Đề cương môn Triết học Mac-Lênin | Trường đại học Điện Lực
Đề cương môn Triết học Mac-Lênin | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -lenin (THML)
Trường: Đại học Điện lực
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Họ và tên : Lê Hương Giang Lớp : A Khoa : Việt Nam Học SBD : 735606040
Đề cương môn Triết học Mac-Lênin
1. Vấn đề cơ bản của Triết học
a) Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
- Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề quan hệ giữa vật chất với ý thức.
Ăngghen khẳng định: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại"!
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn:
+) Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?.
+) Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền táng và
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và các học
thuyết của họ. Do đó, trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc
hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
b) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
* Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học
người ta đã chia các nhà triêt học thành hai trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng: Vật chất có trước, ý thức có sau do vật sinh ra,
vật chất quyết định ý thức.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức, tinh thần là cái có trước, vật chất là cái
có sau do ý thức sinh ra, ý thức quyết định vật chất.
* Các hình thức của chủ nghĩa duy vật
Là một trong hai trường phái cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật đã xuất
hiện ngay từ thời Cổ đại. Từ đó cho đến nay chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời Cổ đại. Đây là hình thức đầu tiên
của chủ nghĩa duy vật. Nó xuất hiện ở nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới,
nhất là ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa
duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ, chất
phác, vì chủ yếu dựa vào các quan sát trực tiếp chứ chưa dựa vào thành tựu của
các bộ môn khoa học chuyên ngành, vì các bộ môn khoa học chuyên ngành lúc đó chưa phát triển .
- Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thể kỷ XVII-XVIII. Đây là hình thức
lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Thể kỷ XVII-XVIII, đây là thời kỳ phát
triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy
móc chiếm địa vị thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật. Những
nhà duy vật máy móc xem xét thế giới tự nhiên và con người chỉ như hệ thống
máy móc phức tạp khác nhau mà thôi. Chủ nghĩa duy vật lúc này còn được coi
là siêu hình vì chỉ thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng , không vận
động , không phát triển
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, sau đó được VI Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc
phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại và chủ
nghĩa duy vật siêu hình thời Cận đại Tây Âu.Chủ nghĩa duy vật biện chứng
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mới liên hệ phố biển và sự phát
triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cung cấp công cụ nhận thức vĩ đại cho hoạt
động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Như vậy, mặc dù trải qua nhiều hình thức khác nhau kể từ khi ra đời cho đến
nay, song chù nghĩa duy vật với ba hình thức cơ bản trong lịch sử ấy đều thống
nhất với nhau ở chỗ: coi vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, đều xuất
phát từ bản thân thế giới đề giải thích thế giới.
- Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật
+) Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật đó chính là mối quan hệ của nó
với khoa học và thực tiễn.
+) Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật đó là những lực lượng xã hội và các
giai cấp tiến bộ, cách mạng.
* Các hình thức của chủ nghĩa duy tâm
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy tâm bao gồm hai trào lưu chính đó là :
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan .
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nồi tiếng như Platôn (427 -
347 trước Công nguyên), Hêghen (1770-1831)... cho rằng có một thực thể
tinh thần không những tồn tại trước, tồn tại ở bên ngoài, độc lập với con
người và thế giới vật chất mà nó còn sản sinh ra và quyết định tất cả các quá
trình của thế giới vật chất. Thực thể tinh thần đó được gọi là "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối".
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng như Béccoli (1684-
1753), Hium (1711-1766)... cho rằng cảm giác, ý thức là cái có trước và tồn
tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức, còn các sự vật bên ngoài
chỉ là sự phức hợp của các cảm giác.
Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước và về sự có
trước, nhưng cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm đều thống nhất với nhau ở
chỗ: coi ý thức, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra vật chất và quyết định vật chất .
- Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm
Nguồn gốc nhận thức : Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem
xét phiến diện , sự tuyệt đối hóa một mặt , một giai đoạn nào đó của quá trình
nhận thức mang tính biện chứng của con người . Tách nhận thức , ý thức ra
khỏi thế giới khách quan
Nguồn gốc xã hội : Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị
thống trị của lao động trí óc với lao động chân tay trong các xã hội cũ tạo ra
quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tư tưởng, tinh thần. Ngoài ra, các
giai cấp thống trị, các lực lượng xã hội, các giai cấp phần tiến bộ ủng hộ và
cùng cố những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, lấy nó làm nền tảng
lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội nhằm duy trì địa vị thống trị của mình .
c) Thuyết có thể biết (khả tri) và không thể biết (bất khả tri)
- Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết
học, đó là việc trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- Tuyệt đại đa số các nhà triết học trong lịch sử (cả các nhà triết học duy vật
và các nhà triết học duy tâm) đều khẳng định con người có thể nhận thức
được thế giới. Học thuyết triết học của họ được gọi là thuyết có thể biết. Các
nhà triết học duy vật xuất phát từ chỗ, cho rằng vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất, do đó con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới. Các
nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận thế giới là có thể nhận thức được,
nhưng vì xuất phát từ quan niệm cho rằng, ý thức có trước vật chất, vật chất
phụ thuộc vào ý thức, cho nên theo họ nhận thức không phải là sự phản ánh
thế giới khách quan mà chỉ là sự tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức.
- Có một số nhà triết học bác bỏ khả năng nhận thức thế giới của con người.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là
thuyết không thể biết (agnosticisme). Theo thuyết này, con người không thể
hiểu được đối tượng hoặc có chăng chỉ là hiểu hình thức bề ngoài. Đại biểu
nổi tiếng nhất của thuyết không thể biết là Hium
2. Vật chất và ý thức
1)Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
- Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm
Các nhà triết học duy tâm phủ nhận đặc tính (thuộc tính) khách quan của vật chất.
Cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan tuy thừa nhận sự tồn tại của các sự
vật , hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tồn tại tự thân ” của
chúng . Nghĩa là , sự vật , hiện tượng trong giới tự nhiên tồn tại hiện thực nhưng
nguồn gốc của sự tồn tại đó là từ tinh thần ( do “ sự tha hóa” của “tinh thần thế
giới” hoặc do “sự phức hợp của các cảm giác ” ở chủ thể nhận thức )
- Quan niệm chủ nghĩa duy vật trước Mác
+) Các nhà triết học duy vật nhất quán thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật
chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên . Lập trường đó là đúng đắn
nhưng chưa đủ để đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù vật chất.
+)Cùng với những tiến bộ của lịch sử , quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật
chất cùng tưng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hóa khoa học hơn
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: các nhà triết học duy vật đã quy vật chất về một
hay một vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới. Tức là, quy
vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới khách quan
như: nước, không khí, lửa, đất, v.v, apâyrôn, nguyên tử. Theo Loxip và
Đemocrit, nguyên tử là các hạt vật chất cực kỳ nhỏ bé, nhỏ bé nhất, không thể
phân chia được, nó chỉ có thể nhận biết nhờ tư duy. Sự kết hợp hoặc tách rời
nguyên tử theo các trật tự khác nhau tạo nên sự đa dạng của thế giới. Quan
điểm này được coi là đinh cao trong quan niệm về vật chất thời cổ đại, nó thể
hiện bước tiến khá xa trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật
chất. Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất
không đồng nghĩa với các vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách
trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật thời cận đại: khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự
phát triển mạnh mẽ của cơ học và công nghiệp. Thuyết nguyên tử vẫn được các
nhà triêt học và khoa học tự nhiên thời kỳ phục hưng và cận đại (thể kỷ XV-
XVIII) tiếp tục nghiên cứu, khẳng định trên lập trường duy vật: vẫn tiếp tục coi
nguyên tử là phần từ vật chất nhỏ nhất, không phân chia được. Đồng thời, với
việc đồng nhất vật chất với nguyên tử, các nhà triết học và khoa học tự nhiên
thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính phổ biến của các vật thể
đó là khối lượng. Theo họ, khối lượng của các vật thể là bất biến, không phụ
thuộc vào vận động, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học. Vật chất,
vận động, không gian, thời gian là những thực thể khác nhau, không có môi liên
hệ nội tại với nhau,... Do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên các
nhà triết học duy vật thời kỳ này đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn.
+) Mặc dù còn hạn chế mang tính trực quan, cảm tính, siêu hình nhưng những
quan điểm trên của chủ nghĩa duy vật có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh
chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm , tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của tất
cả mọi tồn tại là tinh thần ý thức .
b) Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và
sự phả sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
- Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên mà chủ yếu
là vật lý học đã có những phát minh rất quan trọng đem lại cho con người
những hiểu biết mới, sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất.
