Đề cương ôn tập học phần Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Bách Khoa Hà Nội
Đề cương ôn tập học phần Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (KHTN)
Trường: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Chủ đề 28: Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng từ năm 1979 đến năm 1985
Những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng (1979- 1986)
Bước 1: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (8-1979)
- Hội nghị phủ định một số yếu tố của thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
- Thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường (tuy nhiên thị trường vẫn
được coi ở vị trí thứ yếu, bổ sung cho kế hoạch.
- Nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích, huy động vai trò của tiểu thương,
cá thể, tiểu chủ… làm cho sản xuất bung ra. Như vậy, Hội nghị đã đột phá vào khâu quan
trọng nhất của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp: Chế độ công hữu và kế hoạch hóa trực tiếp.
Bước 2: Chỉ thị 100, Quyết định 25 CP, 26CP của Chính phủ (1981)
- Nội dung các chỉ thị, quyết định trên là nhằm giải phóng sức sản xuất.Những điều chỉnh
này đã tạo ra hình thái song song tồn tại giữa kinh tế công hữu kế hoạch hóa với phi công
hữu và thị trường tự do. Đây là nét đặc thù từ sau Hội nghị Trung ương 6. “Cộng sinh” và
“xung đột” giữa hai loại cơ chế kinh tế, hai loại thị trường là đặc trưng cơ bản của thời kỳ
manh nha cho sự ra đời của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bước 3: Đại hội V của Đảng (1982)
- Nhấn mạnh: Xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hóa đúng đắn, đổi mới chế độ quản lý
và kế hoạch hiện hành. Xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
- Về kế hoạch hóa nền kinh tế, kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh XHCN.
- Để chấn chỉnh và phát huy tốt vai trò của phân phối lưu thông, Đại hội chủ trương kết
hợp chặt chẽ cả ba biện pháp quản lý: Kinh tế, hành chính, giáo dục, trong đó biện pháp
kinh tế là gốc. Như vậy, Đảng đã nhận thức được vai trò của các biện pháp kinh tế, của
các động lực kinh tế, thay vì đề cao, tuyệt đối hóa các biện pháp hành chính mệnh lệnh như trước đây.
Bước 4: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6-1985)
- Chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, chuyển sang hạch toán
kinh doanh XHCN, thừa nhận quy luật của sản xuất hàng hóa.
- Đề cập ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ (giá – lương – tiền)
Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi phí cho giá thành sản phẩm.
+ Tiền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ gắn với xóa
bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo chongười lao động tái tạo sức lao động và
gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
+ Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp độ quay vòng
đồng tiên; chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh XHCN.
Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định:
“Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế...” Chính vì
vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp bách.
Chủ đề 29. Phân tích yêu cầu và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN của Đại hội V (3/1982),
Từ Đại hội IV đến Đại hội V của Đảng là những năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong khoảng thời gian đó, trên
đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng có ý nghĩa to lớn. Nhân dân ta đã
phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn chồng chất, giành được nhiều thắng lợi trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, chúng ta cũng gặp những khó khăn, thử thách
lớn. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta cũng
phạm nhiều khuyết điểm. Tình hình khủng hoảng về kinh tế - xã hội ở nước ta đã xuất
hiện. Thực trạng của đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương,
đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, vạch rõ những nhiệm vụ, mục tiêu, chủ
trương và biện pháp lớn để khai thác tiềm năng của đất nước, khắc phục những khó khăn
và khuyết điểm, giải quyết đúng những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, về sản xuất và đời sống, v.v. nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 15 đến 24-3-1982
và họp công khai từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có
1.033 đại biểu thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên đã từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng;
hơn 40% đại biểu là những đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế; 102 đại biểu
hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện của 27 tộc người
trên các tuyến đầu ở vùng biên giới phía bắc và tây nam; 79 đại biểu là anh hùng lao
động, anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; 1/3 đại biểu có trình độ đại học và
trên đại học, 26 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 14 giáo sư, phó giáo sư và nhiều đại biểu là cán bộ
hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật... Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Trường Chinh đọc Diễn văn khai mạc, đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về
nhiệm vụ kinh tế và xã hội, đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo
cáo về xây dựng Đảng. Nhiều
đại biểu của Đại hội đã đọc tham luận, nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế đọc lời chào mừng.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được Đại hội nhất trí thông
qua. Đại hội khẳng định: “Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn
đường thắng lợi rất vẻ vang của cách mạng Việt Nam”[30]. Song, chúng ta đang đứng
trước những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội, đặc biệt “trên mặt trận kinh tế, đất nước ta
đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt”[31]. Những khó khăn đó trước hết là do nguồn
gốc sâu xa của tình hình đất nước, xã hội gây ra. Mặt khác, khó khăn đó còn do khuyết
điểm, sai lầm của các cơ quan đảng và nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý
xã hội tạo nên. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là
nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và
xã hội trong những năm qua. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự phê bình về những
khuyết điểm và sai lầm của mình trước Đại hội.
Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và
những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, báo cáo nêu rõ trong giai
đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau.
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối
xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, vạch ra
chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và
biện pháp thích hợp trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm trong thập niên 1980. Những mục tiêu kinh
tế và xã hội tổng quát cho những năm đó là: (1) Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một
bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân (2) Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng
và xuất khẩu... (3) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam,
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa trong cả nước (4) Đáp ứng những nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất
nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hóa, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ
nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ
nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Về xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị nêu rõ: “Nhiệm
vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công
nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho
Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch,
có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng”.
Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 13
ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến
của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay
gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển
biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Sau Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã mở nhiều hội nghị để
tiếp tục đi sâu đánh giá tình hình, đề ra nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể để chỉ đạo
mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Chủ đề 30. Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10
năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985)
Trước thời kì đổi mới
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất nước thoát khỏi
thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục, ổn định
xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó đã đặt ra một yêu
cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới
của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên thực tế, các chủ trương, chính
sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được những yêu
cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề
liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khôi
phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất
kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống
và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền
kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,…
Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Ở miền Bắc,
Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình
thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ
yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp; cải tạo thủ
công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu
bằng cách chuyển dần sang sản xuất …(1)
Như vậy, thực chất của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ở
miền Nam cũng như trong cả nước là nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công
hữu. Đành rằng, những người cộng sản muốn xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa thì lẽ
đương nhiên là phải xoá bỏ chế độ tư hữu. Mác đã từng khẳng định: “những người cộng
sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này: xoá bỏ chế độ tư
hữu”(2). Tuy nhiên, việc xoá bỏ chế độ tư hữu nhằm chuyển mọi tư liệu sản xuất vào
trong toàn xã hội là mục tiêu rất lâu dài và phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, phải nhằm phục vụ việc phát triển sản xuất. Việc tiến hành cải tạo một
cách ào ạt các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, cũng như việc quá coi trọng thay
đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng việc giải quyết các khâu tổ
chức, quản lý sản xuất và phân phối đã dẫn tới việc không tìm ra cơ chế gắn người lao
động với sản xuất. Tính chủ động, sáng tạo của người lao động bị giảm đi vì mọi tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội phải được sử dụng theo phương hướng và nhiệm vụ của kế
hoạch nhà nước. Tư liệu lao động từ chỗ là tài sản riêng của người lao động bỗng chốc
trở thành những tư liệu được tập thể hoá nên đã làm suy yếu đi một lực lượng sản xuất to
lớn, lợi ích cá nhân không được coi trọng đúng mức, hay nói như lời của một số nhà
nghiên cứu: “ở nước ta trước đây (thời kỳ trước đổi mới), lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi
ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan
tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động”(3).
