



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM THI CUỐI KỲ HK1 (2024- 2025)
Vấn đề 1: Sự ra đời của nước Văn Lang và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc.
Vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên (2879 TCN), trên cơ sở phát triển rực rỡ của văn hóa
Đông Sơn, sự phát triển của công cụ bằng đồng và sắt, đời sống sản xuất của người Việt cổ đã có
sự chuyển biến rõ rệt.
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân (theo
truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông) cùng vợ là Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100
người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người
con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.
- Do đó, dân gian quan niệm rằng nước Văn Lang đời trong thời kỳ của các vị vua Hùng cách
ngày nay khoảng hơn 4000 năm văn hiến. - Hoàn cảnh ra đời:
+ Trên khu vực ven các sông lớn ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc trung bộ. Ban đầu là những bộ lạc
dưới quyền cai quản của các thủ lĩnh, các bộ lạc này có nhiều điểm tương đồng như các sinh
hoạt, tiếng nói, cách thức sản xuất...
+ Sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến động xã hội và đưa đến một tình trạng văn
hóa xã hội rõ nét vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Giữa các chiềng, chạ dần xảy ra mâu thuẫn
do quyền lợi của người dân không đồng đều như là sự phân chia của cải, sự phân công lao động.
Lúc này trong xã hội đã có nhiều kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn và tình trạng bất bình đẳng xã hội.
+ Nhu cầu thủy lợi, trị thủy: do tập trung ở ven các con sông lớn nên việc sản xuất nông nghiệp
cũng gặp nhiều khó khăn khi mùa mưa lũ đến.
+ Nhu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm: Nước ta Nằm ở vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của
bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Nó nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự
nhiên nối liền đại lục với đại dương đây là vị trí giao lưu kinh tế văn hóa thuận lợi và sự thuận
lợi đó đã trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tìm mọi cách tấn công từ nhiều phía nhằm
chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm đã được đặt ra
và ngày càng trở nên bức thiết. Để tồn tại và phát triển, các bộ lạc người Việt ở trên đất Văn
Lang không thể không cố kết lại với nhau thành một khối thống nhất.
⇒ Do đó, nhu cầu chung sống, cùng làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm đã thúc đẩy sự ra đời của
nhà nước đầu tiên ở Việt Nam - Nhà nước Văn Lang.
* Sự ra đời của nhà nước Văn Lang: lOMoAR cPSD| 22014077 -
Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia và nhà nước. -
Ph. Enghen đã nêu luận điểm giải thích về quá trình ra đời của Nhà nước: “Trên cơ sở
phân hóaxã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới tiêu và
yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho nhà nước lúc ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho
lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang “địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng vươn lên
thành thống trị đối với xã hội”. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời của Nhà nước phương đông, ngoài
đi sâu nghiên cứu sự phân hóa xã hội, chúng ta không thể không quan tâm đúng mức đến sự tác
động của hai nhân tố khác là thủy lợi và tự vệ. Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này. -
Tình hình phân hóa xã hội: Sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến động xã
hội và đưa đến một tình trạng văn hóa xã hội rõ nét vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Lúc này
trong xã hội đã có nhiều kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn và tình trạng bất bình đẳng xã
hội. Tuy nhiên, mức độ phân hóa xã hội đến giai đoạn văn hóa Đồng Sơn vẫn chưa thật cao,
chưa thật sâu sắc, nhưng nó cũng đã tạo ra một cơ sở xã hội cần thiết cho quá trình hình thành
Nhà nước đầu tiên - Nhà nước Văn Lang. -
Nhu cầu thủy lợi, trị thủy: Từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên khi con người tiến xuống
khai phá vùng đồng bằng sông Hồng và chọn nghề trồng cây lúa nước làm nghề sống chính là họ
phải trực tiếp với mặt với vùng đồng bằng sông nước. Chinh phục vùng đồng bằng sông nước
này người Việt cổ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, nhưng khó khăn phức tạp hơn
cả vẫn là làm sao để có thể chủ động được nguồn nước. Cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp trồng
lúa nước đặt ra nhu cầu bức thiết phải có những công trình tưới tiêu đảm bảo nguồn nước cho
cây trồng. Công việc chống ngập lụt không bao giờ là công việc đơn lẻ của từng cá nhân, gia
đình hay từng làng mà nó luôn luôn đòi hỏi một sự liên kết rộng lớn gồm nhiều công xã nhiều
khu vực, trước hết là toàn bộ vùng châu thổ Sông Hồng. Có thể lúc ban đầu, đây chỉ là chức
năng xã hội xuất phát từ lợi ích chung của cả cộng đồng nhưng rồi trong tay người giao phó dần
dần nó đã trở thành chức năng của nhà nước đối với xã hội. -
Nhu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm: Nước ta Nằm ở vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc
của bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á. Nó nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự
nhiên nối liền đại lục với đại dương đây là vị trí giao lưu kinh tế văn hóa thuận lợi và sự thuận
lợi đó đã trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tìm mọi cách tấn công từ nhiều phía nhằm
chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm đã được đặt ra
và ngày càng trở nên bức thiết. Để tồn tại và phát triển, các bộ lạc người Việt ở trên đất Văn
Lang không thể không cố kết lại với nhau thành một khối thống nhất. Đây là lý do khách quan
tác động đến sự hình thành nhà nước đầu tiên.
⇒ Như vậy, sự phân hóa xã hội, yêu cầu đoàn kết chống giặc ngoại xâm và thủy lợi của nền kinh
tế nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng lưu vực sông Hồng đã tác động rất mạnh và quá trình hình
thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam - Nhà nước Văn Lang. Nhà nước Văn Lang ra
đời trong điều kiện tình hình văn hóa giai cấp chưa thật sâu sắc. Bên cạnh chức năng thống trị lOMoAR cPSD| 22014077
bóc lột nó còn phải đảm đương hai chức năng công cộng là xây dựng các công trình thủy lợi và
tổ chức chiến đấu chống ngoại xâm.
* Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc:
- Đời sống kinh tế tác động đến xã hội
- Đời sống vật chất, tinh thần của chư dân Văn Lang - Âu Lạc thể hiện qua cách ăn, ở, mặc, đi lại,...
+ Ăn: Nguồn lương thực chính Của cộng đồng dân cư là thóc gạo trong đó chủ yếu là gạo nếp.
Thức ăn bao gồm các loại rau củ bầu bí, cà, đậu và các sản phẩm của ngành đánh cá chăn nuôi săn bắn,...
