháp luật phải phù hợp với từng thời kỳ của xã hội. [28]
Tuy nhiên, trong thực tế rất ít có trường hợp hệ thống pháp luật rơi vào tình trạng không
phù hợp với xã hội, mà chỉ có một vài điều khoản luật hoặc một vài văn bản luật không
phù hợp vì nó được ban hành từ lâu trở thành lạc hậu so với những thay đổi của xã hội. : [29]
Ngoài ra, cũng có thể do ý chí chủ quan của nhà làm luật, khi xây dựng luật không phù
hợp với đặc điểm, tình hình xã hội.
Những trường hợp này cần điều chỉnh, bổ sung để cho hệ thống pháp luật phù hợp với
đặc điểm và tình hình của xã hội. [30] 3/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
4. Trình độ kỹ thuật pháp lý.
Kỹ thuật pháp lý là tổng thể những phương pháp phương tiện được sử dụng trong quy
trình soạn thảo và hệ thống hóa pháp luật. Nó chứa đựng những nguyên tắc, quy tắc
khoa học nhằm đảm bảo cho pháp luật có đầy đủ những khả năng để thực hiện mục đích của mình. [31]
Kỹ thuật pháp lý có từ thời xa xưa được phát triển theo thời gian và có tính chất kế thừa.
Vì vậy, cần học tập, tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực lập pháp của
các nước để vận dụng vào việc xây dựng hệ thống pháp luật nước nhà là việc làm cần thiết. [32]
6.2. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
6.2.1. Luật Hiến pháp
Còn gọi là Luật Nhà nước, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất có liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước như: [33]
- Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội;
- Vị trí, chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân;
- Chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quốc tịch, ... [34]
Luật Hiến pháp là ngành luật cơ bản, giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bởi vì Luật Hiến pháp là ngành luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng
nhất, cơ bản nhất của quốc gia và là gốc (là nguồn), là nền tảng cho việc xây dựng và
ban hành các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật. [35]
Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu của ngành Luật Hiến pháp, là nguồn
cơ bản, chủ yếu của Luật Nhà nước. [36]
6.2.2. Luật Hành chính
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá
trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước trên các
lĩnh vực hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. [37]
Nói cách khác Luật Hành chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước.
Do đó, Luật Hành chính là một ngành luật về quản lý nhà nước. [38]
Luật Hành chính điều chỉnh quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa cơ
quan nhà nước với công dân trong nước trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước. [39]
Luật Hành chính quy định những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản lý nhà
nước; xác định quy chế pháp lý của các chủ thể quản lý nhà nước và mối quan hệ điều
hành giữa các cấp quản lý hành chính, điều chỉnh thủ tục hành chính, công chức nhà
nước và trách nhiệm hành chính. [40]
Quan hệ trong quản lý hành chính nhà nước bao giờ cũng mang tính quyền lực nhà
nước, trong đó, một bên sử dụng quyền lực (đơn phương ra quyết định) còn một bên
trực thuộc quyền lực ấy (phục tùng). 4/11 ) lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là mệnh lệnh. [41]
6.2.3. Luật Tài chính
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình Nhà nước động viên, phân phối và sử dụng những nguồn vốn tiền tệ nhất định,
cần thiết cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước cũng như
đáp ứng các nhu cầu kinh tế – xã hội khác. [42]
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính là các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phê chuẩn, quản lý và sử dụng các nguồn vốn và quỹ tiền tệ.
Các quan hệ xã hội do Luật Tài chính điều chỉnh thường xuất hiện ở trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, liên quan đến nhiều chủ thể. .[43]
Các quan hệ tài chính bao giờ cũng gắn liền với việc tạo lập, quản lý và sử dụng các
quỹ tiền tệ nhất định: Quỹ ngân sách nhà nước; Quỹ tín dụng; Quỹ bảo hiểm; Quỹ doanh nghiệp, ...
Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của Luật Tài chính là mệnh lệnh và phục tùng. [44]
Luật Tài chính là một ngành luật lớn, phức tạp, nội dung cơ cấu của Luật Tài chính bao gồm:
- Luật Ngân sách nhà nước;
- Luật Tài chính các doanh nghiệp;
- Luật Thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước;
- Chế độ cấp phát tài chính cho các ngành kinh tế quốc doanh; - Kỷ luật tài chính. [45]
* Luật Ngân sách nhà nước
là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hình thành, sử dụng, quản lý vốn ngân sách nhà nước cũng như quá trình lập -
chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. [46]
Luật Ngân sách nhà nước quy định việc phân cấp quản lý ngân sách, quản lý tài chính,
xác định quan hệ pháp luật về ngân sách giữa trung ương và địa phương và các cấp ngân sách. [47]
* Đối tượng điều chỉnh của Luật Ngân sách nhà nước gồm:
- Quan hệ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước;
- Về quá trình tạo lập ngân sách nhà nước;
- Quan hệ trong việc thực hiện các khoản chi ngân sách; và
- Quan hệ phát sinh trong việc thực hiện chi ngân sách nhà nước. [48]
* Chủ thể của Luật Ngân sách nhà nước bao gồm:
Các tổ chức, các đơn vị có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc quản lý và sử dụng,
định đoạt các nguồn vốn, tài sản được hình thành bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. [49]
* Chế độ pháp lý tài chính đối với các doanh nghiệp
Là một bộ phận quan trọng của Luật Tài chính, là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính,
phản ánh lợi ích, quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính. 5/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022 [50]
* Luật thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước bao gồm:
- Thu từ thuế, lệ phí mang tính chất thuế;
- Các khoản thu không mang tính chất thuế: lợi tức của Nhà nước tại các Công ty cổ
phần, công ty liên doanh, tiền bán, cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước (như thuế
tài nguyên, thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp,...) [51]
* Kỷ luật tài chính là một bộ phận kỷ luật của Nhà nước.
Trong hoạt động tài chính, tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị và cơ quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành các loại kỷ luật tài chính.
Các loại kỷ luật tài chính gồm có: Kỷ luật về thu; Kỷ luật về chi; Kỷ luật về tín dụng; Kỷ
luật về thanh toán; Kỷ luật tiền mặt. [52]
6.2.4. Luật Đất đai
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan tới
việc sở hữu, quản lý, sử dụng đất, các quan hệ phát sinh trong quá trình bảo vệ, quản
lý, khai thác các nguồn tài nguyên khác.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước. [53]
Nhà nước là người duy nhất thực hiện đầy đủ các quyền năng của một chủ sở hữu.
Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung,
đồng thời điều chỉnh các quan hệ trong việc chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê quyền sử dụng đất đai, ... [54]
6.2.5. Luật Dân sự
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các mối quan hệ tài sản mang tính
chất hàng hóa – tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản hoặc có liên quan đến tài
sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thế khác dựa trên cơ sở bình đẳng, độc lập
quyền tự định đoạt, quyền khởi kiện dân sự và trách nhiệm tài sản của các chủ thể
tham gia vào các quan hệ đó. [55]
Luật Dân sự điều chỉnh các mối quan hệ tài sản và quyền sở hữu, quan hệ nhân thân
phi tài sản, các giao dịch dân sự, thừa kế, phát minh, sáng chế, danh dự, nhân phẩm, tên gọi, ... [56]
Luật Dân sự là cơ sở pháp lý xác lập mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội và giữa cá
nhân với cá nhân trên nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, lợi ích công cộng.
Ngoài ra, nó còn bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp luật trong quan hệ dân sự. [57]
6.2.6. Luật Tố tụng dân sự
Là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ tố tụng phát sinh giữa
Tòa án với những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự,
để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tập thể và của công dân. [58]
Các quy phạm của Luật Tố tụng dân sự quy định trình tự, thủ tục và quan hệ trong
việc điều tra và xét xử vụ án dân sự. 6/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Quy định mối quan hệ giữa cơ quan xét xử, đương sự và những người tham gia khác,
đồng thời quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án, trình tự, thủ tục xét xử nhằm giải
quyết đúng đắn các vụ án dân sự. [59]
6.2.7. Luật Hình sự
Là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi phạm tội và hình phạt đối với tội phạm.
Luật Hình sự xác định những hành vi nguy hiểm nào bị coi là hành vi phạm tội. [60]
Đồng thời, tương ứng với mỗi hành vi phạm tội, luật quy định những điều kiện áp dụng
hình phạt, hình thức và mức độ hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với người có
hành vi phạm tội hình sự.
Luật Hình sự giữ vai trò là ngành luật quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của xã hội,
bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an toàn sinh mạng và danh dự, phẩm
giá của mọi người trong xã hội. [61]
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và người phạm tội, khi người đó thực hiện một hành vi mà pháp luật coi là tội phạm. [62]
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự là khi vi phạm điều cấm do Nhà nước ấn
định trong Luật Hình sự thì không tránh khỏi hình phạt hình sự do Tòa án quyết định áp dụng.
