















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61429799
ĐỀ CƯƠNG CUỐI KÌ TTHCM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HCM
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà trải qua bằng quá trình tìm tòi,
khảo nghiệm, xác lập, phát triển, hoàn thiện, gắn với quá trình hoạt động Cách mạng phong phú
của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển qua 5 giai đoạn: 1. Giai đoạn hình
thành tư tưởng yêu nước và chí hướng Cách mạng 1890 – 1911:
Thời trẻ sống trong môi trường gia đình, quê hương, Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hóa quốc học, hán học và bước đầu tiếp thu văn
hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống nô lệ lầm than của dân tộc, tiếp thu tinh thần bất khuất của
các bậc cha anh, hình thành hoài bão cứu nước cứu dân. 2.
Giai đoạn tiến tới khảo nghiệm 1911 – 1920:
Đi qua 30 nước, chặng đường 22 vạn km, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn của thế giới,
khảo sát cuộc sống của các dân tộc bị áp bức, tiếp xúc với cương lĩnh Lê Nin, tiến thẳng con đường
giải phóng dân tộc chân chính.
Người đứng hẳn về quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh
dấu bước chuyển biến về bản chất tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. 3.
Giai đoạn hình thành cơ bản TTHCM về con đường Cách Mạng Việt Nam 1920 –
1930:Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp.
Sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Xuất bản báo “Leparia“ tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào thuộc địa.
Ngày 13/6/1924 sang “Mascơva” dự Đại hội 5 quốc tế cộng sản, Đại hội quốc tế nông dân,
Đại hội quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, công hội đỏ.
Tháng 12/1924 về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội,
xuất bản báo Thanh Niên, mở lớp huấn luyện hội Cách Mạng đưa về nước hoạt động. Viết tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh”.
Tháng 2/1930 chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng cộng sản
Việt Nam, soạn các văn kiện. Các văn kiện này cùng với tác phẩm bản án… đường Cách Mệnh,
… đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh. 4.
Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường cách mạng được xác định 1930 – 1941:
Do không sát tình hình Đông Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của Đại hội
6 (1928) quốc tế Cộng Sản đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội Nghị 3/2/ 1930
(Cải lương, dân tộc chủ nghĩa dẫn tới hẹp hòi, không quan tâm đấu tranh giai cấp, không quan tâm
cách mạng thế giới, không thành lập liên bang Đông Dương)
Vì thế Hội nghị Trung Ương 10/1930, ra “Án Nghị quyết”, thủ tiêu văn kiện 3/2/1930, đổi
tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở
quốc tế Cộng Sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định
bảo vệ quyết định của mình.
Đại hội 7 Quốc tế cộng sản (1935) đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng “tả”, “Cô
độc”, “hẹp hòi”, dẫn tới buông lơi ngọn cờ dân tộc, dân chủ. Vì thế ĐH 7 chỉ đạo chuyển hướng
chiến lược Cách mạng thế giới, tập trung thành lập mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. lOMoAR cPSD| 61429799
Đến 1936, Đảng ta càng thấy được những khuynh hướng biệt phái, cô độc, tả khuynh, hẹp
hòi trước đây và chuyển dần hướng chỉ đạo chiến lược, từng bước trở về với đường lối văn kiện
3/2 với tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Giai đoạn hiện thực hóa TTHCM:
Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng, Người đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tháng 5/1941, chủ trì Hội Nghị Trung Ương 8 quyết định “tạm
gác” khẩu hiệu ruộng đất, xóa bỏ vấn đề liên bang Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh, đại
đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh công nông nhờ đó Cách Mạng Tháng 8 thành công. Đó cũng là
thắng lợi đầu tiên của Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng 8, cả nước phải tiến hành kháng chiến chống Pháp lần 2 và kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa giải phóng miền Nam. Đây là
thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển hoàn thiện, một loạt vấn đề cơ bản gồm:
đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, xây dựng CNXH ở một nước vốn là thuộc địa
nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa bởi điều kiện đất
nước bị chia cắt, có chiến tranh, xây dựng Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới của dân,
do dân và vì dân, củng cố phong trào cộng sản, CN quốc tế.
Trước khi qua đời, Người để lại một bản di chúc thiêng liêng kết tinh những giá trị đạo đức,
tư tưởng, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một người lãnh tụ vĩ đại, suốt đời phấn đấu hy sinh vì
Tổ quốc, nhân dân và nhân loại. Di chúc tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh thắng lợi của
CMVN, vạch định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi.
Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc di sản tinh thần vô giá của Bác Hồ, ĐH 7 đã
khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự là nguồn gốc trí tuệ, động lực
thúc đẩy sự nghiệp CMVN.
II. TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
a. Thực chất vấn đề dân tộc thuộc địa: là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến vấn đề dân tộc nói chung mà xuất phát từ thực tiễn ở
VN thời bấy giờ là chế độ nửa thuộc địa, nửa phong kiến, nên toàn bộ những nghiên cứu của Bác
đều tập trung đến vấn đề dân tộc thuộc địa. Đồng thời, Người cũng xác định độc lập dân tộc gắn
với CNXH, là con đường lựa chọn xuyên suốt của cách mạng VN để xây dựng đất nước sau giải phóng.
b. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa -
Theo tư tưởng HCM, tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Trong bản
TNĐL, Bác Hồ đã viết “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”. Đây là những quyền
lần đầu tiên xuất hiện tại VN vào năm 1945, nhưng trước đó đã được biết đến qua tuyên
ngôn của Pháp và của Mỹ. Bác đề cập đến những quyền này vì Pháp nêu ra nhưng tại Việt
Nam lại không thực hiện, “gậy ông đập lưng ông”, và Bác cũng muốn nhấn mạnh đây là
những quyền cơ bản, quan trọng, tiến bộ trên thế giới mà mọi dân tộc đều có quyền chính đáng có được. lOMoAR cPSD| 61429799 -
Theo tư tưởng HCM, độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm
phạmcủa tất cả các dân tộc với chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Quyền tự
do được Bác Hồ nâng lên từ một quyền bình thường thành một quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm, nó xuất phát từ một thực tế là dân tộc chúng ta bị chiến tranh, bị xâm phạm
quyền tự do rất nhiều trong lịch sử. -
Theo tư tưởng HCM, một nền độc lập thật sự, toàn diện phải được thể
hiện đầy đủ trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khi nói đến
sự phát triển của một quốc gia, chúng ta thường nói đến 4 yếu tố trên, và 4 yếu tố này có
mqh chặt chẽ với nhau. Và khi nói đến độc lập của một dân tộc phải được khẳng định đầy
đủ trên 4 yếu tố này, nếu như thiếu 1 trong 4 yếu tố thì không thể gọi là độc lập. Độc lập
về mặt chính trị phải do người dân bầu ra, và mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước
ấy phải có quyền tự quyết, không có sự can thiệp đến từ bên ngoài. Và có độc lập về mặt
chính trị mới có độc lập về mặt văn hóa, kinh tế, xã hội, mới được tự do phát triển bền
vững theo xu hướng của mình. -
Một dân tộc muốn được độc lập tự do phải tự đứng lên đấu tranh giải
phóng cho chính mình. Trong “Bài nói chuyện tại hội nghị chiến tranh du kích”, ngày 13
tháng 7 năm 1952, Người đã nhấn mạnh “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi
chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Hai cuộc kháng chiến chống
Pháp – Mỹ của nhân dân ta là trường kỳ gian khổ nhưng lại phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. -
Độc lập tự do phải gắn với cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Là một dân tộc thuộc địa bị đế quốc thực dân thống trị, bóc lột, nhân dân phải sống trong
cảnh lầm than, cơ cực, đói rét nên Người luôn tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
c. Chủ nghĩa dân tộc là nguồn động lực lớn của sự phát triển đất nước. Chủ nghĩa
dân tộc theo tư tưởng HCM là ý chí, tinh thần đấu tranh của toàn thể dân tộc VN, trải qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính ý chí và tinh thần đấu tranh ấy đã tạo nên nguồn sức
mạnh vô tận để chiến thắng mọi kẻ thù, giành độc lập cho dân tộc.
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp -
Vấn đề dân tộc và giai cấp là hai vấn đề quan trọng hàng đầu ở Việt
Nam. HCM rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước nhưng
Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Bối
cảnh lịch sử xã hội Vn trong thời kỳ này tồn tại hai mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp (mâu thuẫn dân tộc), và mâu thuẫn giữa nông dân
và địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai cấp). Giải quyết được mâu thuẫn dân tộc sẽ giải
quyết đc mâu thuẫn giai cấp, bởi khi đánh đuổi được thực dân pháp, các thế lực tay sai sẽ
mất chỗ dựa, mâu thuẫn giai cấp sẽ dễ xử lí. -
Giải phóng dân tộc phải được đặt lên trên hết, trước hết. Giải phóng
dân tộc tạođiều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp. Và chính vì thế cho nên, năm 1930,
sau khi thành lập Đảng CSVN, Bác Hồ đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trước, quan điểm
đó trái với quan điểm của quốc tế cộng sản nên Bác bị quốc tế cộng sản nghi ngờ và không
giao cho nhiệm vụ gì. Vì thế, năm 1938, Bác có viết một bức thư gửi cho một đồng chí:
Hôm nay là kỉ niệm 7 năm ngày tôi bị bắt ở Hồng Kong, và năm nay cũng là kỉ niệm 8 năm lOMoAR cPSD| 61429799
ngày tôi không được Quốc tế Cộng sản giao cho bất cứ một nhiệm vụ gì, tôi mong các
đồng chí hãy giao cho tôi một nhiệm vụ gì đó, nếu không, tôi cảm thấy tôi là người ở trong
Đảng mà dường như người đang đứng ngoài Đảng. -
Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân
tộc khácvới phương châm: Giúp bạn là tự giúp mình, thắng lợi của Cách Mạng VN
sẽ góp phần vào thắng lợi chung của toàn thế giới. Theo quan điểm của Bác muốn xác
lập quan hệ quốc tế, trước hết phải xác lập quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là các
nước trong bản đảo Đông Dương: VN, Lào, Capuchia. Trong quá trình quan hệ với các
nước khác, phải rất tế nhị, khôn khéo xử lý tình huống đúng đắn, Năm 1960, mâu thuẫn
giữa LX và TQ rất căng thẳng. Nhưng lúc bấy giờ, với QH ngoại giao rất khéo léo của Bác,
Bác đã hóa giải những mâu thuẫn ấy để nó không ảnh hưởng đến chúng ta, Chúng ta vẫn
nhận được nguồn viện trợ từ TQ lẫn LX. Với phương châm này, trong quá trình đấu tranh
giải phóng dân tộc, chúng ta nhận nhiều sự hỗ trợ đến từ bên ngoài, và đồng thời thực hiện
sự hỗ trợ với đất nước khác. Trong lịch sử, ta ko chỉ đón nhận sự hỗ trợ của các bạn mà ta
đã giúp cho nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn pốt. Ngày nay, vẫn còn
tượng đài quân tình nguyện bộ đội VN đã anh dũng hy sinh ở Campuchia.
III. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CM GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có nội dung thể hiện qua hệ thống các luận điểm cơ bản như sau:
1. Cách Mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản.
Trong rất nhiều yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của Cách Mạng, Bác đặt yếu tố con đường
lên hàng đầu vì những lý do: trong giai đoạn cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, có rất nhiều phong trào
yêu nước diễn ra chống lại thực dân Pháp theo khuynh hướng khác nhau ( Ptrao Cần Vương, Yên
Thế, Đông Du,... ) chứng tỏ dân ta có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, thế nhưng tất cả những con
đường ấy đều thất bại vì đường lối đấu tranh chưa đúng đắn, vì thế cho nên Bác Hồ mới ra đi tìm
kiếm con đường cứu nước. HCM khẳng định Cách Mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải theo con đường CM vô sản.
