Câu 1: Đặc điểm cơ bản của nghề luật
- Nghề luật do những người các chức danh pháp khác nhau thực
hiện, hướng tới mục đích bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân
phẩm của công dân, giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nâng cao ý
thức pháp luật, tôn trọng quy tắc của cuộc sống hội, tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác
Những người hành nghề luật các chức danhpháp khác nhau thực hiện
hoạt động hướng đến mục đích chung như trên. mỗi chức danh pháp lại
những mục đích cụ thể khác nhau. dụ như luật tiến hành những hoạt động
của mình nhằm mục đích cụ thể là: bảo vệ lợi ích khác hàng thông qua đó vai
trò giám sát phản biện cho hoạt động của các quan nhà nước đồng thời hướng
dẫn thực hiện pháp luật, đưa những ý kiến pháo lý giúp khách hàng tiến hành công
việc đúng luật và đạt hiệu quả cao nhất
- Nghề luật hoạt động trong khuôn khổ luật định
Những người hành nghề luật luôn phải đặt hoạt động của mình trong khuôn
khổ pháp luật. Nghề luật một trong những nghề sự hạn chế cao trong hoạt
động nghề nghiệp. Cụ thể là ngoài việc tuân thủ đầy đủ pháp luật 3 chung như luật
Hiến pháp luật dân sự…, luật còn phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quy định nghiêm
ngặt của pháp luật về ngành nghề mình tham gia vậy những người hoạt
động nghề luật phải những phẩm chất cần thiết cho quá trình hành nghề của
mình như: yêu công ,công bằng, khách quan, trung thực …và các năng
chuyên môn như khả năng phân tích,tổng hợp, khả năng đánh giá. dụ đối với
một luậtngoài việc đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn đào tạo, tập sự điều
kiện hành nghề của Luật Luật thì trong từng hoạt động của mình còn phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy của pháp luật mỗi hoạt động như trong hoạt động tại
phiên tòa thì phải tuân theo luật Tố tụng, nếu tham gia vào vụ án từ giai đoạn điều
tra thì phải tuân thủ pháp lệnh điều tra hình sự… Đây cũng điểm khác biệt của
khuôn khổ hành nghề của các nhà luật của nước ta so với các nước tư bản trên Thế
Giới; Việt Nam bào chữa như thế nào luậtcũng không được vượt ra khỏi
khuôn khổ pháp luật luôn phải tôn trọng pháp luật luôn phải tôn trọng sự thật
khách quan , nhưng những nước bản thì luật thể bào chữa một cách
làm sao lợi cho thân chủ của mình kể cả việc biện hộ đổi trắng thành đen
miễn là có căn cứ không trái pháp luật
- Nghề luật là bất khả kiêm nhiệm
Điều đó có nghĩa một người không thể đồng thời làm hai chức danh hoặc
làm hai vị trí nghề nghiệp khác nhau trong hệ thống nghề luật. Một người khi đang
hành nghề thẩm phán thì không thể được làm luật sư, công chứng viên hay chấp
hành viên ngược lại. Pháp luật chỉ cho phép họ được quyền thay đổi hoạt động
hành nghề của mình. dụ cụ thể Điều 10 luật Luật 2006 quy định Người đã
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật một trong những trường hợp bị thu hồi
Chứng chỉ hành nghề luật : cán bộ, công chức, viên chức. điều này nghĩa
là khi họ trở thành các chức danh pháp trong hệ thống các quan nhà nước thì
không được làm luật sư…
Nghề luật sử dụng các quy định pháp luật làm công cụ, phương tiện
để giải quyết những vấn đề pháp phát sinh trong đời sống hội, nói cách
khác nghề luật hoạt động dựa trên pháp luật quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp (còn được gọi là quy tắc ứng xử nghề nghiệp)
Đây đặc điểm để phân biệt nghề luật với những nghề khác đang tồn tại
trong xã hội. Tuy nhiên với mỗi người hành nghề luật khác nhau, pháp luật đuợc 4
sử dụng, áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp từng góc độ khác nhau. Đối với
thẩm phán, pháp luật được sử dụng để xác định tính đúng/sai của tranh chấp, có tội
hay không tội. Đối với luật sư, Công chứng viên pháp luật được sử dụng đưa
các chủ thể thực hiện đúng “hành lang pháp lý” dành cho mình. Như vậy, với mỗi
nghề luật khác nhau đòi hỏi phải các kỹ năng khác nhau,các kiến thức khác
nhau dù đều là áp dụng pháp luật
Câu 2: Vai trò của nghề luật
Trong nền pháp dân chủ khi các giá trị quyền con người được tôn
vinh thì đích đến của toàn bộ hệ thống pháp thì nghề luật vai trò đặc biệt
quan trọng trong xã hội hiện nay.
Nghề luậtsứ mệnh trong việc bảo vệ công lý, công bằng trong hội,
căn cứ để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động tư pháp.
Trong những năm gần đây pháp luật về luật hành nghề luật cũng
như các hoạt động lập pháp trongnh vực này đã đạt được những thành quả tích
cực mà biểu hiện sinh động là việc ban hành Luật Luật sư 2006
Với điều kiện về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với toàn cầu hoá t
các luật những người hoạt động trong lĩnh vực hành nghề luật đang ngày
càng phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán,
kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực
mới mẻ như đầu tư nước ngoài,….
nước ta hiện nay thì nghề luật đang ngày càng khẳng định được vai trò
quan trọng của mình đối với sự phát triển của xã hội. Để góp phần tạo nên một nét
văn hóa riêng của nghề luật cũng như những người hành nghề luật thì mỗi
người cần phải có những nhìn nhận đúng mực về nét văn hóa tư pháp nói chung và
phong cách văn hóa nói riêng của nghề luật sư
Câu 3: Ý nghĩa của nghề luật
Nghề luật có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống xã hội cũng như là đối với mỗi
người dân trong xã hội.
- Trong thời đại hiện nay các quyền của con người ngày càng được pháp luật
và nhà nước tôn trọng bảo vệ do đó những người hành nghề luật ý nghĩa rất
lớn trong việc bảo vệ quyền lợi của người dân.
- Đảm bảo cho những công bằng hội, đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện một cách công bằng, công khai minh bạch tạo sự tin tưởng của người dân
đối với pháp luật và hệ thống chính trị của nhà nước.
- Mọi hoạt động hành nghề luật đều hướng tới bảo vệ công lý, hướng tới
việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của quan, tổ chức
nhân.
Như vậy có thể thấy được rằng nghề luật có ý nghĩa rất quan trọng trong đời
sống xã hội hiện nay.
Những người hành nghề luật cần có trách nghiệm trong việc phát huy và duy
trì được những điểm sáng của nghề, phải ý thức giữ gìn đạo đức, phẩm giá của
mình, giữ mối quan hệ tốt với mọi người, với đồng nghiệp.
Câu 4: Nghề luật – vinh quang và thách thức
* Vinh quang:
Nghề luật một nghề vị trí, vai trò rất quan trọng trong chế thực thi
pháp luật, áp dụng duy trì bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền con người => Nghề luật đóng vai trò quan
trọng trong việc duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.
* Thách thức
- Luôn cần giữ hình ảnh;
- Là một nghề nhạy cảm, đụng chạm đến mặt trái của xã hội;
- Là nghề tiềm ẩn nhiều rủi ro.
* Trên mạng:
1.2.1. Vinh Quang của nghề luật
-Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc đấu t ranh phòng chống và xử
lý vi phạm pháp luật, duy trì trật tự, kỷ cương đất nước
-Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm công bằng trước
pháp luật và duy trì công lý
- Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho mọi người dân
tôn trọngpháp luậtphát huy dân chủ trong đời sống hội và trong quản lý nhà
nước.
1.2.2. Thách thức của nghề luật
1.2.2.1. Thách thức xuất phát từ đặc điểm của nghề luật
-Thứ nhất: Người hành nghề luậtnhững người của công chúng. Mọi hành
vi của người hành nghề luật đều được các chủ thể khác quan tâm chú ý. Cho nên,
trong quátrình hành nghề, nếu không cẩn thận, họ sẽ đánh mất niềm tin của người
dân.
-Thứ hai: Nghề luật một nghề nhạy cảm, luôn đụng chạm đến những vấn
đề, những quan hệ phức tạp, những mặt trái của xã hội.
-Thứ ba: Nghề luật tiềm ẩn nhiều rủi ro
1.2.2.2. Thách thức đối với nghề luật Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế
-Thứ nhất, nguy cơ tụt hậu so với tốc độ hội nhập quốc tế.
-Thứ hai, mô hình tổ chức chế hoạt động của các quan pháp
thực thi pháp luật khác còn khoảng cách xa so với các quy tắc chuẩn mực
chung quốc tế.
-Thứ ba, công tác cán bộ của các quan tư pháp và thực thi pháp luật khác
chưa tương ứng với yêu cầu hội nhập, chưa sẵn sàng chủ động hội nhập
-Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ liên quan đến hội nhập cho
cán bộ còn mang tính hình thức, chưa thực sự có hiệu quả.
-Thứ năm, nhiều nơi nhiều lúc còn chưa tư duy, nhận thức đúng về hội
nhập quốctế nên dẫn đến chưa có hành động đúng
Câu 5: Đạo đức nghề luậtgì? Phân tích các nguyên tắc chung về đạo
đức nghề luật.
3.1. Khái niệm đạo đức nghề luật
- Đạo đức: Là quan niệm được thừa nhận đối với chuẩn mực hội về điều
thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng về phẩm chất tốt đẹp của con
người. những tiêu chuẩn, nguyên tắc được luận hội thừa nhận, quy định
những hành vi của con người với nhau và đối với xã hội.
