



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 22014077
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM THI CUỐI KỲ HK1 (2024-  2025)  
Vấn đề 1: Sự ra đời của nước Văn Lang và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn  Lang - Âu Lạc. 
Vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên (2879 TCN), trên cơ sở phát triển rực rỡ của văn hóa 
Đông Sơn, sự phát triển của công cụ bằng đồng và sắt, đời sống sản xuất của người Việt cổ đã có 
sự chuyển biến rõ rệt. 
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân (theo 
truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông) cùng vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 
người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người 
con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc -  Phú Thọ. 
- Do đó, dân gian quan niệm rằng nước Văn Lang đời trong thời kỳ của các vị vua Hùng cách 
ngày nay khoảng hơn 4000 năm văn hiến.  - Hoàn cảnh ra đời: 
+ Trên khu vực ven các sông lớn ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc trung bộ. Ban đầu là những bộ lạc 
dưới quyền cai quản của các thủ lĩnh, các bộ lạc này có nhiều điểm tương đồng như các sinh 
hoạt, tiếng nói, cách thức sản xuất... 
+ Sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến động xã hội và đưa đến một tình trạng văn 
hóa xã hội rõ nét vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Giữa các chiềng, chạ dần xảy ra mâu thuẫn 
do quyền lợi của người dân không đồng đều như là sự phân chia của cải, sự phân công lao động. 
Lúc này trong xã hội đã có nhiều kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn và tình trạng bất bình  đẳng xã hội. 
+ Nhu cầu thủy lợi, trị thủy: do tập trung ở ven các con sông lớn nên việc sản xuất nông nghiệp 
cũng gặp nhiều khó khăn khi mùa mưa lũ đến. 
+ Nhu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm: Nước ta Nằm ở vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của 
bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Nó nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự 
nhiên nối liền đại lục với đại dương đây là vị trí giao lưu kinh tế văn hóa thuận lợi và sự thuận 
lợi đó đã trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tìm mọi cách tấn công từ nhiều phía nhằm 
chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm đã được đặt ra 
và ngày càng trở nên bức thiết. Để tồn tại và phát triển, các bộ lạc người Việt ở trên đất Văn 
Lang không thể không cố kết lại với nhau thành một khối thống nhất. 
⇒ Do đó, nhu cầu chung sống, cùng làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm đã thúc đẩy sự ra đời của 
nhà nước đầu tiên ở Việt Nam - Nhà nước Văn Lang. 
* Sự ra đời của nhà nước Văn Lang:      lOMoAR cPSD| 22014077 - 
Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia  và nhà nước.  - 
Ph. Enghen đã nêu luận điểm giải thích về quá trình ra đời của Nhà nước: “Trên cơ sở 
phân hóaxã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới tiêu và 
yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho nhà nước lúc ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho 
lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang “địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng vươn lên 
thành thống trị đối với xã hội”. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời của Nhà nước phương đông, ngoài 
đi sâu nghiên cứu sự phân hóa xã hội, chúng ta không thể không quan tâm đúng mức đến sự tác 
động của hai nhân tố khác là thủy lợi và tự vệ. Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm ngoài  quy luật này.  - 
Tình hình phân hóa xã hội: Sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến động xã 
hội và đưa đến một tình trạng văn hóa xã hội rõ nét vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Lúc này 
trong xã hội đã có nhiều kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn và tình trạng bất bình đẳng xã 
hội. Tuy nhiên, mức độ phân hóa xã hội đến giai đoạn văn hóa Đồng Sơn vẫn chưa thật cao, 
chưa thật sâu sắc, nhưng nó cũng đã tạo ra một cơ sở xã hội cần thiết cho quá trình hình thành 
Nhà nước đầu tiên - Nhà nước Văn Lang.  - 
Nhu cầu thủy lợi, trị thủy: Từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên khi con người tiến xuống 
khai phá vùng đồng bằng sông Hồng và chọn nghề trồng cây lúa nước làm nghề sống chính là họ 
phải trực tiếp với mặt với vùng đồng bằng sông nước. Chinh phục vùng đồng bằng sông nước 
này người Việt cổ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, nhưng khó khăn phức tạp hơn 
cả vẫn là làm sao để có thể chủ động được nguồn nước. Cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp trồng 
lúa nước đặt ra nhu cầu bức thiết phải có những công trình tưới tiêu đảm bảo nguồn nước cho 
cây trồng. Công việc chống ngập lụt không bao giờ là công việc đơn lẻ của từng cá nhân, gia 
đình hay từng làng mà nó luôn luôn đòi hỏi một sự liên kết rộng lớn gồm nhiều công xã nhiều 
khu vực, trước hết là toàn bộ vùng châu thổ Sông Hồng. Có thể lúc ban đầu, đây chỉ là chức 
năng xã hội xuất phát từ lợi ích chung của cả cộng đồng nhưng rồi trong tay người giao phó dần 
dần nó đã trở thành chức năng của nhà nước đối với xã hội.  - 
Nhu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm: Nước ta Nằm ở vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc 
của bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Nó nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự 
nhiên nối liền đại lục với đại dương đây là vị trí giao lưu kinh tế văn hóa thuận lợi và sự thuận 
lợi đó đã trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tìm mọi cách tấn công từ nhiều phía nhằm 
chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm đã được đặt ra 
và ngày càng trở nên bức thiết. Để tồn tại và phát triển, các bộ lạc người Việt ở trên đất Văn 
Lang không thể không cố kết lại với nhau thành một khối thống nhất. Đây là lý do khách quan 
tác động đến sự hình thành nhà nước đầu tiên. 
⇒ Như vậy, sự phân hóa xã hội, yêu cầu đoàn kết chống giặc ngoại xâm và thủy lợi của nền kinh 
tế nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng lưu vực sông Hồng đã tác động rất mạnh và quá trình hình 
thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam - Nhà nước Văn Lang. Nhà nước Văn Lang ra 
đời trong điều kiện tình hình văn hóa giai cấp chưa thật sâu sắc. Bên cạnh chức năng thống trị      lOMoAR cPSD| 22014077
bóc lột nó còn phải đảm đương hai chức năng công cộng là xây dựng các công trình thủy lợi và 
tổ chức chiến đấu chống ngoại xâm. 
* Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc: 
- Đời sống kinh tế tác động đến xã hội 
- Đời sống vật chất, tinh thần của chư dân Văn Lang - Âu Lạc thể hiện qua cách ăn, ở, mặc, đi  lại,... 
+ Ăn: Nguồn lương thực chính Của cộng đồng dân cư là thóc gạo trong đó chủ yếu là gạo nếp. 
Thức ăn bao gồm các loại rau củ bầu bí, cà, đậu và các sản phẩm của ngành đánh cá chăn nuôi  săn bắn,... 