Ở VN, phần lớn nhân dân thuộc tầng lớp vô sản, nông nhân, công nhân. Khi áp dụng CM vô
sản mới giải phóng được toàn bộ dân tộc. Trong quá trình ra đi tìm kiếm con đường cứu nước giải
phóng dân tộc, HCM đã nghiên cứu về các cuộc CM khác nhau ở trên thế giới như CM tư sản Anh,
CM Pháp, CM tháng 10 Nga. Bác chỉ ra những thành công và hạn chế đến từ các cuộc CM này và
từ đó quyết định lựa chọn giải phóng dân tộc theo con đường CM vô sản. Đây là con đường CM
sẽ giải phóng được những người lao động bị áp bức trong xã hội, đồng thời cũng là con đường mà
CM tháng 10 Nga đã thực hiện thành công. Các cuộc CMTS hiện đại Anh, Pháp được Người cho
là những CM “ko đến nơi”, tức ko triệt để và nửa vời.
2. Cách Mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản lãnh đạo
Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, khi nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng
định Cách Mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo để trong thì vận động dân chúng, ngoài thì liên
lạc với vô sản giai cấp bị áp bức mọi nơi. Đảng có vững thì Cách Mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt : “Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đảng có những yếu tố giúp cho Cách Mạng thành công do Đảng
là tập hợp những con người có tinh thần yêu nước, có lý tưởng, sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho tổ lOMoAR cPSD| 61429799
quốc. Sự thành công của 1 cuộc CM phụ thuộc vào lực lượng lãnh đạo CM rất nhiều, kịp thời đưa
ra điều chỉnh, có đường lối, chính sách đúng đắn.
Trong thực tiễn, HCM đã xây dựng được 1 Đảng Cách Mạng tiên phong, Đảng đã lãnh đạo đất
nước tiến hành Cách Mạng Giải Phóng dân tộc thành công và từng bước đưa đất nước phát triển
kinh tế trong thời kỳ mới.
3. Lực lượng Cách Mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Trong cương lĩnh đầu tiên của CMVN, HCM đã xác định một thành phần tham gia Cách Mạng
rộng lớn, trong đó bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp của dân tộc VN như tiểu tư sản, tri thức,
trung nông, công nhân, nông dân. Trong đó công nông được xác định là những giai cấp có tinh
thần CM nhất. Bác cho rằng CM giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không
phải việc của 1 - 2 người.
Trong thực tiễn, HCM đã tập hợp được một đại đoàn kết dân tộc rộng lớn trong cuộc đấu
tranh chung chống lại kẻ thù, giành độc lập cho dân tộc. Bác không đề cập đến lực lượng tham gia
Cách Mạng là giai cấp nào cụ thể mà Bác dùng từ rất chung là toàn dân tộc, không loại trừ bất cứ
một giai cấp tầng lớp nào cả, để từ đó tạo được một nguồn sức mạnh to lớn, đóng vai trò quan
trọng trong chiến thắng kẻ thù.
4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắnglợi
trước CM vô sản ở chính quốc. Đây là luận điểm sáng tạo của HCM về vấn đề CM giải phóng dân tộc
Là người dân sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nên Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ CM thuộc
địa có tầm quan trọng đặc biệt, người dân trong các dân tộc thuộc địa có khả năng tiến hành CM
to lớn. Mối quan hệ giữa CM thuộc địa và CM chính quốc là mối quan hệ bình đẳng cùng hỗ trợ
cho nhau để phát triển, chứ không phải quan hệ chính phụ. Theo quan điểm chỉ đạo của quốc tế
CS có nói rằng, CM giải phóng dân tộc ở tất cả các thuộc địa chỉ có thể thành công khi CM ở chính
quốc thành công. Nhưng theo quan điểm này của Bác, chúng ta có thể thành công trước CM ở
Pháp. Bác đưa ra quan điểm này dựa trên các lý do: ở các nước thuộc địa thì nhân dân bị áp bức
nhiều hơn là ở các nước chính quốc, có những phương thức mà chủ nghĩa thực dân dám áp dụng
với người dân ở nước thuộc địa nhưng không dám áp dụng ở nước chính quốc. Chính vì người dân
ở các nước thuộc địa bị áp bức nhiều, dồn họ đến đường cùng, cho nên tinh thần đấu tranh của họ
rất mạnh mẽ, và khi tinh thần đấu tranh mạnh mẽ ấy có liên kết với nhau thì chắc chắn rằng CM
của thuộc địa sẽ thành công trước CM của chính quốc.
Nước đế quốc có trong tay nhiều nước thuộc địa, nếu như các nước thuộc địa có sự liên kết lại
với nhau, phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa sẽ giành được thắng lợi trước CM đế quốc.
Để nói về vấn đề này, Bác Hồ có sử dụng hình ảnh: chủ nghĩa đế quốc được ví như một con đỉa
hai vòi, một vòi thì bám vào nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, một vòi thì bám vào nhân
dân lao động ở các nước chính quốc, để giết con đỉa cần phải cắt đồng thời cả hai vòi của nó đi.
Nếu như cắt 1 vòi thì con đỉa đó sẽ tiếp tục hút máu người và sống lại. Bác nói như vậy để nhấn
mạnh vai trò CM ở các nước thuộc địa, đồng thời, Bác cũng có nói thêm rằng: Nếu các đồng chí
coi thường Cách Mạng ở các nước thuộc địa, không khác gì các đồng chí đang đánh rắn vào đuôi,
nọc độc và sức sống của con rắn độc thực dân hiện giờ đang tập trung ở các nước thuộc địa nhiều
hơn là các nước chính quốc. Vì vậy nên nếu như có điều kiện, có thời cơ thì CM thuộc địa hoàn
toàn có thể diễn ra và thành công trước CM ở chính quốc.
=> Đây là 1 trong những đóng góp, cống hiến của chủ tịch HCM về vấn đề CMGP dân tộc
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin lOMoAR cPSD| 61429799
5. CM Giải Phóng dân tộc cần được tiến hành bằng con đường bạo lực
Người khẳng định “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân
tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền.”, vì chủ nghĩa đế quốc dùng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp
phong trào đấu tranh yêu nước của ND thuộc địa
Theo tư tưởng HCM, bạo lực là hình thức tất yếu của 1 cuộc CM, tuy nhiên, cần tùy vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để quyết định hình thức đấu tranh, trong đó sự kết hợp hài hòa chính
trị, quân sự, ngoại giao và việc tiến hành chiến tranh chỉ như giải pháp cuối cùng khi không còn
khả năng hòa hoãn khi kẻ thù kiên quyết bám giữ lập trường xâm lược.
