








Preview text:
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC. CÁCH MẠNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI PHẢI ĐI THEO CON
ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN.
Hà Nội, tháng 5 năm 2021 MỤC LỤC
I. Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX............................... 1
II. Tư duy độc lập và tầm nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ................................................................................ 1
1. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga ............................................... 2
2. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin ........................................................................................................... 3
3. Quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp (12/1920) ........................................................................................ 5
III. Ý nghĩa của sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của chủ tịch Hồ Chí
Minh .......................................................................................................................... 5
IV. Kết luận ............................................................................................................. 6 I.
Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nền độc lập của dân tộc ta bị xâm phạm, quyền lợi
sống còn của đại bộ phận nhân dân ta bị chà đạp. Chính vì vậy trong xã hội nảy sinh hai
mâu thuẫn cơ bản nhất: mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam với bên kia là
thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân với giai
cấp phong kiến địa chủ ngày càng trở nên gay gắt.
Trong bối cảnh đó, tất yếu nảy sinh một yêu cầu cấp bách để giải quyết mâu thuẫn trên: đó
chính là phải tìm ra con đường đúng đắn nhất cho cách mạng Việt Nam. Phải chọn con
đường nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do đích thực?. Thế nhưng, lịch sử phong trào
chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX trở về trước chưa đưa ra được lời giải thỏa đáng
cho câu hỏi này. Các phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc – Trung -
Nam: từ phong trào Cần Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ
phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung
Kỳ và rất nhiều các cuộc đấu tranh quần chúng khác. Các phong trào kể trên đều sáng ngời
tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại, chỉ cho
đến khi người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước II.
Tư duy độc lập và tầm nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Vượt qua những hạn chế trên của những bậc tiền bối, cùng với tấm lòng yêu nước thương
dân sâu sắc và nỗi trăn trở về vận mệnh dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con
đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc. không thể dẫn tới
thắng lợi. Nguyễn tất Thành đã nhận ra những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời
trong việc xác định mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ cách mạng; về phương thức, phương
pháp đấu tranh; về nhận thức “bạn - thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam.
Con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng khác gì việc “đuổi hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”. Còn con đường của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”.
Bởi vậy, mặc dù rất kính mến, trân trọng thế hệ cha anh, nhưng Nguyễn Tất Thành đã
không thể đi theo con đường của họ. Người muốn đi tìm một con đường cứu nước mới. Đó
chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho quá
trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Thế nhưng, một câu hỏi mới lại được đặt
ra, chính là phải chọn hướng đi như thế nào thì mới có thể giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
Bỏ qua những lựa chọn như Trung Quốc, Nhật, Người quyết định chọn phương Tây – hay
cụ thể là Pháp. Năm 1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí 1
“Ngọn lửa nhỏ”, Người đã giải thích về quyết định lựa chọn nước Pháp năm ấy rằng: “Vào
trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: “Tự do – Bình đẳng
– Bác ái”. Đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp – thế là tôi
muốn làm quen với văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
Người muốn tìm hiểu ngọn nguồn của chế độ thực dân đô hộ dân tộc Việt Nam, và cũng là
để học hỏi tinh hoa thế giới, sau về giúp đồng bào, đó là một đột phá mới trong tư duy chính
trị lúc bấy giờ. Từ chỗ xác định rõ động cơ, mục đích, hướng đi như vậy, Nguyễn Tất Thành
đã quyết định chọn hướng đi riêng cho mình.
Trong vòng mười năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để có thể
đến được nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều nước thuộc
khắp các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt, Người dừng chân khảo sát khá lâu ở ba nước đế
quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm
đó, Người đã bổ sung cho mình những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết
sức bao quát. Quan trọng, Người nhận ra rằng giai cấp tư sản ở thế kỷ này không còn là giai
cấp tiến bộ của thời đại nữa và con đường của cách mạng tư sản không phải là con đường
chúng ta nên đi. Bên cạnh đó, về các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa thực dân, Người đi đến
kết luận không thể đúng đắn hơn, rằng: dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột; mà cũng chỉ có một tình hữu
ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản.
Trên cơ sở những nhận thức căn bản đó, điều mong muốn tìm cho bằng được con đường
cứu nước đúng đắn càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành cố gắng hơn nữa. Trên cuộc hành
trình đầy gian truân đi tìm con đường cứu nước, có ba sự kiện chính với vai trò tạo tiền đề,
khai sáng, và khẳng định chắc chắn cho sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc.
1. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra
và giành thắng lợi rung chuyển thế giới. Nó thực hiện sứ mệnh giải phóng quần chúng lao
động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột, đưa họ từ thân phận người nô lệ làm thuê lên địa vị
người chủ chân chính của xã hội.
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi, dù chưa biết nhiều về cuộc cách
mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc thấy mình “có mối tình đoàn kết với cách mạng Nga và
Người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy”. Sau khi trực tiếp đến Liên Xô để nghiên cứu, được tận
mắt chứng kiến những thành tựu vĩ đại do Cách mạng Tháng Mười Nga mang lại trên quê
hương Xô viết, Người đã cảm thán rằng: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng
Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột 2
trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn
và sâu xa như thế”.