+ Ở: Họ ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre, nứa, lá để tránh thú dữ, ngập lụt
+ Mặc: Nam đóng khố, cởi trần, nữ mặc váy, đi chân đất. Cả nam lẫn nữ đều ưa dùng được trang
sức làm bằng đá và đồng thau.
+ Họ đi lại chủ yếu bằng thuyền, bè, mảng trên sông suối.
- Đời sống vật chất, tinh thần phong phú: Được thể hiện qua những nhạc cụ như trống đồng, sáo
bằng xương, đàn đá... Hoặc là các đồng trang sức bằng đồng thau, đá,...
- Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần cư dân thời Hùng Vương đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư
duy khá cao, kết hợp những hình thái tín ngưỡng phức tạp, đan xen giữa tàn dư tín ngưỡng
nguyên thủy với tín ngưỡng của thời đại kim khí và nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng
chủ yếu và phổ biến của người Việt cổ là sùng bái tự nhiên như thờ thần Mặt Trời, thần Sông,
thần Núi ,... và tục phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, các giống loài sinh sôi
nảy nở, đồng thời đã sản sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái anh hùng thủ lĩnh, tục lệ cưới xin, ma chay.
Vấn đề 2: Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và cuộc đấu tranh
bảo vệ văn hoá của dân tộc.
* Chính sách cai trị của triều đại phong kiến phương Bắc
a. Về bộ máy cai trị
- Năm 179 TCN, Triệu Đà chiếm được Âu Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến phương Bắc đều
sáp nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc, chia thành các đơn vị hành chính như châu-quận,
dưới châu – quận là huyện.
- Đưa người Hán sang cai trị người Việt theo luật pháp hà khắc.
- Từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), chính quyền từ cấp huyện trở lên đều do người Hán nắm giữ. - Cụ thể: lOMoAR cPSD| 22014077
+ Nhà Hán chia Âu Lạc thành 3 quận (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam), gộp chung với 6 quận
của Trung Quốc thành Giao Châu, thủ phủ đặt ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Sau khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, chính quyền đô hộ phương Bắc cai trị đến cấp huyện.
+ Mục đích gộp Âu Lạc với 6 quận của Trung Quốc thành Giao Châu của nhà Hán để dễ bề cai
trị và dần dần thu phục người Việt.
+ Tổ chức chính quyền ở Giao Châu thời thuộc Hán: Đứng đầu là Thứ sử người Hán; dưới là các
quận (đứng đầu là Thái thú người Hán); dưới quận là huyện (ban đầu Huyện lệnh là các Lạc
tướng người Việt nhưng từ năm 43 đổi thành người Hán); dưới huyện là làng, xã (đứng đầu là
các Tù trưởng, hào trưởng người Việt).
- Nhà Tùy, Đường thi hành chính sách cai trị hà khắc. Năm 679, nhà Đường đổi Giao Châu
thành An Nam đô hộ phủ với 12 châu, 59 huyện.
Tổ chức chính quyền An Nam đô hộ phủ thời Đường: Đứng đầu là Tiết độ sứ người Hán; dưới là
các châu (đứng đầu là Thứ sử người Hán); dưới châu là các huyện (Huyện lệnh là người Hán);
dưới huyện là làng, xã (đứng đầu là các Tù trưởng, hào trưởng người Việt).
-Từ nhà Hán, các triều đại đều áp dụng luật pháp hà khắc và thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh
của nhân dân ta. b. Về kinh tế
- Nhà Hán chiếm đoạt ruộng đất, bắt nhân dân ta cống nạp sản vật quý hiếm, hương liệu, vàng
bạc. Những sản phẩm quan trọng như sắt và muối bị chính quyền đô hộ giữ độc quyền.
- Nhà Ngô và nhà Lương siết chặt ách cai trị, đặt thêm thuế, bắt hàng ngàn thợ thủ công giỏi ở Giao Châu đem về nước.
- Những hình thức bóc lột chủ yếu của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Sử dụng chế độ tô thuế.
+ Bắt cống nạp sản vật quý (ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi...).
+ Nắm độc quyền về sắt và muối đối với người Việt.
c. Về xã hội và văn hóa
- Chính sách cai trị về văn hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Chính quyền phong kiến phương Bắc đều thực hiện chính sách đồng hóa đối với dân tộc ta.
+ Tìm cách xóa bỏ những tập quán lâu đời của người Việt, ép buộc dân ta theo phong tục, tập quán của họ.
+ Mở trường lớp dạy chữ Hán + Áp dụng luật Hán. lOMoAR cPSD| 22014077
- Nho giáo, tư tưởng lễ giáo phong kiến Trung Quốc được truyền bá vào Việt Nam.
- Tuy nhiên, việc dạy chữ chỉ giới hạn trong một số ít người ở các vùng trung tâm. Cả ngàn năm
Bắc thuộc, số người Việt được trọng dụng chỉ là thiểu số.
* Cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa của dân tộc.
- Chính quyền đô hộ đã thi hành chính sách đồng hóa dân tộc ta bằng nhiều thủ đoạn khác nhau,
nhằm ép buộc người Việt theo lễ nghi, phong tục Hán. Tuy nhiên, người Việt luôn có ý thức
giữ gìn dòng giống Tiên Rồng và nền văn hóa của cha ông ta để lại.
- Người Việt vẫn nghe-nói, truyền lại cho con cháu tiếng mẹ đẻ.
- Những tín ngưỡng truyền thống như thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần tự nhiên,… tiếp tục được duy trì.
- Ẩn mình sau những lũy tre, làng Việt là thành trì kiên cố bảo tồn phong tục, tập quán Việt như
tục nhuộm răng, ăn trầu, búi tóc, xăm mình, làm bánh chưng, bánh giày.
- Bên cạnh đó dân tộc ta còn tiếp thu có chọn lọc văn hóa Trung Quốc, phát triển văn hóa trong thời Bắc thuộc:
+ Phật giáo, Đạo giáo dụ nhập vào nước ta thời kì này, hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian
+ Tiếp thu chữ Hán nhưng sử dụng tiếng Việt dùng âm Việt để đọc chữ Hán, tạo cơ sở hình
thành vốn từ Hán-Việt ngày càng phong phú, đặc sắc
+ Tiếp thu kĩ thuật tiến bộ của Trung Quốc: làm giấy, chế tạo thủy tinh, dệt lụa, kĩ thuật bón
phân bắc trong trọt trọt và nhiều sản phẩm thủ công khác.
