ĐỀ CƯƠNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH | Học viện Hành chính Quốc gia

Phân tích tiền đề khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ?Theo đ/c làm thế nào để học tập và nghiên cứ tư rưởng Hồ Chí Minh hiệu quả Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Quản lí công 172 tài liệu

Trường:

Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu

Thông tin:
25 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

ĐỀ CƯƠNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH | Học viện Hành chính Quốc gia

Phân tích tiền đề khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ?Theo đ/c làm thế nào để học tập và nghiên cứ tư rưởng Hồ Chí Minh hiệu quả Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

69 35 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|4960592 8
HỌC VIN THANH THIU NIÊN PHÂN VIT NAM VIN MIỀN
NAM
LP TRUNG CP LÝ LUN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH K66
ĐỀ CƯƠNG: NI DUNG CƠ BN CA TƯ TƯNG HCHÍ
MINH
HỌC VIÊN: LÊ LƯƠNG HẢI
TP.HCHÍ MINH THÁNG 8/2022
!"#$%&$'(")$*+($,-)$.-$/(0+($1#2)$(3)($4(5)($46$467)8$9:$!(;$<=)($>
?(@A$.B+$C5D$4(E$)5A$.F$(G+$4HI$J5$)8(=K)$+L$46$M67)8$9:$!(;$<=)($(=N#$1O2P
?MQ$CR=&
1. Sơ lưc thân thế + snghip HChí Minh ( chi fết và đy đủ)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc
nông dân, làng Hoàng Trù, Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi
truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến.
Hoàn cảnh hội và sgiáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay
từ thời niên thiếu.
lOMoARcPSD|4960592 8
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị,
Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu
nước lúc bấy giờ quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Tháng 6
năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước
Pháp nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những
phong trào của công nhân nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm
sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận đó
con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng hội Pháp hoạt động trong phong trào công
nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam,
yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc
Vit Nam .
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng hội Pháp tại thành phố
Tours, Ngưi b phiếu tán thành gia nhp Quc tế Cng sn và tham gia thành lp
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa
cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa,
nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người viết nhiều
bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”, ... Đặc biệt, Người
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức
tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các i viết của Người
đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày 30/6/1923, Người đến Liên bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác Lênin, về chế độ hội chủ nghĩa ngay trên đất nước
Lênin đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc
tế Cộng sản được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng
thời Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo
dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
lOMoARcPSD|4960592 8
niên, ra báo Thanh niên để truyền chủ nghĩa Mác Lênin về trong nước, đồng
thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm
1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản nước ngoài,
đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước những chỉ đạo đúng
đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi
Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập do đồng cVõ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của
Đảng chủ trì Đại hội Quốc dân Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng
khởi nghĩa của Đảng Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước
Vit Nam Dân ch Cng hòa. Thay mt Chính ph lâm thi, Ngưi đã phát lnh
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề
đứng lên Tổng khởi nghĩa trang giành chính quyền về tay nhân dân lao động.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Vit Nam Dân ch Cng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước nhân dân
thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh lực lượng phản
động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội
Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm
miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày
9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần
đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm
Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh
đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
lOMoARcPSD|4960592 8
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva
được kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến
thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng nh đạo
nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động
Vit Nam, H Chí Minh đưc bu làm Ch tch Ban Chp hành Trung ương Đng.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa hội miền
Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi
cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu
tranh không mệt mỏi hiến ng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân,
tưởng cộng sản, độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, hòa bình công
trên thế giới.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên
hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh “Anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” .
2. Khái nim Tư tưng HChí Minh.
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm các quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề chung cơ bản có liên quan đến cách mạng Việt Nam, đây là kết quả
của quá trình vận dụngsáng tạo dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin vào cách
mạng Việt Nam.
Nội dung chủ yếu của tư ng HChí Minh là về tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng các giai cấp bị thống trị, áp bức bóc lột, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh toàn dân, xây dựng Đảng luôn vững mạnh, trong sạch…
Không lấy nguyên mẫu của Chủ nghĩa Mác Lênin tưởng Hồ Chí Minh sự
vận dụng khéo léo, sáng tạo nhằm tìm ra hướng đi riêng phù hợp với tình hình cách
mạng của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, tưởng Hồ Chí Minh còn được đúc kết bởi truyền thống đấu tranh của
dân tộc, các giá trị văn hóa, tinh hoa của nhân loại.
3. Tin đkhách quan hình thành nên Tư tung HChí Minh
S$T=-#$/=N)$/=)($4E$SUV$(W=
lOMoARcPSD|4960592 8
Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt
kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Cho
đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào đấu tranh
của nhân dân nổ ra lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa trang dưới
khẩu hiệu “Cần Vương” do các phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại.
Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội
nước ta sự chuyển biến phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân thư”
Trung Quc và trào lưu ci cách Nht Bn, phong trào yêu nưc ca nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh, vi phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thc, Duy tân nhưng tt c đu
bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng không lãnh đạo được
phong trào chống Pháp.
Trưc s khng hong sâu sc v đưng li, s mnh lch s đt ra cho c dân tc
Vit Nam là phi tìm con đưng cu nưc đúng đn. Phong trào yêu nưc ca nhân
dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập quyền thống trị trên
phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa.
Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu
Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước sản, thiết lập chính quyền
Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc thuộc địa.
Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết
phong trào công nhân trong các nước bản chủ nghĩa Phương Tây phong trào
giải phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
- Truyn thng tt đp ca dân tc:
Trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần lao động, anh dũng chiến
đấu trong dựng nước giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống tình, nghĩa,
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ
thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước vào năm 1911.
lOMoARcPSD|4960592 8
Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời
hoạt động cách mạng. Đó cũng chính sở tưởng đã dẫn dắt Người đến với
chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
- Tinh hoa văn hoá nhân loi
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu kế thừa phê phán tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng sản phương Tây và cách
mạng Trung Quốc.
Trưc khi đến vi ch nghĩa Mác Lênin, HChí Minh đã quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng,
Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng
phát triển các trào lưu tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với
dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã
kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình
độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít lêninnít.
- Chủ nghĩa Mác Lênin
Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin trên nền tảng những tri thức văn
hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy
qua hoạt động thực tiễn đấu tranh mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính
mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên cứu
chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác Lênin theo phương pháp macxít, nắm
lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp
biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận sẵn trong sách vở. Như
vậy, chính thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin đã giúp
Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ
đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
Trong các tin đ trên ch nghĩa Mác- nin tiền đề quan trọng nhất vì: Chủ
nghĩa Mác- nin là thế giới quan phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,cách mạng nhất, đã chỉ ra con đường
giải phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta.
lOMoARcPSD|4960592 8
4. Giá trtư tưng HChí Minh.
- Dân tộc
Thứ 1: Đó tưởng soi sáng con đường giải phóng phát triển của dân tộc,
nền tảng tưởng kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; sản
phẩm của dân tộc và thời đại, trường tồn, bất diệt, tài sản vô giá của dân tộc ta.
tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài
người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của
thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam thế giới. Trong suốt chặng đường
hơn một nửa thế kỷ,tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ 2: Đó là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, được vận dụng sáng tạo
những nguyên phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra giải quyết một cách linh hoạt,
khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc "lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó
đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thực tiễn sinh động".