- Đạo đức nghề luật: tập hợp các nguyên tắc chuẩn mực ng xử của
người làm nghề luật nhằm điều chỉnh, kiểm soát đánh giá định hướng hành vi
của những người làm nghề luật hướng tới bảo vệ giá trị nhân văn trong xã hội pháp
quyền, bảo vệ công lý, lẽ công bằng trong xã hội.
- Đạo đức nghề luật là một loại hình đạo đức nghề nghiệp.
3.2. Các nguyên tắc chung về đạo đức nghề luật
- Các phẩm chất cần theo nghĩa hội thông thường đối với một công
dân trong xã hội.
- Bản lĩnh nghề nghiệp (kiên định, quyết đoán, hướng tới cái đúng, cái công
bằng và cái hoàn thiện).
- Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp.
- Tình thương yêu con người.
* Trên mạng
-Thứ nhất, Người hành nghề luật phải mang trong mình những phẩm chất
tốt đẹp về mặt đạo đức như những người công dân bình thường khác trong
hội.Người hành nghề luật cần có một lối sống lành mạnh, suy nghĩ trong sáng, thái
độ thân thiện với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, công việc cuộc
sống. Những phẩm chất đó thể tính trung thực, lòng dũng cảm, tính công
bằng, kháchquan và tính nhân bản...
-Thứ Hai, : Bản lĩnh sự kiên định, sự quyết đoán.Bản lĩnh nghề nghiệp
Bản lĩnh còn khả năng hướng tới cái đúng, cái công bằngcái hoàn thiện. Bản
lĩnh nghề nghiệp của người hành nghề luật một tố chất không thể thiếu trong
suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Do điều kiện hoạt động nghề
nghiệp của người hành nghề luật gắn liền với tính độc lập, tính tự quyết, khả năng
phán quyết mọi vấn đề trên cơ sở phân tích pháp luật và niềm tin nội tâm.
-Thứ Ba, :Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của mình
Trách nhiệm hay nghĩa vụ một khái niệm mang màu sắc pháp lý, tuy vậy lại
một tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Nếu phương diện luật học, người ta nói
nghĩa vụ đi đôi với quyền thì phương diện đạo đức, người ta đề cao tinh thần
trách nhiệm mà không gắn với quyền lợi.
-Thứ Tư, :nghề luật hướng tới một nhóm đốiTình thương yêu con người
tượng người cụ thể, đó những người “vướng vào vòng lao lý”, những người
số phận pháp của họ do những người làm nghề luật quyết định trong phạm vi
thẩm quyền, đó có thể là nạn nhân của tội phạm, nạn nhân của những sai lầm trong
nhận thức của bản thân hoặc nạn nhân của gia đình, của điều kiện, hoàn cảnh
sống không được trọn vẹn.
Câu 6: Vai trò của đạo đức nghề luật
3.3. Vai trò của đạo đức nghề luật trong xã hội
- Điều chỉnh hành vi của người làm nghề luật.
- Bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hệ thống tư pháp.
- Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong xã hội.
3.4. Rèn luyện và bồi dưỡng đạo đức nghề luật
- Tại các cơ sở đào tạo nghề luật.
- Thông qua hoạt động nghiệp vụ của người hành nghề luật.
- Tự rèn luyện và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề luật
Câu 7: Phân tích chức năng của Viện kiểm sát nhân dân?
CHỨC NĂNG VKSND TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố hoạt động của VKSND trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. (K1 Đ3
LTCVKSND 2014)
1.1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
- Kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của quan, tổ chức,
nhân trong hoạt động pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong suốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động pháp; các hoạt động pháp khác theo
quy định của pháp luật. (Khoản 1 Điều 4 LTCVKSND 2014)
Câu 8: Phân tích đặc điểm của kiểm sát viên?
1.1. Khái niệm
Kiểm sát viên người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp. (Điều 74
Luật tổ chức viện kiểm sát 2014)
1.2. Đặc điểm
- Thứ nhất, Kiểm sát viên là công chức ngành Kiểm sát.
- Thứ hai, Kiểm sát viên một chức danh pháp được sắp xếp theo
ngạch.
- Thứ ba, Kiểm sát viên một chức danh pháp được bổ nhiệm thời
hạn theo quy định của pháp luật. Bổ nhiệm lần đầu thì thời hạn giữ chức danh này
là 05 năm; bổ nhiệm lần tiếp theo là 10 năm.
- Thứ tư, Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Câu 9: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của Kiểm sát
viên?
* Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
- Kiểm sát viên phải có nghĩa vụ với Đảng, Nhà nước và nhân dân; nghĩa vụ
trong khi thực thi công vụ.
- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên
tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
- Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi, quyết định của mình.
- Kiểm sát viên phải tự chịu trách nhiệm về tất cả các hành vi quyết định
đó. Đặc biệt trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
- Khi căn cứ cho rằng quyết định của Viện trưởng trái pháp luật thì
Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao phải kịp thời báo cáo bằng
văn bản với Viện trưởng. Nếu trong trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc
thi hành thì phải văn bản Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải
chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công
tố kiểm sát các hoạt động pháp được quy định cụ thể tại các văn bản pháp
luật 3 như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật T tụng dân sự, luật Tố tụng hành
chính và các văn bản của Ngành
Nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của KSV trong Tố tụng hình sự:
- Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của quan,
người có thẩm quyền;
- Trực tiếp giải quyết lập hồ giải quyết nguồn tin về tội phạm; Kiểm
sát việc thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế; kiểm sát việc lập hồ giải quyết nguồn tin về tội
phạm, việc lập hồ vụ án của quan, người thẩm quyền điều tra; kiểm sát
hoạt động khởi tố, điều tra của quan điều tra,quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra;
- Trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối
chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét;
- Kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm;
việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, kết thúc điều tra;
- Đề ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can;
- Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin
về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân, người làm chứng, bị hại, đương sự; lấy lời khai người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp;
- Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm
chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong Tố tụng dân sự
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
- Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự;
- Nghiên cứu hồ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định; thu thập tài liệu, chứng cứ
theo quy định;
- Tham gia phiên tòa, phiên họp phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án;
- Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng;
- Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật;
- Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị
quan, tổ chức thẩm quyền xử nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát.
Câu 10: Những việc Kiểm sát viên không được làm:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm liên
quan đến đạo đức công vụ;
- Những việc liên quan đến mật nhà nước những việc khác. Kiểm sát
viên không được trốn tránh, thoái thác trách nhiệm được giao.
- Kiểm sát viên không được vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án
hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật.
- Kiểm sát viên không được can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc
hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người trách nhiệm giải quyết
vụ án, vụ việc.
- Kiểm sát viên không được đem hồ vụ án, vụ việc hoặc tài liệu trong hồ
vụ án, vụ việc ra khỏi quan, nếu không nhiệm vụ được giao hoặc không
được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
- Kiểm sát viên không được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham
gia tố tụng khác trong các vụ án, vụ việcmình có thẩm quyền giải quyết ngoài
nơi quy định.
- Kiểm sát viên phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật,
cuộc sống lành mạnh tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; tham gia
tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Giữ gìn bí mật nhà nước bí mật công tác. Tôn
trọng và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Kiểm sát viên nghĩa vụ thực hiện nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức của ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 5
296/2008/QĐ-VKSTC ngày 18/6/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát VKSND tối
cao).
- Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các
trường hợp do pháp luật quy định.
- Khi được bổ nhiệm, Kiểm sát viên phải tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; Đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội
phạm vi phạm pháp luật; Kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải
công bằng hội; Không ngừng phấn đấu, học tập làm theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”;
Nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân.
Câu 11: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành kiểm sát viên?
4.1. Tiêu chuẩn chung
- Tiêu chuẩn về nhân thân: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp; phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: trình độ từ cử nhân
luật trở lên và phải được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.
- Thời gian công tác sức khỏe: thời gian công tác thực tiễn theo quy
định của pháp luật, có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao
4.2. Tiêu chuẩn cụ thể của đối với từng ngạch Kiểm sát viên
* Tiêu chuẩn Kiểm sát viên sơ cấp
- Có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên;
- Có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
- Đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên cấp thì thể được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân.
* Tiêu chuẩn Kiểm sát viên trung cấp
- Đã Kiểm sát viên cấp ít nhất 05 năm; năng lực thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động pháp; khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã 6 trúng
tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên trung cấp của VKSND.
- Do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã thời gian làm công tác pháp
luật từ 10 năm trở lên, đủ tiêu chuẩn quy định chung; khả năng hướng dẫn
nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp đối với Kiểm sát
viên cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp thì thể
được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của VKSND.
* Tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Kiểm sát viên cao cấp ít nhất 05 năm; năng lực chỉ đạo, điều hành
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tối cao;
có năng lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối
cao thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao.
- Do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã thời gian làm công tác pháp
luật từ 20 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn chung; có năng lực chỉ đạo, điều hành công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; năng lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của
VKSND tối cao thìthể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND
tối cao.
- Trường hợp đặc biệt, người được quan, tổ chức thẩm quyền điều
động đến để làm lãnh đạo VKSND các cấp, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát
viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp hoặc chưa đủ thời gian
làm công tác pháp luật, nhưng đủ các tiêu chuẩn quy định thì cũngthể được
tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viêncấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm
sát viên cao cấp, Kiểm sát viên VKSND tối cao.
Câu 12: Cách chức Kiểm sát viên
- việc người đang giữ chức danh Kiểm sát viên không được tiếp tục giữ
chức danh khi chưa hết nhiệm kỳ, khi:
- Bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Khi thuộc vào một trong các trường hợp sautùy theo tính chất, mức độ
vi phạm: vi phạm trong khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp;
thực hiện những việc Kiểm sát viên không được làm; vi phạm về phẩm chất đạo
đức; có hành vi vi phạm pháp luật khác.