Vấn đề 3: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt.
TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG BẠCH ĐẰNG NĂM 938
Sông Bạch Đằng là dòng sông có chứng tích lịch sử lâu bền. Đó là những lần quân dân ta lập
những chiến công lẫy lừng trong các trận chiến với giặc ngoại xâm. Đặc biệt là trận chiến thắng
trên sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô quyền lãnh đạo. Đó là trận chiến vô cùng dũng cảm, một
mất một còn của dân tộc, thể hiện được hào khí Đông A của đời Trần. Trận Bạch Đằng năm 938
là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam - thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu
chính thức - do Ngô Quyền lãnh đạo với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả, quân dân
Việt Nam giành thắng lợi. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu
cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam. TÌNH HÌNH
Ở Trung Quốc: Năm 907, nhà Đường sụp đổ. Các tập đoàn phong kiến phương Bắc vừa thôn
tính, tiêu diệt nhau đẫm máu, vừa tận dụng mọi cơ hội bành trướng xâm lược ra bên ngoài.
Vua Nam Hán là Lưu Nghiễn đã đặt tên nước là Đại Hán với tham vọng kế tục mộng bành
trướng của đế chế Đại Hán hồi đầu Công nguyên. Hướng bành trướng chủ yếu của Nam Hán là lOMoAR cPSD| 22014077
phương Nam, nhằm vào nước ta, một đất nước giàu có và giữ vị trí trọng yếu của vùng Đông
Nam Á, lại vừa qua hơn nghìn năm Bắc thuộc.
Để thực hiện mộng bành trướng đó, năm 930, vua Nam Hán đã mở cuộc chiến tranh xâm lược
lần thứ nhất. Chúng đã đánh bại được chính quyền họ Khúc, chiếm được phú thành Đại La. Năm
931, Dương Đình Nghệ đã đẩy quân từ Châu Ái, nhanh chóng quét sạch quân giặc ra khỏi nước
nhà, giành lại chủ quyền dân tộc.
Ở Việt Nam: Năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi
Tiết độ sứ. Con rể và một tướng khác của Đình Nghệ là Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng ra
đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ. NGUYÊN NHÂN
Trước tình thế đó, Kiều Công Tiễn sợ hãi, bèn sai người sang cầu cứu Nam Hán, vua Nam Hán
là Lưu Nghiễm nhân cơ hội đó bèn quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai và mở rộng bờ cõi
xuống phía nam nhằm đặt ách cai trị nhân dân ta.
Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi, bèn
phong con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo làm “Bình Hải tướng quân” và “Giao Chi vương”, thống lĩnh thủy quân.
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt trong nước đứng về phía mình, Ngô Quyền mang quân từ
Ái Châu ra bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập không chống nổi, đành chờ viện binh của Nam Hán. DIỄN BIẾN
- Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng: “Hoằng Tháo là đứa
trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không
có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt,
tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được
thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa
biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế
ngự, không cho chiếc nào ra thoát.”.
- Đến tháng 10 năm 938, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, trừ
mối họa bên trong và làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của Nam Hán. Sau đó,
ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán.
- Trên cơ sở phát huy sức mạnh đoàn kết và khí thế độc lập của dân tộc, phân tích và đánh giá
chỗ mạnh, chỗ yếu của ta và của địch, Ngô Quyền bày một thế trận hết sức kiên quyết, chủ
động và lợi hại để nhanh chóng phá tan quân giặc.
- Ông huy động nhân dân đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt, đóng thành một bãi cọc ở cửa sông Bạch
Đằng. Quân thủy bộ với sự tham gia của các lực lượng dân binh, bố trí mai phục sẵn ở phía
trong bãi cọc, vùng hạ lưu sông Bạch Đằng.
- Một đội thuyền nhẹ dưới quyền chỉ huy của người thanh niên Gia Viện (Hải Phòng) là
Nguyễn Tất Tố, giỏi bơi lội và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lOMoAR cPSD| 22014077
lúc nước triều lên nhử địch vượt qua bãi cọc, dấn thân vào cạm bẫy mai phục bên trong của
ta. Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ quốc ta, như tác giả bộ sử
- "Cương mục": "Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng
cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến". Ngô Quyền không những
biết lợi dụng địa hình thiên nhiên, để ém quân mai phục, phối hợp bộ binh với thủy binh, ông
còn là người biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, gắn với việc bố
trí bãi cọc ngầm nổi tiếng.
- Trong thế trận của Ngô Quyền, trận địa mai phục bên trong bãi cọc giữ vai trò quyết định,
chặn đứng đoàn thuyền địch và giáng cho chúng một đòn tiêu diệt bất ngờ, nặng nề. Trận địa
cọc giữ vai trò quan trọng, khóa đường tháo chạy của chiến thuyền địch và bao vây tiêu diệt
triệt để quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô
Quyền là phen này không chỉ đánh bại quân giặc mà còn bao vây, tiêu diệt toàn bộ binh
thuyền của giặc, giành thắng lợi oanh liệt, đập tan mộng xâm lược bành trướng của triều
Nam Hán. Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy quân mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, dấu quân
trong các nhánh sông và bên hữu ngạn sông Bạch Đằng.
- Khi cả binh đoàn thuyền lớn của Hoằng Tháo ào ạt vượt cửa biển An Bằng tiến vào cửa ngõ
Bạch Đằng, Ngô Quyền cho bộ phận tiên phong dùng thuyền nhẹ ra đón đánh địch từ xa,
nghi binh dụ địch. Lúc thủy triều lên to ngập trận địa cọc, bộ phận này giả thua rút chạy nhử
địch vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ. Tướng Hoằng Tháo kiêu ngạo thúc đại quân đuổi gấp,
trúng kế, mắc mưu, vượt qua bãi cọc ngầm. KẾT QUẢ
- Đợi thủy triều xuống, Ngô Quyền mới cho quân mai phục đổ ra bao vây thuyền địch. Thuyền
địch va vào cọc nhọn bịt sắt bị đâm thủng, chìm đắm gần hết, quân chết đuối quá nửa. Hoằng
Tháo bị giáo đâm, lăn xuống nước chết tại trận. Quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam
Hán. Thời gian trận đánh chỉ diễn ra trong phạm vi một ngày.
- Chiến thắng Bạch Đằng nhanh gọn, bất ngờ đến mức vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng
đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Hắn kinh hoàng, khủng khiếp, đành "thương
khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư) và "đem dư chúng quay
trở lại" (Ngũ đại sử ký).