- ?(E$8=X=&
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại:
Có thể nói đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thòi đại là từ việc xác định
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đến
việc xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một
phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước
thuộc địa lạc hậu.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm.
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc
điểm thời đại . Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
vào phạm trù cách mạng vô sản. Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan
điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa : với cách mạng vô sản.
Với việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại : Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh
lOMoARcPSD|4960592 8
đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển
của nhân loại. Đó là một sự thật lịch sử.
Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, hoà bình và tiến
bộ xã hội:
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt
Nam, một nhà mácxít - lêninnít lỗi lạc. nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng
sản công nhân quốc tế, một chiến kiên cường của phong trào giải phóng dân
tộc trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp
cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ lệ đè
nặng trên đầu dân tộc ta.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí
Minh. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và
đạo đức phẩm chất cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh.
5. Thc trng ti cơ quan, đơn vị.
Câu$Y&$'(")$*+($)(Z)8$,K#$+(;$+O2$)86R=$+0)$[W$+\)8$+(L+$)(5$)6X+$4(@A$46$
467)8$9:$!(;$<=)(P
Liên$(N$4(]+$,^)$._)$J`$J5$[Q)$4(")$D3)(P$a8#bK)$4c+$.F$4(]+$(=N)$)(Z)8$,K#$
+(;$4MK)P
Tr$CR=&
%P d`$4M;e$J2=$4Mf$J5$4gD$1#2)$4MG)8$+O2$)86R=$+0)$[W$+\)8$+(L+$)(5$)6X+P
Hồ Chí Minh luôn đcao vai trò,vtrí ca đi ngũ cán b, công chc. Ngưi coi cán
bộ nói chung “là cái gc ca mi công vic”,”Mun vic thành công hay tht bi đu
phi coi cán bộ tốt hay kém.
Để xây dng 1 nhà c pháp quyn vng mnh, vn đxây dng đngũ cán b,
công chc đưc HChí Minh đc bit quan tâm.Nói mt cách tng quát nht v
yêu cu đi vi đi ngũ này, theo HCM, đó “là nhng ngưi va có đc, va có tài,
trong đó đc là gc, đi ngũ này pha đưc tchc hp lý, có hiu quNói đến bộ
máy nói riêng và mọi hoạt động của nhà nước nói chung là nói tới con người, nói tới
lOMoARcPSD|4960592 8
đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vì. mọi việc đều do con người làm ra cán bộ tốt thì
bộ máy hoạt động tốt, cán bộ dở thì bộ máy hoạt động kém, thậm chí không chạy.
vậy, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới đội ngũ cán bộ, công chức cả hai mặt xây
và chống.
YP Phân tch )êu chí ca ngưi cán bcông chc nhà nưc theo tư tưng HChí
Minh
Trưc hết, H Chí Minh chú trng vic đào to bi dưng đi ngũ cán b công chc
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vhành chính nhất
phải đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư, một tiêu chuẩn
cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Người cán bộ, đảng viên mà Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng là người có tài, đức,
hồng thắm, chuyên sâu. Người chỉ rõ: “Có tài phải đức, tài không đức, tham
ô hủ hoá hại cho nhà nước. đức không tài, như ông Bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được ai”. Đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách mạng.
Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ. Đức của
người cán bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
ng trung thành hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ
XHCN; là trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng XHCN, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh
mục tiêu, tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện sự trong sáng, thành thật,
trung thực, không cơ hội, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết hy sinh
lợi ích nhân để phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích của Tquốc, của nhân dân.
lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng, gương mẫu gắn với nhân
dân, khiêm tốn học hỏi, thực sự cầu thị. tinh thần đoàn kết, thương yêu, tương
thân, tương ái lẫn nhau. Đức cái gốc giúp người cán bộ cách mạng ợt qua mọi
khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao
phó. Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
đạo đức, không đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở để giáo
dục, thuyết phục lãnh đạo quần chúng nhân dân, tấm gương sáng cho mọi người
noi theo.
Tài của người cán bộ trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất,
có hiệu quả nhất. Tài được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả
năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ
được tri thức khoa học khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất lĩnh
vực chuyên môn của mình. Bác nói: “Phải chính trị trước rồi chuyên môn;
chính trị đức, chuyên môn tài”. “Tài” còn khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ
lOMoARcPSD|4960592 8
năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Người cán bộ cách mạng phải
năng lực trí tuệ năng lực hoạt động thực tiễn, trình độ kiến thức, kinh nghiệm
kỹ năng hoạt động tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. hoạt động
trên bất klĩnh vực nào thì người có “Tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và
thực hành thành thạo các công việc mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay,
Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải
giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”."Tài” của người cán bộ phải
được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có
tài bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “không
ai cái ng tốt, cái ng hay. vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa
chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không
biết tuỳ tài mà dùng người”. Đức và tài của người cán bộ, đảng viên trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh phải luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Tài đức của người cán bộ,
đảng viên là hai mặt không tách rời mà hoà quyện với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền
đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện hình thành nhân cách người cán bộ
cách mạng. Tài năng của người cán bộ vai trò đặc biệt quan trọng để họ hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao, đạt chất lượng hiệu quả cao trong ng việc.
Người cán bộ tài sẽ đem lại kết quả hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo cho họ
trên sở nh động theo quy luật khách quan. Nhưng tài năng đó phải được hiện
diện trong hệ thống phẩm chất, năng lực và trong tính hiệu quả hoạt động thực tiễn
của người cán bộ, đảng viên. Người cán bộ cách mạng phải là người có năng lực trí
tuệ cao, tức là có trình độ hiểu biết toàn diện, sâu sắc với một hệ thống tri thức tổng
hợp bao quát được nhiều lĩnh vực, phương pháp duy khoa học để nhận thức
được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, có năng lực thực tiễn tốt để đạt hiệu
quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là \"gốc\" của người
cán bộ, nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng
cho sự phát triển tài năng của người cán bộ, vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp
và của dân tộc. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên được nâng cao càng tăng thêm
động lực tinh thần thôi thúc người cán bộ vượt lên mọi khó khăn thử thách để nâng
cao trình độ trí tuệ của mình. Đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của
con người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức của người cán bộ
cách mạng còn là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng,
trí tuệ các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các
nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Người, cán bộ, đảng viên phải đạo đức
cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức luôn
lOMoARcPSD|4960592 8
luôn động lực của tình cảm hành vi của người cán bộ, tài sở để làm cho
đức của người cán bộ cách mạng càng cao, càng lớn hơn.