Câu 13: Nghề công chứng viên
- Tốt nghiệp ngành luật.
- Tư vấn và thẩm định công chứng cho khách hàng.
- Chịu trách nhiệm soạn thảo, thẩm định hợp đồng, hồ sơ theo quy định pháp
luật; hỗ trợ cho luật sư trong các văn bản pháp lý.
- Yêu cầu về kinh nghiệm của công chứng viên khá cao: phải công tác pháp
luật từ 5 năm trở lên sau khi tốt nghiệp ngành luật.
- Các kỹ năng mềm: giao tiếp, giải quyết vấn đề…
* Trên mạng:
– Có bằng cử nhân luật.
– Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các quan, tổ chức
sau khi đã có bằng cử nhân luật.
Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi
dưỡng nghề công chứng.
+ Hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng 03 tháng đối với những
người được miễn đào tạo nghề công chứng theo quy định tại Khoản 1, Điều 10
Luật công chứng năm 2014 bao gồm: người đã thời gian làm thẩm phán, kiểm
sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên; luật đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
giáo sư, phó giáo chuyên ngành luật, tiến luật; người đã thẩm tra viên cao
cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp,
nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
+ Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng kéo dài trong 12 tháng sau khi
bằng cử nhân luật đối với những trường hợp không được miễn đào tạo nghề
công chứng kể trên.
– Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng: theo quy định
tại Khoản 1, Điều 11, Luật công chứng năm 2014 thì: “Người giấy chứng nhận
tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề
công chứng phải tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Người
tập sự thể tự liên hệ với một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận
tập sự về việc tập sự tại tổ chức đó; trường hợp không tự liên hệ được thì đề nghị
Sở pháp địa phương nơi người đó muốn tập sự bố trí tập sự tại một tổ chức
hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự”. Sau khi tham gia quá trình tập
sự hành nghề công chứng, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
công chứng là người được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề
công chứng.
– Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
Câu 14: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành chuyên viên pháp lý
Chuyên viên pháp lý
- Đây là vị trí có cơ hội việc làm cao trong tuyển dụng việc làm ngành luật.
- Là người giải quyết, tư vấn những vấn đề liên quan đến pháp luật cho
doanh nghiệp => phải nghiên cứu, soạn thảo và hoàn thiện các văn bản, hồ sơ pháp
lý. Chuyên viên pháp lý phải thường xuyên gặp mặt, làm việc trực tiếp với các cơ
quan nhà nước. Bên cạnh đó, phải cập nhật những thay đổi của quy định do cơ
quan có thẩm quyền ban hành.
- Kỹ năng: giao tiếp tốt, có sức thuyết phục. Bạn phải linh hoạt để giải quyết
các tình huống, tác phong chuyên nghiệp.
Câu 15: Trình bày lịch sử nghề luật sư.
Nghề luật sư như chúng ta biết ngày hôm nay đã trải qua một lịch sử rất dài.
Nó bắt đầu hình thành từ thời Hy lạp cổ đại (khoảng 3500-3000 năm trước CN) và
phát triển vào thời Trung đại (khoảng Từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 15 sau CN).
Vào thời Hy Lạp Cổ Đại nghề luật sư chưa thực sự tồn tại, các bị cáo phải tự
bào chữa cho mình dựa trên gợi ý từ bài diễn văn của một người biện nào đó
( biện người được coi như làm công việc viết hộ văn bản cho người khác).
Tại Roma, đã nhiều người chuyên viết bài bào chữa nổi tiếng, dụ như
Tullius Ciceron (- 106 trc JC - 46 sau JC, ông có thể được coi như ông tổ của nghề
luật sư) vai trò người bảo vệ vẫn mới chỉ tồn tại dưới dạng một thể chế tự do.
Thời kỳ Trung đại thời kỳ đặt nền móng cho nghề luật sư. Dưới triều đại
của hoàng đế Justin đệ nhất, các
nguyên tắc của một Đoàn Luật đã được hình thành. Việc soạn thảo
hoàn thiện những bộ quy tắc đạo đức trải dài hàng thế kỷ thường được viết bởi
những luật gạo cội của Đoàn. Trong thời kỳ này, muốn hành nghề Luật sư, mỗi
cá nhân phải có một trình độ hiểu biết nhất định phải được nhà nước công nhận. Từ
đó mới hình thành nên thuật ngữ Luật (trong tiếng Pháp gọi “Maitre”
thể dịch “Bậc thầy”) các chế độ về thù lao. Từ đó cũng tạo ra việc phân loại
luật sư theo các đặc thù: luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng, luật sư tập sự.
Thời kỳ Phục Hưng cho tới thế kỷ thứ 18. Vào thời kỳ này những nguyên tắc
nghề nghiệp bản vẫn được duy trì phát triển. Các tổ chức luật tách khỏi
các tổ chức thẩm phán, đồng thời các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được luật hóa
thông qua các sắc lệnh. Các luật sư bắt đầu tham gia vào việc soạn thảo các bộ luật
các quy tắc ứng xử khác. Tuy nhiên trong lĩnh vực hình sự, bị cáo vẫn phải tự
bào chữa họ thường xuyên bị đánh đập, tra tấn. Vai trò của luật cũng chưa
được coi trọng, mới chỉ đóng vai trò tư vấn ban đầu.
Tại Pháp bắt đầu từ Cách mạng 1789, việc tra tấn tội phạm bị cấm tính
độc lập của nghề Luật dần được khẳng định. Luật được hưởng quyền miễn
trừ khi tham gia bào chữa và từ năm 1851, Luật sư phải bào chữa miễn phí cho các
đối tượng khó khăn. Thời kỳ Đệ tam Cộng Hòa (1870 – 1940) là thời kỳ phát triển
rực rỡ của giới Luật sư Pháp. Trong số 23 Tổng thống thời kỳ này thì 11 người
là Luật Sư.
Tại Việt nam, ngành luật nói chung cũng như nghề luật nói riêng tại Việt
Nam chủ yếu hình thành dưới thời
thuộc Pháp. Về đào tạo luật, ngày 10/11/1907 toàn quyền Paul Bert thành
lập Trường Đại Học Nội (phố Thánh Tông ngày nay) gồm 5 trường cao
đẳng Luật Pháp Chính (École de Droit et d'Administration), Khoa Học, Y
Khoa, Xây Dựng, Văn Chương. Ngày 15/10/1917 Trường Pháp Chính (École de
Droit et d'Administration) được thành lập lúc đầu nhằm đào tạo quan lại "ngạch
Tây" phục vụ cho guồng máy cai trị của Pháp về hành chánh, tài chánh, pháp,
học trình 3 năm, riêng ban tài chánh học 2 năm. Tốt nghiệp được bổ dụng làm
tham biện các công sở (còn gọi tham tá), hoặc đi làm tri phủ, tri huyện các
tỉnh. Trường được đổi thành Cao Đẳng Học Viện Đông Dương (École des Hautes
Étude Indochinoises) do nghị định ngày 18/09/1924 với mục đích đào tạo bậc
cao học về luật pháp, chính trị, lịch
sử triết học. Muốn nhập học phải bằng tài bản xứ hay tài Pháp,
chương trình học 3 năm.
Ngày 11/09/1931 theo sắc lệnh của tổng thống Pháp đổi thành Trường Cao
Đẳng Luật Khoa Đông Dương (École Supérieure de Droit de l'Indochine) sau đó
năm 1941 đổi thành Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit). Đại tướng
Nguyên Giáp đã học luật tại đây Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937
(Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, Ông bỏ dở
học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Hoạt động luật Việt Nam đã từ trước Cách mạng tháng 8/1945. Sau
khi Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn
một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc
lệnh này đã quy định việc duy trì tổ chức luật trong đó đã sự vận dụng linh
hoạt các quy định pháp luật của chế độ về luật nhưng không trái với nguyên
tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà năm 1946 khẳng định quyền tự bào chữa hoặc mượn luật bào chữa một
trong những quyền quan trọng của bị cáo. Hiện nay hành lang pháp cho hoạt
động luật Luật luật được Quốc hội thông qua năm 2006 được sửa bổ
sung vào năm 2012.
hình thành phát triển chưa lâu so với lịch sử của nghề luật nhưng
giới Luật sư và luật gia nước ta rất tự hào khi trong hàng ngũ của mình có rất nhiều
người các chính khách nổi tiếng đóng góp lớn lao cho đất nước như Đại
tướng - luật gia Võ Nguyên Giáp, luật sư Phan Anh, luật sư Phan Văn Trường, luật
sư Nguyễn Mạnh Tường, luật sư Phạm Văn Bạch, luật sư Vũ Trọng Khánh, luật sư
Đình Hoè, luật Trần Công Tường, luật Nguyễn Văn Hưởng, luật
Nguyễn Thành Vĩnh, luật Nguyễn Hữu Thọ, luật Trịnh Đình Thảo, luật
Ngô Thành…và nhiều luật khác. Đặc biệt, luật Thái Văn Lung đã anh
dũng hy sinh vì độc lập tự do cho Tổ Quốc.
Câu 16: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành luật sư ở Việt Nam.
+ Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật,
+ Có phẩm chất đạo đức tốt,
+ Có bằng cử nhân luật, + Đã được đào tạo nghề luật sư,
+ Đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư,
+ Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư.
Tra mạng:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc
a. Điều kiện là Công dân Việt Nam
Để trở thành công dân Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chí sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 quy định công dân Việt Nam là người quốc
tịch Việt Nam.