Ý NGHĨA (Tiến trình LSVN tr.65)
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã ghi vào lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử chống ngoại
xâm nói riêng, như một sự kiện trọng đại có vị trí và ý nghĩa lịch sử hết sức lớn lao. Đây được
coi là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
- Chiến thắng đã giúp phá bỏ nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra
thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta.
- Đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán.
- Thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta. lOMoAR cPSD| 22014077
- Đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và kết thúc hoàn toàn thời kì đấu tranh giành lại độc
lập hàng chục thế kỉ, đưa dân tộc bước sang một kỉ nguyên mới.
- Tạo niềm tin, lòng tự hào dân tộc sâu sắc.
- Là bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh yêu nước sau này.
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI
- Do tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta khi hưởng ứng cuộc kháng chiến do Ngô
Quyền lãnh đạo, đóng góp sức lực của mình để xây dựng được trận địa cọc lớn trên sông Bạch Đằng.
- Do sự chỉ huy tài giỏi của Ngô Quyền và của tướng lĩnh, đã biết phát huy sức mạnh của dân
tộc, biết sử dụng và phát huy các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", biết phát huy sở
trường "thủy chiến" của dân tộc ta để giành thắng lợi.
ĐỘC ĐÁO QUÂN SỰ VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC
- Chủ động ở chỗ: khi giặc còn ngấp nghé, ông khẩn trương tổ chức kháng chiến. Dự đoán
quân Nam Hán sẽ vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bàn với các tướng
cách đánh giặc. Ông quyết định chọn khu vực cửa sông và vùng trung lưu, hạ lưu sông Bạch
Đằng làm điểm quyết chiến với giặc – chủ động đón đánh quân xâm lược.
- Độc đáo ở chỗ: Ông huy động quân và dân lên rừng đẵn hàng ngàn cây gỗ dài, đầu đẽo nhọn
và bịt sắc đóng xuống dòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm yếu gần cửa biển, thành một
trận địa cọc ngầm. Có quân mai phục hai bên bờ. Nhân khi nước triều lên, thuyền của địch
tiến vào trong hàng cọc “ta dễ bề chế ngự, không có kế gì hay hơn kế đó cả”.
Vấn đề 4: Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa cuối thế kỉ XIX.
Tình hình đất nước dưới các vua đầu triều Nguyễn
Triều đình nhà Nguyễn chỉ lo củng cố địa vị cai trị của dòng họ, không bắt kịp với xu thế thời
đại, làm cho đất nước ngày càng lúng sâu vào tình trạng lạc hậu, trì trệ và cuối cùng bị biến
thành thuộc địa thực dân pháp. ● Kinh tế:
- Chủ trương “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc), coi trọng vấn đề ruộng đất và sản xuất nông nghiệp
- Ruộng đất phần lớn tập trung vào tay quan lại, địa chủ, đại đa số nông dân thiếu đất canh tác.
- Thiên tai, hạn hán diễn ra thường xuyên làm cho nông dân trong cả nước mất mùa liên miên.
- Công nghiệp, thương mại lụi bại vì chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn
(nhất là dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức) ● Thương nghiệp (ngoại thương):
- Buôn bán giao dịch với 1 số nước láng giềng và 1 số nước trong khu vực Đông Nam Á lOMoAR cPSD| 22014077
+ Vùng biên giới chung giữa nước ta với các nước TQ, Ai Lao (Lào) đều có các trường giao dịch
hoạt động, là các chợ biên giới phía Bắc
+ Trên tuyến đường biển, các thuyền buôn TQ, Xiêm, Chà Và (nb), Ma Cao,... qua lại thông
thương dễ hơn thuyền buôn của phương Tây.
- Quan hệ buôn bán với các nước phương Tây:
+ 7/1803, người Hồng Mao (Anh) đến dâng lễ vật quý và xin lập buôn bán ở Sơn Trà. + Quốc phòng:
- Quân đội hùng hậu, nhưng chủ yếu chỉ được huấn luyện để đàn áp các cuộc KN nông dân, dập
tắt những phong trào đấu tranh của dân chúng
- Quân số không nhiều, tàu chiến ít, lính không chuyên nghiệp, hầu hết là tay ngang, không chịu được sóng biển. - Binh khí thô sơ. ● Chính trị - xã hội:
- Tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế nhằm duy trì quyền thống trị lâu dài của dòng họ.
- Mang nặng tính bảo thủ, lo ngại đổi mới, gạt bỏ nhiều đề nghị cải cách của 1 số quan lại và sỹ
phu (Nguyễn Trường Tộ - Bùi Viện).
⇒ Chính sách của triều Nguyễn làm cho đất nước suy sụp, đặt dân tộc VN vào một thế rất bất lợi.
*Ngoại giao là công cụ hòa bình, công cụ quan trọng nhất thực hiện chính sách đối ngoại của
quốc gia. Chính sách đối ngoại và ngoại giao của bất cứ quốc gia nào dù to dù nhỏ, từ cổ chí
kim, từ Đông sang Tây đều phải thực hiện ba nhiệm vụ bao trùm là: góp phần bảo vệ và củng cố
độc lập chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đất
nước, góp phần phát huy ảnh hưởng của nước mình trong khu vực và quốc tế. Nhà Nguyễn là
triều đại cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, và thời kỳ này chủ yếu diễn ra vào nửa
cuối thế kỷ XIX. Trong giai đoạn này, chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn chủ yếu tập trung
vào việc duy trì độc lập và tự chủ của quốc gia trước sức ảnh hưởng của các cường quốc lân cận,
đặc biệt là Pháp và Trung Quốc.
- Trước sự xâm lược của Pháp ở Đông Dương, Nhà Nguyễn đã thực hiệnnhiều biện pháp để giữ
vững độc lập và chủ quyền của Đại Nam. Tuy nhiên, sự quân bố của Pháp và áp đặt của họ đã
đặt ra những thách thức lớn.
- Áp lực từ sự mở rộng của Pháp ở Đông Dương đã đẩy nhà Nguyễn phải ký kết Hiệp ước
Patenôtre năm 1884. Hiệp ước này hình thành cơ sở cho mối quan hệ chi phối của Pháp đối với
Đại Nam, bảo đảm sự bảo hộ nhưng đồng thời cũng có nghĩa là mất chủ quyền. lOMoAR cPSD| 22014077
- Ngoài ra, nhà Nguyễn cũng phải đối mặt với áp lực từ Trung Quốc, đặc biệt là trong quản lý
mối quan hệ với các dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc. Mối quan hệ với Trung Quốc đôi khi
bất ổn do tranh chấp về biên giới và quyền lực.