Nếu trước năm 1911, Nguyễn Tất Thành mới nhận thức được sự bế tắc của con đường cứu
nước cũ, tình trạng đất nước như “trong đêm tối không có đường ra”, thì giờ đây, Nguyễn
Tất Thành đã thấy bùng lên một hy vọng về công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo
con đường mới, nhất định sẽ đưa lại thắng lợi. Dần dần về sau trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức lý luận, Người hiểu rõ hơn về Cách mạng Tháng Mười, về Chủ nghĩa Lê-nin, về
con đường Cách mạng Tháng Mười đã vạch ra cho các dân tộc bị áp bức đấu tranh để tự
giải phóng. Để rồi cuối cùng, Người cũng đi đến một kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ
có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng
cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách
mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”. Bởi vậy muốn cách
mạng thành công thì phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Không thể đi
theo con đường cách mạng tư sản vì con đường đó không giải phóng dân tộc thuộc địa,
không giải phóng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột; những cuộc cách mạng kiểu đó, sớm
muộn thì nhân đân phải làm cách mạng một lần nữa mới xong. Đây là một tiền đề quan
trọng để Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, nắm bắt được “ánh sáng lý luận” từ bản sơ thảo lần thứ
nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin.
2. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” còn gọi là
Luận cương của Lênin (Đây là một trong những văn kiện được Lênin viết xong vào tháng
7/1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, họp từ 19/7 đến 07/8/1920) ra đời trong
điều kiện lịch sử hết sức phức tạp. •
Các nước tư bản đế quốc sau chiến tranh đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng,
tìm cách trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế đó lên đầu giai cấp vô sản, quần
chúng lao động ở cả chính quốc và các nước thuộc địa, đẩy họ vào tình cảnh khốn cùng. •
Mặt khác, một bộ phận các lãnh tụ của đảng thuộc Quốc tế II, tự coi mình là cộng
sản, nhưng trên thực tế là những phần tử cơ hội, thao túng phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Họ mang tính dân tộc tư sản hẹp hòi và sô vanh nước lớn. Họ chỉ đơn giản
thừa nhận một cách hình thức quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trên thực tế thì hoàn toàn
ngược lại, họ núp dưới chiêu bài “bảo vệ Tổ quốc” để che đậy việc bảo vệ quyền lợi của 3
giai cấp tư sản trong việc đi áp bức các dân tộc thuộc địa. Chúng khơi dậy những thành kiến
và tô đậm sự nghi kỵ dân tộc nhằm chia rẽ các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản và nhân
dân lao động ở chính quốc, ở các nước tư bản khác.
Trong bối cảnh đó, Lênin đã soạn thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa. Tác phẩm ngắn gọn, vô cùng quan trọng này đã củng cố những nguyên tắc mácxít về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Những luận cương đó đã được Đại hội II Quốc tế Cộng
sản thông qua và coi là cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản
trong tình hình lúc bấy giờ.
Như một điều tất yếu của lịch sử, vào một ngày tháng 7 năm 1920, đọc được bản Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo
Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của
nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay anh hằng mong ước, đợi chờ.
Đây là văn bản chính thức đầu tiên bênh vực cho các nước thuộc địa, các dân tộc “nhược
tiểu”. Những tư tưởng cơ bản trong Luận cương có nhiều điểm phù hợp với tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi thống khổ của quần chúng lao động khắp
thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa cũng như tinh thần
đoàn kết của quần chúng lao động trong đấu tranh.
Dưới ánh sáng Luận cương của Lênin, bằng sự mẫn cảm về chính trị, tư duy nhạy bén và
kinh nghiệm thực tiễn phong phú của những năm bôn ba trong phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động các nước thuộc địa và tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc
đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Người nhận thấy rằng,
tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cần phải gắn bó với tinh thần quốc tế vô sản và vấn đề
độc lập dân tộc của Việt Nam cần phải gắn bó khăng khít với phong trào cách mạng thế
giới. Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” Sau này, khi nhắc đến
sự kiện này, Người đã viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn
toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III”.
Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát
triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu 4
nước trở thành người cộng sản và nhất quyết đi theo con đường cách mạng vô sản để
giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân Nam.
3. Quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp (12/1920)
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã quyết định bỏ
phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh
dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Người, cũng là bước ngoặt
căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người chính thức trở thành người
cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
III. Ý nghĩa của sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ở thời điểm bấy giờ, sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam, đó chính là: •
Làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân; giành lại
nền độc lập, tự do cho nhân dân •
Lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước
phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là con đường cách
mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực, kiên trì và quyết tâm truyền bá lý
luận Mác – Lênin, tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và tiến hành cuộc vận động
đấu tranh giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quỹ đạo của cách mạng vô sản
và là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. •
Đó là con đường cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản, đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành
độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. 5 •
Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. IV. Kết luận
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong 15
năm đấu tranh giành chính quyền, trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược, giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1976 đến nay, cũng như
bài học thành công và chưa thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong
thế kỷ XX đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là hoàn toàn đúng đắn. 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tái bản 2018
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2
3. Cách mạng Tháng Mười Nga với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo điện tử Tạp chí Cộng sản, 2020.
4. Từ Luận cương của Lênin, tới việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản của
Nguyễn Ái Quốc, Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Nghệ An, 2020.
5. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cách mạng Tháng Mười Nga, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021. 7
Document Outline
- ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. CÁCH MẠNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI PHẢI ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN.
- MỤC LỤC
- I. Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
- II. Tư duy độc lập và tầm nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
- 1. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga
- 2. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin
- 3. Quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (12/1920)
- III. Ý nghĩa của sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- IV. Kết luận