Người phạm tội buộc phải chấp hành hình phạt do Nhà nước ấn định. [63]
6.2.8. Luật Tố tụng hình sự
Là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh
trong việc điều tra, xét xử và kiểm sát việc điều tra, xét xử những vụ án hình sự.
Luật Tố tụng hình sự quy định:
- Những nguyên tắc, trình tự, thủ tục và điều kiện để tiến hành điều tra, kiểm sát và xét
xử các vụ án hình sự; [64]
- Quyền và nghĩa vụ của những cá nhân, cơ quan, tổ chức tiến hành tố tụng hình sự
và tham gia tố tụng hình sự,
- Quyền và nghĩa vụ của đương sự với tư cách là bị can, bị cáo. [65]
6.2.9. Luật Lao động
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ lao động và các nhóm
quan hệ có liên quan chặt chẽ đến quan hệ lao động, phát sinh giữa người lao động làm
công ăn lương với cá nhân hoặc tổ chức sử dụng người lao động trong quá trình sử dụng
lao động ở các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cá nhân hay
hộ gia đình có nhu cầu sử dụng lao động. [66]
Đó là các quan hệ liên quan tới quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động như công việc,
bảo hiểm, học tập, nghỉ ngơi, giải trí, an toàn và kỷ luật lao động;
- Quan hệ bồi thường thiệt hại khi một bên trong quan hệ lao động gây thiệt hại cho bên kia;
- Quan hệ bảo hiểm xã hội;
- Quan hệ giải quyết tranh chấp lao động; [67] - 7/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
- Quan hệ giữa cá nhân hoặc tổ chức sử dụng lao động với Công đoàn (tổ chức đại diện
tập thể người lao động) và các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời tạo cơ sở cho việc
ký kết hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể, giải quyết các tranh chấp lao
động và xử lý kỷ luật đối với người vi phạm kỷ luật lao động. [68]
Luật Lao động chủ yếu điều chỉnh các quan hệ dựa trên cơ sở ký kết hợp đồng lao động,
còn quan hệ lao động của công chức, viên chức nhà nước chỉ tuân theo quy định của Luật
Lao động nếu không có hoặc chưa có văn bản pháp luật riêng điều chỉnh trực
tiếp chế độ công vụ của họ. [69]
6.2.10. Luật Hôn nhân và gia đình
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản
phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ như: điều kiện kết hôn; quan hệ gia đình (quyền
và nghĩa vụ) giữa vợ chồng, giữa cha, mẹ và con cái; quan hệ tài sản trong hôn
nhân, ly hôn, nuôi dưỡng con cái sau ly hôn, ... [70]
Luật Hôn nhân và Gia đình là cơ sở xác lập, củng cố và điều chỉnh các quan hệ gia đình
nhằm đảm bảo chế độ hôn nhân tự do, tiến bộ, một vợ một chồng; quyền bình đẳng giữa
nam và nữ; xây dựng gia đình hạnh phúc; bảo vệ quyền và lợi ích của cha, mẹ và
con cái; bảo vệ lợi ích của bà mẹ và trẻ em, chăm sóc và giáo dục con cái. [71]
6.2.11. Luật Kinh tế
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. [72]
Luật Kinh tế điều chỉnh các mối quan hệ sau:
+ Quan hệ quản lý kinh tế giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài sản (quan hệ hàng hoá - tiền tệ) gắn liền với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sản xuất kinh doanh. [73]
+ Các quan hệ kinh tế nội bộ phát sinh giữa các bộ phận cấu thành của các doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân, như quan hệ giữa công ty với các thành viên của công
ty; quan hệ giữa Xí nghiệp liên hợp với các đơn vị thành viên của nó, ... [74]
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều hết sức
quan trọng là Nhà nước phải tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng,
tự do, cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. [75]
Luật Kinh tế với một hệ thống hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật liên quan sẽ
giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm duy trì trật tự kinh tế, phát triển kinh tế, đồng
thời bảo vệ quyền lợi chính đáng và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp trong khuôn khổ pháp luật. [76]
6.3. NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
6.3.1. Công pháp quốc tế
Công pháp quốc tế là tổng hợp hệ thống các nguyên tắc, chế định, quy phạm do các
quốc gia và các chủ thể khác của Công pháp quốc tế xây dựng nên hoặc công nhận
trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng và bảo đảm thi hành để điều chỉnh các quan hệ quốc tế. [77] 8/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Công pháp quốc tế chủ yếu điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia và các tổ chức
quốc tế trong các lĩnh vực như điều ước quốc tế, ngoại giao và lãnh sự, dân sự, biển và
đại dương, lãnh thổ quốc gia và quốc tế, ngăn ngừa và loại trừ vũ trang, đấu tranh vì
hòa bình cùng tồn tại, .v.v... và nhiều mặt khác. [78]
Nhà nước Việt nam ý thức một cách đầy đủ rằng:
“ Các quốc gia trên thế giới có trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất, tập quán,
truyền thống và thuần phong mỹ tục không giống nhau nên pháp luật giữa các quốc gia
không giống nhau. Trong khi đó, nhu cầu hợp tác và thực hiện phân công lao động quốc
tế đang ngày càng phát triển và là xu thế thời đại.” [79]
Nhà nước Việt Nam đã tham gia và ký kết hàng loạt Điều ước quốc tế cũng như nghiêm
chỉnh chấp hành các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. [80]
- Điều ước quốc tế
Là nguồn thành văn của Luật Quốc tế, là văn kiện pháp lý quốc tế được thỏa thuận
giữa các chủ thể của Luật Quốc tế, trước hết và chủ yếu là các quốc gia, trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ quốc tế đối với nhau. [81]
Điều ước quốc tế có thể là song phương hoặc đa phương, có tính chất khu vực hoặc toàn cầu.
Những loại Điều ước quốc tế thường gặp là: [82]
+ Hiến chương
Là một loại điều ước quốc tế nhiều bên, trong đó ấn định những nguyên tắc lớn trong
quan hệ giữa nhiều quốc gia với nhau (như Hiến chương Liên Hiệp Quốc). [83]
+ Hiệp ước
Là tên gọi những văn kiện ấn định những vấn đề ý nghĩa lớn về mặt chính trị trong
quan hệ giữa hai hay nhiều nước về vấn đề lãnh thổ, biên giới, thành lập liên minh
chính trị, quân sự, kinh tế.
Ví dụ: Hiệp ước VACSAVA, Hiệp ước ROME thành lập khối EEC, ... [84] + Công ước
Là danh từ dùng để chỉ những điều ước quốc tế có tính chất chuyên môn như Công
ước Vien về quan hệ ngoại giao 1961, Công ước Giơnevơ 1949 về bảo hộ nạn nhân chiến tranh.
Cả 3 loại điều ước trên đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn của cơ quan quyền lực
nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia tham gia ký kết thì mới có hiệu lực. [85]
+ Hiệp định
Là loại điều ước ấn định những nguyên tắc và những biện pháp chính nhằm giải quyết
một quan hệ cụ thể nào đó giữa hai hay nhiều nước.
Ví dụ: Hiệp định Giơnevơ 1954 về Việt Nam, năm 1962 về Lào, Hiệp định Paris về
Camphuchia, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ năm 2001, ... [86]
+ Nghị định thư
Là văn kiện để giải thích, bổ sung, sửa đổi một điều ước quốc tế đã được ký kết hoặc
ấn định những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện một Hiệp ước, Hiệp định nào đó, ... lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Ví dụ: Nghị định thư về trao trả nhân viên quân sự bị bắt, thường dân nước ngoài bị bắt
và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt, giam giữ của Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. [87]
+ Tuyên bố (hoặc Tuyên bố chung)
Là văn kiện ghi nhận những điều thỏa thuận giữa hai hay nhiều nước về những
nguyên tắc hoặc phương hướng hành động chung đối với một vấn đề quốc tế nào đó.
Ví dụ: Tuyên bố ngày 01/01/1942 của các nước đồng minh về việc hợp tác sau khi kết
thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai. [88] + Công hàm
Dùng để trao đổi, là văn bản thỏa thuận đối với những vấn đề không quan trọng hoặc
cụ thể nào đó, chỉ trao đổi đơn giản mà không cần tiến hành đàm phán. [89]
- Tập quán quốc tế
Là nguồn không thành văn của Luật Quốc tế, là những quy tắc xử sự do một số quốc
gia áp dụng trong quan hệ quốc tế, dần dần được các quốc gia khác chấp nhận và áp
dụng như một quy phạm pháp luật quốc tế. [90]
Tuy nhiên, không phải tất cả Tập quán quốc tế đều được công nhận là nguồn của Luật
Quốc tế bởi vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế có những tập quán chỉ áp dụng trong
quan hệ giữa hai hay một nhóm quốc gia.