+ Ở: Họ ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre, nứa, lá để tránh thú dữ, ngập lụt 
+ Mặc: Nam đóng khố, cởi trần, nữ mặc váy, đi chân đất. Cả nam lẫn nữ đều ưa dùng được trang 
sức làm bằng đá và đồng thau. 
+ Họ đi lại chủ yếu bằng thuyền, bè, mảng trên sông suối. 
- Đời sống vật chất, tinh thần phong phú: Được thể hiện qua những nhạc cụ như trống đồng, sáo 
bằng xương, đàn đá... Hoặc là các đồng trang sức bằng đồng thau, đá,... 
- Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần cư dân thời Hùng Vương đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư 
duy khá cao, kết hợp những hình thái tín ngưỡng phức tạp, đan xen giữa tàn dư tín ngưỡng 
nguyên thủy với tín ngưỡng của thời đại kim khí và nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng 
chủ yếu và phổ biến của người Việt cổ là sùng bái tự nhiên như thờ thần Mặt Trời, thần Sông, 
thần Núi ,... và tục phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, các giống loài sinh sôi 
nảy nở, đồng thời đã sản sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái anh hùng thủ lĩnh, tục lệ  cưới xin, ma chay. 
Vấn đề 2: Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và cuộc đấu tranh 
bảo vệ văn hoá của dân tộc. 
 * Chính sách cai trị của triều đại phong kiến phương Bắc 
a. Về bộ máy cai trị 
- Năm 179 TCN, Triệu Đà chiếm được Âu Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến phương Bắc đều 
sáp nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc, chia thành các đơn vị hành chính như châu-quận, 
dưới châu – quận là huyện. 
- Đưa người Hán sang cai trị người Việt theo luật pháp hà khắc. 
- Từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), chính quyền từ cấp huyện trở lên đều do người Hán  nắm giữ.  - Cụ thể:      lOMoAR cPSD| 22014077
+ Nhà Hán chia Âu Lạc thành 3 quận (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam), gộp chung với 6 quận 
của Trung Quốc thành Giao Châu, thủ phủ đặt ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Sau khởi 
nghĩa Hai Bà Trưng, chính quyền đô hộ phương Bắc cai trị đến cấp huyện. 
+ Mục đích gộp Âu Lạc với 6 quận của Trung Quốc thành Giao Châu của nhà Hán để dễ bề cai 
trị và dần dần thu phục người Việt. 
+ Tổ chức chính quyền ở Giao Châu thời thuộc Hán: Đứng đầu là Thứ sử người Hán; dưới là các 
quận (đứng đầu là Thái thú người Hán); dưới quận là huyện (ban đầu Huyện lệnh là các Lạc 
tướng người Việt nhưng từ năm 43 đổi thành người Hán); dưới huyện là làng, xã (đứng đầu là 
các Tù trưởng, hào trưởng người Việt). 
- Nhà Tùy, Đường thi hành chính sách cai trị hà khắc. Năm 679, nhà Đường đổi Giao Châu 
thành An Nam đô hộ phủ với 12 châu, 59 huyện. 
Tổ chức chính quyền An Nam đô hộ phủ thời Đường: Đứng đầu là Tiết độ sứ người Hán; dưới là 
các châu (đứng đầu là Thứ sử người Hán); dưới châu là các huyện (Huyện lệnh là người Hán); 
dưới huyện là làng, xã (đứng đầu là các Tù trưởng, hào trưởng người Việt). 
-Từ nhà Hán, các triều đại đều áp dụng luật pháp hà khắc và thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh 
của nhân dân ta. b. Về kinh tế 
- Nhà Hán chiếm đoạt ruộng đất, bắt nhân dân ta cống nạp sản vật quý hiếm, hương liệu, vàng 
bạc. Những sản phẩm quan trọng như sắt và muối bị chính quyền đô hộ giữ độc quyền. 
- Nhà Ngô và nhà Lương siết chặt ách cai trị, đặt thêm thuế, bắt hàng ngàn thợ thủ công giỏi ở  Giao Châu đem về nước. 
- Những hình thức bóc lột chủ yếu của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta  thời Bắc thuộc: 
+ Sử dụng chế độ tô thuế. 
+ Bắt cống nạp sản vật quý (ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi...). 
+ Nắm độc quyền về sắt và muối đối với người Việt. 
c. Về xã hội và văn hóa 
- Chính sách cai trị về văn hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời  Bắc thuộc: 
+ Chính quyền phong kiến phương Bắc đều thực hiện chính sách đồng hóa đối với dân tộc ta. 
+ Tìm cách xóa bỏ những tập quán lâu đời của người Việt, ép buộc dân ta theo phong tục, tập  quán của họ. 
+ Mở trường lớp dạy chữ Hán  + Áp dụng luật Hán.      lOMoAR cPSD| 22014077
- Nho giáo, tư tưởng lễ giáo phong kiến Trung Quốc được truyền bá vào Việt Nam. 
- Tuy nhiên, việc dạy chữ chỉ giới hạn trong một số ít người ở các vùng trung tâm. Cả ngàn năm 
Bắc thuộc, số người Việt được trọng dụng chỉ là thiểu số. 
* Cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa của dân tộc. 
- Chính quyền đô hộ đã thi hành chính sách đồng hóa dân tộc ta bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, 
nhằm ép buộc người Việt theo lễ nghi, phong tục Hán. Tuy nhiên, người Việt luôn có ý thức 
giữ gìn dòng giống Tiên Rồng và nền văn hóa của cha ông ta để lại. 
- Người Việt vẫn nghe-nói, truyền lại cho con cháu tiếng mẹ đẻ. 
- Những tín ngưỡng truyền thống như thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần tự nhiên,… tiếp tục được  duy trì. 
- Ẩn mình sau những lũy tre, làng Việt là thành trì kiên cố bảo tồn phong tục, tập quán Việt như 
tục nhuộm răng, ăn trầu, búi tóc, xăm mình, làm bánh chưng, bánh giày. 
- Bên cạnh đó dân tộc ta còn tiếp thu có chọn lọc văn hóa Trung Quốc, phát triển văn hóa trong  thời Bắc thuộc: 
+ Phật giáo, Đạo giáo dụ nhập vào nước ta thời kì này, hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian 
+ Tiếp thu chữ Hán nhưng sử dụng tiếng Việt dùng âm Việt để đọc chữ Hán, tạo cơ sở hình 
thành vốn từ Hán-Việt ngày càng phong phú, đặc sắc 
+ Tiếp thu kĩ thuật tiến bộ của Trung Quốc: làm giấy, chế tạo thủy tinh, dệt lụa, kĩ thuật bón 
phân bắc trong trọt trọt và nhiều sản phẩm thủ công khác. 
Vấn đề 3: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt. 
TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG BẠCH ĐẰNG NĂM 938 
Sông Bạch Đằng là dòng sông có chứng tích lịch sử lâu bền. Đó là những lần quân dân ta lập 
những chiến công lẫy lừng trong các trận chiến với giặc ngoại xâm. Đặc biệt là trận chiến thắng 
trên sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô quyền lãnh đạo. Đó là trận chiến vô cùng dũng cảm, một 
mất một còn của dân tộc, thể hiện được hào khí Đông A của đời Trần. Trận Bạch Đằng năm 938 
là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam - thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu 
chính thức - do Ngô Quyền lãnh đạo với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả, quân dân 
Việt Nam giành thắng lợi. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu 
cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam.  TÌNH HÌNH 
Ở Trung Quốc: Năm 907, nhà Đường sụp đổ. Các tập đoàn phong kiến phương Bắc vừa thôn 
tính, tiêu diệt nhau đẫm máu, vừa tận dụng mọi cơ hội bành trướng xâm lược ra bên ngoài. 
Vua Nam Hán là Lưu Nghiễn đã đặt tên nước là Đại Hán với tham vọng kế tục mộng bành 
trướng của đế chế Đại Hán hồi đầu Công nguyên. Hướng bành trướng chủ yếu của Nam Hán là      lOMoAR cPSD| 22014077
phương Nam, nhằm vào nước ta, một đất nước giàu có và giữ vị trí trọng yếu của vùng Đông 
Nam Á, lại vừa qua hơn nghìn năm Bắc thuộc. 
Để thực hiện mộng bành trướng đó, năm 930, vua Nam Hán đã mở cuộc chiến tranh xâm lược 
lần thứ nhất. Chúng đã đánh bại được chính quyền họ Khúc, chiếm được phú thành Đại La. Năm 
931, Dương Đình Nghệ đã đẩy quân từ Châu Ái, nhanh chóng quét sạch quân giặc ra khỏi nước 
nhà, giành lại chủ quyền dân tộc. 
Ở Việt Nam: Năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi 
Tiết độ sứ. Con rể và một tướng khác của Đình Nghệ là Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng ra 
đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ.  NGUYÊN NHÂN 
Trước tình thế đó, Kiều Công Tiễn sợ hãi, bèn sai người sang cầu cứu Nam Hán, vua Nam Hán 
là Lưu Nghiễm nhân cơ hội đó bèn quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai và mở rộng bờ cõi 
xuống phía nam nhằm đặt ách cai trị nhân dân ta. 
Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi, bèn 
phong con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo làm “Bình Hải tướng quân” và “Giao Chi vương”,  thống lĩnh thủy quân. 
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt trong nước đứng về phía mình, Ngô Quyền mang quân từ 
Ái Châu ra bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập không chống nổi, đành chờ viện  binh của Nam Hán.  DIỄN BIẾN 
- Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng: “Hoằng Tháo là đứa 
trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không 
có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, 
tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được 
thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa 
biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế 
ngự, không cho chiếc nào ra thoát.”. 
- Đến tháng 10 năm 938, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, trừ 
mối họa bên trong và làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của Nam Hán. Sau đó, 
ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm  lược Nam Hán. 
- Trên cơ sở phát huy sức mạnh đoàn kết và khí thế độc lập của dân tộc, phân tích và đánh giá 
chỗ mạnh, chỗ yếu của ta và của địch, Ngô Quyền bày một thế trận hết sức kiên quyết, chủ 
động và lợi hại để nhanh chóng phá tan quân giặc. 
- Ông huy động nhân dân đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt, đóng thành một bãi cọc ở cửa sông Bạch 
Đằng. Quân thủy bộ với sự tham gia của các lực lượng dân binh, bố trí mai phục sẵn ở phía 
trong bãi cọc, vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. 
- Một đội thuyền nhẹ dưới quyền chỉ huy của người thanh niên Gia Viện (Hải Phòng) là 
Nguyễn Tất Tố, giỏi bơi lội và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân      lOMoAR cPSD| 22014077
lúc nước triều lên nhử địch vượt qua bãi cọc, dấn thân vào cạm bẫy mai phục bên trong của 
ta. Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ quốc ta, như tác giả bộ sử 
- "Cương mục": "Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng 
cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến". Ngô Quyền không những 
biết lợi dụng địa hình thiên nhiên, để ém quân mai phục, phối hợp bộ binh với thủy binh, ông 
còn là người biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, gắn với việc bố 
trí bãi cọc ngầm nổi tiếng. 
- Trong thế trận của Ngô Quyền, trận địa mai phục bên trong bãi cọc giữ vai trò quyết định, 
chặn đứng đoàn thuyền địch và giáng cho chúng một đòn tiêu diệt bất ngờ, nặng nề. Trận địa 
cọc giữ vai trò quan trọng, khóa đường tháo chạy của chiến thuyền địch và bao vây tiêu diệt 
triệt để quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô 
Quyền là phen này không chỉ đánh bại quân giặc mà còn bao vây, tiêu diệt toàn bộ binh 
thuyền của giặc, giành thắng lợi oanh liệt, đập tan mộng xâm lược bành trướng của triều 
Nam Hán. Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy quân mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, dấu quân 
trong các nhánh sông và bên hữu ngạn sông Bạch Đằng. 
- Khi cả binh đoàn thuyền lớn của Hoằng Tháo ào ạt vượt cửa biển An Bằng tiến vào cửa ngõ 
Bạch Đằng, Ngô Quyền cho bộ phận tiên phong dùng thuyền nhẹ ra đón đánh địch từ xa, 
nghi binh dụ địch. Lúc thủy triều lên to ngập trận địa cọc, bộ phận này giả thua rút chạy nhử 
địch vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ. Tướng Hoằng Tháo kiêu ngạo thúc đại quân đuổi gấp, 
trúng kế, mắc mưu, vượt qua bãi cọc ngầm.  KẾT QUẢ 
- Đợi thủy triều xuống, Ngô Quyền mới cho quân mai phục đổ ra bao vây thuyền địch. Thuyền 
địch va vào cọc nhọn bịt sắt bị đâm thủng, chìm đắm gần hết, quân chết đuối quá nửa. Hoằng 
Tháo bị giáo đâm, lăn xuống nước chết tại trận. Quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam 
Hán. Thời gian trận đánh chỉ diễn ra trong phạm vi một ngày. 
- Chiến thắng Bạch Đằng nhanh gọn, bất ngờ đến mức vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng 
đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Hắn kinh hoàng, khủng khiếp, đành "thương 
khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư) và "đem dư chúng quay 
trở lại" (Ngũ đại sử ký). 
Ý NGHĨA (Tiến trình LSVN tr.65) 
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã ghi vào lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử chống ngoại 
xâm nói riêng, như một sự kiện trọng đại có vị trí và ý nghĩa lịch sử hết sức lớn lao. Đây được 
coi là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. 