tưởng Hồ Chí Minh về Đức - Tài của người cán bộ di huấn giá Người để
lại cho Đảng nhân dân ta về công tác y dựng đội ngũ n bộ trong tình hình
mới. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Không bổ nhiệm cán bộ không đủ
đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa”(6). Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải
kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin vào sự nghiệp
đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay là cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, tư, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; không tham nhũng
cương quyết đấu tranh chống tham nhũng; lối sống trong sạch, lành mạnh, gần
gũi với nhân dân, gương mẫu gắn với quần chúng. Đặc biệt, người cán bộ cách
mạng phải biết trăn trở trước cuộc sống nghèo khổ của quần chúng nhân dân nguy
tụt hậu ngày càng xa về kinh tế của đất nước so với thế giới; phải suy ng
hành động, đem hết tài năng, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải nói đi đôi với làm, nói ít, làm
nhiều; phải biết thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể, bằng gương
để thuyết phục, quy tụ mọi người.
Tài năng lực chuyên môn, khả năng công tác để bảo đảm hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao; tài tầm tưởng, trí tuệ của người cán bộ, đảng viên trong
tiến hành công việc một cách độc lập, sáng tạo, mang lại hiệu quả tối ưu. Tài phải
được thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy phát triển; có tư duy biện chứng, lôgíc, có
tầm hiểu biết sâu rộng phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả, đủ sức cắt nghĩa
tìm được những câu trả lời thuyết phục trước những biến động phức tạp mau
lẹ của thực tiễn. Phải có năng lực trí tuệ phát triển cao, có trình độ ngoại ngữ và tin
học để làm chủ công nghệ, nhất công nghệ thông tin; năng lực tổ chức thực
tiễn, năng lực cạnh tranh khoa học ng nghệ, khả năng tiếp nhận quản
được công nghệ kỹ thuật mới.
Đức tài một thể thống nhất, không thể tách rời. Vì vậy, không thể chỉ đức
mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ đức. Đức của người cán
bộ, đảng viên hiện nay không chỉ như đạo đức công dân mà còn bao hàm cả đạo đức
của người lãnh đạo, chỉ huy. Trung thành nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, không thụ động, bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung
thành nhưng không phải “gọi dạ, bảo vâng”, hội, không chủ kiến, không
lOMoARcPSD|4960592 8
dám đấu tranh, tuỳ thời vì mục đích quyền lực và tiền tài. Tài của người cán bộ hiện
nay cần phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc thế phải tìm
chọn cán bộ tài phù hợp với yêu cầu sử dụng. Nghĩa khi chọn người tài phải
dựa vào thế mạnh sở trường của họ, vào tài năng thực tế của người cán bộ, đảng
viên, không hoàn toàn dựa vào bằng cấp để bố trí công việc, xác định cương vị;
vậy mới giúp cán bộ, đảng viên phát huy được ưu thế, sở trường, dốc tâm lực vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân.
Trong điu kin va thoát khi chế đ ca thc dân, phong kiến, chúng ta chưa có
kinh nghiệm trong quản lý đất nước. Vì vậy, cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà
nước. Hồ Chí Minh vừa sử dụng viên chức, quan lại dưới chế độ cũ vừa tích cực tìm
người tài đức vì kiến thiết cần có nhân tài.
Cần lưu ý thêm khi bàn về công chức, Hồ Chí Minh coi “cán bộ nguồn vốn của
Nhà nước”, “cái gốc của mọi công việc’-. Vì vậy. trong Quy chế công chức, Người
xác định rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức. Vì công chức giữ một vị trí và nhiệm
vụ nhất định trong bộ máy nhà nước, nên phải đem hết tất cả sức lực tâm trí để
làm việc cho nhân dân. Họ cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình, nằm
trong thang lương nhất định phải quy chế khung thi tuyến. Như vậy, thể
thấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức
nghiệp.
Nói đến cán bộ công chức, cùng với xây những phẩm chất tốt cần chống lại những
thói tật xấu. Hồ Chí Minh lãnh tụ nhìn xa, trông rộng. Ngay sau khi chính
quyền cách mạng. Người đã chỉ ra những căn bệnh trong bộ máy nhà nước và trong
cả hệ thông chính trị. Từ đó Người trăn trở với cách để phòng khắc phục những
thói tật của cán bộ, công chửc. Đó những thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”
nhất tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, óc phái, đặc
quyền đặc lợi, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo… Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí
bệnh quan liêu bạn đồng minh của thực dân phong kiến . phá hoại đạo đức
cách mạng của ta phá từ trong phá ra . Tội lỗi ấy nặng như Việt gian, mật thám. Vì
vậy, chống “giặc trong lòng” cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt, trận. Đáng
chú ý bệnh quan liêu. Những người mắc bệnh quan liêu trọng hình thức, thích khai
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn…
thành thử mắt mà không thấy suốt, tai không nghe thấu, chế độ
không giữ đúng, kỷ luật không nắm vững… Thế,là bệnh quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. vậy. muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng
lOMoARcPSD|4960592 8
phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Đây chính là tinh thần của Lênin khi
cho rằng tệ quan liêu sẽ làm tiêu vong chúng ta.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh Nói
phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Trong sut cuc đi hot đng ca mình,H Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng v
đạo đức, Người nói ít làm nhiều, nhiều vấn đề về đạo đức Người làm không
nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu
xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: "... Trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến
những người cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực
thước cho người ta bắt trước"
Trong cun đưng cách mnh, khi nói về cách ngưi cách mnh H Chí Minh
viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác phẩm nâng cao
đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần
thực hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" .
Luận điểm ấy đã khẳng định rất vấn đề nêu gương tầm quan trọng đặc biệt
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng nghĩa hẹp,
tấm gương chung riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng
trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành
hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội những tấm gương đạo đức
của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt ý nghĩa thúc đẩy cho quá
trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các
thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm ơng của các vị anh hùng, chiến s
thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những
tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường mọi lúc mọi nơi
mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt,
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào
cũng có"
2- Xây đi đôi với chống - lấy xây là chủ yếu.
lOMoARcPSD|4960592 8
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức
luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải
chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vậy Hồ Chí Minh căn
dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ nghĩa nhân nâng cao đạo đức
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật"
Vic xây dng đo đc mi trưc hết phi đưc tiến hành bng vic giáo dc nhng
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, hội nhất trong
những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục
đạo đức phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh mọi người để mọi người tự
giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói,
Cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "Sung sướng vẻ
vang nhất trong đời này" tiếp nhận sự giáo dục đạo đức vấn đề nhất thiết không
thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức mỗi người còn quan trọng
hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi
đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu, cái
sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Muốn xây
dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Trong tác
phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa nhân được công bố vào
ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã
mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách mạng phải quýet
sạch chủ nghĩa cá nhân.
3- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng công việc phải
kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo
đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng
ngày phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong"
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn thể vượt qua, công với
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con người
ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó tu dưỡng đạo đức
lOMoARcPSD|4960592 8
phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới
phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều cái tốt, cái xấu vấn đề
không tự lừa dối mình nhìn thẳng vào mình thấy cái tốt, cái thiện để phát
huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh một tấm gương suốtđời tự rèn
luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu
của người không phải bẩm sinh được do quá trình tu dưỡng rèn luyện học
tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc nhân loại đã trở thành
tưởng bất tử.
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người Việt Nam
trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức
sâu sắc, động lực, sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 77
năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước Việt nam trong
giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận dụng tưởng, đạo
đức, tác phong Hồ Chí Minh hết sức cần thiết, công việc quan trọng để mỗi
chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước.
Thấm nhuẫn tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị TW 6(lần 2) khoá VIII
(tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc về xây dựng đạo
đức mới mà Hồ Chí Minh đã đưa ra.
Hội nghị TW6 khoá IX chỉ rõ: Cần phải tiếp tục thực hiện nghị quyết hội nghị lần
thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về giáo dục - đào tạo nhấn mạnh phải
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học hội nhân văn, nhất là các môn
Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. đặc biệt chỉ thị số 06/CT-TW ngày 7
tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong
toàn Đảng về tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm
vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng
của nhân dân n trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức cách mạng, từng bước
quýet sạch chủ nghĩa nhân, học tập nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
lOMoARcPSD|4960592 8
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các quan, đơn vị, nhằm phê phán những biểu
hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ
trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những
nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để
nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức
Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
Liên hệ thc )n đơn vvà bn thân mình. Nguyên tc đthc hin nhng )êu chí
trên.
!"#$h&$'(")$*+($)W=$i#)8$+O2$+\)8$40+$U"b$i])8$TQ)8P$
?(@A$TB+$)W=$i#)8$)5A$C5$1#2)$4MG)8$)(j4P
k=Q=$I(0I$.F$4(]+$(=N)$)W=$i#)8$jbe$C=K)$(N$._)$J`$+O2$D3)(P
Tr lời:
Từ trước đến nay, nhất trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác
xây dựng Đảng, coi đây nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ ý nghĩa sống còn đối
với Đảng ta, chế độ ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không nhiệm kỳ nào
Trung ương Đng không nghị quyết về xây dựng Đảng. Cụ thể là: Nghị quyết
Trung ương 5 (khoá VI): Mt s vn đ cp bách v xây dng Đng, bo đm thc
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về“Một
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề bản cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng
phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”…
lOMoARcPSD|4960592 8
Theo đó, chúng ta tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong
nhiều nhiệm kỳ, nhiều cuộc vận động với nhiều biện pháp cơ bản và quan trọng góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng ta, đáp ứng những đòi
hỏi của công cuộc đổi mới. Qua thực tiễn, Đảng ta ngày càng tiến bộ trưởng thành.
Song, nghiêm khắc nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa
chữa cấp bách nhưng chưa khắc phục được như mong muốn, mặt còn phức tạp
thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên nhân dân. Trong tình hình
đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, với những âm mưu,
thủ đoạn thâm độc, tinh vi, hòng xóa bỏ Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩanước ta và xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đã
làm cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng của chúng ta gặp không ít khó khăn,
thách thức.
Trưc yêu cu mi ngày càng cao ca công cuc đi mi, nếu Đng không gi vng
bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tưởng; không
thống nhất cao về ý chí và hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không
chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững đủ
sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vậy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
tiếp tục bàn và ban hành Nghị quyết Trung ương 4: “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”.
Nghị quyết Trung ương 4 được viết rất ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung
bản quan trọng với tưởng chđạo xuyên suốt kiên quyết, kiên trì thực
hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể
các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài
trong Đảng tạo bước đột phá về công tác cán bộ. Nghị quyết không dàn trải, mà
tập trung nêu giải quyết nội dung cốt lõi 3 vấn đề cấp bách 4 nhóm giải
pháp.
1. y dng Đng vtư tưng, chính trị:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải kiên định dựa vào lý luận cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác Lênin:
Hồ Chí Minh khẳng định:"Đảng muốn vừng thi phải chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không chủ nghĩa
cũng như người không trí khôn, tàu không bàn chỉ nam", "chủ nghĩa" ấy chủ
nghĩa Mác - Lênin.
lOMoARcPSD|4960592 8
Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ
nam định hướng cho con tàu đi, điều đó nói lên vai tcực kỳ quan trọng của lý luận
ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác -
Lênin trthành "cốt", trở thành nền tảng tưởng kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo HChí Minh, xây dng Đng không ngng nâng cao trình đlun
chính tr, năng lc, phm cht đo đc ca đi ngũ cán b, Đng viên:
Trong tư tưng H Chí Minh, xây dng Đng v chính tr, thc cht là nâng cao trình
độ lý luận cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể đưa một Đảng cách mạng đến
thành công. Thấu hiểu điều đó hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: bây
giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính
nhất chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có trang bị chủ nghĩa Mác Lênin thì sức sống của
Đảng mới trường tồn. Và, cũng chỉ chủ nghĩa Mác Lênin mới “cái cẩm nang
thần kỳđể đưa cách mạng đến thành ng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi
cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Học chủ
nghĩa Mác - Lênin, theo Người, học tinh thần biện chứng của nó. Nếu học
không hiểu, hoặc hiểu mà không biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta thì sẽ
không đưa lại kết quả mong muốn. Người nói: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... luận cốt để áp dụng vào
công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông... Mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên phải học luận, phải đem luận áp dụng vào công việc thực
tế... Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn.
tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên”. Học lý luận là để
nắm vững luận điều cốt yếu phải biết vận dụng luận vào tất cả c tình
huống khác nhau của đời sống hội. như vậy, luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
mới thực sự đóng vai trò “hạt nhân chính trị”, “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động
thực tiễn của Đảng. Xây dựng Đảng vchính trị được biểu hiện mục đích lập
trường của một Đảng cách mạng. Người luôn căn dặn chúng ta không bao giờ được
quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng tiến lên chủ nghĩa hội chủ nghĩa
cộng sản. Nếu rời bỏ mục tiêu đó, lập trường đó, Đảng sẽ rơi vào tả khuynh hoặc
hữu khuynh, dao động và không sớm thì muộn, sẽ xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa
rời lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
lOMoARcPSD|4960592 8
2. y dng Đng về tổ chc, cán bộ.