Theo đó, những người sinh ra tại lãnh thổ Việt Nam, cha mẹ công dân
Việt Nam; hoặc trẻ em cha hoặc mẹ người công dân Việt Nam trẻ em khi
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam cha mẹ người không quốc tịch thì sẽ là công
dân Việt Nam. Người Việt Nam định ở nước ngoàichưa mất quốc tịch Việt
Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày hiệu lực thì vẫn còn
quốc tịch Việt Nam. Người Việt Nam định nước ngoài chưa mất quốc tịch
Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định như
Giấy khai sinh; Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu Việt Nam và Quyết định cho
nhận quốc tịch Việt Nam. Trường hợp khi những loại giấy tờ này thì đăng
với quan đại diện Việt Nam nước ngoài để được xác định quốc tịch Việt
Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam.
Thứ hai, công dân nước ngoài người không quốc tịch đang thường trú
Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong
tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
+ Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam.
+ Đã thường trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập
quốc tịch Việt Nam.
+ Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam thể được nhập quốc tịch
Việt Nam không phải các điều kiện nêu trên, nếu thuộc một trong những
trường hợp sau đây:
+ Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
+ Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam;
+ Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b. Trung thành với Tổ quốc
Trung thành với Tổ quốc trung thành với lợi ích của đất nước, lợi ích của
nhân dân. Lợi ích của đất nước độc lập, tự do cho Tổ quốc hạnh phúc cho
nhân dân; lợi ích chung của các giai cấp, tôn giáo, dân tộc các thành phần
trong hội. Hồ Chí Minh khẳng định, ai đã người Việt Nam thì ít nhiều cũng
yêu nước, nên “trung với nước” đạo đức của tất cả các thành phần, các nhân
trong hội. Nghĩa vụ trung thành với T quốc của công dân được cụ thể trong
Hiến pháp 2013. Theo Điều 44 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân nghĩa vụ
trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
2. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt
Căn cứ theo Điều 2a của Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10
năm 2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP đã quy
định các trường hợp không đủ tiêu chuẩn tuân thủ Hiến pháp pháp luật,
không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt.
Ý nghĩa của quy định này bởi luật một nghề không phải ai cũng
thể làm được. nghề mang sứ mệnh bảo vệ công lý, hướng tới lẽ phải, bảo vệ
những người yếu thế trong hội, nghề luôn phải đối mặt với những cám dỗ,
buộc người hành nghề phải giữ vững được tưởng lập trường, đạo đức nghề
nghiệp mới thể chống lại được cái xấu cái, tiêu cực. lẽ đó, người hành nghề
luật phải có phẩm chất đạo đức tốt, cũng như tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
3. Có bằng cử nhân Luật
Đây một trong những tiêu chuẩn quan trọng được quy định tại Điều 10
của Luật Luật sư. Theo đó, người có bằng cử nhân luật được hiểu là người đã được
đào tạo, bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do sở giáo dục Đại học
của Việt Nam cấp hoặc bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do sở
giáo dục đại học của nước ngoài cấp được công nhận tại Việt Nam theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Có thể nói, tiêu chuẩn có bằng của nhân Luật xuất phát từ việc đảm bảo tuân
thủ Hiến pháp pháp luật, đòi hỏi nhân muốn hành nghề luật phải kiến
thức cơ bản về pháp luật. Để có thể bảo vệ quyền lợi của thân chủ, bản thân luật
cũng phải nắm vững quyền nghĩa vụ của chính bản thân, biết việc thể
làm và việc gì không được phép thực hiện, từ đó nhằm hỗ trợ thân chủ tối đa trong
công cuộc thực thi công lý.
4. Đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư
Căn cứ Điều 10 Luật luật thì việc đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua
thời gian tập sự hành nghề luật sư là một trong các tiêu chuẩn luật sư.
a. Đã được đào tạo nghề luật sư
Tương tự như đối với các ngành nghề khác, để được hành nghề trong một
lĩnh vực nào đó, chúng ta cần phải trải qua quá trình đào tạo về chuyên môn,
nghiệp vụ để đủ kiến thức, bản lĩnh khi thực hiện công việc. Đặc biệt, đối với
luật sư, một công việc không những đòi hỏi về kiến thức chuyên môn vững vàng
mà cần cả kỹ năng xử tình huống, tu duy phân tích sự việc… Do đó, đây là tiêu
chuẩn bắt buộc, cần thiết.
b. Đã trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư
Như đã phân tích tại điểm a mục này, nghề luật đòi hỏi rất nhiều các kỹ
năng cần phải học hỏi, trau dồi. Theo quy định tại Điều 10 Luật Luật sư, sau khi có
Giấy chứng nhận đã hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật thì cần phải
đăng ký tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư.
5. Có sức khỏe đảm bảo hành nghề luật sư
Có sức khỏemột trong tiêu chuẩn quan trọng để thể trở thành một luật
Việt Nam theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư. Tiêu chuẩn về sức khỏe
được đưa ra bởi nghề luật một nghề nhiều thách thức trách nhiệm.
Thách thức đến từ việc người hành nghề buộc phải điều chỉnh cuộc sống cá nhân vì
nhu cầu của khách hàng; phải thực hiện một số việc theo yêu cầu của khách hàng
người hành nghề không muốn; rủi ro nghề nghiệp không hường trước được
hoặc đã lường trước nhưng khó tránh khỏi; duy trình hình ảnh, diện mạo “Luật
chuyên nghiệp” trước hội chịu nhiều sự quan sát của các mối quan hệ nghề
nghiệp; hài hòa giữa doanh thu nghề nghiệp nuôi sống bản thânthực hiện chức
năng hội của nghề nghiệp; bảo vệ sự độc lập, an toàn nhân đáp ứng yêu
cầu của khách hàng, yêu cầu nghiệp vụ của tổ chức hành nghề. Người luật sư cũng
phải người hành nghề luật ngoài việc hoạt động nghề nghiệp của bản thân như một
công việc mang lại thu nhập, nuôi sống bản thân cònsứ mệnh, trách nhiệm
với xã hội và nghề nghiệp. Người luật sư có trách nhiệm với xã hội, bảo vệ sự độc
lập, hòa bình của Tổ quốc, Đất nước, ngoại giao nhân dân, đấu tranh pháp
trách nhiệm bảo vệ công lý, đóng góp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để
thể vượt qua được những thách thức gánh vác trách nhiệm của người hành
nghề luật, luật sư có sức khỏe đảm bảo để có thể hành nghề luật dài lâu.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật Luật sư, hướng dẫn hồ cấp
chứng chỉ hành nghề luật sư thì thành phần hồ sơ cần có giấy chứng nhận sức khỏe
của người đăng ký. Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản, hay khung điều chỉnh nào liên
quan đến tiêu chuẩn sức khỏe của luật sư. Đây thể xem một trong những
vướng mắc cần được các nhà làm luật, tổ chức nghề nghiệp hội giải quyết
hướng dẫn, bởi vấn đề sức khỏe của luật vấn đề thể trao đổi riêng giữa
luật sư khách hàng, khách hàng hoàn toàn có quyền quyết định lựa chọn luật sư
hay không. Nếu luật thấy mình không đủ sức khỏe để làm việc thì họ cũng sẽ
cân nhắc để từ chối công việc. trong trường hợp, luật không được tiếp tục
hành nghề vì vấn đề sức khỏe thì cũng chưa thực sự hợp lý, bởi rất có rất nhiều luật
lớn tuổi đã tích lũy nhiều năm kinh nghiệm nhiều đóng góp cho hội.
Lao động của luật sư là lao động trí óc nên một luật không có sức khỏe thể chất
tốt không nghĩa thông minh mẫn, không thể làm việc được. Ngược lại, một
luật sức khỏe thể chất tốt sức khỏe tâm thần vấn đề như bị lẫn, trí nhớ
giảm sút... thì hiển nhiên không thể thực hiện tốt trách nhiệm của một người luật
sư. Ngoài ra, giá trị của giấy chứng nhận sức khỏe khi nộp hồ cấp chứng chỉ
hành nghề luật cũng một điểm cần lưu tâm. Không thiếu những trường hợp
giấy chứng nhận sức khỏe “giả” trên thị trường hiện nay. Chưa văn bản hướng
dẫn kiểm tra, soát thì căn cứ, sở để cho rằng luật đó không đảm bảo hay
không sức khỏe để hành nghề?
Câu 17: Quyền và nghĩa vụ của luật sư
* Quyền của luật sư
- Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật hình thức tổ
chức hành nghề luật sư;
- Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;
- Hành nghề luật sư ở nước ngoài;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
* Nghĩa vụ của luật sư
- Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
khách hàng;
- Tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu;
- Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí;
- Các nghĩa vụ khác.
Câu 18: Thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư
- cán bộ, công chức, viên chức; quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân…
- Không còn thường trú tại Việt Nam;
- Không còn đủ tiêu chuẩn luật sư;
- Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật của Đoàn
luật sư;
- Bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư;
- Bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Câu 19: Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam
Cách đây 65 năm, Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đã mở ra kỷ
nguyên mới đối với đất nước ta Kỷ nguyên độc lập dân tộc và Chủ nghĩa hội,
Cách mạng tháng 8 thành công xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, lập ra
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay Nhà nước Cộng hòa hội chủ
nghĩa Việt Nam) là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Để xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước, ban hành pháp luật bảo vệ thành
quả cách mạng, ngày 13/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh số 33c /SL thiết lập các Tòa án quân sự. Bằng sắc lệnh này, trên toàn lãnh thổ
Việt Nam, ở cả ba miền: Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ lúc đó đều thiết lập các Tòa án
quân sự với nhiệm vụ “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng 2 hòa”. Việc ra đời
của các Tòa án này đã góp phần trấn áp bọn phản cách mạng cấu kết với thực dân
Pháp nhằm xâm lược đất nước ta. Đó là mốc son đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa
án Việt Nam.