- Chiến thắng đã giúp phá bỏ nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra 
thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta. 
- Đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán. 
- Thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta.      lOMoAR cPSD| 22014077
- Đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và kết thúc hoàn toàn thời kì đấu tranh giành lại độc 
lập hàng chục thế kỉ, đưa dân tộc bước sang một kỉ nguyên mới. 
- Tạo niềm tin, lòng tự hào dân tộc sâu sắc. 
- Là bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh yêu nước sau này. 
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI 
- Do tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta khi hưởng ứng cuộc kháng chiến do Ngô 
Quyền lãnh đạo, đóng góp sức lực của mình để xây dựng được trận địa cọc lớn trên sông  Bạch Đằng. 
- Do sự chỉ huy tài giỏi của Ngô Quyền và của tướng lĩnh, đã biết phát huy sức mạnh của dân 
tộc, biết sử dụng và phát huy các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", biết phát huy sở 
trường "thủy chiến" của dân tộc ta để giành thắng lợi. 
ĐỘC ĐÁO QUÂN SỰ VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC 
- Chủ động ở chỗ: khi giặc còn ngấp nghé, ông khẩn trương tổ chức kháng chiến. Dự đoán 
quân Nam Hán sẽ vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bàn với các tướng 
cách đánh giặc. Ông quyết định chọn khu vực cửa sông và vùng trung lưu, hạ lưu sông Bạch 
Đằng làm điểm quyết chiến với giặc – chủ động đón đánh quân xâm lược. 
- Độc đáo ở chỗ: Ông huy động quân và dân lên rừng đẵn hàng ngàn cây gỗ dài, đầu đẽo nhọn 
và bịt sắc đóng xuống dòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm yếu gần cửa biển, thành một 
trận địa cọc ngầm. Có quân mai phục hai bên bờ. Nhân khi nước triều lên, thuyền của địch 
tiến vào trong hàng cọc “ta dễ bề chế ngự, không có kế gì hay hơn kế đó cả”. 
Vấn đề 4: Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa  cuối thế kỉ XIX. 
 Tình hình đất nước dưới các vua đầu triều Nguyễn 
Triều đình nhà Nguyễn chỉ lo củng cố địa vị cai trị của dòng họ, không bắt kịp với xu thế thời 
đại, làm cho đất nước ngày càng lúng sâu vào tình trạng lạc hậu, trì trệ và cuối cùng bị biến 
thành thuộc địa thực dân pháp.  ● Kinh tế: 
- Chủ trương “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc), coi trọng vấn đề ruộng đất và sản xuất  nông nghiệp 
- Ruộng đất phần lớn tập trung vào tay quan lại, địa chủ, đại đa số nông dân thiếu đất canh tác. 
- Thiên tai, hạn hán diễn ra thường xuyên làm cho nông dân trong cả nước mất mùa liên miên. 
- Công nghiệp, thương mại lụi bại vì chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn 
(nhất là dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức) ● Thương nghiệp (ngoại thương): 
- Buôn bán giao dịch với 1 số nước láng giềng và 1 số nước trong khu vực Đông Nam Á      lOMoAR cPSD| 22014077
+ Vùng biên giới chung giữa nước ta với các nước TQ, Ai Lao (Lào) đều có các trường giao dịch 
hoạt động, là các chợ biên giới phía Bắc 
+ Trên tuyến đường biển, các thuyền buôn TQ, Xiêm, Chà Và (nb), Ma Cao,... qua lại thông 
thương dễ hơn thuyền buôn của phương Tây. 
- Quan hệ buôn bán với các nước phương Tây: 
+ 7/1803, người Hồng Mao (Anh) đến dâng lễ vật quý và xin lập buôn bán ở Sơn Trà.  + Quốc phòng: 
- Quân đội hùng hậu, nhưng chủ yếu chỉ được huấn luyện để đàn áp các cuộc KN nông dân, dập 
tắt những phong trào đấu tranh của dân chúng 
- Quân số không nhiều, tàu chiến ít, lính không chuyên nghiệp, hầu hết là tay ngang, không chịu  được sóng biển.  - Binh khí thô sơ.  ● Chính trị - xã hội: 
- Tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế nhằm duy trì quyền thống trị lâu dài của dòng họ. 
- Mang nặng tính bảo thủ, lo ngại đổi mới, gạt bỏ nhiều đề nghị cải cách của 1 số quan lại và sỹ 
phu (Nguyễn Trường Tộ - Bùi Viện). 
⇒ Chính sách của triều Nguyễn làm cho đất nước suy sụp, đặt dân tộc VN vào một thế rất bất  lợi. 
*Ngoại giao là công cụ hòa bình, công cụ quan trọng nhất thực hiện chính sách đối ngoại của 
quốc gia. Chính sách đối ngoại và ngoại giao của bất cứ quốc gia nào dù to dù nhỏ, từ cổ chí 
kim, từ Đông sang Tây đều phải thực hiện ba nhiệm vụ bao trùm là: góp phần bảo vệ và củng cố 
độc lập chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đất 
nước, góp phần phát huy ảnh hưởng của nước mình trong khu vực và quốc tế. Nhà Nguyễn là 
triều đại cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, và thời kỳ này chủ yếu diễn ra vào nửa 
cuối thế kỷ XIX. Trong giai đoạn này, chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn chủ yếu tập trung 
vào việc duy trì độc lập và tự chủ của quốc gia trước sức ảnh hưởng của các cường quốc lân cận, 
đặc biệt là Pháp và Trung Quốc. 
- Trước sự xâm lược của Pháp ở Đông Dương, Nhà Nguyễn đã thực hiệnnhiều biện pháp để giữ 
vững độc lập và chủ quyền của Đại Nam. Tuy nhiên, sự quân bố của Pháp và áp đặt của họ đã 
đặt ra những thách thức lớn. 
- Áp lực từ sự mở rộng của Pháp ở Đông Dương đã đẩy nhà Nguyễn phải ký kết Hiệp ước 
Patenôtre năm 1884. Hiệp ước này hình thành cơ sở cho mối quan hệ chi phối của Pháp đối với 
Đại Nam, bảo đảm sự bảo hộ nhưng đồng thời cũng có nghĩa là mất chủ quyền.      lOMoAR cPSD| 22014077
- Ngoài ra, nhà Nguyễn cũng phải đối mặt với áp lực từ Trung Quốc, đặc biệt là trong quản lý 
mối quan hệ với các dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc. Mối quan hệ với Trung Quốc đôi khi 
bất ổn do tranh chấp về biên giới và quyền lực. 
- Đại Nam cũng phải quản lý mối quan hệ với các quốc gia lân cận khác như Siam, để bảo vệ lợi 
ích quốc gia và tránh xung đột đa phương. Mối quan hệ này đôi khi tạo ra thách thức và cảm  giác bất ổn. 