+) Năm 1895, Rơn- ghen (1842-192) phát hiện ra tịa X một loại sống điên từ ó kh nguyên tử khác
+) Năm 1896 , Beccowrren (1852-1908 ) đã phát hiện ra hiện tượng phóng xạ ,
đã chứng tỏ rằng nguyên tử ko phải là không phân chia được và ko thể chuyển
hóa sang các nguyên tử khác
+) Năm 1897, Tôm xơn (1856- 1940) đã phất hiện ra điện từ, điện từ là một
trong những yếu tố tạo nên nguyên từ. Phát minh này chứng tô rằng nguyên từ
không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất.
+) Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra hiện tượng rất quan trọng là: trong quá
trình vân động khối lượng của điện từ tăng khi vận tốc của nó tăng. Phát minh
này phủ nhận hoàn toàn quan diễm siêu hình coi khối lượng là bất biến và đồng
nhất vật chất với khối lượng.
- Những phát hiện đó đã đem lại những hiểu biết mới và cụ thể hơn về tự
nhiên, đồng thời điều đó đã làm đảo lộn những quan niệm cũ, bác bỏ những
quan niệm duy vật siêu hình về vật chất. Do đó đã gây ra một cuộc khủng
hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học. Mặt khác cũng
từ những phát hiện của vật lý học hiện đại, các nhà triết học duy tâm đã lợi
dụng để xuyên tạc và rút ra những kết luận sai lầm để khẳng định thế giới
quan của họ. Theo họ, nếu nguyên từ không phải là đơn vị nhỏ nhất, nó có
thể bị phân chia, bị tan rã, bị "mất đi". Do đó, vật chất cũng có thể bị "mất
đi", bị "tiêu tan" và như thế toàn bộ nền tầng của chủ nghĩa duy vật bị sụp đổ hoàn toàn.
- Xuất phát từ những kết luận của chủ nghĩa duy tâm nhiều nhà khoa học tự
nhiên đã trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình đến chủ nghĩa tương
đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm. Lênin
gọi giai đoạn này là "chủ nghĩa duy tâm vật lý học"2 , để vượt qua cuộc
khủng hoảng này cần phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
- Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chỉ ra rằng: không
phải "Vật chất tiêu tan mất" mà chi có giới hạn hiểu biết của con người là
tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ là giới hạn của
nhận thức của con người về tổ chức và kết cấu của nó mà thôi. Lênin viết:
"Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên từ: tự nhiên là vô tận"
C, Quan niệm của triết học Mác – Lenin về vật chất:
- Tư tưởng của Angghen về vật chất
+) Vật chất với tính cách là vật chất, mọi sáng tạo thuần túy của tư duy, là
một trừu tượng thuần túy, không có sự tồn tại cảm tính.
+)Phạm trù vật chất không phải là sự sáng tạo tùy tiện của tư duy con người,
mà là kết quả của con đường trừu tượng hóa của tư duy con người về các sự
vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan.
+)Các sự vật, hiện tượng của thế giới dù phong phú, muôn vẻ nhưng đều có
một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại độc lập
không lệ thuộc vào ý thức. Để bao quát được tất cả các sự vật, hiện tượng cụ
thể, thì tư duy cần phải nắm lấy đặc tính chung này và đưa nó vào trong phạm trù vật chất
- Tư tưởng của Mác về vật chất
Cũng như Ăngghen, Mác chưa có điều kiện đưa ra một định nghĩa hoàn
chỉnh về vật chất, nhưng đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về vật chất trong phân tích những vấn đề chính trị - xã hội. Theo
Mác, vật chất trong xã hội chính là tồn tại của chính bản thân con người
cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật
chất và những quan hệ vật chất giữa người với người.
- Lênin định nghĩa về vật chất
+) Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những thành tựu mới của khoa học
tự nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học. Đồng thời kế thừa những
tư tưởng và quan niệm của Mác và Ăngghen về phạm trù vật chất, Lênin đã
đưa ra một định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
+) Phương pháp định nghĩa: Lênin định nghĩa vật chất với tư cách là một
phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên
phương diện nhận thức luận.
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"4
+) Nội dung của định nghĩa:
Thứ nhất, "Vật chất là một phạm trù triết học" - nghĩa là nó là một phạm trù
khái quát, rộng nhất, do đó, ko được hiểu vật chất theo nghĩa hẹp như trong các
khoa học cụ thể hoặc trong đời sống hàng ngày.