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế,
nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và
phát triển trên phạm vi cả nước…”(4). Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng
chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm chính. Kế hoạch
hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa
phương và các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi
trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử dụng tốt thị trường;…
Nếu so sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần
này công tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế
hoạch hoá không còn được nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã chú ý
hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt là
không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực
tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ chức thực hiện, khuyết
điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với cuộc sống; là
bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế”(5). Trong khi đó, cơ chế quản lý
quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được duy trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất,
nhất là trong việc phân phối, lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã
không kích thích được sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
với đặc điểm “tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động”(6),
kết hợp với nguyên tắc “phân phối theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính
bình quân, do đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi sáng tạo của người lao động.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự chuyển hướng
tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra nhiệm vụ tập trung cao độ lực
lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông
nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết tình trạng thiếu
lương thực, khai thác một cách triệt để hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra
được những điều kiện và tiền đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
Trong những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, đất nước ta lại phải đương đầu với 2
cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc và cuộc xung đột biên giới phía Tây Nam . Tình hình
đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở nước ta. Nền
kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó khăn nay lại phải đương đầu với những kẻ thù
mới khiến tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế
trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền
kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc
dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, lương thực và các hàng tiêu dùng đều thiếu…
Trước sự yếu kém của nền kinh tế đất nước, tại Đại hội V năm 1982, Đảng đã có nhiều
chủ trương mới cả trong chiến lược phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất. Từ Đại
hội III năm 1960, Đảng luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ. Đến Đại hội V này, điều mới và quan trọng là Đảng đã xác định cụ thể nội
dung và hình thức công nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên. Đó là “tập trung phát
triển mạnh mẽ nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước lên xã hội chủ nghĩa…”(7)
Gắn liền với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, tại Đại hội V, Đảng chủ trương tiếp
tục đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp ở Nam bộ, từng bước phát huy tác dụng của hợp
tác hoá đối với việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng nông
thôn mới. Rút kinh nghiệm từ phong trào hợp tác hoá trong những năm trước đây đưa
quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương, trong chủ trương lần
này, Đảng nhấn mạnh tới việc ổn định quy mô hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, tổ chức
tốt việc điều chỉnh quy mô trong những trường hợp cần thiết. Một bước tiến mới trong
việc xây dựng và củng cố hợp tác xã là Đảng chủ trương “áp dụng rộng rãi khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” (*)(8). Chủ trương này đã mở ra
một phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế tập thể ở nông thôn, vì nó
đã bước đầu thừa nhận quyền tự chủ của nông dân (hộ xã viên được tự chủ ở 3 khâu: gieo
trồng, chăm sóc và thu hoạch. Có thể coi đây là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi
mới, là một tiền đề quan trọng để tiến tới sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội.
Trong suốt thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, phương thức khoán sản phẩm
này đã góp một phần quan trọng tạo nên một bước phát triển của nền sản xuất nông
nghiệp. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm của thời kỳ
1976-1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình quân hàng năm
từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-
1985(9) (tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng, trong thời gian này, Đảng chủ trương tập
trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu).
Tới hội nghị Trung ương tháng 7-1984, những kết quả tốt đẹp do áp dụng chính sách
khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã được Đảng rút kinh nghiệm và cho phép áp dụng
vào trong sản xuất công nghiệp, với khuyến khích bằng vật chất trong tìm kiếm nguyên
vật liệu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và sử dụng lợi nhuận thu được từ sản phẩm ngoài kế
hoạch cũng như cho phép giám đốc được quyết định về vấn đề lực lượng lao động của
doanh nghiệp(10). Với những điều chỉnh này đã bước đầu tạo được tính độc lập tự chủ
của các doanh nghiệp nhà nước, do đó đã góp phần làm tăng năng suất và chất lượng sản
phẩm. Nhưng lúc này kế hoạch sản xuất, lãi suất, phần nộp ngân sách, mức lương và đầu
tư của doanh nghiệp vẫn theo kế hoạch nhà nước, vì vậy mà sự giải phóng sức sản xuất
của các doanh nghiệp vẫn hạn chế. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu là cần phải mau chóng
có những chủ trương, biện pháp hữu hiệu hơn có tác dụng giải phóng sức lao động mạnh
mẽ, đặc biệt là cần phải tự do hoá quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và tài chính
doanh nghiệp, để thực hiện được điều đó thì cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý của Nhà nước.
Tuy ở Đại hội V này Đảng đã có một số điều chỉnh tương đối hợp lý, nhưng nhìn chung
những điều chỉnh đó so với yêu cầu của thực tế vẫn còn một khoảng cách khá xa, nhiều
điểm bất hợp lý vẫn còn tồn tại trong đường lối kinh tế của đảng, quá trình cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục được tiến hành
theo hướng mà Đại hội IV đã đề ra. Đảng chủ trương: đối với công nghiệp tư bản tư
doanh vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình thức
khác, đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ, tuỳ theo đặc điểm
của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình thức làm ăn tập thể hay kinh doanh cá thể…
Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc nước ta có 3 thành phần kinh tế
(quốc doanh, tập thể và cá thể), ở miền Nam có 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập
thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân)(11).