IV. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Con đường hình thành tư duy HCM về chủ nghĩa xã hội
HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng cho dân
tộc: Có yêu nước thì Bác mới ra đi tìm đường cứu nước, và trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước ấy, thì Bác đã đến với mô hình XHCN từ một mô hình xây dựng rất thành công lúc bấy giờ là Liên Xô
HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin mà trực tiếp là học
thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác. Trong học thuyết ấy, Mác chỉ ra rằng xã hội loài người
đã, đang và sẽ trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau đó là: công xã nguyên thủy chiếm hữu
nô lệ - PK - TBCN - Cộng sản. Giai đoạn đầu của XH Cộng sản là chủ nghĩa xã hội. Nhìn vào
những hình thái KT-XH ấy, có những giai đoạn đã qua, và có những giai đoạn sẽ tiến đến, chính
vì thế cta lựa chọn xây dựng CNXH. Khi ta lựa chọn xây dựng CNXH, xuất phát điểm của nước
ta lúc bấy giờ là giai đoạn phong kiến, để lên đến CNXH, ta bỏ qua tư bản chủ nghĩa, nhưng kế
thừa những điều tích cực trong TBCN. Chúng ta vẫn học tập những cái gì hay, cái gì tốt đẹp của
CNTB theo quan điểm phủ định biện chứng.
HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam:
Những giá trị truyền thống của dân tộc VN giống với đặc trưng của CNXH. Khi Bác quyết định
áp dụng mô hình CNXH ở VN, mô hình ấy ko phải thiết kế dựa trên các nước Châu Á như VN,
nhưng Bác Hồ đã nói mô hình ấy áp dụng còn tốt hơn ở VN vì trong lòng XH VN đã có những giá
trị VH giống các nét đặc trưng của CNXH
2. Tư tưởng HCM về đặc trưng, bản chất của CNXH ở VN -
Đó là một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ: được thể hiện
trên các lĩnh vực: người dân 18 tuổi trở lên được bầu cử, tham gia vào dự thảo Hiến pháp,
chủ thể xây dựng pháp luật là người dân. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, dựa trên
khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí thức do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. -
Đó là một chế độ xã hội có sự phát triển cao về kinh tế dựa trên lực
lượng sản xuất hiệnđại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu. Kinh tế
là yếu tố đánh giá sự giàu có của 1 quốc gia, nên ta hướng tới xây dựng 1 nền kinh tế giàu
mạnh. Cụ thể, CNXH có một nền kinh tế phát triển, dựa trên cơ sở năng suất lao động cao,
sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học kỹ thuật, ứng dụng những
thành tựu hiệu quả của nhân loại. - Đó là một chế độ xã hội có sự phát triển cao về văn
hóa và đạo đức. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình
đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao dộng chân tay và lOMoAR cPSD| 61429799
lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện. -
Đó là một chế độ xã hội không còn tình trạng người bóc lột người:
hướng đến xây dựng XH hài hòa nhân văn theo chủ tịch HCM. Trong xã hội này, con người
thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng và hợp lý.
3. Tư tưởng HCM về mục tiêu, động lực xây dựng CNXH a. Mục tiêu -
Chính trị: Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền về taynhân dân.
+ Nhà nước của dân là nhà nước mà mọi quyền hành trong nước đều
là của dân, mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước đều do nhân dân
quyết định. Trong bộ máy nhà nước ấy, nhân dân là người làm chủ và có quyền
làm tất cả mọi điều trong khuôn khổ pháp luật không ngăn cấm. Người dân sống
và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, để đảm bảo trật tự kỉ cương và đảm bảo
sự an toàn cho người dân lương thiện. Chúng ta có quyền làm rất nhiều việc nhưng
phải tuân theo quy định của pháp luật.
+ Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân bầu ra, do nhân dân đóng
thuế để bộ máy nhà nước chi tiêu hoạt động. Nhân dân không chỉ là những người
bầu ra cán bộ mà nguồn ngân sách để nhà nước hoạt động đến từ tiền thuế của nhân
dân: thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Do đó, nếu ai tham nhũng
tiền của nhà nước là tham nhũng tiền của nhân dân, đó là lý do tại sao trong bản
Hiến Pháp năm 1946, đối với tội tham ô, Bác Hồ và các nhà soạn thảo Hiến Pháp
đã đề ra biện pháp xử lí rất nặng.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước mà từ chủ tịch nước trở xuống đều hết
lòng phục vụ nhân dân. Theo Bác Hồ nói, cán bộ là con bộc, là đầy tớ của dân.