- Đối với đối ngoại, Nhà Nguyễn cũng thực hiện nỗ lực cải thiện quân đội và hành chính để đối 
phó với tình hình phức tạp và áp lực từ các cường quốc. 
- Áp lực từ chính sách đối ngoại, đặc biệt là sau Hiệp ước Patenôtre, đã góp phần gây ra xung 
độtnội bộ và thúc đẩy các phong trào kháng chiến như phong trào Cần Vương, thể hiện sự phản 
đối của dân chúng trước sự chi phối của Pháp. 
- Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn đôi khi tạo ra sự xung đột giữa văn hóa truyền thống và 
văn hóa Pháp. Sự đấu tranh này có thể thấy rõ trong các lĩnh vực như giáo dục, pháp luật, và lối 
sống hàng ngày. Phần lớn, chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX phản ánh 
một sự bất đắc dĩ khi đối mặt với áp lực từ các cường quốc lân cận, dẫn đến những quyết định 
phải chấp nhận sự kiểm soát từ Pháp, điều này có những hệ quả lâu dài cho sự phát triển và tự  chủ của Đại Nam.  Tích cực: 
Mặc dù chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX chủ yếu là một phản ứng đối 
với áp lực từ các cường quốc lân cận, đặc biệt là Pháp và Trung Quốc, nhưng có một số mặt tích 
cực và quyết định có thể được nhìn nhận: 
- Trước sự mở rộng của Pháp, Nhà Nguyễn đã cố gắng duy trì độc lập và tự chủ bằng cách cải 
thiện quân đội và hệ thống hành chính nội địa. Mặc dù cuối cùng họ phải chấp nhận sự chi phối 
của Pháp, nhưng nỗ lực của họ đặt ra một tín hiệu rằng họ không dễ dàng chấp nhận sự xâm  lược. 
- Nhà Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp cải cách nội địa nhằm tăng cường sức mạnh quốc 
gia. Cải cách quân đội và hành chính nhằm đối phó với thách thức bảo vệ chủ quyền và duy trì  ổn định nội địa. 
- Trong quá trình đối mặt với áp lực từ các quốc gia lân cận, Nhà Nguyễn phải quản lý mối quan 
hệ với Siam và các nước khác để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự khéo léo trong quản lý các mối 
quan hệ này có thể được coi là một mặt tích cực của chính sách đối ngoại. 
- Trong mối quan hệ với Trung Quốc và các dân tộc thiểu số ở biên giới phía bắc, Nhà Nguyễn 
phải đối mặt với những thách thức lớn. Tuy nhiên, việc duy trì ổn định trong khu vực biên giới 
và bảo vệ quyền và lợi ích của dân tộc thiểu số có thể được coi là một mặt tích cực. 
- Mặc dù phải đối mặt với sự chi phối của Pháp, nhưng Nhà Nguyễn vẫn giữ vững lòng yêu nước 
và tìm cách bảo vệ lợi ích quốc gia. Điều này có thể được xem xét là một yếu tố tích cực trong 
bối cảnh khó khăn của thời kỳ đó.      lOMoAR cPSD| 22014077
=> Tuy nhiên, những mặt tích cực này thường ít nổi bật hơn so với những thách thức và hệ quả 
tiêu cực của chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn trong giai đoạn này.  Hệ quả: 
Những mặt tiêu cực này đã tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng và kéo dài trong lịch sử Đại Nam, 
đặt ra những thách thức lớn cho sự phát triển và ổn định của quốc gia. 
Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX đã tạo ra nhiều hệ quả quan trọng, 
ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình Đại Nam và định hình tương lai của quốc gia. Dưới đây là một  số hệ quả chính: 
- Mất chủ quyền và độc lập: Ký kết Hiệp ước Patenôtre với Pháp năm 1884 đánh dấu sự mất mát 
chủ quyền và độc lập của Đại Nam. Nhà Nguyễn phải chấp nhận sự chi phối của Pháp và mô 
hình bảo hộ, đặt quốc gia dưới sự kiểm soát của một cường quốc châu Âu. 
- Biến đổi xã hội và kinh tế: Chính sách đối ngoại này đã tác động mạnh mẽ đến cấu trúc xã hội 
và kinh tế của Đại Nam. Mô hình thuế mới, cải cách hành chính, và áp đặt các biện pháp kiểm 
soát từ Pháp đã thay đổi nền kinh tế và xã hội truyền thống của nước này. 
- Sự hiện diện của quân đội Pháp: Đại Nam phải chấp nhận sự hiện diện của quân đội Pháp trong 
nước, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của quân đội này. Điều này gây ra sự không hài lòng 
trong dân chúng và tạo nền cho những cuộc khởi nghĩa và phản kháng sau này. 
- Chống lại sự áp đặt văn hóa Pháp: Ngoài các ảnh hưởng chính trựcđến chính trị và kinh tế, 
chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn cũng tác động đến lĩnh vực văn hóa. Sự đấu tranh giữa 
văn hóa truyền thống và văn hóa Pháp đã tạo nên một sự căng thẳng và đan xen trong xã hội  Đại  Nam. 
- Khủng hoảng xã hội và kháng chiến: Sự mất chủ quyền và những biện pháp áp đặt của Pháp đã 
tạo ra sự bất mãn trong xã hội Đại Nam, thúc đẩy các phong trào kháng chiến và cuối cùng là 
những cuộc khởi nghĩa nổi lên như cuộc khởi nghĩa của Cần Vương. 
- Chính quyền trung ương Đại Nam ngày càng suy yếu, không còn kiểm soát được tình hình các 
địa phương. Các quan lại địa phương thường xuyên nổi dậy chống triều đình. 
- Kinh tế Đại Nam bị thâm hụt ngân sách nghiêm trọng do phải chi trả chi phí cho việc duy trì 
quân đội và nhượng bộ các điều ước cho Pháp, Tây Ban Nha. 
- Văn hóa, tôn giáo phương Tây xâm nhập mạnh, ảnh hưởng đến đời sống xã hội truyền thống. 
Số người theo Công giáo ngày càng đông. 
- Xung đột sắc tộc, tôn giáo ngày càng phức tạp, nhất là ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. 
- Năm 1885, Pháp hoàn toàn xâm chiếm Đại Nam, triều Nguyễn mất nền độc lập, trở thành một 
phần của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.      lOMoAR cPSD| 22014077
Nói tóm lại, chính sách đối ngoại yếu kém của nhà Nguyễn đã dẫn đến sự suy yếu nghiêm trọng 
về mọi mặt của Đại Nam, mở đường cho sự xâm lược của Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Những hệ 
quả này đã tác động sâu rộng và kéo dà isuốt thế kỷ XX, đặt ra những thách thức lớn cho việc 
xây dựng và duy trì một Đại Nam độc lập và mạnh mẽ. 
