



















Preview text:
  lOMoARcPSD|49605928
HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN PHÂN VIỆT NAM VIỆN MIỀN  NAM 
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH K66     
ĐỀ CƯƠNG: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ  MINH 
HỌC VIÊN: LÊ LƯƠNG HẢI 
TP.HỒ CHÍ MINH THÁNG 8/2022 
Câu 1: Phân *ch ,ền đề khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ? 
Theo đ/c làm thế nào để học tập và nghiên cứ tư rưởng Hồ Chí Minh hiệu qủa.  Trả lời: 
1. Sơ lược thân thế + sự nghiệp Hồ Chí Minh ( chi fết và đầy đủ) 
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc 
nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có 
truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. 
Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay  từ thời niên thiếu.    lOMoARcPSD|49605928
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, 
Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu 
nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Tháng 6 
năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước 
Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những 
phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm 
sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. 
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng 
sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là 
con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. 
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công 
nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại 
Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam, 
yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc  Việt Nam . 
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố 
Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập 
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời 
hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa  cộng sản. 
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, 
nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người viết nhiều 
bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”, ... Đặc biệt, Người 
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức 
tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người 
đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân. 
Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và 
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước 
Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào 
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc 
tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng 
thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo 
dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á . 
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp 
các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh    lOMoARcPSD|49605928
niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước, đồng 
thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. 
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các 
tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 
1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, 
đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng 
đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta. 
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị 
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi 
Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh 
phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính  quyền trong cả nước. 
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc 
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân 
được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. 
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của 
Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng 
khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh 
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. 
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề 
đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao động. 
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân 
thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. 
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng phản 
động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội 
Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm 
miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 
9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần 
đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm 
Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh 
đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.    lOMoARcPSD|49605928
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva 
được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến 
thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo 
nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội 
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. 
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động 
Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền 
Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền 
Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi 
cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. 
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người 
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu 
tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý 
tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý  trên thế giới. 
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên 
hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải 
phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” . 
2. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm các quan điểm toàn diện và sâu sắc 
về những vấn đề chung cơ bản có liên quan đến cách mạng Việt Nam, đây là kết quả 
của quá trình vận dụng và sáng tạo dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin vào cách  mạng Việt Nam. 
Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh là về tư tưởng giải phóng dân tộc, giải 
phóng các giai cấp bị thống trị, áp bức bóc lột, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức 
mạnh toàn dân, xây dựng Đảng luôn vững mạnh, trong sạch… 
Không lấy nguyên mẫu của Chủ nghĩa Mác Lênin mà tư tưởng Hồ Chí Minh là sự 
vận dụng khéo léo, sáng tạo nhằm tìm ra hướng đi riêng phù hợp với tình hình cách 
mạng của dân tộc Việt Nam. 
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được đúc kết bởi truyền thống đấu tranh của 
dân tộc, các giá trị văn hóa, tinh hoa của nhân loại. 
3. Tiền đề khách quan hình thành nên Tư tuởng Hồ Chí Minh 
- Điều kiện kinh tế -xã hội    lOMoARcPSD|49605928
Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký 
kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Cho 
đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào đấu tranh 
của nhân dân nổ ra và lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới 
khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. 
Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử. 
Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội 
nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân thư” ở 
Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân dân ta 
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu 
Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân… nhưng tất cả đều 
bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng không lãnh đạo được  phong trào chống Pháp. 
Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc 
Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước của nhân 
dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới. 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh 
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập quyền thống trị trên 
phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc  thuộc địa. 
Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu 
Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền 
Xô Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng 
cho các dân tộc thuộc địa. 
Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết 
phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong trào 
giải phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ  nghĩa đế quốc. 
- Truyền thống tốt đẹp của dân tộc: 
Trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến 
đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, 
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ 
nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc. 
Chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ 
thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước vào năm 1911.    lOMoARcPSD|49605928
Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời 
hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với 
chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, 
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. 
- Tinh hoa văn hoá nhân loại 
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông 
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương 
Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn 
của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách  mạng Trung Quốc. 
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, 
tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, 
Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng 
và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với 
dân tộc và thời đại mới. 
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã 
kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình 
độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – lêninnít. 
- Chủ nghĩa Mác – Lênin 
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ 
Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn 
hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy 
qua hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính  mình. 
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên cứu 
chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp macxít, nắm 
lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp 
biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của 
cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở. Như 
vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp 
Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ 
đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta. 
Trong các tiền đề trên chủ nghĩa Mác- Lê nin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ 
nghĩa Mác- Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, 
là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,cách mạng nhất, đã chỉ ra con đường 
giải phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta.    lOMoARcPSD|49605928
4. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh.  - Dân tộc 
Thứ 1: Đó là tư tưởng soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc, là 
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; là sản 
phẩm của dân tộc và thời đại, trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tư 
tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài 
người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của 
thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong suốt chặng đường 
hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng 
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
Thứ 2: Đó là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, được vận dụng sáng tạo 
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước 
ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, 
khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc "lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó 
đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới 
rút ra từ trong thực tiễn sinh động".  - Thế giới: 
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại: 
Có thể nói đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thòi đại là từ việc xác định 
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đến 
việc xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một 
phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước  thuộc địa lạc hậu. 
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm. 
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc 
điểm thời đại . Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt 
Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa 
vào phạm trù cách mạng vô sản. Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan 
điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải 
phóng dân tộc ở thuộc địa : với cách mạng vô sản. 
Với việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại : Hồ Chí Minh đã đề ra 
đường lối chiến lược, sách lược phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp 
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh    lOMoARcPSD|49605928
đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển 
của nhân loại. Đó là một sự thật lịch sử. 
Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, hoà bình và tiến  bộ xã hội: 
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt 
Nam, một nhà mácxít - lêninnít lỗi lạc. nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng 
sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân  tộc trong thế kỷ XX. 
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp 
cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè 
nặng trên đầu dân tộc ta. 
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí 
Minh. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và 
đạo đức phẩm chất cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh. 
5. Thực trạng tại cơ quan, đơn vị. 
Câu 2: Phân *ch những ,êu chí của người cán bộ công chức nhà nước theo tư 
tưởng Hồ Chí Minh. 
Liên hệ thực ,ễn đơn vị và bản thân mình. Nguyên tắc để thực hiện những ,êu  chí trên.  Trả lời: 
1. Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của người cán bộ công chức nhà nước. 
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò,vị trí của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán 
bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”,”Muốn việc thành công hay thất bại đều 
phải coi cán bộ tốt hay kém”. 
Để xây dựng 1 nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng độ ngũ cán bộ, 
công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.Nói một cách tổng quát nhất về 
yêu cầu đối với đội ngũ này, theo HCM, đó “là những người vừa có đức, vừa có tài, 
trong đó đức là gốc, đội ngũ này phỉa được tổ chức họp lý, có hiệu quả” Nói đến bộ 
máy nói riêng và mọi hoạt động của nhà nước nói chung là nói tới con người, nói tới    lOMoARcPSD|49605928
đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vì. mọi việc đều do con người làm ra cán bộ tốt thì 
bộ máy hoạt động tốt, cán bộ dở thì bộ máy hoạt động kém, thậm chí không chạy. 
Vì vậy, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới đội ngũ cán bộ, công chức cả hai mặt xây  và chống. 
2. Phân tịch )êu chí của người cán bộ công chức nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí  Minh 
Trước hết, Hồ Chí Minh chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức 
có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là 
phải có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn 
cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý. 
Người cán bộ, đảng viên mà Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng là người có tài, đức, 
hồng thắm, chuyên sâu. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham 
ô hủ hoá có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa, 
không giúp ích gì được ai”. Đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách mạng. 
Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ. Đức của 
người cán bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, 
là lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ 
XHCN; là trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng XHCN, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh 
vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện ở sự trong sáng, thành thật, 
trung thực, không cơ hội, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết hy sinh 
lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Có 
lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng, gương mẫu gắn bó với nhân 
dân, khiêm tốn học hỏi, thực sự cầu thị. Có tinh thần đoàn kết, thương yêu, tương 
thân, tương ái lẫn nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ cách mạng vượt qua mọi 
khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao 
phó. Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải 
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân 
dân”. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở để giáo 
dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương sáng cho mọi người  noi theo. 
Tài của người cán bộ là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, 
có hiệu quả nhất. Tài được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả 
năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ 
được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh 
vực chuyên môn của mình. Bác nói: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; 
chính trị là đức, chuyên môn là tài”. “Tài” còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ    lOMoARcPSD|49605928
năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Người cán bộ cách mạng phải 
có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm 
và kỹ năng hoạt động tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Dù hoạt động 
trên bất kỳ lĩnh vực nào thì người có “Tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và 
thực hành thành thạo các công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay, 
Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải 
giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”."Tài” của người cán bộ phải 
được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có 
tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “không 
có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa 
chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không 
biết tuỳ tài mà dùng người”. Đức và tài của người cán bộ, đảng viên trong Tư tưởng 
Hồ Chí Minh phải luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Tài và đức của người cán bộ, 
đảng viên là hai mặt không tách rời mà hoà quyện với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền 
đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện hình thành nhân cách người cán bộ 
cách mạng. Tài năng của người cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng để họ hoàn 
thành mọi nhiệm vụ được giao, đạt chất lượng và hiệu quả cao trong công việc. 
Người cán bộ có tài sẽ đem lại kết quả hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo cho họ 
trên cơ sở hành động theo quy luật khách quan. Nhưng tài năng đó phải được hiện 
diện trong hệ thống phẩm chất, năng lực và trong tính hiệu quả hoạt động thực tiễn 
của người cán bộ, đảng viên. Người cán bộ cách mạng phải là người có năng lực trí 
tuệ cao, tức là có trình độ hiểu biết toàn diện, sâu sắc với một hệ thống tri thức tổng 
hợp bao quát được nhiều lĩnh vực, có phương pháp tư duy khoa học để nhận thức 
được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, có năng lực thực tiễn tốt để đạt hiệu 
quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. 
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là \"gốc\" của người 
cán bộ, nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng 
cho sự phát triển tài năng của người cán bộ, vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp 
và của dân tộc. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên được nâng cao càng tăng thêm 
động lực tinh thần thôi thúc người cán bộ vượt lên mọi khó khăn thử thách để nâng 
cao trình độ trí tuệ của mình. Đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của 
con người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức của người cán bộ 
cách mạng còn là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng, 
trí tuệ và các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các 
nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Người, cán bộ, đảng viên phải có đạo đức 
cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức luôn    lOMoARcPSD|49605928
luôn là động lực của tình cảm và hành vi của người cán bộ, tài là cơ sở để làm cho 
đức của người cán bộ cách mạng càng cao, càng lớn hơn. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đức - Tài của người cán bộ là di huấn vô giá Người để 
lại cho Đảng và nhân dân ta về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình 
mới. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Không bổ nhiệm cán bộ không đủ 
đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa”(6). Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là 
kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào sự nghiệp 
đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay là cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công, vô tư, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; không tham nhũng và 
cương quyết đấu tranh chống tham nhũng; có lối sống trong sạch, lành mạnh, gần 
gũi với nhân dân, gương mẫu và gắn bó với quần chúng. Đặc biệt, người cán bộ cách 
mạng phải biết trăn trở trước cuộc sống nghèo khổ của quần chúng nhân dân và nguy 
cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế của đất nước so với thế giới; phải suy nghĩ và 
hành động, đem hết tài năng, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. 
Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là nói đi đôi với làm, nói ít, làm 
nhiều; phải biết thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể, bằng nê gương 
để thuyết phục, quy tụ mọi người. 
Tài là năng lực chuyên môn, khả năng công tác để bảo đảm hoàn thành xuất sắc 
nhiệm vụ được giao; tài là tầm tư tưởng, trí tuệ của người cán bộ, đảng viên trong 
tiến hành công việc một cách độc lập, sáng tạo, mang lại hiệu quả tối ưu. Tài phải 
được thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy phát triển; có tư duy biện chứng, lôgíc, có 
tầm hiểu biết sâu rộng và phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả, đủ sức cắt nghĩa 
và tìm được những câu trả lời thuyết phục trước những biến động phức tạp và mau 
lẹ của thực tiễn. Phải có năng lực trí tuệ phát triển cao, có trình độ ngoại ngữ và tin 
học để làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; có năng lực tổ chức thực 
tiễn, năng lực cạnh tranh khoa học và công nghệ, có khả năng tiếp nhận và quản lý 
được công nghệ kỹ thuật mới. 
Đức và tài là một thể thống nhất, không thể tách rời. Vì vậy, không thể chỉ có đức 
mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ đức. Đức của người cán 
bộ, đảng viên hiện nay không chỉ như đạo đức công dân mà còn bao hàm cả đạo đức 
của người lãnh đạo, chỉ huy. Trung thành nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập, 
tự chủ, sáng tạo, không thụ động, bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung 
thành nhưng không phải là “gọi dạ, bảo vâng”, cơ hội, không có chủ kiến, không    lOMoARcPSD|49605928
dám đấu tranh, tuỳ thời vì mục đích quyền lực và tiền tài. Tài của người cán bộ hiện 
nay cần phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm 
chọn cán bộ có tài phù hợp với yêu cầu sử dụng. Nghĩa là khi chọn người tài phải 
dựa vào thế mạnh và sở trường của họ, vào tài năng thực tế của người cán bộ, đảng 
viên, không hoàn toàn dựa vào bằng cấp để bố trí công việc, xác định cương vị; có 
vậy mới giúp cán bộ, đảng viên phát huy được ưu thế, sở trường, dốc tâm lực vào sự 
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. 
Trong điều kiện vừa thoát khỏi chế độ của thực dân, phong kiến, chúng ta chưa có 
kinh nghiệm trong quản lý đất nước. Vì vậy, cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà 
nước. Hồ Chí Minh vừa sử dụng viên chức, quan lại dưới chế độ cũ vừa tích cực tìm 
người tài đức vì kiến thiết cần có nhân tài. 
Cần lưu ý thêm khi bàn về công chức, Hồ Chí Minh coi “cán bộ là nguồn vốn của 
Nhà nước”, “cái gốc của mọi công việc’-. Vì vậy. trong Quy chế công chức, Người 
xác định rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức. Vì công chức giữ một vị trí và nhiệm 
vụ nhất định trong bộ máy nhà nước, nên phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí để 
làm việc cho nhân dân. Họ cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình, nằm 
trong thang lương nhất định và phải có quy chế khung thi tuyến. Như vậy, có thể 
thấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức  nghiệp. 
Nói đến cán bộ công chức, cùng với xây những phẩm chất tốt cần chống lại những 
thói hư tật xấu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ nhìn xa, trông rộng. Ngay sau khi có chính 
quyền cách mạng. Người đã chỉ ra những căn bệnh trong bộ máy nhà nước và trong 
cả hệ thông chính trị. Từ đó Người trăn trở với cách để phòng và khắc phục những 
thói tật của cán bộ, công chửc. Đó là những thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” 
mà rõ nhất là tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, óc bè phái, đặc 
quyền đặc lợi, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo… Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí và 
bệnh quan liêu là bạn đồng minh của thực dân phong kiến . Nó phá hoại đạo đức 
cách mạng của ta phá từ trong phá ra . Tội lỗi ấy nặng như Việt gian, mật thám. Vì 
vậy, chống “giặc trong lòng” cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt, trận. Đáng 
chú ý bệnh quan liêu. Những người mắc bệnh quan liêu là trọng hình thức, thích khai 
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn… 
thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà 
không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế,là bệnh quan liêu đã ấp ủ, 
dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy. muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng    lOMoARcPSD|49605928
phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Đây chính là tinh thần của Lênin khi 
cho rằng tệ quan liêu sẽ làm tiêu vong chúng ta. 