Bác có nói thêm rằng: những người được nhân dân tin tưởng giao cho nhiệm vụ trở
thành cán bộ trong bộ máy nhà nước đừng vào đấy để biến nó thành tổ chức làm
quan phát tài, biến nó trở thành nơi mưu cầu danh lợi, cán bộ trong bộ máy phải
luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân. Nếu như chính phủ để cho dân đói,
dân rét thì chính phủ ấy có lỗi với dân. Nhiệm vụ của chính phủ là phải làm cho
dân có mặc, làm cho dân có ăn, làm cho dân có làm, có làm được thế thì đó mới là
bộ máy nhà nước vì dân. Những điều ấy Bác đã nói từ rất lâu rồi nhưng hiện nay
vẫn còn giá trị cho nhân dân ta. Thời Bác còn sống, Bác còn luôn quan tâm đến đời
sống của những người khác, như năm 1965 khi Mỹ bắn phá miền Bắc rất ác liệt,
Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ sử dụng tiền tiết kiệm của mình để mua nước ngọt cho các
chiến sỹ uống. Với số tiền đó, các đơn vị trực chiến được uống nước ngọt miễn phí
trong vòng một tuần. Hay Bác từng gửi một bức thư cho bác sỹ Vũ Đình Tụng có
người con trai duy nhất đi ra kháng chiến và mất trên chiến trận, nội dung bức thư:
Bác sĩ biết đấy, tôi không có gia đình nên gia đình của tôi là Việt Nam, thanh niên
Việt Nam là con cháu của tôi. Mỗi khi có một thanh niên Việt Nam hi sinh tôi cảm
thấy như mất đi một phần cơ thể. -
Kinh tế: Hướng tới xây dựng một nước Việt Nam có nền kinh tế công-
nôngnghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. Trong quá trình phát triển đất nước,
Việt Nam phần lớn gắn với nông nghiệp, “dĩ nông vi bản”, phải lấy nông nghiệp làm gốc, lOMoAR cPSD| 61429799
phải coi nông nghiệp và công nghiệp là cái chân của con người, hoạt động hài hòa với
nhau. Đây là mục tiêu được đặt ra rất sớm từ năm 1960 khi cta bắt đầu xây dựng CNXH ở
miền Bắc, nhưng chúng ta không còn vốn và tiềm lực kinh tế để thực hiện cn hóa, nên
chúng ta được Liên Xô viện trở 800 triệu rúp và cử chuyên gia sang viện trở đất nước ta,
từ đó bộ mặt công nghiệp hóa của chúng ta có những thay đổi nhất định, điển hình như khu
công nghiệp cao xu, xà phòng, thuốc lá tại Thanh Xuân, Hà Nội. -
Văn hóa xã hội: phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xoá nạn mù chữ,
bàitrừ mọi thủ tục lạc hậu, tuyên truyền mê tín dị đoan. Phương châm xây dựng nền
văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. HCM nhắc nhở phải làm cho phong trào văn
hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng về mặt giải trí thì không được
xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn nhắc nhở phải làm cho
văn hóa gắn với lao động sản xuất. b. Động lực -
Trong tất cả các yếu tố để tạo thành nguồn động lực với sự phát triển của xã
hộithì Động lực quan trọng nhất là động lực con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là
công - nông - trí. Yếu tố con người là yếu tố mang lại sự phát triển bền vững nhất. Trên thế
giới có rất nhiều đất nước ko có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng thành công trong việc
phát huy yếu tố con người, điển hình như Nhật Bản. Trong suốt thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, yếu tố con người đã trở thành một yếu tố quan trọng để dẫn
đến thắng lợi của dân tộc ta. Ví dụ, sau cách mạng thành công, đất nước ta gặp nhiều khó
khăn về tài chính, kho bạc nhà nước thì cạn kiệt, nhà nước không có ngân sách để hoạt
động, đất nước đứng trước nhiều loại giặc,.. chính phủ ta đã phát động tuần lễ vàng, chỉ
trong vòng 1 tuần dưới sự kêu gọi của Bác, nhân dân đã ủng hộ 360 cân vàng. -
Kết hợp giữa sức mạnh cá nhân và sức mạnh tập thể. Phát huy sức mạnh
của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, đây là nguồn động lực chính và chủ yếu trong xây
dựng và phát triển đất nước, đồng thời cũng phát huy sức mạnh của cá nhân con người
thông qua tác động vào lợi ích.
- Hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự
trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy, BH đã nói “ cán bộ
là gốc rễ của mọi công việc.. cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên..” -
HCM rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh
doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích
quốc lợi dân: phải tạo mọi điều kiện để nền kinh tế phát triển, tiến nhanh tiến kịp với các nước trên thế giới. -
HCM quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thầncủa CNXH: “ Đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Trong giai đoạn trước đây,
dù thời kháng chiến, ta vẫn chủ trương xây dựng giáo dục, xây dựng trường đại học tại Việt Nam. -
Chủ trương đường lối của Đảng phải phù hợp với nguyện vọng của
quầnchúng nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là hạt nhân trong hệ thống động lực của CNXH -
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết
quốc tế. Sự phát triển giữa tất cả các quốc gia trên TG là phụ thuộc và nhau. Trước đây,
thời kháng chiến cứu nước, chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để tăng thêm nguồn
lực cho chúng ta cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong thời kì kinh tế hội nhập hiện nay có lOMoAR cPSD| 61429799
những điều mà QG này cần nhưng lại thiếu thì họ phải hợp tác với những quốc gia khác để
đôi bên cùng có lợi, cùng PT
V. TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng -
Theo tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
bởi trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ CM
khác nhau nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được xác định là vấn đề có ý nghĩa sống còn
quyết định sự thành công của CM -
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của Đảng, của Cách
Mạng. Mụctiêu và nhiệm vụ ấy luôn có sự thay đổi để phù hợp với từng giai đoạn của Cách
Mạng. Trước năm 1954, chúng ta đề ra mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc để đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược. Sau năm 1954, mục tiêu ấy đã thay đổi thành đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, để đấu tranh giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước
2. Nội dung đại đoàn kết dân tộc -
Theo tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân,
không phânchia dân tộc, đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, người VN trong nước và
nước ngoài. Thành phần đại đoàn kết ở đây đã được Bác Hồ mở rộng một cách tối đa, tất
cả các giai cấp tầng lớp tham gia Cách Mạng thì Đảng sẽ tập hợp được một khối đoàn kết
rộng lớn, tạo thành một nguồn sức mạnh to lớn. Cụ thể hơn, Bác Hồ lựa chọn tập hợp thành
phần đại đoàn kết rộng lớn như thế này vì Bác nói rằng: Trong mấy triệu người cũng có
người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Có những
người tinh thần yêu nước hiện rõ như chiếc bình pha lê để trong tủ kính để ai cũng nhìn
thấy, nhưng có những người tinh thần yêu nước được cất giấu kín ở trong rương, trong
hòm, và nhiệm vụ của những người làm cách mạng là phát hiện tinh thần yêu nước ẩn chứa
trong mỗi người và đánh thức họ theo cách mạng. Và chính vì xuất phát từ điều này cho
nên Bác Hồ đã cố gắng đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi một người dân VN dù ở
trong nước hay nước ngoài. Ví dụ, sau năm 1945 sau khi CM tháng 8 thành công, Bác Hồ
có viết một bức thư gửi cho tất cả các huyện, các tỉnh, các làng, Bác nói rằng: Nước nhà
cần phải kiến thiết, mà kiến thiết cần phải có nhân tài, vậy ở đâu biết có người tài đức thì
mời ra giúp nước giúp dân. Và Bác đã viết thư mời cụ Bùi Bằng Đoàn ra giúp đất nước.