Nhằm nâng cao hiệu lực của Tòa án, Ngày 24/01/1946 Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức và các ngạch Thẩm phán. Ngày
22/5/1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 85/SL về cải
cách bộ máy pháp tăng cường hiệu lực của Tòa án nhân dân trong bộ máy
Nhà nước. Theo sắc lệnh này, thì tổ chức hệ thống Tòa án có Tòa án sơ cấp, Tòa án
đệ nhị cấp, Hội đồng phúc án và Phụ thẩm nhân dân. Bên cạnh sự phát triển của hệ
thống Tòa án Việt Nam thì các đạo luật về tổ chức hệ thống Tòa án qua các thời kỳ
cũng được ban hành như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Tòa án năm 1992, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002. Đây chính những mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự
trưởng thành của ngành Tòa án Việt Nam. cho đến nay, Ngành Tòa án Việt
Nam bao gồm hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ trung ương đến cấp
huyện, hệ thống Tòa án quân sự, từ Tòa án quân sự trung ương đến các Tòa án khu
vực.
Tính đến 2017 cả nước 5.343 Thẩm phán. Trình độ năng lực của các
Thẩm phán hiện nay 100% trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh
giá hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Mặc số
lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước bản so với trước đây,
nhưng so với yêu cầu thực tế thì: thực trạng đội ngũ Thẩm phán hiện nay vẫn còn

Preview text:

Câu 1: Đặc điểm cơ bản của nghề luật
- Nghề luật do những người có các chức danh tư pháp khác nhau thực
hiện, hướng tới mục đích là bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân
phẩm của công dân, giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nâng cao ý
thức pháp luật, tôn trọng quy tắc của cuộc sống xã hội, tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác

Những người hành nghề luật có các chức danh tư pháp khác nhau thực hiện
hoạt động hướng đến mục đích chung như trên. Và mỗi chức danh tư pháp lại có
những mục đích cụ thể khác nhau. Ví dụ như luật sư tiến hành những hoạt động
của mình nhằm mục đích cụ thể là: bảo vệ lợi ích khác hàng thông qua đó có vai
trò giám sát phản biện cho hoạt động của các cơ quan nhà nước đồng thời hướng
dẫn thực hiện pháp luật, đưa những ý kiến pháo lý giúp khách hàng tiến hành công
việc đúng luật và đạt hiệu quả cao nhất
- Nghề luật hoạt động trong khuôn khổ luật định
Những người hành nghề luật luôn phải đặt hoạt động của mình trong khuôn
khổ pháp luật. Nghề luật là một trong những nghề có sự hạn chế cao trong hoạt
động nghề nghiệp. Cụ thể là ngoài việc tuân thủ đầy đủ pháp luật 3 chung như luật
Hiến pháp luật dân sự…, luật còn phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quy định nghiêm
ngặt của pháp luật về ngành nghề mà mình tham gia Vì vậy những người hoạt
động nghề luật phải có những phẩm chất cần thiết cho quá trình hành nghề của
mình như: yêu công lý ,công bằng, khách quan, trung thực …và các kĩ năng
chuyên môn như khả năng phân tích,tổng hợp, khả năng đánh giá. Ví dụ đối với
một luật sư ngoài việc đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn đào tạo, tập sự và điều
kiện hành nghề của Luật Luật sư thì trong từng hoạt động của mình còn phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy của pháp luật ở mỗi hoạt động như trong hoạt động tại
phiên tòa thì phải tuân theo luật Tố tụng, nếu tham gia vào vụ án từ giai đoạn điều
tra thì phải tuân thủ pháp lệnh điều tra hình sự… Đây cũng là điểm khác biệt của
khuôn khổ hành nghề của các nhà luật của nước ta so với các nước tư bản trên Thế
Giới; Ở Việt Nam dù bào chữa như thế nào luật sư cũng không được vượt ra khỏi
khuôn khổ pháp luật luôn phải tôn trọng pháp luật luôn phải tôn trọng sự thật
khách quan , nhưng ở những nước tư bản thì luật sư có thể bào chữa một cách vô
tư làm sao có lợi cho thân chủ của mình kể cả việc biện hộ đổi trắng thành đen
miễn là có căn cứ không trái pháp luật
- Nghề luật là bất khả kiêm nhiệm
Điều đó có nghĩa là một người không thể đồng thời làm hai chức danh hoặc
làm hai vị trí nghề nghiệp khác nhau trong hệ thống nghề luật. Một người khi đang
hành nghề thẩm phán thì không thể được làm luật sư, công chứng viên hay chấp
hành viên và ngược lại. Pháp luật chỉ cho phép họ được quyền thay đổi hoạt động
hành nghề của mình. Ví dụ cụ thể Điều 10 luật Luật sư 2006 quy định Người đã
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư một trong những trường hợp bị thu hồi
Chứng chỉ hành nghề luật sư là : cán bộ, công chức, viên chức. điều này có nghĩa
là khi họ trở thành các chức danh tư pháp trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì
không được làm luật sư…
Nghề luật sử dụng các quy định pháp luật làm công cụ, phương tiện
để giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh trong đời sống xã hội, nói cách
khác nghề luật hoạt động dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp (còn được gọi là quy tắc ứng xử nghề nghiệp)

Đây là đặc điểm để phân biệt nghề luật với những nghề khác đang tồn tại
trong xã hội. Tuy nhiên với mỗi người hành nghề luật khác nhau, pháp luật đuợc 4
sử dụng, áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp ở từng góc độ khác nhau. Đối với
thẩm phán, pháp luật được sử dụng để xác định tính đúng/sai của tranh chấp, có tội
hay không có tội. Đối với luật sư, Công chứng viên pháp luật được sử dụng đưa
các chủ thể thực hiện đúng “hành lang pháp lý” dành cho mình. Như vậy, với mỗi
nghề luật khác nhau đòi hỏi phải có các kỹ năng khác nhau, có các kiến thức khác
nhau dù đều là áp dụng pháp luật
Câu 2: Vai trò của nghề luật
Trong nền tư pháp dân chủ khi mà các giá trị và quyền con người được tôn
vinh thì đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp thì nghề luật có vai trò đặc biệt
quan trọng trong xã hội hiện nay.
Nghề luật có sứ mệnh trong việc bảo vệ công lý, công bằng trong xã hội, là
căn cứ để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động tư pháp.
Trong những năm gần đây pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư cũng
như các hoạt động lập pháp trong lĩnh vực này đã đạt được những thành quả tích
cực mà biểu hiện sinh động là việc ban hành Luật Luật sư 2006
Với điều kiện về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với toàn cầu hoá thì
các luật sư và những người hoạt động trong lĩnh vực hành nghề luật đang ngày
càng phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán,
ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực
mới mẻ như đầu tư nước ngoài,….
Ở nước ta hiện nay thì nghề luật đang ngày càng khẳng định được vai trò
quan trọng của mình đối với sự phát triển của xã hội. Để góp phần tạo nên một nét
văn hóa riêng của nghề luật sư cũng như những người hành nghề luật thì mỗi
người cần phải có những nhìn nhận đúng mực về nét văn hóa tư pháp nói chung và
phong cách văn hóa nói riêng của nghề luật sư
Câu 3: Ý nghĩa của nghề luật
Nghề luật có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống xã hội cũng như là đối với mỗi
người dân trong xã hội.
- Trong thời đại hiện nay các quyền của con người ngày càng được pháp luật
và nhà nước tôn trọng và bảo vệ do đó những người hành nghề luật có ý nghĩa rất
lớn trong việc bảo vệ quyền lợi của người dân.
- Đảm bảo cho những công bằng xã hội, đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện một cách công bằng, công khai và minh bạch tạo sự tin tưởng của người dân
đối với pháp luật và hệ thống chính trị của nhà nước.
- Mọi hoạt động hành nghề luật đều hướng tới bảo vệ công lý, hướng tới
việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Như vậy có thể thấy được rằng nghề luật có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay.
Những người hành nghề luật cần có trách nghiệm trong việc phát huy và duy
trì được những điểm sáng của nghề, phải có ý thức giữ gìn đạo đức, phẩm giá của
mình, giữ mối quan hệ tốt với mọi người, với đồng nghiệp.
Câu 4: Nghề luật – vinh quang và thách thức * Vinh quang:
Nghề luật là một nghề có vị trí, vai trò rất quan trọng trong cơ chế thực thi
pháp luật, áp dụng duy trì và bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền con người => Nghề luật đóng vai trò quan
trọng trong việc duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. * Thách thức
- Luôn cần giữ hình ảnh;
- Là một nghề nhạy cảm, đụng chạm đến mặt trái của xã hội;
- Là nghề tiềm ẩn nhiều rủi ro. * Trên mạng:
1.2.1. Vinh Quang của nghề luật
-Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc đấu t ranh phòng chống và xử
lý vi phạm pháp luật, duy trì trật tự, kỷ cương đất nước
-Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm công bằng trước
pháp luật và duy trì công lý
- Nghề luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho mọi người dân
tôn trọngpháp luật và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội và trong quản lý nhà nước.
1.2.2. Thách thức của nghề luật
1.2.2.1. Thách thức xuất phát từ đặc điểm của nghề luật
-Thứ nhất: Người hành nghề luật là những người của công chúng. Mọi hành
vi của người hành nghề luật đều được các chủ thể khác quan tâm chú ý. Cho nên,
trong quátrình hành nghề, nếu không cẩn thận, họ sẽ đánh mất niềm tin của người dân.
-Thứ hai: Nghề luật là một nghề nhạy cảm, luôn đụng chạm đến những vấn
đề, những quan hệ phức tạp, những mặt trái của xã hội.
-Thứ ba: Nghề luật tiềm ẩn nhiều rủi ro
1.2.2.2. Thách thức đối với nghề luật ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
-Thứ nhất, nguy cơ tụt hậu so với tốc độ hội nhập quốc tế.
-Thứ hai, mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp và
thực thi pháp luật khác còn có khoảng cách xa so với các quy tắc và chuẩn mực chung quốc tế.