- Đại Nam cũng phải quản lý mối quan hệ với các quốc gia lân cận khác như Siam, để bảo vệ lợi
ích quốc gia và tránh xung đột đa phương. Mối quan hệ này đôi khi tạo ra thách thức và cảm giác bất ổn.
- Đối với đối ngoại, Nhà Nguyễn cũng thực hiện nỗ lực cải thiện quân đội và hành chính để đối
phó với tình hình phức tạp và áp lực từ các cường quốc.
- Áp lực từ chính sách đối ngoại, đặc biệt là sau Hiệp ước Patenôtre, đã góp phần gây ra xung
độtnội bộ và thúc đẩy các phong trào kháng chiến như phong trào Cần Vương, thể hiện sự phản
đối của dân chúng trước sự chi phối của Pháp.
- Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn đôi khi tạo ra sự xung đột giữa văn hóa truyền thống và
văn hóa Pháp. Sự đấu tranh này có thể thấy rõ trong các lĩnh vực như giáo dục, pháp luật, và lối
sống hàng ngày. Phần lớn, chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX phản ánh
một sự bất đắc dĩ khi đối mặt với áp lực từ các cường quốc lân cận, dẫn đến những quyết định
phải chấp nhận sự kiểm soát từ Pháp, điều này có những hệ quả lâu dài cho sự phát triển và tự chủ của Đại Nam. Tích cực:
Mặc dù chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX chủ yếu là một phản ứng đối
với áp lực từ các cường quốc lân cận, đặc biệt là Pháp và Trung Quốc, nhưng có một số mặt tích
cực và quyết định có thể được nhìn nhận:
- Trước sự mở rộng của Pháp, Nhà Nguyễn đã cố gắng duy trì độc lập và tự chủ bằng cách cải
thiện quân đội và hệ thống hành chính nội địa. Mặc dù cuối cùng họ phải chấp nhận sự chi phối
của Pháp, nhưng nỗ lực của họ đặt ra một tín hiệu rằng họ không dễ dàng chấp nhận sự xâm lược.
- Nhà Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp cải cách nội địa nhằm tăng cường sức mạnh quốc
gia. Cải cách quân đội và hành chính nhằm đối phó với thách thức bảo vệ chủ quyền và duy trì ổn định nội địa.
- Trong quá trình đối mặt với áp lực từ các quốc gia lân cận, Nhà Nguyễn phải quản lý mối quan
hệ với Siam và các nước khác để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự khéo léo trong quản lý các mối
quan hệ này có thể được coi là một mặt tích cực của chính sách đối ngoại.
- Trong mối quan hệ với Trung Quốc và các dân tộc thiểu số ở biên giới phía bắc, Nhà Nguyễn
phải đối mặt với những thách thức lớn. Tuy nhiên, việc duy trì ổn định trong khu vực biên giới
và bảo vệ quyền và lợi ích của dân tộc thiểu số có thể được coi là một mặt tích cực.
- Mặc dù phải đối mặt với sự chi phối của Pháp, nhưng Nhà Nguyễn vẫn giữ vững lòng yêu nước
và tìm cách bảo vệ lợi ích quốc gia. Điều này có thể được xem xét là một yếu tố tích cực trong
bối cảnh khó khăn của thời kỳ đó. lOMoAR cPSD| 22014077
=> Tuy nhiên, những mặt tích cực này thường ít nổi bật hơn so với những thách thức và hệ quả
tiêu cực của chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn trong giai đoạn này. Hệ quả:
Những mặt tiêu cực này đã tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng và kéo dài trong lịch sử Đại Nam,
đặt ra những thách thức lớn cho sự phát triển và ổn định của quốc gia.
Chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX đã tạo ra nhiều hệ quả quan trọng,
ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình Đại Nam và định hình tương lai của quốc gia. Dưới đây là một số hệ quả chính:
- Mất chủ quyền và độc lập: Ký kết Hiệp ước Patenôtre với Pháp năm 1884 đánh dấu sự mất mát
chủ quyền và độc lập của Đại Nam. Nhà Nguyễn phải chấp nhận sự chi phối của Pháp và mô
hình bảo hộ, đặt quốc gia dưới sự kiểm soát của một cường quốc châu Âu.
- Biến đổi xã hội và kinh tế: Chính sách đối ngoại này đã tác động mạnh mẽ đến cấu trúc xã hội
và kinh tế của Đại Nam. Mô hình thuế mới, cải cách hành chính, và áp đặt các biện pháp kiểm
soát từ Pháp đã thay đổi nền kinh tế và xã hội truyền thống của nước này.
- Sự hiện diện của quân đội Pháp: Đại Nam phải chấp nhận sự hiện diện của quân đội Pháp trong
nước, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của quân đội này. Điều này gây ra sự không hài lòng
trong dân chúng và tạo nền cho những cuộc khởi nghĩa và phản kháng sau này.
- Chống lại sự áp đặt văn hóa Pháp: Ngoài các ảnh hưởng chính trựcđến chính trị và kinh tế,
chính sách đối ngoại của Nhà Nguyễn cũng tác động đến lĩnh vực văn hóa. Sự đấu tranh giữa
văn hóa truyền thống và văn hóa Pháp đã tạo nên một sự căng thẳng và đan xen trong xã hội Đại Nam.
- Khủng hoảng xã hội và kháng chiến: Sự mất chủ quyền và những biện pháp áp đặt của Pháp đã
tạo ra sự bất mãn trong xã hội Đại Nam, thúc đẩy các phong trào kháng chiến và cuối cùng là
những cuộc khởi nghĩa nổi lên như cuộc khởi nghĩa của Cần Vương.
- Chính quyền trung ương Đại Nam ngày càng suy yếu, không còn kiểm soát được tình hình các
địa phương. Các quan lại địa phương thường xuyên nổi dậy chống triều đình.
- Kinh tế Đại Nam bị thâm hụt ngân sách nghiêm trọng do phải chi trả chi phí cho việc duy trì
quân đội và nhượng bộ các điều ước cho Pháp, Tây Ban Nha.
- Văn hóa, tôn giáo phương Tây xâm nhập mạnh, ảnh hưởng đến đời sống xã hội truyền thống.
Số người theo Công giáo ngày càng đông.