Ngoài ra còn có nguồn hỗ trợ bao gồm: Nghị quyết của các tổ chức quốc tế, liên chính
phủ; Phán quyết của tòa án quốc tế; Luật pháp quốc gia và các học thuyết, các tác phẩm khoa học có giá trị. [91]
Chủ thể cơ bản của công pháp quốc tế gồm:
+ Các quốc gia có chủ quyền;
+ Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập để trở thành quốc gia, dân tộc độc lập có
chủ quyền (có nghĩa là họ đang trở thành chủ thể cơ bản trong tương lai);
+ Các tổ chức quốc tế liên quốc gia (như khối ASEAN, Bắc Mỹ, EEC, ...);
+ Các thực thể mang tính độc lập đặc biệt như thành phố độc lập: Đanztg, Vatican, .... [92]
- Đối tượng điều chỉnh của Công pháp quốc tế: Là quan hệ quốc tế giữa các chủ thể
của hệ thống thế giới, trong đó chủ yếu là các quan hệ chính trị, kinh tế giữa các chủ thể
này với nhau, nhưng không phải mọi quan hệ quốc tế đều là quan hệ pháp luật quốc tế. [93]
Để điều chỉnh các quan hệ quốc tế, không có một cơ quan nào đứng trên các quốc gia để đặt ra pháp luật.
Các quốc gia chủ thể chủ yếu của Luật Quốc tế là những thực thể độc lập, có chủ quyền,
bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế. [94]
Vì vậy, không có quốc gia nào quyền đặt ra pháp luật bắt buộc quốc gia khác phải tuân theo.
Các quốc gia phải cùng nhau thỏa thuận, xây dựng các nguyên tắc và quy phạm luật
quốc tế trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng.
Các tập quán quốc tế chỉ được áp dụng như các quy phạm pháp luật của Luật Quốc tế
nếu các quốc gia tự nguyện cùng chấp nhận và áp dụng. [95]
-Biên soạn: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước, 10/11 lOMoARcPSD|611 967 66
BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG 6 HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
- Các nguyên tắc cơ bản trong luật Quốc tế:
Ngày nay, với sự phát triển của nền văn minh của xã hội loài người, luật pháp quốc tế
đã tiến lên một bước dài có tính chất lịch sử, đề ra các nguyên tắc cơ bản trong quan
hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia với nhau, gồm:
+ Tôn trọng chủ quyền quốc gia. Bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; [96]
+ Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực
chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của các nước, hoặc nhằm mục
đích khác với Hiến chương của Liên Hiệp Quốc;
+ Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình;
+ Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; [97]
+ Các dân tộc có quyền bình đẳng và tự quyết;
+ Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau;
+ Tự nguyện thực hiện những cam kết quốc tế và cùng tồn tại hòa bình. [98]
6.3.2. Tư pháp quốc tế
Việt Nam đã quan tâm đẩy mạnh áp dụng Luật Quốc tế cũng như luật pháp của các
quốc gia khác trên nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế và trật tự công cộng.
Đồng thời xây dựng và ban hành những quy phạm pháp luật về Tư pháp quốc tế. [99]
Tư pháp quốc tế là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản
và nhân thân phi tài sản có tính chất quốc tế phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, kinh
tế, hôn nhân và gia đình, tố tụng dân sự. [100]
Đó là các quan hệ: về địa vị pháp lý của người nước ngoài; quan hệ tài sản, quan hệ hôn
nhân và gia đình, quan hệ lao động có nhân tố quốc tế; nghĩa vụ theo các hợp đồng dân
sự quốc tế, quyền tác giả, phát minh, sáng chế có yếu tố quốc tế cũng như tố tụng dân sự quốc tế. [101]
Nhân tố nước ngoài trong các mối quan hệ xã hội và tính chất dân sự của nó là đặc
điểm cơ bản nhất của đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Ngành Luật Quốc tế có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống luật pháp của các quốc
gia nói chung và Việt Nam nói riêng. [102]
Nó góp phần to lớn và quyết định đối với việc thực hiện các đường lối, chủ trương và
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc đa dạng hóa và đa phương hóa quan
hệ quốc tế trên nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế./. HẾT CHƯƠNG 6. [103]
-Biên soạn: Lê Hữu Trung, Giảng viên chính, Thạc sỹ Quản lý nhà nước 11/11