Trong tư tưng H Chí Minh, Đng phi luôn là mt khi đoàn kết, thng nht v
mọi mặt; trong đó sức mạnh của Đảng chính sức mạnh của tổ chức chặt chẽ,
tính kỷ luật cao từ Trung ương đến cơ sở, từ các cơ quan nhà nước đến các đoàn thể
chính trị - hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ chức theo tưởng Hồ Chí Minh
nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị, bảo đảm tổ
chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu quả, luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn:
“Chính quyền và đoàn thể (Đảng) cũng cần thường xuyên rửa các bộ máy của mình,
để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn
gàng, mau chóng”
Trong h thng t chc ca Đng, chi b chính là mt t chc ht nhân, nơi rèn
luyện, đồng thời là nơi giám sát đảng viên: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng”, “là đồn y
của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng, là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần
chúng. Chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”, là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây
dựng nội bộ Đảng. thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi chi bộ của Đảng
phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một
quan lãnh đạo vững chắc địa phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung
ương”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ chủ yếu; trong đó có:
Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà
nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng... Hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục
vụ nhân dân... Gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác… trong việc bảo
vệ tài sản của Nhà nước của tập thể; thực hành tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống
lãng phí, tham ô…
3. Thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng
- Nguyên tắc Tập chung dân chủ, tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ trách:
Tập trung dân chủ nguyên tắc tổ chức của Đảng, yếu tố quyết định sức mạnh
của Đảng.Đây cũng là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản trở thành
1 tổ chức chiến đấu chặt chẽ ,vừa phát huy sức mạnh của mỗi người vừa phát huy
sức mạnh của cả tổ chức Đảng .
Người nhấn mạnh: “Cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều;
cấp dưới phải phục tùng cấp trên ;các địa phương phải phục tùng Trung ương. Đảng
tuy đông người nhưng tiến hành chỉ như 1 người”.Bên cạnh đó Người cũng nhấn
mạnh dân chủ trong Đảng.Quan niệm gốc của vấn đề này chỗ ,Hồ Chí Minh cho
rằng :nước ta là nước dân chủ, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”,là thành
quả của cách mạng ,là làm cho mọi người mạnh dạn ý kiến ,làm cho Đảng tập
lOMoARcPSD|4960592 8
trung được trí tuệ ,tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Khi nguyên tắc tập trung
dân chủ bị vi phạm ,sẽ làm cho Đảng suy yếu ,nội bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối,
chủ trương của Đảng lệch lạc ,sai lầm ,uy tín của Đảng bị giảm ,Đảng dần mất quyền
lãnh đạo đối với quần chúng .Vì vậy, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng Đảng nhằm đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực sức
chiến đấu của Đảng là 1 trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác
xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay.Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống trên sở đảm bảo giữ vững các nguyên
tắc sinh hoạt Đảng.
Theo Hồ Chí Minh : “Lãnh đạo không tập thể tsẽ đi đến cái tệ bao biện ,độc đoán,
chủ quan.Kết quả hỏng việc .Phtrách không do nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa
bãi ,lộn xộn, vô chính phủ.Kết quả cũng hỏng việc .Tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ
trách phải luôn đi đôi với nhau”.Tập thể lãnh đạo dân chủ .Cá nhân phụ trách
tập trung.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau ,có mối quan hệ mật
thiết với nhau ,không được máy móc.Người còn chỉ rõ: “Nhưng không phải vấn đ
gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được ,cũng đưa ra bàn-mới là
tập thể lãnh đạo .Nếu làm như vậy ,là hiểu tập thể lãnh đạo 1 cách quá máy móc .Kết
quả cứ khai hội hết ngày giờ.Những việc bình thường ,một người thể giải
quyết đúng ,thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết theo đúng hướng tập thể
phải chịu trách nhim .Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”
Tập thể lãnh đạo nhân phụ trách ý nghĩa to lớn.Thứ nhất phát huy được
sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân.Thứ hai là tránh được tình
trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ trong
Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám chịu trách nhiệm. Tự phê
bình phê bình nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng:
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này, khí để rèn luyện đảng viên , để
nâng cao trình độ lãnh đạo của đảng ,bảo đảm cho đảng luôn trong sạch, vững mạnh
Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ.Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn.Cốt đoàn kết thống
nhất nội bộ”.Theo Người ,mỗi cán bộ ,đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm , tự phê
bình ,tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.Tự phê bình và phê bình liên quan đến
| 1/25

Preview text:

lOMoARcPSD|49605928
HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN PHÂN VIỆT NAM VIỆN MIỀN NAM
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH K66
ĐỀ CƯƠNG: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC VIÊN: LÊ LƯƠNG HẢI
TP.HỒ CHÍ MINH THÁNG 8/2022
Câu 1: Phân *ch ,ền đề khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ?
Theo đ/c làm thế nào để học tập và nghiên cứ tư rưởng Hồ Chí Minh hiệu qủa. Trả lời:
1. Sơ lược thân thế + sự nghiệp Hồ Chí Minh ( chi fết và đầy đủ)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc
nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có
truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến.
Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu. lOMoARcPSD|49605928
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị,
Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu
nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Tháng 6
năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước
Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những
phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm
sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là
con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công
nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam,
yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam .
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố
Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa,
nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người viết nhiều
bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”, ... Đặc biệt, Người
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức
tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người
đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước
Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc
tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng
thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo
dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh lOMoARcPSD|49605928
niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước, đồng
thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm
1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài,
đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng
đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi
Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của
Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng
khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề
đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao động.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân
thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng phản
động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội
Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm
miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày
9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần
đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm
Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh
đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. lOMoARcPSD|49605928
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva
được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến
thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo
nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động
Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi
cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu
tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý
tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên
hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” .
2. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm các quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề chung cơ bản có liên quan đến cách mạng Việt Nam, đây là kết quả
của quá trình vận dụng và sáng tạo dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin vào cách mạng Việt Nam.
Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh là về tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng các giai cấp bị thống trị, áp bức bóc lột, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh toàn dân, xây dựng Đảng luôn vững mạnh, trong sạch…
Không lấy nguyên mẫu của Chủ nghĩa Mác Lênin mà tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
vận dụng khéo léo, sáng tạo nhằm tìm ra hướng đi riêng phù hợp với tình hình cách
mạng của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được đúc kết bởi truyền thống đấu tranh của
dân tộc, các giá trị văn hóa, tinh hoa của nhân loại.
3. Tiền đề khách quan hình thành nên Tư tuởng Hồ Chí Minh
- Điều kiện kinh tế -xã hội lOMoARcPSD|49605928
Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký
kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Cho
đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào đấu tranh
của nhân dân nổ ra và lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới
khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại.
Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội
nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân thư” ở
Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân… nhưng tất cả đều
bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng không lãnh đạo được phong trào chống Pháp.
Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc
Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước của nhân
dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập quyền thống trị trên
phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu
Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền
Xô Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc thuộc địa.
Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết
phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong trào
giải phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
- Truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến
đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa,
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ
thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. lOMoARcPSD|49605928
Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời
hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
- Tinh hoa văn hoá nhân loại
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng,
Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng
và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với
dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã
kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình
độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – lêninnít.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn
hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy
qua hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên cứu
chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp macxít, nắm
lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp
biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở. Như
vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp
Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ
đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
Trong các tiền đề trên chủ nghĩa Mác- Lê nin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ
nghĩa Mác- Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh,
là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,cách mạng nhất, đã chỉ ra con đường
giải phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta. lOMoARcPSD|49605928
4. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. - Dân tộc
Thứ 1: Đó là tư tưởng soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc, là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; là sản
phẩm của dân tộc và thời đại, trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tư
tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài
người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của
thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong suốt chặng đường
hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ 2: Đó là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, được vận dụng sáng tạo
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt,
khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc "lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó
đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thực tiễn sinh động". - Thế giới:
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại:
Có thể nói đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thòi đại là từ việc xác định
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đến
việc xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một
phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm.
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc
điểm thời đại . Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
vào phạm trù cách mạng vô sản. Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan
điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa : với cách mạng vô sản.
Với việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại : Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh lOMoARcPSD|49605928
đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển
của nhân loại. Đó là một sự thật lịch sử.
Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ xã hội:
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt
Nam, một nhà mácxít - lêninnít lỗi lạc. nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp
cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè
nặng trên đầu dân tộc ta.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí
Minh. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và
đạo đức phẩm chất cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh.
5. Thực trạng tại cơ quan, đơn vị.
Câu 2: Phân *ch những ,êu chí của người cán bộ công chức nhà nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Liên hệ thực ,ễn đơn vị và bản thân mình. Nguyên tắc để thực hiện những ,êu chí trên. Trả lời:
1. Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của người cán bộ công chức nhà nước.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò,vị trí của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán
bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”,”Muốn việc thành công hay thất bại đều
phải coi cán bộ tốt hay kém”.
Để xây dựng 1 nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng độ ngũ cán bộ,
công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.Nói một cách tổng quát nhất về
yêu cầu đối với đội ngũ này, theo HCM, đó “là những người vừa có đức, vừa có tài,
trong đó đức là gốc, đội ngũ này phỉa được tổ chức họp lý, có hiệu quả” Nói đến bộ
máy nói riêng và mọi hoạt động của nhà nước nói chung là nói tới con người, nói tới lOMoARcPSD|49605928
đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vì. mọi việc đều do con người làm ra cán bộ tốt thì
bộ máy hoạt động tốt, cán bộ dở thì bộ máy hoạt động kém, thậm chí không chạy.
Vì vậy, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới đội ngũ cán bộ, công chức cả hai mặt xây và chống.
2. Phân tịch )êu chí của người cán bộ công chức nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết, Hồ Chí Minh chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức
có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là
phải có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn
cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Người cán bộ, đảng viên mà Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng là người có tài, đức,
hồng thắm, chuyên sâu. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham
ô hủ hoá có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được ai”. Đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách mạng.
Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ. Đức của
người cán bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
là lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ
XHCN; là trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng XHCN, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh
vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện ở sự trong sáng, thành thật,
trung thực, không cơ hội, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết hy sinh
lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Có
lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng, gương mẫu gắn bó với nhân
dân, khiêm tốn học hỏi, thực sự cầu thị. Có tinh thần đoàn kết, thương yêu, tương
thân, tương ái lẫn nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ cách mạng vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao
phó. Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở để giáo
dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
Tài của người cán bộ là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất,
có hiệu quả nhất. Tài được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả
năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ
được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh
vực chuyên môn của mình. Bác nói: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn;
chính trị là đức, chuyên môn là tài”. “Tài” còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ lOMoARcPSD|49605928
năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Người cán bộ cách mạng phải
có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm
và kỹ năng hoạt động tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Dù hoạt động
trên bất kỳ lĩnh vực nào thì người có “Tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và
thực hành thành thạo các công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay,
Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải
giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”."Tài” của người cán bộ phải
được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có
tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “không
có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa
chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không
biết tuỳ tài mà dùng người”. Đức và tài của người cán bộ, đảng viên trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh phải luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Tài và đức của người cán bộ,
đảng viên là hai mặt không tách rời mà hoà quyện với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền
đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện hình thành nhân cách người cán bộ
cách mạng. Tài năng của người cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng để họ hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao, đạt chất lượng và hiệu quả cao trong công việc.
Người cán bộ có tài sẽ đem lại kết quả hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo cho họ
trên cơ sở hành động theo quy luật khách quan. Nhưng tài năng đó phải được hiện
diện trong hệ thống phẩm chất, năng lực và trong tính hiệu quả hoạt động thực tiễn
của người cán bộ, đảng viên. Người cán bộ cách mạng phải là người có năng lực trí
tuệ cao, tức là có trình độ hiểu biết toàn diện, sâu sắc với một hệ thống tri thức tổng
hợp bao quát được nhiều lĩnh vực, có phương pháp tư duy khoa học để nhận thức
được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, có năng lực thực tiễn tốt để đạt hiệu
quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là \"gốc\" của người
cán bộ, nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng
cho sự phát triển tài năng của người cán bộ, vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp
và của dân tộc. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên được nâng cao càng tăng thêm
động lực tinh thần thôi thúc người cán bộ vượt lên mọi khó khăn thử thách để nâng
cao trình độ trí tuệ của mình. Đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của
con người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức của người cán bộ
cách mạng còn là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng,
trí tuệ và các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các
nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Người, cán bộ, đảng viên phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức luôn lOMoARcPSD|49605928
luôn là động lực của tình cảm và hành vi của người cán bộ, tài là cơ sở để làm cho
đức của người cán bộ cách mạng càng cao, càng lớn hơn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đức - Tài của người cán bộ là di huấn vô giá Người để
lại cho Đảng và nhân dân ta về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình
mới. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Không bổ nhiệm cán bộ không đủ
đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa”(6). Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là
kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào sự nghiệp
đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay là cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; không tham nhũng và
cương quyết đấu tranh chống tham nhũng; có lối sống trong sạch, lành mạnh, gần
gũi với nhân dân, gương mẫu và gắn bó với quần chúng. Đặc biệt, người cán bộ cách
mạng phải biết trăn trở trước cuộc sống nghèo khổ của quần chúng nhân dân và nguy
cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế của đất nước so với thế giới; phải suy nghĩ và
hành động, đem hết tài năng, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là nói đi đôi với làm, nói ít, làm
nhiều; phải biết thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể, bằng nê gương
để thuyết phục, quy tụ mọi người.