-Thứ ba, công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp và thực thi pháp luật khác
chưa tương ứng với yêu cầu hội nhập, chưa sẵn sàng chủ động hội nhập
-Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ liên quan đến hội nhập cho
cán bộ còn mang tính hình thức, chưa thực sự có hiệu quả.
-Thứ năm, nhiều nơi nhiều lúc còn chưa có tư duy, nhận thức đúng về hội
nhập quốctế nên dẫn đến chưa có hành động đúng
Câu 5: Đạo đức nghề luật là gì? Phân tích các nguyên tắc chung về đạo đức nghề luật.
3.1. Khái niệm đạo đức nghề luật
- Đạo đức: Là quan niệm được thừa nhận đối với chuẩn mực xã hội về điều
thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng về phẩm chất tốt đẹp của con
người. Là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định
những hành vi của con người với nhau và đối với xã hội.
- Đạo đức nghề luật: Là tập hợp các nguyên tắc chuẩn mực ứng xử của
người làm nghề luật nhằm điều chỉnh, kiểm soát đánh giá và định hướng hành vi
của những người làm nghề luật hướng tới bảo vệ giá trị nhân văn trong xã hội pháp
quyền, bảo vệ công lý, lẽ công bằng trong xã hội.
- Đạo đức nghề luật là một loại hình đạo đức nghề nghiệp.
3.2. Các nguyên tắc chung về đạo đức nghề luật
- Các phẩm chất cần có theo nghĩa xã hội thông thường đối với một công dân trong xã hội.
- Bản lĩnh nghề nghiệp (kiên định, quyết đoán, hướng tới cái đúng, cái công
bằng và cái hoàn thiện).
- Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp.
- Tình thương yêu con người. * Trên mạng
-Thứ nhất, Người hành nghề luật phải mang trong mình những phẩm chất
tốt đẹp về mặt đạo đức như những người công dân bình thường khác trong xã
hội.Người hành nghề luật cần có một lối sống lành mạnh, suy nghĩ trong sáng, thái
độ thân thiện với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, công việc và cuộc
sống. Những phẩm chất đó có thể là tính trung thực, lòng dũng cảm, tính công
bằng, kháchquan và tính nhân bản...
-Thứ Hai, Bản lĩnh nghề nghiệp: Bản lĩnh là sự kiên định, là sự quyết đoán.
Bản lĩnh còn là khả năng hướng tới cái đúng, cái công bằng và cái hoàn thiện. Bản
lĩnh nghề nghiệp của người hành nghề luật là một tố chất không thể thiếu trong
suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Do điều kiện hoạt động nghề
nghiệp của người hành nghề luật gắn liền với tính độc lập, tính tự quyết, khả năng
phán quyết mọi vấn đề trên cơ sở phân tích pháp luật và niềm tin nội tâm.
-Thứ Ba, Tinh thần có trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của mình:
Trách nhiệm hay nghĩa vụ là một khái niệm mang màu sắc pháp lý, tuy vậy lại là
một tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Nếu ở phương diện luật học, người ta nói
nghĩa vụ đi đôi với quyền thì ở phương diện đạo đức, người ta đề cao tinh thần
trách nhiệm mà không gắn với quyền lợi.
-Thứ Tư, Tình thương yêu con người:nghề luật hướng tới một nhóm đối
tượng người cụ thể, đó là những người “vướng vào vòng lao lý”, những người mà
số phận pháp lý của họ do những người làm nghề luật quyết định trong phạm vi
thẩm quyền, đó có thể là nạn nhân của tội phạm, nạn nhân của những sai lầm trong
nhận thức của bản thân hoặc là nạn nhân của gia đình, của điều kiện, hoàn cảnh
sống không được trọn vẹn.
Câu 6: Vai trò của đạo đức nghề luật
3.3. Vai trò của đạo đức nghề luật trong xã hội
- Điều chỉnh hành vi của người làm nghề luật.
- Bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hệ thống tư pháp.
- Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong xã hội.
3.4. Rèn luyện và bồi dưỡng đạo đức nghề luật
- Tại các cơ sở đào tạo nghề luật.
- Thông qua hoạt động nghiệp vụ của người hành nghề luật.
- Tự rèn luyện và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề luật
Câu 7: Phân tích chức năng của Viện kiểm sát nhân dân?
CHỨC NĂNG VKSND TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. (K1 Đ3 LTCVKSND 2014)
1.1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
- Kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật. (Khoản 1 Điều 4 LTCVKSND 2014)
Câu 8: Phân tích đặc điểm của kiểm sát viên? 1.1. Khái niệm
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. (Điều 74
Luật tổ chức viện kiểm sát 2014) 1.2. Đặc điểm
- Thứ nhất, Kiểm sát viên là công chức ngành Kiểm sát.
- Thứ hai, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp và được sắp xếp theo ngạch.
- Thứ ba, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp được bổ nhiệm có thời
hạn theo quy định của pháp luật. Bổ nhiệm lần đầu thì thời hạn giữ chức danh này
là 05 năm; bổ nhiệm lần tiếp theo là 10 năm.
- Thứ tư, Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Câu 9: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên?
*
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
- Kiểm sát viên phải có nghĩa vụ với Đảng, Nhà nước và nhân dân; nghĩa vụ
trong khi thực thi công vụ.
- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên
tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
- Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi, quyết định của mình.
- Kiểm sát viên phải tự chịu trách nhiệm về tất cả các hành vi và quyết định
đó. Đặc biệt trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
- Khi có căn cứ cho rằng quyết định của Viện trưởng là trái pháp luật thì
Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng
văn bản với Viện trưởng. Nếu trong trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc
thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải
chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp được quy định cụ thể tại các văn bản pháp
luật 3 như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, luật Tố tụng hành
chính và các văn bản của Ngành
• Nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của KSV trong Tố tụng hình sự:
- Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan, người có thẩm quyền;
- Trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; Kiểm
sát việc thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế; kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội
phạm, việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan, người có thẩm quyền điều tra; kiểm sát
hoạt động khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra;
- Trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối
chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét;
- Kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm;
việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, kết thúc điều tra;
- Đề ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can;
- Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin
về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân, người làm chứng, bị hại, đương sự; lấy lời khai người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp;
- Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm
chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong Tố tụng dân sự
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
- Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự;
- Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định;
- Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án;
- Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng;
- Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật;
- Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát.
Câu 10: Những việc Kiểm sát viên không được làm:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm liên
quan đến đạo đức công vụ;
- Những việc liên quan đến bí mật nhà nước và những việc khác. Kiểm sát
viên không được trốn tránh, thoái thác trách nhiệm được giao.
- Kiểm sát viên không được tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án
hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật.
- Kiểm sát viên không được can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc
hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc.
- Kiểm sát viên không được đem hồ sơ vụ án, vụ việc hoặc tài liệu trong hồ
sơ vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không
được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
- Kiểm sát viên không được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham
gia tố tụng khác trong các vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
- Kiểm sát viên phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật,
có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; tham gia
tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Giữ gìn bí mật nhà nước và bí mật công tác. Tôn
trọng và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Kiểm sát viên có nghĩa vụ thực hiện nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức của ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 5
296/2008/QĐ-VKSTC ngày 18/6/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát VKSND tối cao).
- Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các
trường hợp do pháp luật quy định.
- Khi được bổ nhiệm, Kiểm sát viên phải tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; Đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội
phạm và vi phạm pháp luật; Kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và
công bằng xã hội; Không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”;
Nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Câu 11: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành kiểm sát viên?
4.1. Tiêu chuẩn chung
- Tiêu chuẩn về nhân thân: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp; có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Tiêu chuẩn về trình độ và chuyên môn nghiệp vụ: có trình độ từ cử nhân
luật trở lên và phải được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.
- Thời gian công tác và sức khỏe: Có thời gian công tác thực tiễn theo quy
định của pháp luật, có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao
4.2. Tiêu chuẩn cụ thể của đối với từng ngạch Kiểm sát viên
* Tiêu chuẩn Kiểm sát viên sơ cấp
- Có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên;
- Có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
- Đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp thì có thể được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân.
* Tiêu chuẩn Kiểm sát viên trung cấp
- Đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm; có năng lực thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã 6 trúng
tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên trung cấp của VKSND.
- Do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp
luật từ 10 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn quy định chung; có khả năng hướng dẫn
nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát
viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp thì có thể
được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của VKSND.
* Tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất 05 năm; có năng lực chỉ đạo, điều hành
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tối cao;
có năng lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối
cao thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao.
- Do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp
luật từ 20 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn chung; có năng lực chỉ đạo, điều hành công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; có năng lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của
VKSND tối cao thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao.
- Trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều
động đến để làm lãnh đạo VKSND các cấp, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát
viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp hoặc chưa đủ thời gian
làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy định thì cũng có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm
sát viên cao cấp, Kiểm sát viên VKSND tối cao.
Câu 12: Cách chức Kiểm sát viên
- Là việc người đang giữ chức danh Kiểm sát viên không được tiếp tục giữ
chức danh khi chưa hết nhiệm kỳ, khi:
- Bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Khi thuộc vào một trong các trường hợp sau và tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm: vi phạm trong khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
thực hiện những việc Kiểm sát viên không được làm; vi phạm về phẩm chất đạo
đức; có hành vi vi phạm pháp luật khác.
Câu 13: Nghề công chứng viên
- Tốt nghiệp ngành luật.
- Tư vấn và thẩm định công chứng cho khách hàng.
- Chịu trách nhiệm soạn thảo, thẩm định hợp đồng, hồ sơ theo quy định pháp
luật; hỗ trợ cho luật sư trong các văn bản pháp lý.
- Yêu cầu về kinh nghiệm của công chứng viên khá cao: phải công tác pháp
luật từ 5 năm trở lên sau khi tốt nghiệp ngành luật.