- Xung đột sắc tộc, tôn giáo ngày càng phức tạp, nhất là ở Trung Kỳ và Nam Kỳ.
- Năm 1885, Pháp hoàn toàn xâm chiếm Đại Nam, triều Nguyễn mất nền độc lập, trở thành một
phần của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. lOMoAR cPSD| 22014077
Nói tóm lại, chính sách đối ngoại yếu kém của nhà Nguyễn đã dẫn đến sự suy yếu nghiêm trọng
về mọi mặt của Đại Nam, mở đường cho sự xâm lược của Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Những hệ
quả này đã tác động sâu rộng và kéo dà isuốt thế kỷ XX, đặt ra những thách thức lớn cho việc
xây dựng và duy trì một Đại Nam độc lập và mạnh mẽ.
Vấn đề 5: Bối cảnh và nội dung của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Ý
nghĩa lịch sử của Hội nghị này.
*Hoàn cảnh ra đời:
- 1929, phong trào công nhân phát triển mạnh, ba tổ chức cộng sản ra đời. Tuy nhiên, các tổ
chứchoạt động riêng lẻ, tranh giành ảnh hưởng với nhau, làm cho phong trào cách mạng trong
nước có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn.
- Trong khi đó thế giới lại diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 khiến đời sống nhân dân
thêm khốn khổ, bọn đến quốc nhân cơ hội đưa chân vào phá hoại phong trào đấu tranh của ta.
- Nguyễn Ái Quốc được tin Hội VNCMTN phân liệt thành hai nhóm, chủ động từ Xiêm về
Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản.
- Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản diễn ra từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 diễn ra tại
Hương Cảng (Trung Quốc ) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với cương vị là phái viên của QTCS.
Tham dự có đại biểu của ĐDCSĐ và ANCSĐ. Đại biểu của ĐDCSLĐ đang hoạt động tại nước ngoài không về kịp.
*Nội dung của Hội nghị:
- Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình trong nước và thế giới.
- Phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng lẻ và nêu ra chương trình Hội nghị.
- Thảo luận và nhất trí thành lập một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trình bày Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo (Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt).
*Nội dung cương lĩnh chính trị - Chính cương sách lược vắn tắt:
Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
"là đội tiên phong của vô sản giai cấp". Đảng chủ trương tiến hành "tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản",
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó là đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc, thành lập chính phủ công nông bính. Chính phủ đó sẽ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
phong kiến để chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hóa các sản nghiệp, mở mang phát triển công
nông nghiệp, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyển bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm 8 giờ... lOMoAR cPSD| 22014077
Để hoàn thành được mục tiêu trên, “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa
vững vào hạng dân cày nghèo". Đồng thời lại "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam mà chưa rõ mặt phân cách mạng thì phải lợi dụng, Ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại
Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyên
giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Về quan hệ quốc tế, Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
=> Nhận xét: Đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo kết hợp được 2 nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- 24/02/1930, theo đề nghị của Đông Dương CS Liên đoàn, tổ chức này được gia nhập Đảng CS
Việt Nam. Việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2/1930 mới hoàn tất. *Ý nghĩa
Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam giai đoạn đó thành một Đảng Cộng
sản duy nhất và đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một
đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự thống nhất
về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tất cả đều hướng tới mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hội nghị được coi mang tầm vóc như một Đại hội thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự
kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ
trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát
triển của dân tộc ta. Từ đây, Cách mạng VN đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn con đường cách
mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở quan trọng
để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn cờ lãnh đạo đối với phong trào
cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng giúp giải quyết được tình trạng khủng
hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà lOMoAR cPSD| 22014077
đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể để phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Đồng
thời là sự chuẩn bị cho những bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó thì cách mạng Việt Nam
cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân trên phạm vi toàn thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
- Đại hội Đảng lần III (9/1960, quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Vấn đề 6: Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Toàn quốc kháng
chiến bùng nổ 19-12-1946. HOÀN CẢNH
Sau CMT8, VN đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đây là thờikỳ vận mệnh dân tộc đặt ở thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình phức tạp, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, thù
trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt.
- Nền kinh tế VN kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả của chính sách cai trị của TD Pháp và phát xít
Nhật. Mọi ngành kinh tế ngừng trệ, bế tắc. Tài chính quốc gia trống rỗng. Nạn đói 1945 làm gần
2tr người chết chưa khắc phục xong thì nguy cơ nạn đói mới lại đe dọa nhân dân. Chế độ TD để
lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, nổi bật là hơn 90% dân số mù chữ.
- Sau ngày giành chính quyền, nhân dân VN phải cùng một lúc đối phó với nhiều lực lượng
chông phá CM. Để tranh thủ thời gian, chuẩn bị lực lượng cho chiến đấu lâu dài với kẻ thù
nguy hiểm nhất của dân tộc là TD Pháp, Chính phủ và Chủ tịch HCM đã thực hiện chính sách
nhân nhượng hòa hoãn, tránh những xung đột bất lợi.
- Ở phía bắc vĩ tuyến 16, quân Tưởng vữa nhiễu sách về kinh tế, vừa tiến hành hđ khiêu khích,
chống phá chính quyền CM. Ta buộc phải cung cấp lương thực và cho chúng lưu hành tiền
“quan kim”, “quốc tệ” mất giá
- Năm 1946, TD Pháp và Tưởng Giới Thạch mưu tính kế hoạch đưa quân Pháp ra bắc thay thế
quân Tưởng. T2/1946, Pháp-Tưởng ký với nhau Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp đưa quân ra bắc thay quân Tưởng
- Đảng và Chính Phủ dưới sự lãnh đạo của CT HCM đề ra chủ trương đàm phán với Pháp, nhằm
mục đích để quân Pháp ra Bắc thay thế quân Tưởng và tranh thu thủ thời gian hòa hoãn bảo
toàn và chuẩn bị lực lượng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn
- 6/3/1946, với sự có mặt của đại diện một số nước, phái đoàn ta do CT HCM dẫn đầu đã ký với
đại diện chính phủ Pháp Giăng Xanhtơni Hiệp ước sơ bộ:
* Nội dung chính của Hiệp ước sơ bộ: lOMoAR cPSD| 22014077
+ Chính phủ Pháp công nhận nước VNDCCH là 1 quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, có tài
chính riêng, nằm trong khối liên hiệp Pháp
+ CP VN chấp nhận Pháp đưa 15000 quân ra bắc. Hoàn thành việc rút quân trong vòng 5 năm
+ Hai bên ngừng xung đột
- Sau khi kí Hiệp định sơ bộ, Pháp trì hoãn việc thi hành những điều khoản đã kí và luôn vi phạm
Hiệp định. Ngày 31/5 Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp theo lời mời của Chính phủ
Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ ta cũng sang Pháp để đàm phán chính thức. Do Pháp
không từ bỏ được tham vọng của mình ở Đông Dương nên các cuộc đàm phán đều bế tắc.
- Để tỏ rõ thiện chí muốn hòa bình của Nhân dân Việt Nam và tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9/1946
* Bản tạm ước quy định một số điều về quan hệ kinh tế, văn hóa giữa Pháp với VN
I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 1. Thuận lợi Quốc tế
- Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô đã trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội
- Nhiều nước ở Đông Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội (được Liên
Xô ủng hộ và giúp đỡ)
- Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ La-tinh)
=> Tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khuyến khích các nước thuộc địa
đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới xây dựng một nhà nước. Trong nước
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân phận nô lệ bị áp bức, trở
thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
- Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước
- Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở
- Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng
=> Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò của Đảng đối với
cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. 2. Khó khăn lOMoAR cPSD| 22014077 Thế giới -
Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”
(bằng chứng: ra sức tấn công và đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam) -
Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý của Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (do lợi ích cục bộ) -
Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài
=> Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chúng và Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách. Trong nước
- Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu thống nhất và yếu kém về nhiều mặt
Tại sao nói sau 1945 nước ta phải đối mặt với hoàn cảnh “Ngàn cân treo sợi tóc”?
+ Vì cùng một lúc nước ta phải đối mặt với cả 3 loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.
+ Nạn đói năm 1945 đã khiến cho 2 triệu người dân chết đói.
+ Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp đến năm 1945, hơn 90% dân số nước ta mù chữ.
+ Bên cạnh đó nước ta còn phải đối mặt với giặc ngoại xâm: Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20
vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng nuôi
dưỡng mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập
chính quyền tay sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân
đội Nhật, nhưng thực chất là “dọn đường”, giúp đỡ thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Loại giặc nguy hiểm nhất lúc này là giặc dốt -
Nền nông nghiệp của nước ta lạc hậu, đê điều không được chăm lo, 50% ruộng đất bị bỏ
hoang (trong khi VN thời điểm đó là một nước sống nhờ nông nghiệp) -
Bên cạnh đó nước ta còn phải đối mặt với những khó khăn về tài chính: ngân khố kiệt
quệ, kho bạc trống rỗng. -
Những tệ nạn của chế độ cũ để lại (mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút,...) còn phổ biến.
=> Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định và hướng giải quyết phù hợp nhất. 3. Giải quyết
Ngày 3-9-1945: Phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì xác
định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chống giặc
đói, đẩy lùi nạn đói Bác đã đề ra 2 giải pháp: lOMoAR cPSD| 22014077
Một là: Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
- Ngay từ giữa tháng chín, Chính phủ đã tổ chức một lễ phát động phong trào cứu đói.
- Hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói diễn ra rộng khắp
trên cả nước với các hoạt động ý nghĩa như: “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”.
“Đoàn quân tiễu trừ giặc đói”. Từ đó hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước đóng góp,
chia sẻ với đồng bào đang chịu thảm họa của nạn đói, góp phần cứu giúp kịp thời.
- Chính phủ cũng ban hành các chính sách, biện pháp như cấm dùng gạo nấu rượu, xóa bỏ mọi
hạn chế trong việc lưu thông gạo giữa các vùng miền, cấm dân tích trữ gạo, thành lập tổ chức
“ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế” của chính phủ... Nhờ vậy, việc chuyên chở gạo từ các tỉnh ở
Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ được tiến hành nhanh chóng để kịp đưa gạo đến các địa phương cứu đói.
Hai là giải quyết vấn đề từ gốc: Tăng gia sản xuất
- Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở cho toàn bộ
chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN.
- Để phục vụ tăng gia sản xuất, Nhà nước quyết định cho đấu thầu việc đắp đê. Cho đến đầu
năm1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành
=> Đó là một bằng chứng về trách nhiệm, năng lực và sức sống của chính quyền mới.
- Đồng thời với việc đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc
vàng”. Chính quyền tất cả các địa phương quyết định cho phép sử dụng những đất công cộng
còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt.
+ Mặt trận quyết định nhất của tăng gia sản xuất cuối năm 1945 đầu 1946 là trồng màu. Lúa
không còn kịp thời vụ nữa, phải dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp hai vụ màu bù
cho phần thiếu hụt về lúa. Đây là giải pháp sáng suốt. Phải trồng màu ngay từ tháng 11-1945 để
tháng giêng đã có thu hoạch khoai lang. Tháng hai đã có thu hoạch ngô, đậu
+ Ngay sau đó, trồng tiếp một vụ nữa có thể cho thu hoạch bổ sung vào tháng ba và tháng tư để
chịu đựng được suốt thời kỳ giáp hạt cho đến vụ thu hoạch lúa chiêm vào tháng năm
+ Chính quyền còn vận động cả tư nhân cho sử dụng tạm các vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất.
+ Ở Hà Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè, bất cứ nơi nào đất trống. Viên chức cuốc
vườn trong công sở để trồng ngô, khoai... Thanh niên thủ đô chia thành những đội tăng gia đi
trồng sắn ở bờ đê, bãi sông, lề đường.
=>Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ
tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, quy ra thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể
bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc
gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui lOMoAR cPSD| 22014077
Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ -
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục. Với
phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt giặc dốt được phát động
rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia. -
Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy cho các
em. Họcban ngày, học buổi trưa, buổi tối, khắp thôn xóm ở đâu cũng tập đọc, tập viết. Ban ngày
lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập. -
Công nhân học trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân học ngay
trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc đa, bến nước, trẻ nhỏ học trên
lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm thắp đèn dầu, đốt đuốc đến lớp.