Vấn đề 5: Bối cảnh và nội dung của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Ý 
nghĩa lịch sử của Hội nghị này. 
*Hoàn cảnh ra đời: 
- 1929, phong trào công nhân phát triển mạnh, ba tổ chức cộng sản ra đời. Tuy nhiên, các tổ 
chứchoạt động riêng lẻ, tranh giành ảnh hưởng với nhau, làm cho phong trào cách mạng trong 
nước có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. 
- Trong khi đó thế giới lại diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 khiến đời sống nhân dân 
thêm khốn khổ, bọn đến quốc nhân cơ hội đưa chân vào phá hoại phong trào đấu tranh của ta. 
- Nguyễn Ái Quốc được tin Hội VNCMTN phân liệt thành hai nhóm, chủ động từ Xiêm về 
Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản. 
- Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản diễn ra từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 diễn ra tại 
Hương Cảng (Trung Quốc ) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với cương vị là phái viên của QTCS. 
Tham dự có đại biểu của ĐDCSĐ và ANCSĐ. Đại biểu của ĐDCSLĐ đang hoạt động tại nước  ngoài không về kịp. 
*Nội dung của Hội nghị: 
- Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình trong nước và thế giới. 
- Phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng lẻ và nêu ra chương trình  Hội nghị. 
- Thảo luận và nhất trí thành lập một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. 
- Trình bày Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo (Chính cương vắn tắt, 
Sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt). 
*Nội dung cương lĩnh chính trị - Chính cương sách lược vắn tắt: 
Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam 
"là đội tiên phong của vô sản giai cấp". Đảng chủ trương tiến hành "tư sản dân quyền cách mạng 
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", 
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó là đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân 
tộc, thành lập chính phủ công nông bính. Chính phủ đó sẽ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc 
phong kiến để chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hóa các sản nghiệp, mở mang phát triển công 
nông nghiệp, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyển bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày  làm 8 giờ...      lOMoAR cPSD| 22014077
Để hoàn thành được mục tiêu trên, “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa 
vững vào hạng dân cày nghèo". Đồng thời lại "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung 
nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản 
Việt Nam mà chưa rõ mặt phân cách mạng thì phải lợi dụng, Ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ 
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ 
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại 
Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải 
phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyên 
giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và 
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Về quan hệ quốc tế, Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của  cách mạng thế giới 
=> Nhận xét: Đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo kết hợp được 2 nhiệm 
vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. 
- 24/02/1930, theo đề nghị của Đông Dương CS Liên đoàn, tổ chức này được gia nhập Đảng CS 
Việt Nam. Việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2/1930 mới hoàn tất.  *Ý nghĩa 
Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam giai đoạn đó thành một Đảng Cộng 
sản duy nhất và đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một 
đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự thống nhất 
về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tất cả đều hướng tới mục 
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hội nghị được coi mang tầm vóc như một Đại hội thành  lập Đảng. 
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu 
tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp 
công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự 
kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ 
trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt 
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát 
triển của dân tộc ta. Từ đây, Cách mạng VN đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. 
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin 
cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của 
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí  Minh. 
Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi Đảng Cộng 
sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn con đường cách 
mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở quan trọng 
để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn cờ lãnh đạo đối với phong trào 
cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng giúp giải quyết được tình trạng khủng 
hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà      lOMoAR cPSD| 22014077
đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể để phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Đồng 
thời là sự chuẩn bị cho những bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam 
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cách mạng 
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã tranh thủ được sự 
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại 
từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó thì cách mạng Việt Nam 
cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân trên phạm vi toàn thế 
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. 
- Đại hội Đảng lần III (9/1960, quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập  Đảng. 
Vấn đề 6: Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Toàn quốc kháng 
chiến bùng nổ 19-12-1946.   HOÀN CẢNH 
Sau CMT8, VN đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đây là thờikỳ vận mệnh dân tộc đặt ở thế 
“ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình phức tạp, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, thù 
trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt. 
- Nền kinh tế VN kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả của chính sách cai trị của TD Pháp và phát xít 
Nhật. Mọi ngành kinh tế ngừng trệ, bế tắc. Tài chính quốc gia trống rỗng. Nạn đói 1945 làm gần 
2tr người chết chưa khắc phục xong thì nguy cơ nạn đói mới lại đe dọa nhân dân. Chế độ TD để 
lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, nổi bật là hơn 90% dân số mù chữ. 
- Sau ngày giành chính quyền, nhân dân VN phải cùng một lúc đối phó với nhiều lực lượng 
chông phá CM. Để tranh thủ thời gian, chuẩn bị lực lượng cho chiến đấu lâu dài với kẻ thù 
nguy hiểm nhất của dân tộc là TD Pháp, Chính phủ và Chủ tịch HCM đã thực hiện chính sách 
nhân nhượng hòa hoãn, tránh những xung đột bất lợi. 
- Ở phía bắc vĩ tuyến 16, quân Tưởng vữa nhiễu sách về kinh tế, vừa tiến hành hđ khiêu khích, 
chống phá chính quyền CM. Ta buộc phải cung cấp lương thực và cho chúng lưu hành tiền 
“quan kim”, “quốc tệ” mất giá 
- Năm 1946, TD Pháp và Tưởng Giới Thạch mưu tính kế hoạch đưa quân Pháp ra bắc thay thế 
quân Tưởng. T2/1946, Pháp-Tưởng ký với nhau Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp đưa quân ra bắc  thay quân Tưởng 
- Đảng và Chính Phủ dưới sự lãnh đạo của CT HCM đề ra chủ trương đàm phán với Pháp, nhằm 
mục đích để quân Pháp ra Bắc thay thế quân Tưởng và tranh thu thủ thời gian hòa hoãn bảo 
toàn và chuẩn bị lực lượng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn 
- 6/3/1946, với sự có mặt của đại diện một số nước, phái đoàn ta do CT HCM dẫn đầu đã ký với 
đại diện chính phủ Pháp Giăng Xanhtơni Hiệp ước sơ bộ: 
* Nội dung chính của Hiệp ước sơ bộ:      lOMoAR cPSD| 22014077
+ Chính phủ Pháp công nhận nước VNDCCH là 1 quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, có tài 
chính riêng, nằm trong khối liên hiệp Pháp 
+ CP VN chấp nhận Pháp đưa 15000 quân ra bắc. Hoàn thành việc rút quân trong vòng 5 năm 
+ Hai bên ngừng xung đột 
- Sau khi kí Hiệp định sơ bộ, Pháp trì hoãn việc thi hành những điều khoản đã kí và luôn vi phạm 
Hiệp định. Ngày 31/5 Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp theo lời mời của Chính phủ 
Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ ta cũng sang Pháp để đàm phán chính thức. Do Pháp 
không từ bỏ được tham vọng của mình ở Đông Dương nên các cuộc đàm phán đều bế tắc. 