- Các kỹ năng mềm: giao tiếp, giải quyết vấn đề… * Trên mạng:
– Có bằng cử nhân luật.
– Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức
sau khi đã có bằng cử nhân luật.
– Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng.
+ Hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng 03 tháng đối với những
người được miễn đào tạo nghề công chứng theo quy định tại Khoản 1, Điều 10
Luật công chứng năm 2014 bao gồm: người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm
sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên; luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật; người đã là thẩm tra viên cao
cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp,
nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
+ Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng kéo dài trong 12 tháng sau khi
có bằng cử nhân luật đối với những trường hợp không được miễn đào tạo nghề công chứng kể trên.
– Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng: theo quy định
tại Khoản 1, Điều 11, Luật công chứng năm 2014 thì: “Người có giấy chứng nhận
tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề
công chứng phải tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Người
tập sự có thể tự liên hệ với một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận
tập sự về việc tập sự tại tổ chức đó; trường hợp không tự liên hệ được thì đề nghị
Sở Tư pháp ở địa phương nơi người đó muốn tập sự bố trí tập sự tại một tổ chức
hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự”. Sau khi tham gia quá trình tập
sự hành nghề công chứng, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
công chứng là người được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.
– Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
Câu 14: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành chuyên viên pháp lý Chuyên viên pháp lý
- Đây là vị trí có cơ hội việc làm cao trong tuyển dụng việc làm ngành luật.
- Là người giải quyết, tư vấn những vấn đề liên quan đến pháp luật cho
doanh nghiệp => phải nghiên cứu, soạn thảo và hoàn thiện các văn bản, hồ sơ pháp
lý. Chuyên viên pháp lý phải thường xuyên gặp mặt, làm việc trực tiếp với các cơ
quan nhà nước. Bên cạnh đó, phải cập nhật những thay đổi của quy định do cơ
quan có thẩm quyền ban hành.
- Kỹ năng: giao tiếp tốt, có sức thuyết phục. Bạn phải linh hoạt để giải quyết
các tình huống, tác phong chuyên nghiệp.
Câu 15: Trình bày lịch sử nghề luật sư.
Nghề luật sư như chúng ta biết ngày hôm nay đã trải qua một lịch sử rất dài.
Nó bắt đầu hình thành từ thời Hy lạp cổ đại (khoảng 3500-3000 năm trước CN) và
phát triển vào thời Trung đại (khoảng Từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 15 sau CN).
Vào thời Hy Lạp Cổ Đại nghề luật sư chưa thực sự tồn tại, các bị cáo phải tự
bào chữa cho mình dựa trên gợi ý từ bài diễn văn của một người biện sư nào đó
( biện sư là người được coi như làm công việc viết hộ văn bản cho người khác).
Tại Roma, dù đã có nhiều người chuyên viết bài bào chữa nổi tiếng, ví dụ như
Tullius Ciceron (- 106 trc JC - 46 sau JC, ông có thể được coi như ông tổ của nghề
luật sư) vai trò người bảo vệ vẫn mới chỉ tồn tại dưới dạng một thể chế tự do.
Thời kỳ Trung đại là thời kỳ đặt nền móng cho nghề luật sư. Dưới triều đại
của hoàng đế Justin đệ nhất, các
nguyên tắc của một Đoàn Luật Sư đã được hình thành. Việc soạn thảo và
hoàn thiện những bộ quy tắc đạo đức trải dài hàng thế kỷ và thường được viết bởi
những luật sư gạo cội của Đoàn. Trong thời kỳ này, muốn hành nghề Luật sư, mỗi
cá nhân phải có một trình độ hiểu biết nhất định phải được nhà nước công nhận. Từ
đó mới hình thành nên thuật ngữ Luật sư (trong tiếng Pháp gọi là “Maitre” và có
thể dịch là “Bậc thầy”) và các chế độ về thù lao. Từ đó cũng tạo ra việc phân loại
luật sư theo các đặc thù: luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng, luật sư tập sự.
Thời kỳ Phục Hưng cho tới thế kỷ thứ 18. Vào thời kỳ này những nguyên tắc
nghề nghiệp cơ bản vẫn được duy trì và phát triển. Các tổ chức luật sư tách khỏi
các tổ chức thẩm phán, đồng thời các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được luật hóa
thông qua các sắc lệnh. Các luật sư bắt đầu tham gia vào việc soạn thảo các bộ luật
và các quy tắc ứng xử khác. Tuy nhiên trong lĩnh vực hình sự, bị cáo vẫn phải tự
bào chữa và họ thường xuyên bị đánh đập, tra tấn. Vai trò của luật sư cũng chưa
được coi trọng, mới chỉ đóng vai trò tư vấn ban đầu.
Tại Pháp bắt đầu từ Cách mạng 1789, việc tra tấn tội phạm bị cấm và tính
độc lập của nghề Luật sư dần được khẳng định. Luật sư được hưởng quyền miễn
trừ khi tham gia bào chữa và từ năm 1851, Luật sư phải bào chữa miễn phí cho các
đối tượng khó khăn. Thời kỳ Đệ tam Cộng Hòa (1870 – 1940) là thời kỳ phát triển
rực rỡ của giới Luật sư Pháp. Trong số 23 Tổng thống thời kỳ này thì có 11 người là Luật Sư.
Tại Việt nam, ngành luật nói chung cũng như nghề luật sư nói riêng tại Việt
Nam chủ yếu hình thành dưới thời
thuộc Pháp. Về đào tạo luật, ngày 10/11/1907 toàn quyền Paul Bert thành
lập Trường Đại Học Hà Nội (phố Lê Thánh Tông ngày nay) gồm 5 trường cao
đẳng là Luật và Pháp Chính (École de Droit et d'Administration), Khoa Học, Y
Khoa, Xây Dựng, Văn Chương. Ngày 15/10/1917 Trường Pháp Chính (École de
Droit et d'Administration) được thành lập lúc đầu nhằm đào tạo quan lại "ngạch
Tây" phục vụ cho guồng máy cai trị của Pháp về hành chánh, tài chánh, tư pháp,
học trình 3 năm, riêng ban tài chánh học 2 năm. Tốt nghiệp được bổ dụng làm
tham biện ở các công sở (còn gọi là tham tá), hoặc đi làm tri phủ, tri huyện ở các
tỉnh. Trường được đổi thành Cao Đẳng Học Viện Đông Dương (École des Hautes
Étude Indochinoises) do nghị định ngày 18/09/1924 với mục đích đào tạo ở bậc
cao học về luật pháp, chính trị, lịch
sử và triết học. Muốn nhập học phải có bằng tú tài bản xứ hay tú tài Pháp, chương trình học 3 năm.
Ngày 11/09/1931 theo sắc lệnh của tổng thống Pháp đổi thành Trường Cao
Đẳng Luật Khoa Đông Dương (École Supérieure de Droit de l'Indochine) sau đó
năm 1941 đổi thành Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit). Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã học luật tại đây và Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937
(Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, Ông bỏ dở
học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Hoạt động luật sư ở Việt Nam đã có từ trước Cách mạng tháng 8/1945. Sau
khi Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn
một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc
lệnh này đã quy định việc duy trì tổ chức luật sư trong đó đã có sự vận dụng linh
hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên
tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà năm 1946 khẳng định quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư bào chữa là một
trong những quyền quan trọng của bị cáo. Hiện nay hành lang pháp lý cho hoạt
động luật sư là Luật luật sư được Quốc hội thông qua năm 2006 và được sửa bổ sung vào năm 2012.
Dù hình thành và phát triển chưa lâu so với lịch sử của nghề luật sư nhưng
giới Luật sư và luật gia nước ta rất tự hào khi trong hàng ngũ của mình có rất nhiều
người là các chính khách nổi tiếng và có đóng góp lớn lao cho đất nước như Đại
tướng - luật gia Võ Nguyên Giáp, luật sư Phan Anh, luật sư Phan Văn Trường, luật
sư Nguyễn Mạnh Tường, luật sư Phạm Văn Bạch, luật sư Vũ Trọng Khánh, luật sư
Vũ Đình Hoè, luật sư Trần Công Tường, luật sư Nguyễn Văn Hưởng, luật sư
Nguyễn Thành Vĩnh, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư
Ngô Bá Thành…và nhiều luật sư khác. Đặc biệt, luật sư Thái Văn Lung đã anh
dũng hy sinh vì độc lập tự do cho Tổ Quốc.
Câu 16: Phân tích các tiêu chuẩn để trở thành luật sư ở Việt Nam.
+ Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
+ Có phẩm chất đạo đức tốt,
+ Có bằng cử nhân luật, + Đã được đào tạo nghề luật sư,
+ Đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư,
+ Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư. Tra mạng:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc
a. Điều kiện là Công dân Việt Nam
Để trở thành công dân Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chí sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 quy định công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
Theo đó, những người sinh ra tại lãnh thổ Việt Nam, có cha mẹ là công dân
Việt Nam; hoặc trẻ em có cha hoặc mẹ là người công dân Việt Nam và trẻ em khi
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam có cha mẹ là người không quốc tịch thì sẽ là công
dân Việt Nam. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt
Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày có hiệu lực thì vẫn còn
quốc tịch Việt Nam. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch
Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định như
Giấy khai sinh; Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu Việt Nam và Quyết định cho
nhận quốc tịch Việt Nam. Trường hợp khi có những loại giấy tờ này thì đăng ký
với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt
Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam.
Thứ hai, công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở
Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong
tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
+ Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam.
+ Đã thường trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam.
+ Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch
Việt Nam mà không phải có các điều kiện nêu trên, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
+ Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
+ Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
+ Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b. Trung thành với Tổ quốc
Trung thành với Tổ quốc là trung thành với lợi ích của đất nước, lợi ích của
nhân dân. Lợi ích của đất nước là độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho
nhân dân; là lợi ích chung của các giai cấp, tôn giáo, dân tộc và các thành phần
trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, ai đã là người Việt Nam thì ít nhiều cũng
yêu nước, nên “trung với nước” là đạo đức của tất cả các thành phần, các cá nhân
trong xã hội. Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc của công dân được cụ thể trong
Hiến pháp 2013. Theo Điều 44 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ
trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
2. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt
Căn cứ theo Điều 2a của Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10
năm 2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP đã quy
định rõ các trường hợp không đủ tiêu chuẩn tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt.
Ý nghĩa của quy định này là bởi luật sư là một nghề không phải ai cũng có
thể làm được. Là nghề mang sứ mệnh bảo vệ công lý, hướng tới lẽ phải, bảo vệ
những người yếu thế trong xã hội, là nghề luôn phải đối mặt với những cám dỗ,
buộc người hành nghề phải giữ vững được tư tưởng và lập trường, đạo đức nghề
nghiệp mới có thể chống lại được cái xấu cái, tiêu cực. Vì lẽ đó, người hành nghề
luật phải có phẩm chất đạo đức tốt, cũng như tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
3. Có bằng cử nhân Luật
Đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng được quy định tại Điều 10
của Luật Luật sư. Theo đó, người có bằng cử nhân luật được hiểu là người đã được
đào tạo, có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do Cơ sở giáo dục Đại học
của Việt Nam cấp hoặc có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do Cơ sở
giáo dục đại học của nước ngoài cấp và được công nhận tại Việt Nam theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Có thể nói, tiêu chuẩn có bằng của nhân Luật xuất phát từ việc đảm bảo tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, đòi hỏi cá nhân muốn hành nghề luật sư phải có kiến
thức cơ bản về pháp luật. Để có thể bảo vệ quyền lợi của thân chủ, bản thân luật sư
cũng phải nắm vững quyền và nghĩa vụ của chính bản thân, biết rõ việc gì có thể
làm và việc gì không được phép thực hiện, từ đó nhằm hỗ trợ thân chủ tối đa trong
công cuộc thực thi công lý.
4. Đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư
Căn cứ Điều 10 Luật luật sư thì việc đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua
thời gian tập sự hành nghề luật sư là một trong các tiêu chuẩn luật sư.
a. Đã được đào tạo nghề luật sư
Tương tự như đối với các ngành nghề khác, để được hành nghề trong một
lĩnh vực nào đó, chúng ta cần phải trải qua quá trình đào tạo về chuyên môn,
nghiệp vụ để có đủ kiến thức, bản lĩnh khi thực hiện công việc. Đặc biệt, đối với
luật sư, một công việc không những đòi hỏi về kiến thức chuyên môn vững vàng
mà cần cả kỹ năng xử lý tình huống, tu duy phân tích sự việc… Do đó, đây là tiêu
chuẩn bắt buộc, cần thiết.
b. Đã trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư
Như đã phân tích tại điểm a mục này, nghề luật sư đòi hỏi rất nhiều các kỹ
năng cần phải học hỏi, trau dồi. Theo quy định tại Điều 10 Luật Luật sư, sau khi có
Giấy chứng nhận đã hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật sư thì cần phải
đăng ký tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư.
5. Có sức khỏe đảm bảo hành nghề luật sư
Có sức khỏe là một trong tiêu chuẩn quan trọng để có thể trở thành một luật
sư Việt Nam theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư. Tiêu chuẩn về sức khỏe
được đưa ra là bởi nghề luật sư là một nghề có nhiều thách thức và trách nhiệm.
Thách thức đến từ việc người hành nghề buộc phải điều chỉnh cuộc sống cá nhân vì
nhu cầu của khách hàng; phải thực hiện một số việc theo yêu cầu của khách hàng
mà người hành nghề không muốn; rủi ro nghề nghiệp không hường trước được
hoặc đã lường trước nhưng khó tránh khỏi; duy trình hình ảnh, diện mạo “Luật sư
chuyên nghiệp” trước xã hội chịu nhiều sự quan sát của các mối quan hệ nghề
nghiệp; hài hòa giữa doanh thu nghề nghiệp nuôi sống bản thân và thực hiện chức
năng xã hội của nghề nghiệp; bảo vệ sự độc lập, an toàn cá nhân và đáp ứng yêu
cầu của khách hàng, yêu cầu nghiệp vụ của tổ chức hành nghề. Người luật sư cũng
phải người hành nghề luật ngoài việc hoạt động nghề nghiệp của bản thân như một
công việc mang lại thu nhập, nuôi sống bản thân mà còn có sứ mệnh, trách nhiệm
với xã hội và nghề nghiệp. Người luật sư có trách nhiệm với xã hội, bảo vệ sự độc
lập, hòa bình của Tổ quốc, Đất nước, ngoại giao nhân dân, đấu tranh pháp lý và
trách nhiệm bảo vệ công lý, đóng góp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để
có thể vượt qua được những thách thức và gánh vác trách nhiệm của người hành
nghề luật, luật sư có sức khỏe đảm bảo để có thể hành nghề luật dài lâu.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật Luật sư, có hướng dẫn hồ sơ cấp
chứng chỉ hành nghề luật sư thì thành phần hồ sơ cần có giấy chứng nhận sức khỏe
của người đăng ký. Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản, hay khung điều chỉnh nào liên
quan đến tiêu chuẩn sức khỏe của luật sư. Đây có thể xem là một trong những
vướng mắc cần được các nhà làm luật, tổ chức nghề nghiệp xã hội giải quyết và
hướng dẫn, bởi vì vấn đề sức khỏe của luật sư là vấn đề có thể trao đổi riêng giữa
luật sư và khách hàng, khách hàng hoàn toàn có quyền quyết định lựa chọn luật sư
hay không. Nếu luật sư thấy mình không đủ sức khỏe để làm việc thì họ cũng sẽ
cân nhắc để từ chối công việc. Và trong trường hợp, luật sư không được tiếp tục
hành nghề vì vấn đề sức khỏe thì cũng chưa thực sự hợp lý, bởi rất có rất nhiều luật
sư lớn tuổi đã tích lũy nhiều năm kinh nghiệm và có nhiều đóng góp cho xã hội.
Lao động của luật sư là lao động trí óc nên một luật sư không có sức khỏe thể chất
tốt không có nghĩa là thông minh mẫn, không thể làm việc được. Ngược lại, một
luật sư sức khỏe thể chất tốt mà sức khỏe tâm thần có vấn đề như bị lẫn, trí nhớ
giảm sút... thì hiển nhiên không thể thực hiện tốt trách nhiệm của một người luật
sư. Ngoài ra, giá trị của giấy chứng nhận sức khỏe khi nộp hồ sơ cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư cũng là một điểm cần lưu tâm. Không thiếu những trường hợp
giấy chứng nhận sức khỏe “giả” trên thị trường hiện nay. Chưa có văn bản hướng
dẫn kiểm tra, rà soát thì căn cứ, cơ sở để cho rằng luật sư đó không đảm bảo hay
không sức khỏe để hành nghề?
Câu 17: Quyền và nghĩa vụ của luật sư * Quyền của luật sư
- Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ
chức hành nghề luật sư;
- Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;
- Hành nghề luật sư ở nước ngoài;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
* Nghĩa vụ của luật sư
- Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng;
- Tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu;
- Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí; - Các nghĩa vụ khác.
Câu 18: Thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư
- Là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân…
- Không còn thường trú tại Việt Nam;
- Không còn đủ tiêu chuẩn luật sư;
- Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư;
- Bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư;
- Bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Câu 19: Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam
Cách đây 65 năm, Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đã mở ra kỷ
nguyên mới đối với đất nước ta – Kỷ nguyên độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội,
Cách mạng tháng 8 thành công xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, lập ra
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Để xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước, ban hành pháp luật bảo vệ thành
quả cách mạng, ngày 13/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành Sắc
lệnh số 33c /SL thiết lập các Tòa án quân sự. Bằng sắc lệnh này, trên toàn lãnh thổ
Việt Nam, ở cả ba miền: Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ lúc đó đều thiết lập các Tòa án
quân sự với nhiệm vụ “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng 2 hòa”. Việc ra đời
của các Tòa án này đã góp phần trấn áp bọn phản cách mạng cấu kết với thực dân
Pháp nhằm xâm lược đất nước ta. Đó là mốc son đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa án Việt Nam.
Nhằm nâng cao hiệu lực của Tòa án, Ngày 24/01/1946 Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức và các ngạch Thẩm phán. Ngày
22/5/1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành Sắc lệnh số 85/SL về cải
cách bộ máy tư pháp và tăng cường hiệu lực của Tòa án nhân dân trong bộ máy
Nhà nước. Theo sắc lệnh này, thì tổ chức hệ thống Tòa án có Tòa án sơ cấp, Tòa án
đệ nhị cấp, Hội đồng phúc án và Phụ thẩm nhân dân. Bên cạnh sự phát triển của hệ
thống Tòa án Việt Nam thì các đạo luật về tổ chức hệ thống Tòa án qua các thời kỳ
cũng được ban hành như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Tòa án năm 1992, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002. Đây chính là những mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự
trưởng thành của ngành Tòa án Việt Nam. Và cho đến nay, Ngành Tòa án Việt
Nam bao gồm hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ trung ương đến cấp
huyện, hệ thống Tòa án quân sự, từ Tòa án quân sự trung ương đến các Tòa án khu vực.
Tính đến 2017 cả nước có 5.343 Thẩm phán. Trình độ và năng lực của các
Thẩm phán hiện nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh
giá hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Mặc dù số
lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với trước đây,
nhưng so với yêu cầu thực tế thì: thực trạng đội ngũ Thẩm phán hiện nay vẫn còn