Và khi Bác sang Pháp để đàm phán thì rất nhiều trí thức yêu nước đã theo Bác về nước, ví
dụ như bác sĩ Trần Hữu Tước, kĩ sư Trần Đại Nghĩa -
Để thực hiện đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên truyền thống yêu
nước, nhânnghĩa, điều kiện của dân tộc, đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng, có niềm vào con người, niềm tin vào nhân dân. Cụ thể, khoan dung độ lượng là
một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng HCM, Bác có sử dụng hình ảnh: sông sâu biển
rộng tại sao chứa được nhiều nước, bởi vì độ và lượng của nó sâu và rộng, cái chén cái đĩa
nhỏ tại sao chức được ít nước, bởi vì độ và lượng của nó nông và hẹp. Lòng người mà
không có tinh thần khoan dung độ lượng, giống như cái chén, cái đĩa nhỏ, một chút nước
đổ vào thôi là đã đầy. Và khoan dung là một yếu tố vô cùng quan trọng để thu phục được
lòng người, và chính vì thế cho nên, trong bộ máy chính phủ năm 1945, thì chúng ta đã sử lOMoAR cPSD| 61429799
dụng những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến cũ, là vu Bảo Đại, sử dụng vào vị trí cố vấn cho chính phủ.
3. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc
- Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện thông qua mặt trận dân tộc thống nhất
+ Năm 1930, mặt trận phản đế Đồng Minh Đông Dương làm nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc
+ Năm 1936, mặt trận dân chủ Đông Dương, đòi các quyền dân chủ
+ Năm 1941, mặt trận Việt Minh bao gồm rất nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau
+ Năm 1946, mặt trận Liên Việt
+ Năm 1955, mặt trận tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc)
+ Năm 1960, mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (ở miền Nam), đóng vai trò như một
bộ máy chính quyền cách mạng ở miền Nam, chỉ đạo ptrao ở Miền Nam, do luật sư Nguyễn Hữu
Thọ sáng lập. Đây là một mặt trận có vai trò rất lớn, vì không chỉ đảm nhận vai trò lãnh đạo cách
mạng miền Nam VN mà trong việc đàm phán hiệp định Paris từ năm 1968 -1973 thì mặt trận dân
tộc giải phóng miền nam Việt Nam đóng vai trò chuyên trách là 1 bên độc lập của quá trình đàm
phán, đại diện là bà Nguyễn Thị Bình.
+ Từ năm 1976 cho đến nay, cả nước có chung 1 mặt trận là mặt trận tổ quốc Việt Nam
- Nguyên tắc tổ chức và hành động của mặt trận dân tộc thống nhất
+ Nguyên tắc tổ chức phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông trí, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
+ Nguyên tắc tổ chức hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản
của các tầng lớp nhân dân
+ Nguyên tắc tổ chức trên cơ sở nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền chắc
+ Nguyên tắc tổ chức là khối đoàn kết, chặt chẽ, lâu dài, chân thành trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
VI. TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1. Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng HCM
* Nội hàm của khái niệm nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng HCM -
Nhà nước của dân: Đó là nhà nước mà mọi quyền hành trong nước đều là của toàn thể
nhân dân, mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia phải do chính nhân dân quyết định. Trong
nhà nước nhân dân là chủ, được mọi quyền dân chủ và có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật k cấm -
Nhà nước do dân: Đó là nhà nước do nhân dân bầu cử, lựa chọn ra, do nhân dân giúp đỡ,
góp ý, phê bình, xây dựng, bảo vệ và do nhân dân đóng thuế để nhà nước chi tiêu hoạt động. - Nhà
nước vì dân: Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có
đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Các cấp trong nhà nước từ chủ tịch
nước trở xuống đều là công bộc của dân, điều gì có lợi thì làm, hại thì tránh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân
dân và tính dân tộc của nhà nước
a. Về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước •
Nhà nước do Đảng lãnh đạo, Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân . Đảng
lãnh đạo mọi lĩnh vực của đời sống XH, trong đó có NN lOMoAR cPSD| 61429799 •
Bản chất giai cấp công nhân của NN thể hiện ở tính định hướng XHCN của sự phát
triển đất nước (Độc lập dân tộc gắn với CNXH là 1 mục tiêu xuyên suốt của CM VN , bản chất
GGCN ở đây cũng đc thể hiện ở tính định hướng đi lên CNXH, ngày hôm nay ta vẫn vững bước đi lên CNXH) •
Bản chất GGCN của NN được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ (Tập trung: thiểu số phục tùng đa số, số ít phục tùng số nhiều, dân
chủ là mọi người được quyền bày tỏ, ý kiến, tình cảm của mình, tập trung dựa trên cơ sở của sự
dân chủ, dân chủ phải có sự tập trung- bàn bạc xong rồi phải chốt đc ý kiến cuối cùng) b. Bản chất
GGCN thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc của NN •
NN ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của người VN, vậy nên
phải thống nhất về lợi ích giữa tất cả giai cấp tầng lớp, thống nhất giữa toàn thể nhân dân ở trong
XH với nhau. Cuộc đấu tranh của chúng ta là kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân. Để có
được 1 Nhà nước như ngày hôm nay là sự hi sinh xương máu của nhiều thế hệ VN đã ngã xuống,
chính vì vậy cho nên cần phải có sự thống nhất hài hòa giữa các tầng lớp trong XH •
Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc là cơ bản. Tư tưởng
lấy dân làm gốc là tư tưởng xuyên suốt trong tư tưởng HCM, Bác Hồ đã từng nói rằng : “ Dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Những nội dung của Bác về NN của
dân, do dân, vì dân với những nội hàm ta đã tìm hiểu khẳng định rằng NN luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân •
NN đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, lãnh đạo nhân dân, tiến hành
kháng chiến, xây dựng một nhà nước VN hòa bình, thống nhất, giàu mạnh
Kết quả là ta đã thống nhất được toàn bộ đất nước, đạt được sự tăng trưởng trong quá trình phát triển đất nước
3. Tư tưởng HCM về nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ - Để 1
nhà nước ra đời cần có 2 điều kiện là hợp hiến và hợp pháp.