- Để tỏ rõ thiện chí muốn hòa bình của Nhân dân Việt Nam và tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9/1946 
* Bản tạm ước quy định một số điều về quan hệ kinh tế, văn hóa giữa Pháp với VN 
I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945  1. Thuận lợi   Quốc tế 
- Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô đã trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội 
- Nhiều nước ở Đông Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội (được Liên 
Xô ủng hộ và giúp đỡ) 
- Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ La-tinh) 
=> Tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khuyến khích các nước thuộc địa 
đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới xây dựng một nhà nước.   Trong nước 
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân phận nô lệ bị áp bức, trở 
thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. 
- Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước 
- Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ  sở 
- Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương  xây dựng 
=> Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò của Đảng đối với 
cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.  2. Khó khăn      lOMoAR cPSD| 22014077  Thế giới  - 
Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới” 
(bằng chứng: ra sức tấn công và đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam)  - 
Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý của Việt 
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (do lợi ích cục bộ)  - 
Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với  thế giới bên ngoài 
=> Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chúng và Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều  khó khăn thử thách.   Trong nước 
- Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu thống nhất và yếu kém về nhiều  mặt 
 Tại sao nói sau 1945 nước ta phải đối mặt với hoàn cảnh “Ngàn cân treo sợi tóc”? 
+ Vì cùng một lúc nước ta phải đối mặt với cả 3 loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. 
+ Nạn đói năm 1945 đã khiến cho 2 triệu người dân chết đói. 
+ Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp đến năm 1945, hơn 90% dân số nước ta mù chữ. 
+ Bên cạnh đó nước ta còn phải đối mặt với giặc ngoại xâm: Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20 
vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng nuôi 
dưỡng mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập 
chính quyền tay sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân 
đội Nhật, nhưng thực chất là “dọn đường”, giúp đỡ thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. 
Loại giặc nguy hiểm nhất lúc này là giặc dốt  - 
Nền nông nghiệp của nước ta lạc hậu, đê điều không được chăm lo, 50% ruộng đất bị bỏ 
hoang (trong khi VN thời điểm đó là một nước sống nhờ nông nghiệp)  - 
Bên cạnh đó nước ta còn phải đối mặt với những khó khăn về tài chính: ngân khố kiệt 
quệ, kho bạc trống rỗng.  - 
Những tệ nạn của chế độ cũ để lại (mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút,...) còn  phổ biến. 
=> Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định và hướng giải quyết phù hợp nhất.  3. Giải quyết 
Ngày 3-9-1945: Phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì xác 
định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.  Chống giặc 
đói, đẩy lùi nạn đói Bác đã đề ra 2 giải pháp:      lOMoAR cPSD| 22014077
Một là: Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo 
- Ngay từ giữa tháng chín, Chính phủ đã tổ chức một lễ phát động phong trào cứu đói. 
- Hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói diễn ra rộng khắp 
trên cả nước với các hoạt động ý nghĩa như: “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”. 
“Đoàn quân tiễu trừ giặc đói”. Từ đó hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước đóng góp, 
chia sẻ với đồng bào đang chịu thảm họa của nạn đói, góp phần cứu giúp kịp thời. 
- Chính phủ cũng ban hành các chính sách, biện pháp như cấm dùng gạo nấu rượu, xóa bỏ mọi 
hạn chế trong việc lưu thông gạo giữa các vùng miền, cấm dân tích trữ gạo, thành lập tổ chức 
“ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế” của chính phủ... Nhờ vậy, việc chuyên chở gạo từ các tỉnh ở 
Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ được tiến hành nhanh chóng để kịp đưa gạo đến các địa  phương cứu đói. 
Hai là giải quyết vấn đề từ gốc: Tăng gia sản xuất 
- Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở cho toàn bộ 
chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN. 
- Để phục vụ tăng gia sản xuất, Nhà nước quyết định cho đấu thầu việc đắp đê. Cho đến đầu 
năm1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành 
=> Đó là một bằng chứng về trách nhiệm, năng lực và sức sống của chính quyền mới. 
- Đồng thời với việc đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc 
vàng”. Chính quyền tất cả các địa phương quyết định cho phép sử dụng những đất công cộng 
còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt. 
+ Mặt trận quyết định nhất của tăng gia sản xuất cuối năm 1945 đầu 1946 là trồng màu. Lúa 
không còn kịp thời vụ nữa, phải dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp hai vụ màu bù 
cho phần thiếu hụt về lúa. Đây là giải pháp sáng suốt. Phải trồng màu ngay từ tháng 11-1945 để 
tháng giêng đã có thu hoạch khoai lang. Tháng hai đã có thu hoạch ngô, đậu 
+ Ngay sau đó, trồng tiếp một vụ nữa có thể cho thu hoạch bổ sung vào tháng ba và tháng tư để 
chịu đựng được suốt thời kỳ giáp hạt cho đến vụ thu hoạch lúa chiêm vào tháng năm 
+ Chính quyền còn vận động cả tư nhân cho sử dụng tạm các vườn trống quanh nhà để tăng gia  sản xuất. 
+ Ở Hà Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè, bất cứ nơi nào đất trống. Viên chức cuốc 
vườn trong công sở để trồng ngô, khoai... Thanh niên thủ đô chia thành những đội tăng gia đi 
trồng sắn ở bờ đê, bãi sông, lề đường. 
=>Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ 
tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, quy ra thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể 
bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc 
gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui      lOMoAR cPSD| 22014077
 Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ   - 
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục. Với 
phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt giặc dốt được phát động 
rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia.  - 
Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy cho các 
em. Họcban ngày, học buổi trưa, buổi tối, khắp thôn xóm ở đâu cũng tập đọc, tập viết. Ban ngày 
lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập.  - 
Công nhân học trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân học ngay 
trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc đa, bến nước, trẻ nhỏ học trên 
lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm thắp đèn dầu, đốt đuốc đến lớp. 