• Giải quyết khó khăn về tài chính : Chính phủ đã xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ,
đồng thời động viên toàn thể nhân dân bằng tinh thần tự nguyện và theo khả năng của
mình, đóng góp tài chính bằng nhiều hình thức như: “quỹ độc lập”, “đảm phụ quốc phòng”,
“quỹ kháng chiến”, “tuần lễ vàng”. Các tầng lớp nhân dân đã hăng hái đóng góp hàng chục
triệu đồng và hàng trăm cân vàng cho Nhà nước trong năm 1946
• Chống giặc ngoại xâm -
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng đề ra, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thực hiện sách lược hòa hoãn linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết đối với cả thực dân Pháp
và Tưởng Giới Thạch. Từ ngày 23/9/1945 đến tháng 2/1946, ở miền Bắc, ta chấp nhận nhượng
bộ cho quân đội Tưởng Giới Thạch và các phần tử tay sai của chúng một số quyền lợi chính trị,
kinh tế như: Đặc cách cho một số ghế bộ trưởng trong chính phủ và 70 ghế trong Quốc hội
không qua bầu cử; nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm; nhận tiêu tiền “quan kim”,
“quốc tệ” của quân Tưởng... Mục đích để tránh tình trạng phải đối phó cùng một lúc với hai kẻ
thù và có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. -
Mặt khác, Trung ương Đảng chỉ đạo quân dân ta ở miền Nam kiên quyết kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Một số đội quân chủ lực “Nam tiến” đã được Đảng và Chính
phủ ta điều động từ miền Bắc vào sát cánh cùng đồng bào miền Nam đánh giặc cứu nước. Đến
tháng 2/1946, thực dân Pháp đã ký hiệp ước thỏa hiệp thay thế quân Tưởng Giới Thạch ra miền
Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy
mô cả nước. Trước bối cảnh lịch sử mới, từ tháng 3/1946 đến tháng 11/1946, Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) nhượng bộ
cho quân Pháp một số quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm nhanh chóng đuổi 20 vạn quân
Tưởng về nước, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn.
=> Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong những thành
công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là chủ động,
khôn khéo, mềm dẻo để ứng phó hiệu quả với thù trong, giặc ngoài; lúc thì hòa hoãn nhân
nhượng với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hòa hoãn với
Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và là một lOMoAR cPSD| 22014077
mẫu mực của sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có
nguyên tắc trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta.
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946: (Trung Hoa dân quốc bán đứng VN cho Pháp) 1. Hoàn cảnh lịch sử: -
Tháng 2/1946, Pháp ký với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc Hiệp ước Hoa – Pháp, muốn
đưa quân ra Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. -
Đất nước đứng trước hai sự lựa chọn: cầm súng chống Pháp hoặc hòa hoãn, nhân nhượng
với Pháp. (ngày 5 Pháp đưa quân ra Hải Phòng) 2. Nội dung:
Ngày 6/3/1946, Hiệp định Sơ bộ được ký kết với nội dung: -
Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Công hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng,
quân đội riêng, tài chính riêng và là thành viên của liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. -
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra Bắc làm
nhiệm vụgiải giáp quân Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm. -
Hai bên dừng mọi cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội của mình ở vị trí cũ, tạo không
khí thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương,
quyền lợi kinh tế và văn hóa của Người Pháp ở Việt Nam. 3. Ý nghĩa:
- Nước ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc.
- Đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta.
- Có thêm thời gian hòa bình để củng cố chính quyền mới chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống Pháp.
=> Sách lược ngoại giao mềm dẻo, khéo léo
Tạm ước 14/9/1946 (không phải mang tính quốc tế)
- Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ký với đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước về quan hệViệt Nam - Pháp. Bản tạm ước
có 11 điều khoản, thể hiện sự thỏa thuận tạm thời giữa ta và Pháp về một số vấn đề bức thiết
có tính chất bộ phận, có lợi cho cả hai bên. Hai bên cam kết đình chỉ mọi xung đột để làm
giảm tình hình căng thẳng, tạo thuận lợi để mở lại cuộc đàm phán vào đầu năm 1947. Việt
Nam tiếp tục nhân nhượng, đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa ở Việt
Nam. Phía Pháp nhận thi hành một số nội dung như: thả chính trị phạm và tù binh; nhân dân
Nam Bộ được quyền tự do hội họp, tự do báo chí, tự do đi lại.
- Có thể thấy rằng, để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, chúng ta đã chủ
động đàm phán với Pháp, rồi ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), sau đó ký Tạm ước lOMoAR cPSD| 22014077
(14/9/1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô
và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí hòa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc
chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời, Người
liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp đại diện
Chính phủ Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu.
Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta. Do
vậy, việc ký Tạm ước có thể xem là bước nhân nhượng cần thiết nhưng là nhân nhượng cuối
cùng của Việt Nam để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, vãn hồi hòa bình.
Mặc dù hai hiệp định quốc tế này đều mang tính chất sơ bộ, tạm thời trong quan hệ hai nước,
làm cơ sở cho việc ký một hiệp định chính thức nhưng nó phản ánh một chủ trương nhất
quán của Việt Nam trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không muốn chiến tranh, tìm mọi cách
bảo vệ nền hòa bình mới giành được nhưng phải là nền hòa bình trong độc lập, tự do thực sự.
=> Cả hai Hiệp định rốt cục không ngăn chặn được chiến tranh nổ ra nhưng trong hoàn cảnh đất
nước gặp muôn vàn khó khăn về kinh tế, xã hội, thù trong, giặc ngoài ra sức chống phá, vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, việc ký Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước là nước cờ ngoại
giao xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay
đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng ra khỏi nước ta
mà không dùng đến biện pháp chiến tranh, tranh thủ thêm thời gian để xây dựng thực lực cho
cuộc kháng chiến toàn quốc.
Vì sao toàn quốc kháng chiến bùng nổ?
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), ta đã thực hiện nghiêm chỉnh. Nhưng
với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, Pháp đã bội ước và tăng cường các hành động khiêu
khích. Buộc nhân dân ta phải đứng lên kháng chiến chống Pháp.
- Pháp khiêu khích và tổ chức tiến công ta ở nhiều nơi như Bắc Bộ, Nam Bộ, Nam Trung Bộ.
- Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam phải giải tán lực lượng, để
cho Pháp cai quản Hà Nội.
⟹ Trước những hành động xâm lược của thực dân pháp, nhân dân ta chỉ có một con đường cầm
vũ khí kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do... Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng họp quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm 19 /12/1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ. - Ngoại xâm:
+ Sách lược của ta đối với Pháp và Tưởng (THDQ) trước và sau ngày 6/3/1946 là gì:
● Trước 6/3/1946: Ta đánh Pháp (Nam bộ kháng chiến), hòa với Tưởng (Nhường một số quyền
lợi về lương thực - kinh tế)
● Sau 6/3/1946: Ta hòa với Pháp (kí Hiệp định sơ bộ) đuổi được Tưởng.
- Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946):