+ Hợp hiến: nhà nước ấy khi ra đời phải có 1 bản hiến pháp và bản hiến pháp ấy được xem là gốc
của mọi bản hiến pháp sau này. Bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta ra đời năm 1946, sau khi
cuộc Tổng Tuyển cử diễn ra thành công, nhà nước VNDCCH ra đời, và bản hiến pháp với rất nhiều
tư tưởng tiến bộ, như quyền bình đẳng nam nữ nhằm tạo điều kiện nâng cao vai trò của phụ nữ,...
Qua rất nhiều cuộc cải cách hiến pháp thì bản hiến pháp năm 1946 đặt nền móng cho những bản hiến pháp sau này.
+Hợp pháp: nhà nước ra đời phải thông qua tổng tuyển cử và phải có số phiếu của trên 50% cử
tri dân số trên cả nước. Phải đáp ứng những điều kiện trên thì bộ máy nhà nước mới được coi là
hợp pháp, chính vì thế mà năm 1946 chúng ta mới phát động cuộc tổng tuyển cử để nhà nước
VNDCCH ra đời 1 cách hợp pháp. Cuộc tổng tuyển cử gặp vô cùng nhiều khó khăn: thù trong giặc
ngoài, giặc đói, giặc dốt,... Lúc bấy giờ, có người nói với Bác rằng đa số dân chúng không biết
chữ, nếu ko bầu cho Bác thì sao. Bác đã trả lời: “ Dân chúng sẽ phải là những người biết mình bỏ
phiếu cho ai”. Mặc dù những thế lực thù địch ở VN ngăn cản, ko cho cuộc Tổng tuyển cử diễn ra.
Ở HN, quân Tưởng bắn vào những người đi bỏ phiếu, ở Miền Nam, Quân Pháp sử dụng máy báy
ném bom địa điểm bỏ phiếu, các cán bộ MN đã phải mang hòm phiếu đến từng gia đình một.
Nhưng cuối cùng cuộc tổng tuyển cử diễn ra thành công, với hơn 90% số phiếu bầu cho Bác giữ 2
vị trí quan trọng là Chủ tịch nước và Chủ tịch Đảng. Nhà nước ra đời hợp pháp nên mới có quyền
được đặt quan hệ ngoại giao với các nước khác. Có như vậy thì Pháp mới chịu công nhận nước ta.
Trong bất kì văn bản pháp lý nào Pháp kí với Vn trong giai đoạn này đều công nhận Việt Nam là lOMoAR cPSD| 61429799
một nước có chính phủ riêng, có nghị viện riêng, có quân đội riêng. Năm 1946, khi ta sang Pháp
để đàm phán, họ buộc phải đón tiếp ta với tư cách là 1 nhà nước, chính phủ độc lập. -
Nhà nước quản lý đất nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật
vàocuộc sống. Từ khi bắt đầu hình thành NN, từ NN sơ khai đến các NN hiện đại như ngày hôm
nay, luôn luôn phải có những bộ luật. Từ thời phong kiến, ta đã có bộ luật Hồng Đức, từ thời nhà
Minh. Song hành cùng với đất nước là phải có 1 hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, giữ cho
đất nước có được kỉ cương -
Trong việc thực thi hiến pháp và pháp luật, HCM luôn đảm bảo, chú ý đến tính
nghiêmminh và hiệu lực. Dù bất kỳ ai, khi vi phạm pháp luật đều nhận hình thức xử lý như nhau,
Chủ tịch nước từng đưa ra bản án tử hình cho 2 cán bộ thoái hoá biến chất, thể hiện tính nghiêm
minh của Pháp luật với 2 tội tham ô và nhận hối lỗi. Trước khi đặt bút kí vào 2 bản án tử hình đó,
BH đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều, sau đó, Bác vẫn giữ nguyên bản án.
4. Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có tính hiệu quả. -
Tích cực đẩy mạnh giáo dục, đào tạo đạo đức đi cùng với pháp luật, hài hòa đức trị
vàpháp trị. Đức trị là lãnh đạo đất nước bằng đạo đức, pháp trị là lãnh đạo đất nước bằng pháp
luật, thể hiện sự kết hợp giữa cương và nhu. Đạo đức là yếu tố mềm mỏng, pháp luật là yếu tố
cứng rắn. Cần thống nhất hài hòa giữa lí trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung nhưng không bao
che cho sai lầm, khuyết điểm. Bác Hồ là người lấy khoan dung làm giáo dục thu phục lòng người,
nhưng cũng dùng yếu tố pháp luật rất nghiêm minh. Tinh thần khoan dung trong TTHCM là 1 nội
dung thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, khi nói đến khoan dung, Bác Hồ đã sử dụng một hình ảnh
rất đẹp: sông sâu biển rộng tại sao chứa được nhiều nước, bởi vì độ và lượng của nó sâu và rộng,
cái chén cái đĩa nhỏ tại sao chức được ít nước, bởi vì độ và lượng của nó nông và hẹp. Lòng người
mà không có tinh thần khoan dung, độ lượng, giống như cái chén, cái đĩa nhỏ, một chút nước đổ
vào thôi là đã đầy. Do đó phải phối hợp hai yếu tố hợp lý để xây dựng lòng người, tạo nhà nước
nghiêm minh về mặt pháp luật. -
Tích cực đẩy mạnh đấu tranh chống lại các thứ giặc nội xâm là quan liêu, tham ô,
lãngphí. Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và
của chính phủ” nó là: “Kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà nó nằm
trong các tổ chức của ta, để làm hỏng mọi việc của ta”. Theo Hồ Chí Minh, trong ba kẻ thù trên,
tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm đến
mức mà Người từng xếp căn bệnh này ngang hàng với tội phản quốc. -
Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức nhà nước có đủ đức đủ tài, hăng hái
thànhthạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ. Đây là một nội dung rất quan trọng để xây
dựng nhà nước trong sạch, hđ hiệu quả. Nếu NN như 1 bộ máy thì đội ngũ công chức chính là
những người vận hành, bộ máy ấy vận hành có trơn tru, hiệu quả không phụ thuộc nhiều vào cán
bộ công chức. Chính vì vậy, từ rất sớm, BH đã nói rằng :” Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”
Để xây dựng một người cán bộ công chức đủ đức và tài, cần có các phẩm chất gì : •
Phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, trung thành với đất nước để phục vụ TQ, phụng sự nhân dân •
Hăng hái thành tạo công việc, giỏi chuyên môn “ vừa hồng vừa chuyên “ -vừa tốt phẩm
chất đạo đức vừa giỏi chuyên môn •
Có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, phải gần dân để thấu hiểu dân, phải lắng nghe
tâm tư tình cảm của nhân dân, không hách dịch lOMoAR cPSD| 61429799 •
Cán bộ công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, thắng không kiêu bại không nản. •
Phải thường xuyên thực hiện việc phê bình và tự phê bình. BH đã từng quan niệm “
PB và tự PB như việc đánh răng, rửa mặt hàng ngày”. Bác đặt “Tự phê bình” lên trước
phê bình bởi trước khi muốn phê bình người khác thì mình phải phê bình bản thân trước
VII. TTHCM VỀ VĂN HOÁ * Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
a. Vị trí, vai trò: Sau CMT8-1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của
xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - chính trị
- xã hội. Văn hóa quan trọng ngang với kinh tế, chính trị, xã hội. Chính trị, xã hội có được giải
pháp thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc
đẩy xây dựng phát triển kinh tế.