• Giải quyết khó khăn về tài chính : Chính phủ đã xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, 
đồng thời động viên toàn thể nhân dân bằng tinh thần tự nguyện và theo khả năng của 
mình, đóng góp tài chính bằng nhiều hình thức như: “quỹ độc lập”, “đảm phụ quốc phòng”, 
“quỹ kháng chiến”, “tuần lễ vàng”. Các tầng lớp nhân dân đã hăng hái đóng góp hàng chục 
triệu đồng và hàng trăm cân vàng cho Nhà nước trong năm 1946 
• Chống giặc ngoại xâm   - 
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng đề ra, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa thực hiện sách lược hòa hoãn linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết đối với cả thực dân Pháp 
và Tưởng Giới Thạch. Từ ngày 23/9/1945 đến tháng 2/1946, ở miền Bắc, ta chấp nhận nhượng 
bộ cho quân đội Tưởng Giới Thạch và các phần tử tay sai của chúng một số quyền lợi chính trị, 
kinh tế như: Đặc cách cho một số ghế bộ trưởng trong chính phủ và 70 ghế trong Quốc hội 
không qua bầu cử; nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm; nhận tiêu tiền “quan kim”, 
“quốc tệ” của quân Tưởng... Mục đích để tránh tình trạng phải đối phó cùng một lúc với hai kẻ 
thù và có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.  - 
Mặt khác, Trung ương Đảng chỉ đạo quân dân ta ở miền Nam kiên quyết kháng chiến 
chống thực dân Pháp xâm lược. Một số đội quân chủ lực “Nam tiến” đã được Đảng và Chính 
phủ ta điều động từ miền Bắc vào sát cánh cùng đồng bào miền Nam đánh giặc cứu nước. Đến 
tháng 2/1946, thực dân Pháp đã ký hiệp ước thỏa hiệp thay thế quân Tưởng Giới Thạch ra miền 
Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy 
mô cả nước. Trước bối cảnh lịch sử mới, từ tháng 3/1946 đến tháng 11/1946, Chính phủ Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) nhượng bộ 
cho quân Pháp một số quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm nhanh chóng đuổi 20 vạn quân 
Tưởng về nước, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn. 
=> Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong những thành 
công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là chủ động, 
khôn khéo, mềm dẻo để ứng phó hiệu quả với thù trong, giặc ngoài; lúc thì hòa hoãn nhân 
nhượng với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hòa hoãn với 
Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và là một      lOMoAR cPSD| 22014077
mẫu mực của sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có 
nguyên tắc trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta. 
 Hiệp định sơ bộ 6/3/1946: (Trung Hoa dân quốc bán đứng VN cho Pháp)  1. Hoàn cảnh lịch sử:  - 
Tháng 2/1946, Pháp ký với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc Hiệp ước Hoa – Pháp, muốn 
đưa quân ra Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.  - 
Đất nước đứng trước hai sự lựa chọn: cầm súng chống Pháp hoặc hòa hoãn, nhân nhượng 
với Pháp. (ngày 5 Pháp đưa quân ra Hải Phòng)  2. Nội dung: 
Ngày 6/3/1946, Hiệp định Sơ bộ được ký kết với nội dung:  - 
Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Công hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, 
quân đội riêng, tài chính riêng và là thành viên của liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên  hiệp Pháp.  - 
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra Bắc làm 
nhiệm vụgiải giáp quân Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm.  - 
Hai bên dừng mọi cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội của mình ở vị trí cũ, tạo không 
khí thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, 
quyền lợi kinh tế và văn hóa của Người Pháp ở Việt Nam.  3. Ý nghĩa: 
- Nước ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc. 
- Đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta. 
- Có thêm thời gian hòa bình để củng cố chính quyền mới chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc 
kháng chiến lâu dài chống Pháp. 
=> Sách lược ngoại giao mềm dẻo, khéo léo 
 Tạm ước 14/9/1946 (không phải mang tính quốc tế) 
- Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
ký với đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước về quan hệViệt Nam - Pháp. Bản tạm ước 
có 11 điều khoản, thể hiện sự thỏa thuận tạm thời giữa ta và Pháp về một số vấn đề bức thiết 
có tính chất bộ phận, có lợi cho cả hai bên. Hai bên cam kết đình chỉ mọi xung đột để làm 
giảm tình hình căng thẳng, tạo thuận lợi để mở lại cuộc đàm phán vào đầu năm 1947. Việt 
Nam tiếp tục nhân nhượng, đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa ở Việt 
Nam. Phía Pháp nhận thi hành một số nội dung như: thả chính trị phạm và tù binh; nhân dân 
Nam Bộ được quyền tự do hội họp, tự do báo chí, tự do đi lại. 
- Có thể thấy rằng, để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, chúng ta đã chủ 
động đàm phán với Pháp, rồi ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), sau đó ký Tạm ước      lOMoAR cPSD| 22014077
(14/9/1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô 
và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí hòa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc 
chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời, Người 
liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp đại diện 
Chính phủ Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. 
Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta. Do 
vậy, việc ký Tạm ước có thể xem là bước nhân nhượng cần thiết nhưng là nhân nhượng cuối 
cùng của Việt Nam để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, vãn hồi hòa bình. 
 Mặc dù hai hiệp định quốc tế này đều mang tính chất sơ bộ, tạm thời trong quan hệ hai nước, 
làm cơ sở cho việc ký một hiệp định chính thức nhưng nó phản ánh một chủ trương nhất 
quán của Việt Nam trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không muốn chiến tranh, tìm mọi cách 
bảo vệ nền hòa bình mới giành được nhưng phải là nền hòa bình trong độc lập, tự do thực sự. 
=> Cả hai Hiệp định rốt cục không ngăn chặn được chiến tranh nổ ra nhưng trong hoàn cảnh đất 
nước gặp muôn vàn khó khăn về kinh tế, xã hội, thù trong, giặc ngoài ra sức chống phá, vận 
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, việc ký Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước là nước cờ ngoại 
giao xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay 
đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng ra khỏi nước ta 
mà không dùng đến biện pháp chiến tranh, tranh thủ thêm thời gian để xây dựng thực lực cho 
cuộc kháng chiến toàn quốc. 
 Vì sao toàn quốc kháng chiến bùng nổ? 
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), ta đã thực hiện nghiêm chỉnh. Nhưng 
với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, Pháp đã bội ước và tăng cường các hành động khiêu 
khích. Buộc nhân dân ta phải đứng lên kháng chiến chống Pháp. 
- Pháp khiêu khích và tổ chức tiến công ta ở nhiều nơi như Bắc Bộ, Nam Bộ, Nam Trung Bộ. 
- Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam phải giải tán lực lượng, để 
cho Pháp cai quản Hà Nội. 
⟹ Trước những hành động xâm lược của thực dân pháp, nhân dân ta chỉ có một con đường cầm 
vũ khí kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do... Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung 
ương Đảng họp quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm 19 /12/1946, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. 
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ.  - Ngoại xâm: 
+ Sách lược của ta đối với Pháp và Tưởng (THDQ) trước và sau ngày 6/3/1946 là gì: 
● Trước 6/3/1946: Ta đánh Pháp (Nam bộ kháng chiến), hòa với Tưởng (Nhường một số quyền 
lợi về lương thực - kinh tế) 
● Sau 6/3/1946: Ta hòa với Pháp (kí Hiệp định sơ bộ) đuổi được Tưởng. 
- Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946):    