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là "thực
tại Khách quan" (tồn tại khách quan) - tức là tồn tại ngoài ý thức, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức
được hay không nhận thức được nó. Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì
là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Thứ ba, "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác". Điều đó có nghĩa "thực tại khách quan" (vật chất) dưới những dạng
tồn tại cụ thể của nó, là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; "cảm giác" (ý thức) của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Nói cách khác, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì vật chất là cái có
trước, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; và bằng những phương
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chục lại, phần ánh...) con người có thể nhận
thức được thế giới vật chất.
Tóm lại, nội dung định nghĩa của V.I. Lênin về phạm trù vật chất đã xuất phát
từ vấn đề cơ bản của triết học, đặt phạm trù vật chất trong mối quan hệ với
phạm trù ý thức và qua đó giải quyết được cả hai mặt trong nội dung vấn đồ cơ
bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Định nghĩa vật chất đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời khắc phục
được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất trước Mác,
quy vật chất vào các dạng cụ thể hoặc vào một thuộc tính cụ thể nào đấy của vật chất.
+ Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại các quan điểm duy tâm (duy tâm
khách quan và duy tâm chủ quan) về vật chất; đồng thời nó tạo ra cơ sở lý luận
để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
+ Định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với các khoa
học cụ thể trong việc đi sâu vào thế giới vật chất khách quan để phát hiện ra
những kết cấu mới, những thuộc tính mới của các vật thể trong thế giới.
d) Phương thức tồn tại của vật chất
Phương thức tồn tại của vật chất là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của
vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vận động là cách thức tồn
tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất.
* Vận động - cách thức và hình thức tồn tại của vật chất
- Định nghĩa: Vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Theo Ăngghen: "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy" - Tính chất:
+ Vận động la một phuơng thức tồn tại của vật chất. Điều đó, có nghĩa là vật
chất tồn tại bằng cách vận ddooongj và thông qua vận động mà biểu hiện sự
tồn tại của mình . Không thể có vật chất không có vận động và ngược lại
không thể có vận động mà lại không phải là vận động của vật chất. "Các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được
thông qua vận động, thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một
vật thế không vận động thì không có gì mà nói cả
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Điều đó có nghĩa là: vật chất
tồn tại bằng vận động, nói đến vật chất là nói đến vận động, không ở đâu,
không ở nơi nào có vật chất mà lại không vận động. Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất.
+ Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm
này đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động - đi tìm nguồn
gốc của vận động ở bên ngoài sự vật, hiện tượng
+ Vật chất là vô hạn, vô tận, không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu
diệt, cho nên, vận động với tính cách là phương thức tồn tại của vật chất
cũng không do ai sáng tạo ra và không thể tự mất đi.
- Các hình thức vận động của vật chất: Theo Ăngghen, vận động bao gồm
năm hình thức chính, đó là:
1) Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
2) Vận động vật lý: Sự vận động của các nguyên từ, các hạt cơ bản, vận
động điện tư, các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng...
3) Vận động hóa học: Sự vận động của các phân từ, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.
4) Vận động sinh học: Các hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường.
5) Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội, các quá trình xã hội.
Quan hệ giữa các hình thức vận động: Các hình thức vận động biêu hiện
trình độ phát triền từ thấp đến cao của thế giới vật chất. Các hình thức vận
động cao xuất hiện trên cơ số các hình thức vận động thắp, bao hàm trong
nó các hinh thức vận động thấp hơn. Mỗi sự vật được đặc trưng bởi một
hình thức vận động cơ bản
- Vận động động và đứng im:
Đứng im là một trạng thái của vận động, là trường hợp riêng của vận động.
Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Sự đứng im của sự vật thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thể hiện ở khoảng cách
không thay đổi giữa một sự vật này với một sự vật khác. Thể hiện trong một
khoảng thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng chưa thay đổi một cách căn bản,
chưa biến thành sự vật, hiện tượng khác.
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, thì vận động là tuyệt đối, còn
đứng im chỉ là tương đối, tạm thời. Đứng im là tương đối, tạm thời vì: Thứ
nhất, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ xác
định (nhất định) chứ không phải diễn ra trong mọi quan hệ cùng một lúc.