b. Tính chất nền văn hóa:
Tính chất: tính dân tộc; tính khoa học; tính đại chúng. Một nền văn hoá phải làm cho mỗi người
dân Việt Nam hiểu biết được cội nguồn lịch sử hình thành phát triển dân tộc; biết giữ gìn, phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp. Nền văn hoá mới phải phản ánh được đời sống hiện thực của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo đúng quy luật khách quan, đảm bảo tính chân thực; tiếp thu
văn hoá nhân loại để làm phong phú thêm văn hoá dân tộc, đưa văn hoá Việt Nam, ngày càng vươn
tới đỉnh cao văn hoá nhân loại. Nền văn hoá mới phải lấy việc phục vụ đông đảo quần chúng nhân
dân lao động làm mục đích hoạt động nhằm góp phần nâng cao đời sống tinh thần vui tươi lành mạnh cho nhân dân.
Chức năng của văn hóa:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân.
Hai là, nâng cao trình độ dân trí.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về 1 số lĩnh vực văn hóa: a. Văn hóa giáo dục: •
Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học. •
Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước
phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và học chữ mà phải dạy và học làm người. •
Phương châm, phương pháp của giáo dục: Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
thực tế, học tập phải kết hợp với lao động; phải tạo môi trường giáo dục lành mạnh, dân
chủ, phối hợp cả ba khâu nhà trường, gia đình và xã hội; phải xây dựng đội ngũ giáo viên
có đạo đức cách mạng, giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. lOMoAR cPSD| 61429799
b. Văn học - nghệ thuật •
Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu
tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. •
Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân •
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước, của dân tộc c. Văn hoá đời sống. •
Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung:
đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung này có quan hệ mật thiết, trong
đó đạo đức mới giữ vai trò chủ yếu. •
Đạo đức mới: thực hiện: “CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH"', khẳng định: "Nếu không giữ
đúng cần, Kiệm. Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân", "Nêu cao
và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. •
Lối sống mới: là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài
hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Phải xây dựng cách
sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham
muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. •
Nếp sống mới: quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nề nếp, thói quen, ổn định ở
mỗi người, thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng, trong khu vực hay cả
nước. Chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát triển những thuần phong
mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán cũ lạc hậu.
VIII. TTHCM VỀ ĐẠO ĐỨC a)
Tư tưởng HCM về đạo đức
* Vị trí, vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội con người
- Khái niệm: Đạo đức là một hệ thống những giá trị chuẩn mực được xã hội thừa nhận để quy định,
điều chỉnh hành vi của con người (trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với tự
nhiên và giữa người với xã hội).
- Đạo đức là cái gốc, là nền tảng của con người và xã hội; đặc biệt là gốc, là nền tảng của người làm cách mạng
- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người.
- Theo HCM, đức phải đi đôi với tài. Đức là cái gốc và tài năng cũng là gốc của con người.
* Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam theo tư tưởng HCM - Trung với nước, hiếu với dân
+ Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
+ Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
. Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
. Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Nội dung của hiếu với dân là:
. Khẳng định vai trũ sức mạnh thực sự của nhân dân.
.Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước.
. Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. lOMoAR cPSD| 61429799
- Có tình yêu thương con người
+ Tình yếu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ
Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Nghiếm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai
lầm, đó nhận ra và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn
dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
- Cần kiệm liêm chính chí công vô tư
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. + Kiệm là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình.
Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; không xa sỉ, không hoang phí.
+ Liêm là phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng
bốc mình. Chỉ cú một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
+ Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.
. Đối với mình, khụng tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để
phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
. Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
. Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó,
nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
+ Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng.
- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt
Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
* Những nguyên tắc thực hiện đạo đức -
Nói phải đi đôi với làm, chống mọi biểu hiện của nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói
một đường làm một nẻo -
Phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, lên án phê phán cái xấu, cổ vũ biểu dương cái tốt -
Phải nêu gương sáng về đạo đức- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
b) Vận dụng tư tưởng đó trong giáo dục và đạo tạo thế hệ trẻ hiện nay -
Phát huy nhiệt huyết sức trẻ, trí tuệ, thực hiện thành công lý tưởng của Đảng, của Bác: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. -
Không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, chú trọng thanh niên dân tộc,
tôn giáo vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên
doanh. Mỗi một đoàn viên thanh niên cần phải thường xuyên nhận thức sâu sắc về rèn luyện tu
dưỡng đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, có trách nhiệm với gia đình và xã hội. lOMoAR cPSD| 61429799 -
Mỗi một đoàn viên thanh niên cần nhận thức sâu sắc về vấn đề học tập, nâng cao trình độ
trong hội nhập và phát triển. Người đã từng dạy: “Học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm
cho dân giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà”. -
Các cấp bộ Đoàn phải thường xuyên tổ chức học tập tư tưởng đạo đức của Người phù hợp
từng đối tượng. Cần phải sáng tạo các hình thức học tập để không khô cứng giáo điều mà sinh
động hấp dẫn lôi cuốn mọi người.