Mặc dù thực tiễn đất nước sau nhiều năm thực hiện chủ trương cải tạo theo hướng như
trên là không hợp lý, không đảm bảo việc phát triển sản xuất, nhưng những chủ trương
được đề ra tại Đại hội V về việc cải tạo các thành phần kinh tế về cơ bản vẫn giống như
tại Đại hội IV. Tuy công cuộc cải tạo đã được tiến hành trong nhiều năm, nhưng chúng ta
chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, trong việc tổ chức thực hiện còn mắc quá
nhiều sai lầm, tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để mau chóng xác lập
một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến “cách làm thường theo kiểu chiến dịch,
gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội,
lại buông lỏng. Do đó, không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác
xã, tổ hợp tác sản xuất, chỉ có hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới”(12).
Sau hơn một thập kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý hành chính quan
liêu bao cấp, nhưng phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ trương thực sự mang tính
bước ngoặt để xác lập một cơ chế quản lý mới về kinh tế thay cho cơ chế cũ. Đảng chủ
trương “đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản lý hành
chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm,
vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh
thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật”(13). Cả Trung ương, địa phương và cơ sở đều làm kế
hoạch kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong cơ chế quản lý mới này thì mọi hoạt động kinh tế phải so
sánh chi phí với hiệu quả. Các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi
để tái sản xuất mở rộng. Từ đó sẽ khiến cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao tính
tự lập, phát huy tính chủ động sáng tạo của mình để đẩy mạnh phát triển sản xuất.
Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và nhiều địa phương
đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi về cách làm ăn mới này nhằm khai thác khả
năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông, phân phối, đáp ứng
nhu cầu của đời sống nhân dân. Song, cho tới năm 1986 cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính
sách, cơ chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế quản lý mới còn chắp vá,
không ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau.
Tuy vậy, với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý này, Đảng đã đề ra được một phương
hướng quản lý mới có tính khả thi, thể hiện một sự chuyển biến đúng hướng trong quan
hệ sản xuất nói chung và trong việc tổ chức và quản lý sản xuất nói riêng. Đây tiếp tục là
một khâu đột phá mới để tiến tới sự đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế-xã hội.
Trong lĩnh vực phân phối sản phẩm lao động, những chủ trương của Đảng tại Đại hội V
tiếp tục là một sự báo hiệu để tiến tới một sự đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội. Chủ
trương của Đảng về chế độ phân phối tại Đại hội lần này đang loại trừ dần hình thức phân
phối bình quân bằng việc “áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt tiền
lương với năng suất lao động, mở rộng đúng đắn lương khoán, lương sản phẩm và tiền
thưởng, đi đôi với cung ứng theo định lượng những mặt hàng thiết yếu mà Nhà nước quy định”(14).
Tuy những chủ trương mới trong phân phối đã thể hiện sự quan tâm đúng mức đến lợi ích
cá nhân người lao động, đề cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật của người lao động, nhưng
do cơ chế hành chính quan liêu bao cấp vẫn chưa thực sự được xóa bỏ, quá trình cải tạo
xã hội chủ nghĩa mắc nhiều sai lầm,… dẫn đến tình hình phân phối ở nước ta trong thời
kỳ này vẫn chưa được cải thiện, thậm chí trầm trọng hơn trước, ‘suốt 5 năm qua (1981-
1985), lĩnh vực phân phối lưu thông luôn căng thẳng và rối ren”(15).
Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền kinh
tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm 1980 với
những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều nhu cầu chính đáng
tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm bảo…Thực trạng
kinh tế – xã hội đó đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo
ra một bước ngoặt cho sự phát triển. Trên thực tế, Đảng ta đã làm được điều đó. Thời kì đổi mới:
Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra Đại hội
VI năm 1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, đặc
biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy
luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại hội VI là: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách quan… Tiêu
chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa
ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố”(16).