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh Nói 
phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. 
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng về 
đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà không 
nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu 
xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. 
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: "... Trước mặt quần chúng không phải 
ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến 
những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực 
thước cho người ta bắt trước" 
Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí Minh 
viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác phẩm nâng cao 
đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần 
thực hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" . 
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt 
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. 
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có 
tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng 
trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành 
hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương đạo đức 
của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá  trình đó. 
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các 
thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ 
thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những 
tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi 
mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt, 
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào  cũng có" 
2- Xây đi đôi với chống - lấy xây là chủ yếu.    lOMoARcPSD|49605928
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức 
luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải 
chống cái phi đạo đức. 
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn 
dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức 
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật" 
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những 
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là trong 
những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục 
đạo đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự 
giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, 
Cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "Sung sướng vẻ 
vang nhất trong đời này" tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không 
thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng 
hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi 
đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội. 
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu, cái 
sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày. 
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Muốn xây 
dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Trong tác 
phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân được công bố vào 
ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã 
mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách mạng phải quýet 
sạch chủ nghĩa cá nhân. 
3- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời: 
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên 
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc phải 
kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo 
đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng 
ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện  càng trong" 
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với 
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con người 
ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức    lOMoARcPSD|49605928
phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới 
phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ. 
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề 
là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát 
huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được 
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương suốtđời tự rèn 
luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu 
của người không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học 
tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư  tưởng bất tử. 
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người Việt Nam 
trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi  xướng và lãnh đạo. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức 
sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 77 
năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước Việt nam trong 
giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận dụng tư tưởng, đạo 
đức, tác phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là công việc quan trọng để mỗi 
chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước. 
Thấm nhuẫn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị TW 6(lần 2) khoá VIII 
(tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận động và xây dựng 
chỉnh đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc về xây dựng đạo 
đức mới mà Hồ Chí Minh đã đưa ra. 
Hội nghị TW6 khoá IX chỉ rõ: Cần phải tiếp tục thực hiện nghị quyết hội nghị lần 
thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về giáo dục - đào tạo và nhấn mạnh phải 
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn, nhất là các môn 
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đặc biệt là chỉ thị số 06/CT-TW ngày 7 
tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động học tập và làm theo tấm 
gương đạo đức Hồ Chí Minh. 
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong 
toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm 
vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng 
của nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức cách mạng, từng bước 
quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ  được giao.    lOMoARcPSD|49605928
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết những 
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những biểu 
hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ 
trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những 
nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để 
nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức 
Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục. 
Liên hệ thực )ễn đơn vị và bản thân mình. Nguyên tắc để thực hiện những )êu chí  trên. 
Câu 3: Phân *ch nội dung của công tác xây dựng Đảng.  
Theo Đ/c nội dung nào là quan trọng nhất. 
Giải pháp để thực hiện nội dung ấy, liên hệ đơn vị của mình.  Trả lời:  
Từ trước đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác 
xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối 
với Đảng ta, chế độ ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào 
Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng. Cụ thể là: Nghị quyết 
Trung ương 5 (khoá VI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực 
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về“Một 
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 
(lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng 
Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh 
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng 
phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong 
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”…    lOMoARcPSD|49605928
Theo đó, chúng ta tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong 
nhiều nhiệm kỳ, nhiều cuộc vận động với nhiều biện pháp cơ bản và quan trọng góp 
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta, đáp ứng những đòi 
hỏi của công cuộc đổi mới. Qua thực tiễn, Đảng ta ngày càng tiến bộ và trưởng thành. 