Tài là năng lực chuyên môn, khả năng công tác để bảo đảm hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao; tài là tầm tư tưởng, trí tuệ của người cán bộ, đảng viên trong
tiến hành công việc một cách độc lập, sáng tạo, mang lại hiệu quả tối ưu. Tài phải
được thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy phát triển; có tư duy biện chứng, lôgíc, có
tầm hiểu biết sâu rộng và phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả, đủ sức cắt nghĩa
và tìm được những câu trả lời thuyết phục trước những biến động phức tạp và mau
lẹ của thực tiễn. Phải có năng lực trí tuệ phát triển cao, có trình độ ngoại ngữ và tin
học để làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; có năng lực tổ chức thực
tiễn, năng lực cạnh tranh khoa học và công nghệ, có khả năng tiếp nhận và quản lý
được công nghệ kỹ thuật mới.
Đức và tài là một thể thống nhất, không thể tách rời. Vì vậy, không thể chỉ có đức
mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ đức. Đức của người cán
bộ, đảng viên hiện nay không chỉ như đạo đức công dân mà còn bao hàm cả đạo đức
của người lãnh đạo, chỉ huy. Trung thành nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, không thụ động, bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung
thành nhưng không phải là “gọi dạ, bảo vâng”, cơ hội, không có chủ kiến, không lOMoARcPSD|49605928
dám đấu tranh, tuỳ thời vì mục đích quyền lực và tiền tài. Tài của người cán bộ hiện
nay cần phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm
chọn cán bộ có tài phù hợp với yêu cầu sử dụng. Nghĩa là khi chọn người tài phải
dựa vào thế mạnh và sở trường của họ, vào tài năng thực tế của người cán bộ, đảng
viên, không hoàn toàn dựa vào bằng cấp để bố trí công việc, xác định cương vị; có
vậy mới giúp cán bộ, đảng viên phát huy được ưu thế, sở trường, dốc tâm lực vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân.
Trong điều kiện vừa thoát khỏi chế độ của thực dân, phong kiến, chúng ta chưa có
kinh nghiệm trong quản lý đất nước. Vì vậy, cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà
nước. Hồ Chí Minh vừa sử dụng viên chức, quan lại dưới chế độ cũ vừa tích cực tìm
người tài đức vì kiến thiết cần có nhân tài.
Cần lưu ý thêm khi bàn về công chức, Hồ Chí Minh coi “cán bộ là nguồn vốn của
Nhà nước”, “cái gốc của mọi công việc’-. Vì vậy. trong Quy chế công chức, Người
xác định rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức. Vì công chức giữ một vị trí và nhiệm
vụ nhất định trong bộ máy nhà nước, nên phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí để
làm việc cho nhân dân. Họ cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình, nằm
trong thang lương nhất định và phải có quy chế khung thi tuyến. Như vậy, có thể
thấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức nghiệp.
Nói đến cán bộ công chức, cùng với xây những phẩm chất tốt cần chống lại những
thói hư tật xấu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ nhìn xa, trông rộng. Ngay sau khi có chính
quyền cách mạng. Người đã chỉ ra những căn bệnh trong bộ máy nhà nước và trong
cả hệ thông chính trị. Từ đó Người trăn trở với cách để phòng và khắc phục những
thói tật của cán bộ, công chửc. Đó là những thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”
mà rõ nhất là tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, óc bè phái, đặc
quyền đặc lợi, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo… Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí và
bệnh quan liêu là bạn đồng minh của thực dân phong kiến . Nó phá hoại đạo đức
cách mạng của ta phá từ trong phá ra . Tội lỗi ấy nặng như Việt gian, mật thám. Vì
vậy, chống “giặc trong lòng” cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt, trận. Đáng
chú ý bệnh quan liêu. Những người mắc bệnh quan liêu là trọng hình thức, thích khai
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn…
thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà
không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế,là bệnh quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy. muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng lOMoARcPSD|49605928
phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Đây chính là tinh thần của Lênin khi
cho rằng tệ quan liêu sẽ làm tiêu vong chúng ta.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh Nói
phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng về
đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà không
nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu
xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: "... Trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến
những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực
thước cho người ta bắt trước"
Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí Minh
viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác phẩm nâng cao
đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần
thực hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" .
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có
tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng
trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành
hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương đạo đức
của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các
thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ
thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những
tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi
mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt,
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có"
2- Xây đi đôi với chống - lấy xây là chủ yếu. lOMoARcPSD|49605928
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức
luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải
chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn
dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật"
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là trong
những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục
đạo đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự
giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói,
Cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "Sung sướng vẻ
vang nhất trong đời này" tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không
thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng
hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi
đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu, cái
sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Muốn xây
dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Trong tác
phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân được công bố vào
ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã
mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách mạng phải quýet
sạch chủ nghĩa cá nhân.
3- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc phải
kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo
đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con người
ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức lOMoARcPSD|49605928
phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới
phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề
là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát
huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương suốtđời tự rèn
luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu
của người không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học
tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người Việt Nam
trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức
sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 77
năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước Việt nam trong
giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận dụng tư tưởng, đạo
đức, tác phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là công việc quan trọng để mỗi
chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước.
Thấm nhuẫn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị TW 6(lần 2) khoá VIII
(tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận động và xây dựng
chỉnh đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc về xây dựng đạo
đức mới mà Hồ Chí Minh đã đưa ra.
Hội nghị TW6 khoá IX chỉ rõ: Cần phải tiếp tục thực hiện nghị quyết hội nghị lần
thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về giáo dục - đào tạo và nhấn mạnh phải
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn, nhất là các môn
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đặc biệt là chỉ thị số 06/CT-TW ngày 7
tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong
toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm
vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng
của nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức cách mạng, từng bước
quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. lOMoARcPSD|49605928
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những biểu
hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ
trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những
nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để
nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức
Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
Liên hệ thực )ễn đơn vị và bản thân mình. Nguyên tắc để thực hiện những )êu chí trên.
Câu 3: Phân *ch nội dung của công tác xây dựng Đảng.
Theo Đ/c nội dung nào là quan trọng nhất.
Giải pháp để thực hiện nội dung ấy, liên hệ đơn vị của mình. Trả lời:
Từ trước đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác
xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối
với Đảng ta, chế độ ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào
Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng. Cụ thể là: Nghị quyết
Trung ương 5 (khoá VI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về“Một
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng
phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”… lOMoARcPSD|49605928
Theo đó, chúng ta tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong
nhiều nhiệm kỳ, nhiều cuộc vận động với nhiều biện pháp cơ bản và quan trọng góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta, đáp ứng những đòi
hỏi của công cuộc đổi mới. Qua thực tiễn, Đảng ta ngày càng tiến bộ và trưởng thành.