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ nghĩa
hoá toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát
triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều là cần phải mở ra một phương hướng
mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều bước
đường khác nhau. Đó là cả một quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ
thực tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh sự dập khuân, máy móc. Lênin đã
chỉ ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và
bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn
trở thành lạc hậu với cuộc sống(17).
Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã đề
ra chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới
tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những
quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn
đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời
gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu kinh tế,
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì vậy mà tư
tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng
có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng xác định
rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho nó thật sự mang bản chất xã hội
chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây, là
những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế đó là:
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ
phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
– Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông
dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Đảng khẳng định: chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng nói trên
mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn.
Việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận thức mới của Đảng
ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng khẳng định: “Về lý luận, không
thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ
quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm và đặc trưng của
cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”(18). Ở một đoạn khác, Lê nin giải thích rõ hơn: Vậy thì,
danh từ quá độ có nghĩa là gì? vận dụng vào kinh tế có phải có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn
chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có(19). Tuy chúng ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với tính cách là một chế độ xã
hội, nhưng chúng ta vẫn có thể sử dụng những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã đạt
được. Do vậy, sự tồn tại của những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là một điều hiển nhiên, nó nằm trong quy luật của sự phát triển
nói chung, của sự phát triển xã hội nói riêng.
Từ thực tiễn đất nước sau thập kỷ đầu tiên cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta
rút ra kết luận: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi
quá xa so vớ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi
hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô
nhỏ, đến quy mô lớn. Trong mỗi bước đi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy
mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó
tiếp tục đưa quan hệ sản xuất mới tiến lên hình thức và quy mô mới thích hợp để thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển”(20).
Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng đã có những biện pháp nóng vội, muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư
nhân thành quốc doanh, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn,
không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ trước sự
phát triển của thực tiễn, Đảng ta đã nhận thấy rõ những sai lầm do áp đặt chủ quan gây ra.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có những quan hệ phù hợp với nó.
“Những quan hệ sản xuất lạc hậu” hay “những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất” ắt sẽ kìm hãm sự phát triển của nó. Thực ra kinh nghiệm này đã
được Lênin rút ra từ thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Người đã dũng cảm
chỉ ra rằng: “chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”, nghĩa
là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và
phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”(21).
Từ đó Lênin đã quyết định chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP). Nội
dung cơ bản của NEP có thể trình bày ngắn gọn như sau: thay chế độ trưng thu lương
thực thừa bằng thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán, chủ nghĩa tư bản nhà
nước(22). Như vậy, NEP đã đặt ra một vấn đề có thể nói là hết sức mới mẻ đối với chủ
nghĩa Mác – vấn đề về khả năng và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp “quá độ gián
tiếp” với nhiều nấc thang trung gian. Trước hết điều đó có liên quan đến nền sản xuất
hàng hoá nhỏ ở một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà tuyệt đại đa số là nông dân.
Lênin viết, “không nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất tiểu nông
chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một
loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản
phát triển…”(23). Đây đều là những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Việc thừa nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần cũng có nghĩa là ngoài chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, cho phép những cá nhân được phép sử dụng vốn để sản
xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Sự điều chỉnh này đã góp phần giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, phát huy
được tính năng động, chủ động, sáng tạo của người lao động do nó gắn liền với lợi ích cá
nhân của họ – một động lực không nhỏ đối với sự phát triển xã hội. Hơn nữa, sự điều
chỉnh này còn phát huy được tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân
dân, bao hàm cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tự tạo việc làm…
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là một nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, để tiến hành vững chắc công tác
cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
“điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, trước hết là làm
cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế
khác”(24). Nghĩa là, công hữu về tư liệu sản xuất phải là hình thức sở hữu chính, chủ
yếu, căn bản ở nước ta.
Chủ đề 31. Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm của thời kỳ xây dựng CNXH
trước đổi mới được Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng đưa ra.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội nêu lên bốn bài học kinh
nghiệm có ý nghĩa hết sức quan trọng:
- Phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của
đổi mới. Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ
hưởng thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát
huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
- Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt
động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm
phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí
rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải
chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để
đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải
bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung,
phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều
chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát
triển; thực hiện nói đi đôi với làm.
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát
huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn
dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng
lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân
lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là
vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.