Song, nghiêm khắc nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng vẫn còn 
không ít hạn chế, thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa 
chữa cấp bách nhưng chưa khắc phục được như mong muốn, có mặt còn phức tạp 
thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong tình hình 
đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, với những âm mưu, 
thủ đoạn thâm độc, tinh vi, hòng xóa bỏ Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí 
Minh, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đã 
làm cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng của chúng ta gặp không ít khó khăn,  thách thức. 
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới, nếu Đảng không giữ vững 
bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không 
thống nhất cao về ý chí và hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không 
chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ 
sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI 
tiếp tục bàn và ban hành Nghị quyết Trung ương 4: “Một số vấn đề cấp bách về xây  dựng Đảng hiện nay”. 
Nghị quyết Trung ương 4 được viết rất ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung 
cơ bản và quan trọng với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là kiên quyết, kiên trì thực 
hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể 
các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài 
trong Đảng và tạo bước đột phá về công tác cán bộ. Nghị quyết không dàn trải, mà 
tập trung nêu và giải quyết nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải  pháp. 
1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị: 
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải kiên định dựa vào lý luận cách mạng và khoa 
học của chủ nghĩa Mác – Lênin: 
Hồ Chí Minh khẳng định:"Đảng muốn vừng thi phải có chủ nghĩa làm cốt, trong 
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa 
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam", "chủ nghĩa" ấy là chủ  nghĩa Mác - Lênin.    lOMoARcPSD|49605928
Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ 
nam định hướng cho con tàu đi, điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận 
ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác - 
Lênin trở thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành 
động của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng và không ngừng nâng cao trình độ lí luận và 
chính trị, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, Đảng viên: 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị, thực chất là nâng cao trình 
độ lý luận cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã 
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động 
của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể đưa một Đảng cách mạng đến 
thành công. Thấu hiểu điều đó hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: bây 
giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính 
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có trang bị chủ nghĩa Mác Lênin thì sức sống của 
Đảng mới trường tồn. Và, cũng chỉ có chủ nghĩa Mác Lênin mới là “cái cẩm nang 
thần kỳ” để đưa cách mạng đến thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi 
cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Học chủ 
nghĩa Mác - Lênin, theo Người, là học tinh thần biện chứng của nó. Nếu học mà 
không hiểu, hoặc hiểu mà không biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta thì sẽ 
không đưa lại kết quả mong muốn. Người nói: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ 
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... Lý luận cốt để áp dụng vào 
công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông... Mỗi cán 
bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực 
tế... Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. 
Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên”. Học lý luận là để 
nắm vững lý luận và điều cốt yếu là phải biết vận dụng lý luận vào tất cả các tình 
huống khác nhau của đời sống xã hội. Có như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin 
mới thực sự đóng vai trò là “hạt nhân chính trị”, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động 
thực tiễn của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị được biểu hiện ở mục đích và lập 
trường của một Đảng cách mạng. Người luôn căn dặn chúng ta không bao giờ được 
quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa 
cộng sản. Nếu rời bỏ mục tiêu đó, lập trường đó, Đảng sẽ rơi vào tả khuynh hoặc 
hữu khuynh, dao động và không sớm thì muộn, sẽ xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa 
rời lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.    lOMoARcPSD|49605928
2. Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải luôn là một khối đoàn kết, thống nhất về 
mọi mặt; trong đó sức mạnh của Đảng chính là sức mạnh của tổ chức chặt chẽ, có 
tính kỷ luật cao từ Trung ương đến cơ sở, từ các cơ quan nhà nước đến các đoàn thể 
chính trị - xã hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là 
nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị, bảo đảm tổ 
chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu quả, luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn: 
“Chính quyền và đoàn thể (Đảng) cũng cần thường xuyên rửa các bộ máy của mình, 
để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu cơ và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn  gàng, mau chóng” 
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, chi bộ chính là một tổ chức hạt nhân, nơi rèn 
luyện, đồng thời là nơi giám sát đảng viên: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng”, “là đồn lũy 
của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng, là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần 
chúng. Chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”, là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây 
dựng nội bộ Đảng. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi chi bộ của Đảng 
phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một 
cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung 
ương”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ chủ yếu; trong đó có: 
Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà 
nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng... Hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục 
vụ nhân dân... Gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác… trong việc bảo 
vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể; thực hành tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống  lãng phí, tham ô… 
3. Thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng 
- Nguyên tắc Tập chung dân chủ, tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ trách: 
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là yếu tố quyết định sức mạnh 
của Đảng.Đây cũng là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản trở thành 
1 tổ chức chiến đấu chặt chẽ ,vừa phát huy sức mạnh của mỗi người vừa phát huy 
sức mạnh của cả tổ chức Đảng . 
Người nhấn mạnh: “Cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều; 
cấp dưới phải phục tùng cấp trên ;các địa phương phải phục tùng Trung ương. Đảng 
tuy đông người nhưng tiến hành chỉ như 1 người”.Bên cạnh đó Người cũng nhấn 
mạnh dân chủ trong Đảng.Quan niệm gốc của vấn đề này là ở chỗ ,Hồ Chí Minh cho 
rằng :nước ta là nước dân chủ, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”,là thành 
quả của cách mạng ,là làm cho mọi người mạnh dạn có ý kiến ,làm cho Đảng tập    lOMoARcPSD|49605928
trung được trí tuệ ,tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Khi nguyên tắc tập trung 
dân chủ bị vi phạm ,sẽ làm cho Đảng suy yếu ,nội bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối, 
chủ trương của Đảng lệch lạc ,sai lầm ,uy tín của Đảng bị giảm ,Đảng dần mất quyền 
lãnh đạo đối với quần chúng .Vì vậy, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong 
xây dựng Đảng nhằm đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực và sức 
chiến đấu của Đảng là 1 trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác 
xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay.Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết 
đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống và trên cơ sở đảm bảo giữ vững các nguyên  tắc sinh hoạt Đảng. 
Theo Hồ Chí Minh : “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện ,độc đoán, 
chủ quan.Kết quả là hỏng việc .Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa 
bãi ,lộn xộn, vô chính phủ.Kết quả cũng là hỏng việc .Tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ 
trách phải luôn đi đôi với nhau”.Tập thể lãnh đạo là dân chủ .Cá nhân phụ trách là  tập trung. 
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau ,có mối quan hệ mật 
thiết với nhau ,không được máy móc.Người còn chỉ rõ: “Nhưng không phải vấn đề 
gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được ,cũng đưa ra bàn-mới là 
tập thể lãnh đạo .Nếu làm như vậy ,là hiểu tập thể lãnh đạo 1 cách quá máy móc .Kết 
quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ.Những việc bình thường ,một người có thể giải 
quyết đúng ,thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết theo đúng hướng tập thể và 
phải chịu trách nhiệm .Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định” 
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có ý nghĩa to lớn.Thứ nhất là phát huy được 
sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân.Thứ hai là tránh được tình 
trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ trong 
Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám chịu trách nhiệm. Tự phê 
bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng: 
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này, nó là vũ khí để rèn luyện đảng viên , để 
nâng cao trình độ lãnh đạo của đảng ,bảo đảm cho đảng luôn trong sạch, vững mạnh 
Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau 
tiến bộ.Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn.Cốt đoàn kết và thống 
nhất nội bộ”.Theo Người ,mỗi cán bộ ,đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm , tự phê 
bình ,tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.Tự phê bình và phê bình liên quan đến