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một lúc nào
đó chứ không phải trong mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
* Không gian và thời gian - hình thức tồn tại của vật chất
Theo V.I. Lênin: "Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian" - Định nghĩa:
Không gian là khái niệm dùng để chỉ vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn,
cao thấp của sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, "không gian là hình thức tồn
tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau"8
Thời gian là khái niệm dùng để chỉ độ dài diễn biến biên đôi của sự vật, hiện
tượng. Nói cách khác, "thời giai là hình thức tồn tại của vật chất vận động
xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình" - Tính chất:
Tính khách quan. Nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật
chất, tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại
khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
Tính vĩnh cửu và vô tận. Nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả
về quá khứ lẫn tương lai, cả về đẳng trước lẫn đẳng sau, cả về phía trên lẫn
phía dưới, cả về bên phải lẫn bên trái
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều
của không gian là chiều dài, chiêu rộng và chiều cao. Tính một chiều của
thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
đ) Tính thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
- Tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con
người. Tồn tại đối lập với không tồn tại.
- Không dừng lại ở việc khẳng định hay phủ định tồn tại, tư duy triết học
đòi hỏi phải đi đến quan niệm về bản chất của tồn tại.
+ Chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản
chất của nó là vật chất.
+ Chủ nghĩa duy tâm khắng định chỉ có thế giới tinh thần mới tồn tại, bản
chất của tồn tại là tinh thần.
- Sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Song, tính
thông nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Chủ nghĩa duy vật
cho rằng, cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó.
* Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng: bản chất của thế giới là
vật chất, thế giới thông nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất đó là thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ mật thiết với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng
chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá
trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực
cửa con " ười. Đó là con người không bao giờ bằng ý thức của mình mà sản
sinh ra được các đổi lượng vật chất. Con người với ý thức chỉ có thể nhận
thức được những quy luật vận động,phát triển của thế giới vật chất, cải biến
thế giới vật chất theo những quy luật khách quan vôn có của nó.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của bộ óc người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử
a) Nguồn gốc của ý thức
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý thức
là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viến, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự
tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Đồng nhất ý thức với vật chất.
Coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
Chẳng hạn, "óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật"
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Sự ra đời của ý thức dựa trên
hai nguồn gốc - nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. * Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện ở sự phát triển của thuộc tính phản ánh
và vai trò của bộ não người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất.
+ Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc
điêm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác
động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của
vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
+ Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp: Phản ánh vật lý, phần ánh
sinh học, phản ánh tâm lý, phản ánh ý thức.
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên vô sinh. Hình thức phản ảnh này có tính chất thụ động, chưa có sự định
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiện qua những biến đối cơ, lý, hóa như: sự
thay đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá hủy … ở các dạng vật chất vô sinh
Phản ánh sinh học: Là hình thức phản ánh của giới tự nhiên hữu sinh. Nó
được biểu hiện ở hai trình độ khác nhau như:
Tính kích thích xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh kích
thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động của môi trường trên cơ
sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật bậc
thấp có thể thích nghi với môi trường. Chẳng hạn, rễ cây mọc hướng về phía có nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi các sự
vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể phản
ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên
hệ giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý: Xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần kinh trung
ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Ở
phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản ánh
tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những
thông tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
+ Phản ánh ý thức: Là một hình thức phản ánh mới, có tính năng động sáng tạo,
chỉ có ở một dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ não con người. Phản
công, với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy, có thể nói:
các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở
chỗ nó được tiến hành bằng cách nào, với công cụ gì.
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát
triển của nền sản xuất xã hội và do đó, với trình độ phát triển của đời sống xã hội nói
chung, chủ nghĩa Mác — Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo
lịch sử thay thế và phái triển của các phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển
của các phương thức sản xuảt phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình
phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn: phương
thức sản xuất Châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại. V.V.. Tính chất tuần tự
trong quá trình thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất cũng chính là quy
luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã
hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu
hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương
thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước nhỏ qua một hay một
vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản xuất có tính chất phổ
biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là
sự hiểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của mỗi
cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Tuy
nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng như thế
nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua những con đường vòng
nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi
lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn.
8. Quan hệ biện chứng lực lượng xã hội và quan hệ sản xuất 1, Khái niệm :
+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật
chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải
biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai
trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó,
công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con
người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).
Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư
liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con người).
- Khái niệm quan hệ sản xuất
+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa
người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).