Song, nghiêm khắc nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa
chữa cấp bách nhưng chưa khắc phục được như mong muốn, có mặt còn phức tạp
thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong tình hình
đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, với những âm mưu,
thủ đoạn thâm độc, tinh vi, hòng xóa bỏ Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đã
làm cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng của chúng ta gặp không ít khó khăn, thách thức.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới, nếu Đảng không giữ vững
bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không
thống nhất cao về ý chí và hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không
chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ
sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
tiếp tục bàn và ban hành Nghị quyết Trung ương 4: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Nghị quyết Trung ương 4 được viết rất ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung
cơ bản và quan trọng với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là kiên quyết, kiên trì thực
hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể
các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài
trong Đảng và tạo bước đột phá về công tác cán bộ. Nghị quyết không dàn trải, mà
tập trung nêu và giải quyết nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp.
1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải kiên định dựa vào lý luận cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Hồ Chí Minh khẳng định:"Đảng muốn vừng thi phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam", "chủ nghĩa" ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin. lOMoARcPSD|49605928
Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ
nam định hướng cho con tàu đi, điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận
ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác -
Lênin trở thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng và không ngừng nâng cao trình độ lí luận và
chính trị, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, Đảng viên:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị, thực chất là nâng cao trình
độ lý luận cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể đưa một Đảng cách mạng đến
thành công. Thấu hiểu điều đó hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: bây
giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có trang bị chủ nghĩa Mác Lênin thì sức sống của
Đảng mới trường tồn. Và, cũng chỉ có chủ nghĩa Mác Lênin mới là “cái cẩm nang
thần kỳ” để đưa cách mạng đến thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi
cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Học chủ
nghĩa Mác - Lênin, theo Người, là học tinh thần biện chứng của nó. Nếu học mà
không hiểu, hoặc hiểu mà không biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta thì sẽ
không đưa lại kết quả mong muốn. Người nói: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... Lý luận cốt để áp dụng vào
công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông... Mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực
tế... Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn.
Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên”. Học lý luận là để
nắm vững lý luận và điều cốt yếu là phải biết vận dụng lý luận vào tất cả các tình
huống khác nhau của đời sống xã hội. Có như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
mới thực sự đóng vai trò là “hạt nhân chính trị”, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động
thực tiễn của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị được biểu hiện ở mục đích và lập
trường của một Đảng cách mạng. Người luôn căn dặn chúng ta không bao giờ được
quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Nếu rời bỏ mục tiêu đó, lập trường đó, Đảng sẽ rơi vào tả khuynh hoặc
hữu khuynh, dao động và không sớm thì muộn, sẽ xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa
rời lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. lOMoARcPSD|49605928
2. Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải luôn là một khối đoàn kết, thống nhất về
mọi mặt; trong đó sức mạnh của Đảng chính là sức mạnh của tổ chức chặt chẽ, có
tính kỷ luật cao từ Trung ương đến cơ sở, từ các cơ quan nhà nước đến các đoàn thể
chính trị - xã hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị, bảo đảm tổ
chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu quả, luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn:
“Chính quyền và đoàn thể (Đảng) cũng cần thường xuyên rửa các bộ máy của mình,
để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu cơ và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn gàng, mau chóng”
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, chi bộ chính là một tổ chức hạt nhân, nơi rèn
luyện, đồng thời là nơi giám sát đảng viên: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng”, “là đồn lũy
của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng, là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần
chúng. Chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”, là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây
dựng nội bộ Đảng. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi chi bộ của Đảng
phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một
cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung
ương”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ chủ yếu; trong đó có:
Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà
nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng... Hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục
vụ nhân dân... Gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác… trong việc bảo
vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể; thực hành tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống lãng phí, tham ô…
3. Thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng
- Nguyên tắc Tập chung dân chủ, tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ trách:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là yếu tố quyết định sức mạnh
của Đảng.Đây cũng là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản trở thành
1 tổ chức chiến đấu chặt chẽ ,vừa phát huy sức mạnh của mỗi người vừa phát huy
sức mạnh của cả tổ chức Đảng .
Người nhấn mạnh: “Cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều;
cấp dưới phải phục tùng cấp trên ;các địa phương phải phục tùng Trung ương. Đảng
tuy đông người nhưng tiến hành chỉ như 1 người”.Bên cạnh đó Người cũng nhấn
mạnh dân chủ trong Đảng.Quan niệm gốc của vấn đề này là ở chỗ ,Hồ Chí Minh cho
rằng :nước ta là nước dân chủ, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”,là thành
quả của cách mạng ,là làm cho mọi người mạnh dạn có ý kiến ,làm cho Đảng tập lOMoARcPSD|49605928
trung được trí tuệ ,tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Khi nguyên tắc tập trung
dân chủ bị vi phạm ,sẽ làm cho Đảng suy yếu ,nội bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối,
chủ trương của Đảng lệch lạc ,sai lầm ,uy tín của Đảng bị giảm ,Đảng dần mất quyền
lãnh đạo đối với quần chúng .Vì vậy, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng Đảng nhằm đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng là 1 trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác
xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay.Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống và trên cơ sở đảm bảo giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
Theo Hồ Chí Minh : “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện ,độc đoán,
chủ quan.Kết quả là hỏng việc .Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa
bãi ,lộn xộn, vô chính phủ.Kết quả cũng là hỏng việc .Tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ
trách phải luôn đi đôi với nhau”.Tập thể lãnh đạo là dân chủ .Cá nhân phụ trách là tập trung.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau ,có mối quan hệ mật
thiết với nhau ,không được máy móc.Người còn chỉ rõ: “Nhưng không phải vấn đề
gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được ,cũng đưa ra bàn-mới là
tập thể lãnh đạo .Nếu làm như vậy ,là hiểu tập thể lãnh đạo 1 cách quá máy móc .Kết
quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ.Những việc bình thường ,một người có thể giải
quyết đúng ,thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết theo đúng hướng tập thể và
phải chịu trách nhiệm .Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có ý nghĩa to lớn.Thứ nhất là phát huy được
sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân.Thứ hai là tránh được tình
trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ trong
Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám chịu trách nhiệm. Tự phê
bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng:

Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này, nó là vũ khí để rèn luyện đảng viên , để
nâng cao trình độ lãnh đạo của đảng ,bảo đảm cho đảng luôn trong sạch, vững mạnh
Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ.Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn.Cốt đoàn kết và thống
nhất nội bộ”.Theo Người ,mỗi cán bộ ,đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm , tự phê
bình ,tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.Tự phê bình và phê bình liên quan đến