+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác động
lẫn nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
2, Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản
xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan
hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể
có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến
các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế
nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong
đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản
xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên
cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như
vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và không ngừng
phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai
thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng
nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất
giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên
tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực
lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ
thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó
luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ
thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu
cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có
tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm
khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải
quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản
xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực
lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản
xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những
quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển
của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó
đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện
nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thông nhất giữa chúng theo nguyên
tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ
là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ
của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào
thực trạng (tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó
cho phù hợp chứ không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể
tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và
phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải
cách, đổi mới,...) mà cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.
Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80 của
thế kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân
theo thật đúng yêu cầu của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản
xuất hiện có không được bảo tồn, tái tạo và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân
căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế lớn, buộc các nước này phải tiến
hành những cuộc cải ách, đổi mới theo hướng tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản suất, nhờ đó lực lượng sản xuất của xã hội
từng bước được phục hồi và phát triển
9, Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1, Khái quát về cơ sở hạ tầng :
a, Cơ sở hạ tầng là gì ?
-Cơ sở hạ tầng trong đời sống là thuâ •t ngữ chỉ các yếu tố thuộc về phương diê •n kỹ
thuâ •t, vâ •t chất, kinh tế, giao thông… tồn tại trong xã hô •i hay môi trường nhất định nào
đó. Mục đích chính của cơ sở hạ tầng là hỗ trợ các hoạt đô •ng liên quan đến sản xuất,
đời sống của con người.
( Hiểu một cách đơn giản thì cơ sở hạ tầng chính là những bộ phận kết cấu, nền tảng
cho việc phát triển nền kinh tế )
-Trên phương diện hình thái, cơ sở hạ tầng là những tài sản hữu hình như đường xá, hệ
thống cầu cống, kênh mương thủy lợi, các công trình công cộng...
Dựa trên cơ sở đó các hoạt động kinh tế, xã hội được duy trì và phát triển.
- Trên phương diện kinh tế hàng hóa: cơ sở hạ tầng là một loại hàng hóa công cộng
dùng để phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội.
- Trên phương diện đầu tư: cơ sở hạ tầng là kết quả, sản phẩm của quá trình đầu tư qua
nhiều thế hệ được đầu tư đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển đất nước về mọi mặt.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là toàn bộ điều kiện về vật chất, kỹ thuật.. được trang bị để
phục vụ cho hoạt động sản xuất cũng như đời sống con người. b. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể như kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh
tế. Đồng thời, trong mỗi cơ sở hạ tầng xã hội còn có những quan hệ sản xuất khác như:
dấu vết; tàn dư quan hệ sản xuất cũ; mầm mống; tiền đề của quan hệ sản xuất mới.
Cuộc sống của xã hội cụ thể được đặt trong trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống
trị tiêu biểu cho cuộc sống ấy và những quan hệ sản xuất quá độ, hay những tàn dư cũ,
mầm mống mới có vai trò nhất định giữa chúng tuy có khác nhau nhưng không tách
rời nhau vừa đấu tranh với nhau, vừa liên hệ với nhau và hình thành cơ sở hạ tầng của
mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
c. Tính chất của cơ sở hạ tầng
Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy
định. Quan hệ sản xuất thống trị quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung
của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Quy định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ sở hạ
tầng xã hội đương thời mặc dù quan hệ tàn dư. Mầm mống có vị trí không đáng kể
trong xã hội có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành. Nó có vị trí quan trọng
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xã hội => Đang nằm trong giai đoạn mang tính chất quá độ.
Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội. Nó dựa trên cơ sở chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn
từ những mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong Cơ sở hạ tầng đó. Do bản
chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện đối lập về lợi ích
kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
Cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp. Nó là quan hệ vật chất tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người. Nó hình thành trong quá trình sản xuất vật
chất, trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản xuất.
2. Khái quát về kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức,
triết học, tôn giáo,... Với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đoàn thể… Hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành
trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
b. Đặc điểm của kiến trúc thượng tầng
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất
định. Nhất là trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một
cơ sở hạ tầng nhất định. Nó là phản ánh cơ sở hạ tầng.
Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau
với cơ sở hạ tầng của nó. Mà trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp
quyền cùng những tổ chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận
quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu
biểu cho chế độ chính trị, xã hội ấy.
c. Tính chất của kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc.
Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch. Về quan điểm, tư
tưởng và các cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối
kháng giai cấp là nhà nước. Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội
về mặt pháp lý - chính trị.
Thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Những tàn dư tư tưởng của
các giai cấp thống trị bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong
kiến trúc thượng tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu
tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ
nghĩa xã hội, tính giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể hiện rất
rõ, chúng tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Cụ thể như sau:
-Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị
về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất
nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh
vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước,
pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính
nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi cơ bản trong cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ
tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn
trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư
tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng
trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp
quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng,
do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi
nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,
-Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng,
có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà
còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp
thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng
kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
10. Nguồn gốc , bản chất , đặc trưng của Nhà nước
a) Nguồn gốc của nhà nước:
Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định
khi“xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó
bất lực không sao loại bỏ được” . 1
Nhà nước ra đời để đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và thống trị xã hội của giai cấp
thống trị, để cho cuộc đấu tranh giai cấp không đi đến sự tiêu diệt lẫn nhau và tiêu
diệt luôn cả xã hội, để duy trì xã hội trong vòng “trật tự”.
Nguyên nhân sâu xa: do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư
thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và về của cải.
Nguyên nhân trực tiếp: do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa được.
Nhà nước ra đời để làm dịu đi sự xung đột giai cấp, duy trì trật tự xã hội, đảm bảo
địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị.
b) Bản chất của nhà nước:
Nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp thống trị, do đó nhà nước mang bản
chất giai cấp.Vì vậy, để phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác cần phải
nhận biết các đặc trưng của nhà nước.
c)Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước có ba đặc trưng cơ bản.
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu, thông qua các cơ quan
quyền lực như: hệ thống chính quyền từ trung ương tới cơ sở, lực lượng vũ trang,
cảnh sát, nhà tù… đó là “những công cụ vũ
lực chủ yếu của quyền lực nhà nước” . 2
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
Để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị phải đảm bảo hoạt động của bộ
máy nhà nước bằng nguồn tài chính chủ yếu là thu thuế
11.Tồn tại xã hội và YTXH
1. Khái niệm tồn tại xã hội:
-Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau.
-Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá
trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công
cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều
loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết và tận
dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó
điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên
nguồn tài nguyên rất phong phú.
2.Khái niệm ý thức xã hội:
-Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
-Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;truyền
thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống
tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
12:Bản chất con người trong quan điểm Mác xít
Con người xuất phát từ loài động vật mà ra và không thoát ly khỏi các đặc tính vốn có của động vật. *Bản chất:
Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và xã hội nhằm tiếp thu những
quan điểm có tính hợp lý và khắc phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con
người trong lịch sử triết học trước đó. Triết học Mác khẳng định con người hiện thực
là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, vì con người không phải là cái
gì đó đồng nhất tuyệt đối về chất mà là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt
giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự
phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được
tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh
học và cái xã hội tạo thành con người.
Con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình tạo thành phương diện
sinh học và khả năng thoả mãn những nhu cầu sinh học như : ăn, mặc, ở; hoạt động và
nhu cầu tái sản sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật,
con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh
học trong con người, trước hết là tổ chức cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là
những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.
Con người khác với thế giới loài vật về bản chất 3 phương diện: Quan hệ với thiên
nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Sự khác biệt ấy thể hiện con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội hoặc bản chất của con người
là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bởi vì, cả ba mối quan hệ ấy, suy đến cùng đều
mang tính xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác của con người.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng “Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly khỏi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người là cụ thể, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định. Trong điều kiện lịch sử, cụ thể đó bằng hoạt động thực tiễn, con người sản
xuất ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, phát triển về thể lực và trí lực. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội như gia đình, giai cấp, dân tộc, v.v… con người
mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.
Điều lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có nghĩa phủ nhận mặt tự
nhiên trong cuộc sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa
con người và thế giới động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu
sót của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không phải là cái duy
nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi
cá nhân trong cộng đồng xã hội
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển của xã hội. Song,
điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính
cách chủ thể của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự
nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản
xuất vật chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức dẫn
đến sự biến đổi xã hội. Đó là quá trình con người nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan để khẳng lịch sử vận động phát triển của xã hội là lịch sử của phát triển
của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau, v.v…
Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính hiện thực của nó là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín,
mà là hệ thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên, có thể nói
rằng, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và
phát triển của bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử.