Đề cương ôn tập - Lý luận văn học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Là một (keyword) tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, (tên tác giả) đã cho rađời nhiều tác phẩm mang đậm giá trị nhân văn, nghệ thuật. Đặc biệt trong số đó,tác phẩm (tên tác phẩm) được viết vào (HCST/ NGXX) đã để lại trong lòngngười đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NLVH
I. Mở bài - Khái quát - Kết bài:
1. Mở bài:
một tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, đã cho ra(keyword) (tên tác giả)
đời nhiều tác phẩm mang đậm giá trị nhân văn, nghệ thuật. Đặc biệt trong số đó,
tác phẩm được viết vào đã để lại trong lòng(tên tác phẩm) (HCST/ NGXX)
người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Tác phẩm nói về . (ND chính) Ta có thể thấy
rõ điều đó qua (đoạn trích/ nhân vật/ chi tiết).
“Trích thơ”
2. Khái quát:
a) Tác phẩm:
- Thể loại
- Nguồn gốc / HCST
- Tác phẩm lớn (nếu đề bài là đoạn trích): ND + NT
- Đoạn trích:
+ Nằm ở đâu
+ Giới hạn
+ ND
b) Nhân vật:
- Hoàn cảnh xuất thân
- Tính cách nhân vật, đặc điểm nổi trội
3. Kết bài:
- Qua (1), (2) đã cho ta thấy (3)
- Những câu thơ/ áng văn viết về (4) sẽ luôn lay động, thổn thức trái tim người
đọc. Và sự lay động, thổn thức đó cũng như (5) sẽ sống mãi với thời gian.
(1) Nghệ thuật tiêu biểu
(2) Tên tác giả
(3) ND chính
(4) Đối tượng
(5) Tên tác giả/tác phẩm
VỘI VÀNG
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. 13 câu thơ đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
a) 4 câu thơ đầu:
- Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ năm chữ, kiểu câu khẳng định, lối điệp từ
ngữ, điệp cấu trúc để khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt: muốn ngự trị
thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hóa, muốn ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn
tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời, gói gọn cảm xúc ý tưởng chủ đạo của
cả bài thơ.
“Tôi muốn…
….
… bay đi.”
- quyền uy của tạo hóa. Cho Xuân Diệu thi “Tắt nắng”, “buộc gió”
thì ông vẫn là con người làm sao có được khả năng vô hình đó.
- Chỉ quá yêu cuộc sống nên mới ước ao nảy sinh ý tưởng táo bạo. Muốn
níu giữ sắc hương, níu giữ mùa xuân cũng nghĩa muốn níu giữ thời gian
cùng với vẻ đẹp cuộc sống cho mình, cho mọi người. => Cách biểu đạt mới lạ,
độc đáo.
- Bốn dòng thơ, mỗi dòng năm chữ, ngắn, gấp. Nhịp thơ góp phần diễn tả sự
khẩn trương muốn ngăn không cho màu nhạt, hương bay. Điệp câu “Tôi muốn...
cho...” càng làm nổi bật khát khao lưu giữ được sắc hương cuộc đời để mãi
được cùng sống với nó.
b) 7 câu thơ tiếp theo:
- Bức tranh tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình
xuân.
- Bức tranh thiên nhiên đủ: ong, bướm, hoa lá, yến anh cả ánh bình minh
rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống cũng đầy nhất.
- Hình ảnh thơ tập trung làm nổi bật vẻ tinh khôi, thanh tân, nõn nà, rực rỡ của
mùa xuân: “Ong bướm - tuần tháng mật”; “Hoa - đồng nội xanh rì”; “lá - cành
tơ”; “yến anh - khúc tình si”,... tất cả hiện hữu đôi, lứa, tình như mời,
như gọi, như xoắn xuýt.
- Muôn sắc hoa tươi thắm trên nền đầy sức sống của đồng nội; cành “xanh rì”
tơ, lộc non mơn mởn, mượt mà,.. tất cả thêu dệt nên một khung cảnh mềm mại
như tơ như lụa, uyển chuyển, đằm thắm nhưng đồng thời rực rỡ với những gam
màu, những tầng ánh sáng.
- Điệp ngữ “Này đây...” cùng với hàng loạt những hình ảnh, sắc màu, âm thanh,
Xuân Diệu đã liệt vẻ đẹp muôn màu của xuân, bày sẵn quanh ta, chẳng cần
phải tìm kiếm. Chỉ cần có tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống thì tha hồ nhìn ngắm,
thưởng thức.
- Cảnh sắc vốn quen thuộc nhưng bằng lối cảm nhận riêng, mới lạ, Xuân Diệu
đã thổi vào thiên nhiên một tình yêu rạo rực khiến những hình ảnh tri bỗng
sống dậy tràn ngập xuân tình. => Cảnh xuân không chỉ đẹp mà còn gợi tình.
- thể nói, thi lãng mạn đã đón chào chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên
nhiên bằng “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm
say ngây ngất:
“Và này đây …
… hàng gõ cửa.”
- Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp của nàng công chúa có tên
Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc, chớp chớp hàng mi rồi bừng nở muôn vàn
ánh hào quang. => Ánh sáng ấy đã tưới lên vạn vật thiên nhiên tràn đầy sức
sống.
- Câu thơ mang dấu ấn thơ Xuân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Diệu rất rõ.
- Trước hếtcách dùng từ chuyển đổi cảm giác rất quen thuộc của Xuân Diệu.
Thi không thưởng thức mùa xuân bằng giác quan thông thường (nhìn, ngắm,
lắng nghe) mà ông đang say sưa nhấm nháp hương vị của nó, cảm nhận được độ
“ngon” mà mùa xuân đang dâng hiến.
- Mặt khác ta còn thấy ở câu thơ một cách hưởng thụ thiên nhiên rất Xuân Diệu
Mùa xuân hấp dẫn, quyến như giai nhân. Thi thưởng thức mùa“cặp môi”
xuân như đang thưởng thức hương vị ái tình. => Một cách von so sánh
mới mẻ, táo bạo góp phần làm nổi bật niềm say cái đẹp trần thế đáng quý
ở tác giả.
- Khác với quan niệm thiên nhiên là chuẩn mực của vẻ đẹp trong thơ ca cổ điển,
Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: Con người mới chuẩn mực của cái
đẹp trong vũ trụ này.
c) 2 câu tiếp theo:
- Hai câu thơ tiếp (cuối) là tâm trạng của nhà thơ trữ tình:
“Tôi sung sướng…
…hoài xuân.”
- Trong một câu thơ thi hai tâm trạng: “sung sướng” - “vội vàng”, dấu
chấm ở giữa câu đã phân tách rõ hai dòng cảm xúc ấy.
- Nhà thơ “sung sướng” hạnh phúc , lạc quan, yêu đời đón nhận những
đẹp nhất của thời khắc mùa xuân; còn “vội vàng” bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ sẽ qua
đi, tuổi già mau tới, mọi thứ cũng như mùa xuân này không thể vĩnh hằng.
- Nhà thơ bỗng , tiếc xuân khi xuân mới bắt đầu. Xuân Diệu “hoài xuân”
cảm nhận rất những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời,cùng
với thời gian, những đẹp nhất của thời gian, của mùa xuân, của tuổi trẻ, của
tình yêu rồi sẽ ra đi không trở lại.
=> Đoạn thơ này là tiêu điểm góp phần lí giải các trạng thái cảm xúc của tác
giả bốn câu đầu những câu thơ tiếp theo. Với Xuân Diệu không chỉ gợi
hình thể còn gợi cả hương thơm vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây
ngất.
3. 17 câu thơ tiếp theo: Nỗi băn khoăn trước gian và cuộc đời:
a) Quan niệm “thời gian tuyến tính” của Xuân Diệu xuất phát từ cái nhìn
động:
“Xuân đương tới…
…. sẽ già.”
- Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, đi rồi trở lại như bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông, vì vậy họ thường ung dung, đủng đỉnh. Nhưng đối với Xuân Diệu, đối
với “Vội vàng”, thì thời gian tuyến tính.
- Thời gian được cảm nhận theo thước đo giá trị sống của con người. Mỗi
khoảnh khắc trôi qua mang theo một sự mất mát.
- Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới - qua”, “non - già” cho ta thấy
được cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian.
b) Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình để làm thước đo thời gian:
“Mà xuân hết…
… cả đất trời.”
- Những từ cứ trở đi, trở lại, hàng loạt những mâu “xuân”, “tôi”, “tuổi trẻ”
thuẫn: “đương tới” “đương qua”, “còn non” “sẽ già”; “lòng tôi rộng”
“lượng trời cứ chật; “vẫn hoài xuân” “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, tạo
thành nỗi day dứt, nỗi tiếc nuối khôn nguôi. thể xuân vẫn tuần hoàn nhưng
mỗi lần nó là một lần mang theo nhiều cái đẹp đi mất. “đang qua”, “sẽ già”
- Nếu xuân là độ viên mãn nhất của thiên nhiên thì tuổi trẻ là độ căng tràn nhựa
sống của một cuộc đời. Xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ - mùa xuân của cuộc đời,
chẳng hai lần. Thời gian, sẽ mang theo tuổi xuân của con người đi qua
vậy mà thi sĩ càng buồn hơn khi:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
=> Tiếng thở dài bất lực của thi nhân.
c) Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát:
“Mùi tháng năm …
… tiễn biệt”
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi
khoảnh khắc trôi qua một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến
“khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan
sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào
tránh khỏi.
- Hai câu thơ thể hiện rất cách cảm nhận tinh tế về thời gian của Xuân Diệu.
Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi
tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Khoảnh khắc nào cũng một chia lìa,
một mất mát.
- Đây lời thở than của vạn vật,không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu
xa hơn mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính
nó.
“Con gió…
… sắp sửa.”
- Gió đùa trong không phải những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của
mùa xuân, lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay
với cây bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng
ngừng bặt, vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua.
- Các tiếng “chẳng còn”, “rớm vị chia phôi”, “than thầm”, “tiễn biệt”, “phải
bay đi, bỗng đứt tiếng”, “độ phai tàn”.. như cứa vào tim vốn rất nhạy cảm với
đời, yêu đời không thể không suy nghĩ cái hữu hạn của đời người. => Xuân
Diệu ý thức rất rõ một điều: tuổi trẻ đi qua không trở lại.
- Thế chẳng riêng Xuân Diệu cả vạn vật trong thiên nhiên cũng nhận
thức về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian.
Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả
mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
d) Kết thúc đoạn thơ là một lời thảng thốt:
“Chẳng bao giờ…
… chiều hôm.”
- Thi bỗng thốt lên lời than thở, tiếc nuối, lo lắng chợt tỉnh “mùa chưa
ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già.
- Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách
ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống
tiếc rẻ, bảng khuâng.
- Thế đấy, không thể “buộc gió, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ
được thời gian, thì chỉ cách thực tế nhất chạy đua với thời gian, phải
tranh thủ sống.
=> Lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ
mới.
- Xuân Diệu thế, khát khao đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng
luôn cảm thấyvơ và hoảng sợ, tuyết vọng. Nhưng ông không làm cho người
ta tuyệt vọng mà bằng một con đường riêng: Xuân Diệu đã đốt lên tình yêu cuộc
sống cho con người
- Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị
sống của mỗi cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời đềucùng quý giá bởi vì khi
đã trôi qua mất vĩnh viễn. => Con người phải biết quý từng giây phút của
cuộc đời, phải sống có ý nghĩa.
=> Đây do nhà thơ sống vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh
của thời gian.
4. Đoạn còn lại: Lời giục giã sống vội vàng:
- Ý chủ đạo của bài thơ: Để sống thật ý nghĩa phải tận hương sự sống do mùa
xuân, tuổi trẻ và tình yêu đem lại.
- Câu thơ bản lề để cho cao trào, tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: “Mau đi
thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”.
- Cụm từ “mau đi thôi” như một lời thúc giục khi tác giả nhận ra rằng vẫn còn
kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi xuân đến phút cuối cùng. Vì thế mà
Xuân Diệu bừng tỉnh và giọng điệu thơ trở lại sự nồng nhiệt thiết tha.
a) Mở đầu đoạn thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa
khổ thơ:
“ Ta muốn ôm
… mơn mởn;”
- Câu thơ làm nổi bật hình ảnh một cái tôi khát khao dang rộng cánh tay ôm hết,
ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mỏn, non đang bày ra trước mắt. Điệp
ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo.
- Nếu khổ thơ thứ nhất tác giả sử dụng ngôi số một “Tôi”, thì sang khổ thơ
thứ 3 tác giả lại sử dụng đại từ nhân xưng “Ta”. Cách sử dụng chuyên ngôi
mang một ý nghĩa sâu sắc đó chính là sự đồng điệu giữa các tâm hồn.
- Ta tất cả mọi người, hãy nhanh lên thôi, mỗi ngày trôi qua rất nhanh cần
phải gấp gáp, vội vàng để có thể tận hưởng những phút giây hạnh phúc của cuộc
đời. => Nhà thơ từ bỏ cái nhỏ bé chật hẹp chuyển sang cái rộng lớn phù hợp
với việc tận hưởng cuộc sống.
- Lúc này đây, ta – muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Mùa xuân là thế,
đó mùa của sự hồi sinh đâm chồi nảy lộc theo đúng nghĩa đen nghĩa
bóng. Cây cỏ, hoa lá vào mùa xuân đua nhau khoe sắc, tỏa hương, mọi sự trong
mắt tác giả đều mơn mởn sự sống, tràn đầy tươi mới.
- Chính điều này khiến cho tác giả muốn ôm lấy tất cả, cho sự sống ấy
cùng lớn lao nhưng ông vẫn muốn giữ cho riêng mình. Hay nói đúng hơn, ông
đang muốn sống tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của sự sống, của hạnh phúc
của sự mơn mởn.
b) Sang tiếp 4 câu thơ sau, nhịp điệu thơ càng gấp gáp, dồn dập hơn, thể hiện
ước muốn mãnh liệt của tác giả:
“Ta muốn …
… cỏ rạng.”
- Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên sự
sống. nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên sự sống
Xuân Diệu khát khao phải thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt
đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ.
- Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của
mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống.
- Điệp ngữ “Ta muốn” kết hợp với hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng
tiến biểu thị sự khát khao chiếm đoạt sự“ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”
sống một cách vồ vập, tham lam, tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt.
- Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của để tận hưởng.
Hàng loạt hình ảnh sự sống mơn mởn, mây đưa, gió lượn, cánh bướm tươi mới,
đây sức sống tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng
không phải để tả xuân mà chủ yếu để diễn tả sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng
của tác giả. .
- Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng
thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn. Các cụm từ “chếnh choáng”, “no
nê”, “đã đầy” cũng được sắp xếp theo hình thức tăng tiến, bộc lộ sự thèm khát
tận hưởng cuộc sống mãnh liệt của một người trẻ tuổi.
- Trong niềm cảm hứng độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân
như một cái quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm
ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao
độ.
- Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần
khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương
mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn.
- Cuối cùng nhà thơ thốt lên một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện
niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Dưới ngòi bút
của Xuân Diệu, mùa xuân hiện lên rõ rệtsống động như có hình dáng,
hồn có sắc “Xuân hồng”.
- Mùa xuân như môi, như của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa
sống đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín
ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
- Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi hình như không nén
nỗi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu: “Ta muốn cắn vào
ngươi!”.
- lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây những vấn
thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say,
ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
- Bằng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đắt giá, như điện tử, điệp cấu
trúc, liệt kê, các biện pháp tương giao đầy nghệ thuật. Khiến cho ta như cảm
nhận hơn một tưởng lớn, một trái tim không khi nào vơi cạn với tình yêu
với cuộc đời.
=> Đoạn thơ thể hiện chân thật tiếng lòng khao khát mãnh liệt của chủ thể
trữ ... khát sống để tận hưởng một thiên đường trên mặt đất.
=> Có ý nghĩa nhân văn mới mẻ.
5. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Xuân Diệu đặt tên bài thơ là “Vội vàng”, bởi lẽ: Xuân Diệu yêu tha thiết cuộc
sống, cuộc sống quanh ta rất đẹp nhưng tuổi trẻ qua nhanh, đời người ngắn ngủi,
thời gian không chờ đợi. Phải khẩn trương, hối hả đến với cuộc sống để tận
hưởng vẻ đẹp của đời.
- Quan điểm nhân sinh của Xuân Diệu được thể hiện qua bài thơ mặt tích
cực: Yêu mùa xuân và tuổi trẻ - những cái đẹp nhất của cuộc sống, hãy sống hết
mình sao cho mỗi khoảnh khắc của đời đều có ý nghĩa.
=> Đó là quan niệm sống tích cực, có giá trị nhân văn sâu sắc.
b) Nghệ thuật:
- Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận.
- Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.
- Sử dụng ngôn từ; nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, cuồng nhiệt.
- Những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả
rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.
TRÀNG GIANG
II. Thân bài:
1. Khái quát:
(*) Ý nghĩa nhan đề “Tràng giang”
- Từ Hán Việt mang âm hưởng cổ kính.
- Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài
thơ. Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận.
- Hai âm đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông“ang”
không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
- Hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về
dòng Trường Giang trong Đường thi – một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng,
dòng sông của tâm tưởng. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để
mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư,
buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
2. Ý nghĩa câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:
- Đề từ không chỉ là cách làm đẹp cho bài thơ về mặt hình thức mà chủ yếu nó là
điểm tựa cho cảm hứng, ý tưởng của tác giả trong tác phẩm
- Từ trong câu đề từ trạng thái nội tâm chủ yếu của“bâng khuâng”, “nhớ”
chủ thể trữ tình.
- Theo kết trật tự câu chữ thì lời đề từ có các tầng nghĩa:
Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài.
Nỗi bâng khuâng nhớ nhung của con người trước cái mênh mông của đất
trời.
=> Nỗi lòng nhà thơ không chỉ nặng trĩu nhớ nhung còn cảm thông với
nỗi buồn sông núi.
3. Khổ 1: Hình ảnh dòng sông và nỗi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi buồn
về kiếp người nhỏ bé, vô định.
- Hình ảnh quan sát được trên dòng sông rất chân thực nhưng đầy sức gợi.
- Sóng gợn tràng giang thật nhẹ nhàng, lan tỏa đến vô cùng - gợi nỗi buồn mênh
mang.
- Con thuyền buông xuôi mái chèo một cách thụ động, mặc cho dòng nước đẩy
đưa gợi sự lênh đênh. So với sông nước tràng giang cũng hết sức lẻ loi,
nhỏ.
- Thuyền và nước thường sóng đôi với nhau, ấy vậy mà qua ý thơ của Huy Cận,
thuyền nước lại chia lìa hai ngả. Hình ảnh “nước song song”, “thuyền về
nước lại” không hứa hẹn về sự hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
- Đặc biệt gợi cảm câu thơ hoàn toàn tả“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
thực, không sa vào ước lệ sáo mòn. Một cành khô nhỏ bé, mỏng manh, lạc loài
giữa mênh mông sóng nước biết trôi dạt về đâu.
- Cành củi đó đã khô mục, chỉ còn vỏ bọc bên ngoài ngoài còn ân phía trong đã
rỗng tuếch từ lúc nào. Hình ảnh này làm người đọc liên tưởng đến thân phận con
người, khi họ chỉ còn cái xác bên ngoài, còn trong lòng đã dần khô cạn.
- Người trong cảnh không thể không chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình: một
cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ trôi dạt giữa dòng đời.
- Phép đối “buồn điệp điệp” - “nước song song”; “sầu trăm ngả” -Nghệ thuật:
“lạc mấy dòng”; từ láy âm “điệp điệp”, “song song”; tương phản giữa thể
và vũ trụ “một cành”/ “mấy dòng”.
=> Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa các
thể với nhau, đặc biệt nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, định giữa cuộc
đời.
4. Khổ 2: Cảnh hai bên bờ sông và cảm giác cô đơn, rợn ngợp trước vũ trụ
rộng lớn, vĩnh hằng.
a) Hai câu đầu:
- Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh
không gian đó, con người lại càng đơn, càng khát khao được nghe những
tiếng vọng thân thiết của cuộc đời.
- Nghệ thuật dùng từ láy vừa giá trị tạo hình vừa có khả “lơ thơ”, “đìu hiu”
năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn...;
- Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người “đâu tiếng... chợ chiều”
nhưng đồng thời phủ định ngay trong cách dùng từ . Chợ một làng xa,“đâu”
lại chợ chiều, chợ đã mãn thì làm sao còn tiếng. Tất cả đều vắng lặng
tịch.
- Những từ: góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều“chiều”, “xa”, “vãn”
tác giả khát khao tìm kiếm.
- , chỉ một câu thơ mang nhiều sắc thái,“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
vừa gợi , âm thanh xa xôi, không rệt, thể câu hỏi “đầu” như“đâu đó”
một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm
thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn
toàn, chung quanh đây chẳng hề chút sống động để xua bớt cái tịch liêu
của thiên nhiên.
- Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng,
dài. Trong trụ cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, liêu lòng
người cũng như rợn ngợp, bởi sự nhỏ, lạc loài của thể trước cái mênh
mông của đất trời.
- Hàng loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: “xuống”, “lên”, “sâu chót vót”,
“dài”, “rộng” cùng với cách kết hợp từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được
độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu thăm thẳm của vũ trụ.
- Cách ngắt nhịp thơ hiệu quả diễn ý: “sông dài, trời rộng, bến liêu”,
đậm thêm tính chất phân li của các sự vật.
=> Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong
Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán
chường, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
5. Khổ 3: Toàn cảnh dòng sông nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát giao
cảm với cuộc đời.
- Cái hiện hữu trước mắt vẫnnhững hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định “bèo
dạt về đâu” “bờ xanh tiếp bãi vàng”và tĩnh vắng, cô liêu .
- Từ ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn “hàng nối hàng”, “bờ...
tiếp... bãi…” “lặng lẽ” cùng đảo ngữ tiếp tục khắc sâu, đậm mạch cảm xúc
đã thể hiện ở hai khổ đầu.
- Hình ảnh thi khát khao tìm kiếm , “chuyến đò ngang” “cây cầu”
nhưng sự phủ định đã nằm ngay trong điệp từ “không”.
- Cảm thức về sự đơn lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ
mong được đón nhận tiếng nói của con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu,
gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn .
=> Nhà thơ không chỉ buồn khi đối diện với trụ bao la, còn buồn về
cuộc đời, về nhân thế.
6. Khổ 4: Cảnh sông nước hùng vĩ và nỗi nhớ quê tha thiết.
- Khổ thơ này mang màu sắc Đường thi khá từ hình ảnh ước lệ: nh chim
hướng về núi chỉ cảnh chiều tố, đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường.
- Hình ảnh lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
bài Thu hứng “Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm/ Mặt đất mây đùn cửa đi xa”
đều nhằm chỉ sự hùng của thiên nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu
tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng
- Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc chứa đựng trong
lớp ngôn từ đó lại mang tính hiện đại: cái tôi bơ vơ, cô đơn, rợn ngợp trước cuộc
đời.
- Hình ảnh gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp. Nỗi “Chim nghiêng cánh nhỏ”
nhớ nhà trong lòng. Đó nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm“dợn dợn”
hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải nỗi nhớ nhà thông thường
của một người xa quê.
7. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Thiên nhiên trong bài thơ những hình ảnh quen thuộc của cảnh sắc quê
hương đất nước.
- Đi vào thơ Huy Cận, thiên nhiên mang vẻ đẹp hùng vĩ, sáng trong những
nhuốm màu sắc tâm trạng chủ thể trữ tình nên tất cả đều toát lên vẻ đìu hiu,
quạnh quẽ.
- Rất nhiều hình ảnh được lựa chọn: Sóng gợn, thuyền xuôi mái, hành củi khô,
bèo dạt, bờ xanh, bãi vàng, mây núi, cánh chim... đều nghiêng về gợi nỗi buồn.
- Từ đó người đọc thể cảm nhận được nét nỗi lòng yêu nước, yêu quê
hương của tác giả.
b) Nghệ thuật:
- Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại.
- Nghệ thuật đối: bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình; hệ thống từ láy giàu giá trị
biểu cảm.
- Các biện pháp tu từ đặc sắc: nhân hóa, ẩn dụ.
- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở nhiều phương diện:
Mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng. Tách ra, mỗi khổ như
một bài thơ tứ tuyệt.
Cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét
đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật.
Mượn cảnh ngụ tình.
Sự trang nhã, thanh cao toát ra từ hình ảnh, ngôn từ...
- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự vật, tâm trạng vơ, buồn
phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết.
- Bao trùm khổ thơ niềm thích thú, say sưa, lòng yêu mến, tân thưởng vẻ đẹp
của cảnh và người thôn Vĩ.
- lẽ tấm thiệp của người thôn Vĩ là một tín hiệu tình cảm tác động mạnh tới
vùng kỉ niệm đẹp trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.vậy hàng loạt hình ảnh về
thôn Vĩ hiện lên rất thực, tưởng như thiđang đứng trước cảnh sắc thôn
Vĩ mà nhìn ngắm, nâng niu.
- Hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” thôn Vĩ mang một vẻ đẹp lấp lánh,
tinh khiết. Được nhìn nắng mới, trên những lá cau non là khoảnh khắc khó quên.
- Cảnh vườn tược “mướt”, “xanh như ngọc” cũng là nét độc đáo của thôn Vĩ. Vì
lúc cấu trúc vườn - nhà nên những khóm hoa, cây cảnh được chăm sóc
càng, không chỉ xanh còn mỡ màng, óng ả. => Lại thêm một vẻ đẹp thanh
khiết.
- Từ cảm thán “mướt quá” bộc lộ trực tiếp sự trầm trồ của thi sĩ. Chứng tỏ Hàn
Mặc Tử đang say sưa trong dòng hồi tưởng. Vậy mới biết, xa thôn Vĩ nhưng tình
đối với thôn Vĩ vẫn tràn đầy.
- Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” mang nghĩa hướng về một “ai” đó được
xác định trong tâm tưởng của nhà thơ.
- Người thôn chỉ hiện lên chưa đầy nửa câu thơ, không trực diện, nguyên
hình mà chỉ một nét thấp thoáng sau lá trúc. Khuôn mặt chữ điền phúc hậu càng
gây ấn tượng trong sự kín đáo, duyên dáng.
=> Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp nhưng cũng chỉ là hoài niệm.
3. Khổ 2: Cảnh hoàng hôn sông Hương và niềm đau cô lẻ, chia lìa.
- Hình ảnh gió, mây, sông, trăng vẫn những vẻ đẹp của cảnh sắc xứ Huế
nhưng đã nhuốm màu sắc tâm trạng của chủ thể trữ tình.
- Ý thức về sự ngăn cách giữa số phận bất hạnh của mình với người thôn
khiến ý thơ từ vui chuyển sang buồn, từ thực bay tới mộng. Phải từ lô-gic tâm
trạng của nhà thơ ta mới hiểu được ý nghĩa tượng trưng trong khổ thơ này.
- Thường thì gió thổi mây bay, cùng chung một hướng nhưng đây “Gió theo
lối gió, mây đường mây”, chia lìa đôi ngả. Phải chăng Hàn Mặc Tử đang nghĩ
đến mình Quy Nhơn người thôn giờ cũng đôi ngả chia lìa. Trước đây
chưa đồng điệu, giờ lại khó tương phùng.
- Sông Hương thơ mộng giờ cũng “buồn thiu”, “hoa bắp lay” càng tăng sự hắt
hiu Hình ảnh thơ không còn thực mà nghiêng về gợi nỗi buồn man mác, xa cách
chia li.
- Đẹp nhưng khó cảm thụ là hai câu thơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
- Trăng là bạn cố tri của Hàn Mặc Tử, trăng cũng là giai nhân. Nơi Hàn Mặc Tử
điều trị bệnh thế giới cận kề cõi âm, chẳng “niềm trăng ý nhạc”. Thế
giới bên ngoài lại tràn ngập sắc màu, nhất là vẻ đẹp của xứ Huế.
- Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật
thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng
sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bôi lung linh, huyền ảo.
=> Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào
con thuyền trắng, vào cả dòng sông trăng.
- Khát khao thành mộng ảo. => Hình dung sông Hương thành sông trăng. Mong
có phép mầu nhiệm nào đó để “ai” “chở trăng về kịp”..
- Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp
chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số
phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm
về thời gian cuộc đời ngắn ngủi.
=> Hình ảnh đẹp nhưng đầy mộng ảo, khát khao mãnh liệt nhưng đầy khắc
khoải, tuyệt vọng. Tất cả đều từ ý thức của con người đang chạy đua với thời
gian, với căn bệnh hiểm nghèo.
4. Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.
- Nhà thơ thiết tha hướng về người thôn Vĩ nhưng cảm thấy xa vời, khó tiếp cận.
- Điệp ngữ “khách đường xa” có ý nghĩa đặc biệt. Huế và Quy Nhơn không quá
xa về không gian địa lí. Đây là không gian tâm trạng. Đối với Hàn Mặc Tử, Huế
và Quy Nhơn là hai thế giới cách biệt.
- Các từ: “Xa”, “trắng quá”, “sương khói”, “mờ”, “ảnh”... càng tăng cảm giác
khó nắm bắt.
- Nhà thơ chỉ còn biết tưởng, lòng đầy hoài nghi, làm sao biết “tình ai
đậm đà”..
- Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó
chỉ sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương
không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn.
- Cả bài thơ được liên kết bởi từ phiếm chỉ “ai”, mở đầu: “Vườn ai mướt quá
xanh như ngọc”, tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và kết thúc là “Ai
biết tình ai có đâm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền
hơn.
5. Đánh giá:
a) Nội dung:
- “Đây thôn Dạ” khắc sâu vẻ đẹp đượm buồn của xứ Huế với cảnh thôn
bên dòng sông Hương êm đềm, thơ mộng cùng với biết bao yêu thương, khát
khao và hy vọng của nhà thơ về con người, cuộc sống.
b) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ.
- Hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo..
- Tứ thơ: Mở đầu là niềm vui say, chuyển sang buồn bã, khắc khoải, cuối cùng là
sự hoài nghi. Tất cả trạng thái tâm hồn đó đều xuất phát từ lòng yêu đời, niềm
thiết tha với cuộc sống và tình yêu của một số phận bất hạnh.
- Bút pháp lãng mạn, tượng trưng, siêu thực.
CHIỀU TỐI
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên chiều muộn nơi núi rừng.
- Cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn được hiện lên thật đẹp, mênh mông nhưng buồn
và tĩnh lặng:
“Trích”
- Hình ảnh cánh chim:
+ Ý nghĩa tả thực: Cánh chim chiều nên dáng bay mệt mỏi nhưng hướng
bay mục đích “về rừng tìm chốn ngủ”. Chiều tối đối với vạn vật sự trở về
nơi nghỉ ngơi. Hoạt động của chim có động lực thúc đẩy.
* Thơ xưa: Cánh chim => Mệt mỏi, trầm buồn, kết thúc.
* Thơ Bác: Cánh chim => Tự do, rộng mở, bác ái.
+ Ý nghĩa liên tưởng: Giữa chủ thể trữ tình với hình ảnh cánh chim có nét
tương đồng chỗ là đều mỏi mệt, chim tiếp tục bay, người tù tiếp tục đi, nhưng
lại nét tương phản chỗ chim cố gắng bay để được về tổ ấm, còn người
tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác thôi. Ngườichẳng động lực
thúc đẩy. Nếu không bản lĩnh thì rất dễ mệt mỏi, chán nản. Mặt khác, khi
nhìn cánh chim bay về núi lúc chiều tối làm sao Bác khỏi chạnh lòng. lẽ
người rất nhớ đất nước, nhớ đồng bào.
=> Hình ảnh cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian, vừa mang ý
nghĩa thời gian, gợi sự liên tưởng đến hoàn cảnh của người đang trên
đường bị giải đi trong trạng thái rã rời, mệt mỏi.
- Hình ảnh chòm mây:
+ Ý nghĩa tả thực: Chòm mây lẻ trôi lững lờ giữa tầng không. Cũng như
cánh chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi bay về tổ để nghỉ ngơi, đám mây cũng
như muốn ngừng hoạt động.
+ Ý nghĩa liên tưởng: Đám mây lẻ loi giữa bầu trời cũng như sự cô đơn, lẻ
loi của người tù giữa bao la rừng núi.
- Hình ảnh chòm mây trôi chậm giữa bầu trời gợi nên cái cao rộng, trong trẻo,
êm của một chiều thu miền sơn cước, tuy nhiên, thiên nhiên như cũng mang
hồn người tâm trạng mỏi mệt, cô đơn của người lữ thứ.
=> Chỉ với vài nét chấm phá, Bác đã vẽ nên một không gian bát ngát, cao
rộng, gợi không khí êm ả, thanh bình vào lúc trời chiều.
=> Vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: tình yêu thiên nhiên phong thái ung
dung, tự tại, ý chí kiên cường.
- Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại:
+ Thi pháp cổ điển: Hình ảnh ước lệ, tượng trưng, bút pháp chấm phá, tả
cảnh ngụ tình, dùng điểm vẽ diện, lấy tĩnh tả động độc đáo của thơ cổ. Chỉ với
một cánh chim tác giả gợi ra một không gian êm đềm, tĩnh lặng của không
gian tạo vật. Chỉ với một chòm mây tác giả gợi nên cái bát ngát thi vị của
bầu trời.
+ Tinh thần hiện đại: Hình ảnh thơ cổ nhưng gần gũi, tả thực, vận động
hướng về sự sống. Tâm trạng nhà thơ buồn, cô đơn, mệt mỏi nhưng không bi lụy
mà vẫn thiết tha giao hòa, đồng cảm với thiên nhiên bằng những cảm nhận tinh
tế. Thể hiện một tâm hồn ung dung thư thái, tự chủ, hoàn toàn tự do
=> Hai câu thơ vừa ghi lại bức tranh thiên nhiên cao rộng, yên của cảnh
trời chiều, vừa thể hiện tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên sự sống
của nhà thơ. => Chất thép của bài thơ.
3. Hai cầu sau : Bức tranh sinh hoạt của con người.
- Bức tranh chiều tối trở nên ấm áp sinh động hẳn lên bởi hình ảnh người
thiếu nữ vùng sơn cước xay ngô bên ánh lửa bập bùng của lò than.
“Trích”
- Hình ảnh thiếu nữ xay ngô trung tâm của bức tranh, thu hút sự chú ý của
người tù. Đó một vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động. Sự xuất hiện của
thiếu nữ xay ngô khiến cho bài thơ có một bước phát triển mới.
- Nếu như hai câu đầu, thiên nhiên đã đi vào sự nghỉ ngơi thì con người vẫn
gợi lên nhịp sống dẻo dai.
- Cảnh ở hai câu đầu rất tĩnh thì đến đây nhờ hoạt động xay ngô của thiếu nữ mà
trở nên sinh động hơn.
- Đặc biệt than rực hồng được bàn tay thiếu nữ nhen nhóm lên. Một chút
sáng trong đêm tối cũng nhen nhóm được niềm vui, niềm lạc quan. Một chút ấm
từ màu hồng của than, cũng xóa bớt cảm giác lạnh lẽo, đơn trong lòng
người tù, xa xứ.
- Đằng sau cặp mắt quan sát cảnh tâm hồn của một người chiến cộng sản
luôn hướng tới cuộc sống để tìm niềm vui, tăng niềm lạc quan tin tưởng để bước
tiếp trên con đường chuyển lao gian
- Chữ “hồng” hình ảnhthan rực hồng cuối bài thơ trở thành điểm hội tụ
của bức tranh, kết tinh thành ánh sáng của toàn bài thơ. => Đây tứ thơ
cũng là nhãn tự, tạo nên cái thần của bài thơ.
=> Cuộc sống đời thường đã đem lại cho người tù lữ thứ hơi ấm, niềm vui
hướng về cuộc sống. => Chất tình của bài thơ.
- Một lần nữa, tác giả đã kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển tinh thần hiện
đại:
+ Lấy sáng để tả tối: lấy lò than hồng để nói trời tối.
+ Lấy cảnh tả tình: cảnh sinh hoạt đầm ấm của người dân. => Sự quan
tâm và niềm tin yêu vào cuộc sống của tác giả.
+ Cảnh được miêu tả trong sự chuyển động từ sáng sang tối, từ buồn sang
vui.
=> Vẻ đẹp nghị lực, cái nhìn lạc quan luôn hướng về sự sống, ánh sáng của
nhà thơ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.
4. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vào lúc chiều tối nơi núi rừng với
hình ảnh một cánh chim mỏi bay về rừng tìm chốn ngủ, một chòm mây lẻ
giữa tầng không mênh mông, một “cô em xóm núi” đang xay ngô bên cạnh ánh
lửa bập bùng của bếp lò than.
- Đằng sau bức tranh chiều tối là vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ - chiến
Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống; kiên cường vượt
lên mọi hoàn cảnh, luôn ung dung, tự tại lạc quan trong mọi cảnh ngộ đời
sống.
b) Nghệ thuật:
- bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật sự kết hợp giữa cổ điển hiện
đại.
- Từ ngữ cô đọng, hàm súc.
- Thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn, nhãn tự “hồng” đặc sắc.
- Ngôn ngữ tả ít, gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại.
TỪ ẤY
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. Khổ 1: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng, cách mạng.
“Từ ấy trong tôi ... qua tim”
- “Từ ấy” đánh dấu thời điểm giác ngộ tưởng cách mạng của Tố Hữu. Tố
Hữu lúc này có sự gặp gỡ của lí tưởng cách mạng, tuổi trẻ và thơ. Cuộc hội ngộ
kì lạ này đã tạo nên chất men say của tình yêu đằm thắm với lí tưởng cách mạng
và cuộc đời. Và trước hết là một niềm vui trong trẻo, tin yêu, nhân hậu, niềm vui
bắt gặp lí tưởng.
- Niềm vui này đã được Tố Hữu tả qua nhiều trạng thái cảm xúc thơ. Người
thanh niên đang đi giữa cuộc đời mờ mịt không thấy lối ra, bỗng một ngày kia
một nguồn sáng mới, một niềm tin mới đã giải thoát anh khỏi sự ràng buộc vây
hãm.
- Tố Hữu đã rất khéo léo khi kết hợp những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời
chân lí”, “chói qua tim” với các động từ “bừng”, “chói” nhằm khẳng định
tưởng cách mạng như nguồn sáng mới bừng chiếu, soi sáng tâm hồn mình.
- Tố Hữu muốn nói đến tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới đã làm
bừng sáng lên trong tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh sáng thu
vàng nhẹ hay nắng xuân dịu dàngánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ.
Tất cả đều trở nên rực rỡ chói lọi.
- Nguồn sáng ấy rực rỡ như nắng hạ, kì diệu như ánh sáng mặt trời tỏa ra những
tưởng đúng đắn xua tan màn sương của ý thức tiểu sản, mở ra trong
tâm hồn người thanh niên một chân trời mới: hiến dâng cho cách mạng.
- Cách dùng hình ảnh ẩn dụ so sánh trực tiếp: so sánh ánh sáng của tưởng
Đảng như “nắng hạ” “mặt trời chân lí” thể hiện thái độ thành kính, ân tình,
biết ơn của nhà thơ với Đảng.
- Bút pháp tự sự: trần thuật, tình cảm chân thành, tha thiết với cách mạng.
=>
Hình ảnh mặt trời chân lần đầu tiên được nói đến trong thơ như một
biểu tượng đẹp của cách mạng.
- Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm vui sướng hạn của buổi đầu đến với cách
mạng:
“Hồn tôi … tiếng chim…”
- Hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ, so sánh: “Hồn tôi” - “vườn hoa lá”, “đậm
hương”, “rộn tiếng chim” gợi tả một thế giới tràn đầy sức sống (có hoa lá, có âm
thanh,...).
- Ánh mặt trời diệu đã mang sức sống đến cho thiên nhiên khiến tất cả bừng
dậy như một vườn hoa đượm hương thơm rộn tiếng chim ca hát. Âm
thanh, màu sắc, hương vị tạo được sự hòa hợp.
- Chưa một niềm vui nào đến với tuổi trẻ lại tạo được sự đổi thay đến như
vậy. => Lí tưởng cách mạng đã đem lại cho tâm hồn thơ một cảm hứng sáng
tạo mới.
- Tố Hữu đón nhận tưởng như cỏ cây hoa đón nhận ánh sáng mặt trời. Cỏ
cây xanh tươi nhờ ánh nắng mặt trời còn nhà thơ thêm yêu đờithấy cuộc đời
có ý nghĩa là nhờ ánh sáng của lí tưởng Đảng.
- Bút pháp trữ tình lãng mạn kết hợp với hình ảnh so sánh độc đáo đã giúp nhà
thơ diễn đạt thành công cảm xúc sung sướng hạnh phúc niềm biết ơn hạn
hướng về lí tưởng của Đảng.
=> Đoạn thơ thể hiện tình cảm chân thành, trong trẻo hết sức nồng nhiệt
của một thanh niên lần đầu tiên được tiếp nhận tưởng của Đảng, tìm được
hướng đi đúng đắn cho đời mình.
3. Khổ 2: Nhận thức mới về lẽ sống.
“Tôi buộc … khối đời”
- Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời trong môi trường rộng lớn của quần
chúng lao khổ. Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới tiếp nhận được từ
quần chúng lao động, không phải chỉ trong nhận thức bằng tình cảm mến
yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim.
- “Buộc”: ý thức tự nguyện sống chan hòa với mọi người.
- “Trang trải”: tâm hồn tác giả trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm
sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
=> Các từ "buộc", "trang trải", "gần gũi" đều nói lên sự gắn bó, gắn bó bằng tình
yêu thương, bằng tấm lòng với những người lao khổ, nạn nhân của cuộc đời cũ.
- Khi được giác ngộ lí tưởng Tố Hữu đã nhận thức được lẽ sống mới: tự nguyện
hòa “cái tôi” nhân vào “cái ta” chung của mọi người, trải rộng tình cảm với
đời, đồng cảm với nỗi khổ của con người.
- Điều đặc biệt tình yêu thương của người trí thức tiểu sản đã hướng đến
quần chúng lao khổ với mục đích đoàn kết tăng thêm sức manh của khối đời để
đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Ở hai câu cuối của đoạn thơ, tác giả nhấn mạnh tình yêu thương của con người
là tình cảm hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ.
=> Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức
còn bằng tình cảm yêu mến sự giao cảm của trái tim mình với mọi
người, khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống.
4. Khổ 3: Sự chuyển biến trong tình cảm.
- Những ý thơ của tác giả viết về người nghèo khổ thật tha thiết chân tình.
Không chỉ là tình ái giai cấp mà còn là tình thân yêu ruột thịt:
“Tôi đã là … cù bơ”
- Lí tưởng Cộng sản đã giúp cho nhà thơ không chỉ có lẽ sống mớicòn vượt
qua được những tình cảm ích kỉ hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản đểđược tình
hữu đi giai cấp với quần chúng lao khổ bằng một yêu thương ruột thịt.
- Điệp từ “là” kết hợp với “con”, “em”, “anh” cùng số từ ước lệ “vạn” mang ý
nghĩa nhấn mạnh khẳng định tình cảm gia đình đầm ấm, thân thiết.Tố Hữu
không chỉ đến với quần chúng lao khổ còn xem mình một thành viên của
đại gia đình ấy.
- Bên cạnh đó, sự kết hợp này biểu hiện sự đồng cảm, tấm lòng xót thương
chân thành của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ, nhận thức sâu sắc
mối quan hệ cá nhân với quần chúng.
- Đến với cuộc đời cần lao chính đến với người anh em ruột thịt của mình.
Trong cuộc sống còn hàng vạn kiếp sống phôi pha, hàng vạn những em nhỏ sống
cù bất cù bơ. Cuộc đời đang chứa chất biết bao bất công căm giận.
- Từ ngữ gợi cảm: “kiếp phôi pha” chỉ những người đau khổ bất hạnh, dãi dầu
mưa nắng để kiếm sống; “cù bất cù bơ” là không nơi nương tựa phải lang thang
vất vưởng. => Tố Hữu không chỉ thương xót những người dưới đáy cùng
của hội cònhọ hăng say hoạt động cách mạng. => Họ chính đối
tượng của hàng loạt bài thơ Tố Hữu sáng tác trước Cách mạng Tháng Tám.
- Quan điểm của Tố Hữu cũng chính là quan điểm của giai cấp vô sản:
“Quyết chiến đấu nào ta liên hiệp lại
Hỡi những tù nhân khốn nạn của bần cùng”
(Liên hiệp lại)
5. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Bài thơ diễn tả một cách cảm động niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt
gặp lý tưởng của Đảng.
- Kèm theo đó là những nhận thức mới mẻ về lẽ sống và sự chuyển biến sâu sắc
trong tình cảm của nhà thơ khi ông được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
b) Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, cách ngắt nhịp thay đổi liên tục theo cảm
xúc, có sức ngân vang.
- Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ tăng sức biểu cảm cho thơ.
- Hình ảnh thơ tươi sáng, giàu ý nghĩa tượng trưng.
- Giọng thơ sảng khóa, nhịp điệu thơ hăm hở.
| 1/17

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NLVH
I. Mở bài - Khái quát - Kết bài: 1. Mở bài:
Là một (keyword) tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, (tên tác giả) đã cho ra
đời nhiều tác phẩm mang đậm giá trị nhân văn, nghệ thuật. Đặc biệt trong số đó,
tác phẩm (tên tác phẩm) được viết vào (HCST/ NGXX) đã để lại trong lòng
người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Tác phẩm nói về (ND chính). Ta có thể thấy
rõ điều đó qua (đoạn trích/ nhân vật/ chi tiết)
. “Trích thơ” 2. Khái quát: a) Tác phẩm: - Thể loại - Nguồn gốc / HCST
- Tác phẩm lớn (nếu đề bài là đoạn trích): ND + NT - Đoạn trích: + Nằm ở đâu + Giới hạn + ND b) Nhân vật:
- Hoàn cảnh xuất thân
- Tính cách nhân vật, đặc điểm nổi trội 3. Kết bài:
- Qua (1), (2) đã cho ta thấy (3)
- Những câu thơ/ áng văn viết về (4) sẽ luôn lay động, thổn thức trái tim người
đọc. Và sự lay động, thổn thức đó cũng như (5) sẽ sống mãi với thời gian.
(1) Nghệ thuật tiêu biểu (2) Tên tác giả (3) ND chính (4) Đối tượng
(5) Tên tác giả/tác phẩm VỘI VÀNG II. Thân bài: 1. Khái quát:
2. 13 câu thơ đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ. a) 4 câu thơ đầu:
- Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ năm chữ, kiểu câu khẳng định, lối điệp từ
ngữ, điệp cấu trúc để khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt: muốn ngự trị
thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hóa, muốn ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn
tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời, gói gọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ. “Tôi muốn… …. … bay đi.”
- “Tắt nắng”, “buộc
gió” là quyền uy của tạo hóa. Cho dù Xuân Diệu là thi sĩ
thì ông vẫn là con người làm sao có được khả năng vô hình đó.
- Chỉ vì quá yêu cuộc sống nên mới ước ao và nảy sinh ý tưởng táo bạo. Muốn
níu giữ sắc hương, níu giữ mùa xuân cũng có nghĩa là muốn níu giữ thời gian
cùng với vẻ đẹp cuộc sống cho mình, cho mọi người. => Cách biểu đạt mới lạ, độc đáo.
- Bốn dòng thơ, mỗi dòng năm chữ, ngắn, gấp. Nhịp thơ góp phần diễn tả sự
khẩn trương muốn ngăn không cho màu nhạt, hương bay. Điệp câu “Tôi muốn...
cho...”
càng làm nổi bật khát khao lưu giữ được sắc hương cuộc đời để mãi
được cùng sống với nó.
b) 7 câu thơ tiếp theo:
- Bức tranh tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
- Bức tranh thiên nhiên có đủ: ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh
rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống cũng đầy nhất.
- Hình ảnh thơ tập trung làm nổi bật vẻ tinh khôi, thanh tân, nõn nà, rực rỡ của
mùa xuân: “Ong bướm - tuần tháng mật”; “Hoa - đồng nội xanh rì”; “lá - cành
tơ”; “yến anh - khúc tình si”,... tất cả hiện hữu có đôi, có lứa, có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.
- Muôn sắc hoa tươi thắm trên nền “xanh rì” đầy sức sống của đồng nội; cành
tơ, lộc non mơn mởn, mượt mà,.. tất cả thêu dệt nên một khung cảnh mềm mại
như tơ như lụa, uyển chuyển, đằm thắm nhưng đồng thời rực rỡ với những gam
màu, những tầng ánh sáng.
- Điệp ngữ “Này đây...” cùng với hàng loạt những hình ảnh, sắc màu, âm thanh,
Xuân Diệu đã liệt kê vẻ đẹp muôn màu của xuân, bày sẵn quanh ta, chẳng cần
phải tìm kiếm. Chỉ cần có tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống thì tha hồ nhìn ngắm, thưởng thức.
- Cảnh sắc vốn quen thuộc nhưng bằng lối cảm nhận riêng, mới lạ, Xuân Diệu
đã thổi vào thiên nhiên một tình yêu rạo rực khiến những hình ảnh vô tri bỗng
sống dậy tràn ngập xuân tình. => Cảnh xuân không chỉ đẹp mà còn gợi tình.
- Có thể nói, thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên
nhiên bằng “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất: “Và này đây … … hàng gõ cửa.”
- Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp của nàng công chúa có tên
là Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc, chớp chớp hàng mi rồi bừng nở muôn vàn
ánh hào quang. => Ánh sáng ấy đã tưới lên vạn vật thiên nhiên tràn đầy sức sống.
- Câu thơ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang dấu ấn thơ Xuân Diệu rất rõ.
- Trước hết là cách dùng từ chuyển đổi cảm giác rất quen thuộc của Xuân Diệu.
Thi sĩ không thưởng thức mùa xuân bằng giác quan thông thường (nhìn, ngắm,
lắng nghe) mà ông đang say sưa nhấm nháp hương vị của nó, cảm nhận được độ
“ngon” mà mùa xuân đang dâng hiến.
- Mặt khác ta còn thấy ở câu thơ một cách hưởng thụ thiên nhiên rất Xuân Diệu
Mùa xuân hấp dẫn, quyến rũ như “cặp môi” giai nhân. Thi sĩ thưởng thức mùa
xuân mà như đang thưởng thức hương vị ái tình. => Một cách ví von so sánh
mới mẻ, táo bạo góp phần làm nổi bật niềm say mê cái đẹp trần thế đáng quý ở tác giả.
- Khác với quan niệm thiên nhiên là chuẩn mực của vẻ đẹp trong thơ ca cổ điển,
Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: Con người mới là chuẩn mực của cái đẹp trong vũ trụ này. c) 2 câu tiếp theo:
- Hai câu thơ tiếp (cuối) là tâm trạng của nhà thơ trữ tình: “Tôi sung sướng… …hoài xuân.”
- Trong một câu thơ mà thi sĩ có hai tâm trạng: “sung sướng” - “vội vàng”, dấu
chấm ở giữa câu đã phân tách rõ hai dòng cảm xúc ấy.
- Nhà thơ “sung sướng” vì hạnh phúc , lạc quan, yêu đời và đón nhận những gì
đẹp nhất của thời khắc mùa xuân; còn “vội vàng” bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ sẽ qua
đi, tuổi già mau tới, mọi thứ cũng như mùa xuân này không thể vĩnh hằng.
- Nhà thơ bỗng “hoài ,
xuân” tiếc xuân khi mà xuân mới bắt đầu. Xuân Diệu
cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời, và cùng
với thời gian, những gì đẹp nhất của thời gian, của mùa xuân, của tuổi trẻ, của
tình yêu rồi sẽ ra đi không trở lại.
=> Đoạn thơ này là tiêu điểm góp phần lí giải các trạng thái cảm xúc của tác
giả ở bốn câu đầu và những câu thơ tiếp theo. Với Xuân Diệu không chỉ gợi
hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.
3. 17 câu thơ tiếp theo: Nỗi băn khoăn trước gian và cuộc đời:
a) Quan niệm “thời gian tuyến tính” của Xuân Diệu xuất phát từ cái nhìn động: “Xuân đương tới… …. sẽ già.”
- Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, đi rồi trở lại như bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông, vì vậy họ thường ung dung, đủng đỉnh. Nhưng đối với Xuân Diệu, đối
với “Vội vàng”, thì thời gian tuyến tính.
- Thời gian được cảm nhận theo thước đo giá trị sống của con người. Mỗi
khoảnh khắc trôi qua mang theo một sự mất mát.
- Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới - qua”, “non - già” cho ta thấy
được cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian.
b) Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình để làm thước đo thời gian: “Mà xuân hết… … … cả đất trời.”
- Những từ “xuân”, “tôi”, “tuổi trẻ” cứ trở đi, trở lại, hàng loạt những mâu
thuẫn: “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – “sẽ già”; “lòng tôi rộng” –
“lượng trời cứ chật; “vẫn hoài xuân” – “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
, tạo
thành nỗi day dứt, nỗi tiếc nuối khôn nguôi. Có thể xuân vẫn tuần hoàn nhưng
mỗi lần nó “đang qua”, “sẽ già” là một lần mang theo nhiều cái đẹp đi mất.
- Nếu xuân là độ viên mãn nhất của thiên nhiên thì tuổi trẻ là độ căng tràn nhựa
sống của một cuộc đời. Xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ - mùa xuân của cuộc đời,
chẳng có hai lần. Thời gian, sẽ mang theo tuổi xuân của con người đi qua và vì
vậy mà thi sĩ càng buồn hơn khi:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
=> Tiếng thở dài bất lực của thi nhân.
c) Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát:
“Mùi tháng năm … … tiễn biệt”
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi
khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến
“khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan
sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi.
- Hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh tế về thời gian của Xuân Diệu.
Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi
tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát.
- Đây là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu
xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. “Con gió… … … sắp sửa.”
- Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của
mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay
với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng
ngừng bặt, vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua.
- Các tiếng “chẳng còn”, “rớm vị chia phôi”, “than thầm”, “tiễn biệt”, “phải
bay đi, bỗng đứt tiếng”, “độ phai tàn”
.. như cứa vào tim vốn rất nhạy cảm với
đời, yêu đời không thể không suy nghĩ cái hữu hạn của đời người. => Xuân
Diệu ý thức rất rõ một điều: tuổi trẻ đi qua không trở lại.
- Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng nhận
thức về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian.
Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả
mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
d) Kết thúc đoạn thơ là một lời thảng thốt: “Chẳng bao giờ… … chiều hôm.”
- Thi sĩ bỗng thốt lên lời than thở, tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa
ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già.
- Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách
ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bảng khuâng.
- Thế đấy, không thể “buộc gió, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ
được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống.
=> Lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới.
- Xuân Diệu là thế, khát khao đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng
luôn cảm thấy bơ vơ và hoảng sợ, tuyết vọng. Nhưng ông không làm cho người
ta tuyệt vọng mà bằng một con đường riêng: Xuân Diệu đã đốt lên tình yêu cuộc sống cho con người
- Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị
sống của mỗi cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời đều vô cùng quý giá bởi vì khi
đã trôi qua là mất vĩnh viễn. => Con người phải biết quý từng giây phút của
cuộc đời, phải sống có ý nghĩa.
=> Đây là lí do nhà thơ sống vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh của thời gian.
4. Đoạn còn lại: Lời giục giã sống vội vàng:
- Ý chủ đạo của bài thơ: Để sống thật ý nghĩa phải tận hương sự sống do mùa
xuân, tuổi trẻ và tình yêu đem lại.
- Câu thơ bản lề để cho cao trào, tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: “Mau đi
thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”.
- Cụm từ “mau đi thôi” như một lời thúc giục khi tác giả nhận ra rằng vẫn còn
kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi xuân đến phút cuối cùng. Vì thế mà
Xuân Diệu bừng tỉnh và giọng điệu thơ trở lại sự nồng nhiệt thiết tha.
a) Mở đầu đoạn thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ: “ Ta muốn ôm … mơn mởn;”
- Câu thơ làm nổi bật hình ảnh một cái tôi khát khao dang rộng cánh tay ôm hết,
ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mỏn, non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp
ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo.
- Nếu ở khổ thơ thứ nhất tác giả sử dụng ngôi số một là “Tôi”, thì sang khổ thơ
thứ 3 tác giả lại sử dụng đại từ nhân xưng “Ta”. Cách sử dụng chuyên ngôi
mang một ý nghĩa sâu sắc đó chính là sự đồng điệu giữa các tâm hồn.
- Ta là tất cả mọi người, hãy nhanh lên thôi, mỗi ngày trôi qua rất nhanh cần
phải gấp gáp, vội vàng để có thể tận hưởng những phút giây hạnh phúc của cuộc
đời. => Nhà thơ từ bỏ cái nhỏ bé chật hẹp chuyển sang cái rộng lớn phù hợp
với việc tận hưởng cuộc sống.
- Lúc này đây, ta – muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Mùa xuân là thế,
đó là mùa của sự hồi sinh và đâm chồi nảy lộc theo đúng nghĩa đen và nghĩa
bóng. Cây cỏ, hoa lá vào mùa xuân đua nhau khoe sắc, tỏa hương, mọi sự trong
mắt tác giả đều mơn mởn sự sống, tràn đầy tươi mới.
- Chính điều này khiến cho tác giả muốn ôm lấy tất cả, dù cho sự sống ấy vô
cùng lớn lao nhưng ông vẫn muốn giữ cho riêng mình. Hay nói đúng hơn, ông
đang muốn sống tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của sự sống, của hạnh phúc của sự mơn mởn.
b) Sang tiếp 4 câu thơ sau, nhịp điệu thơ càng gấp gáp, dồn dập hơn, thể hiện
ước muốn mãnh liệt của tác giả:
“Ta muốn … … … cỏ rạng.”
- Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự
sống. Dĩ nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà
Xuân Diệu khát khao phải là thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt
đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ.
- Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của
mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống.
- Điệp ngữ “Ta muốn” kết hợp với hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng
tiến “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” biểu thị sự khát khao chiếm đoạt sự
sống một cách vồ vập, tham lam, tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt.
- Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng.
Hàng loạt hình ảnh sự sống mơn mởn, mây đưa, gió lượn, cánh bướm tươi mới,
đây sức sống tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng
không phải để tả xuân mà chủ yếu để diễn tả sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả. .
- Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng
thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn. Các cụm từ “chếnh choáng”, “no
nê”, “đã đầy”
cũng được sắp xếp theo hình thức tăng tiến, bộc lộ sự thèm khát
tận hưởng cuộc sống mãnh liệt của một người trẻ tuổi.
- Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân
như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm
ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
- Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần
khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương
mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn.
- Cuối cùng nhà thơ thốt lên một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện
niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Dưới ngòi bút
của Xuân Diệu, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có
hồn có sắc “Xuân hồng”.
- Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa
sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín
ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
- Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén
nỗi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu: “Ta muốn cắn vào ngươi!”.
- Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vấn
thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say,
ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
- Bằng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đắt giá, như điện tử, điệp cấu
trúc, liệt kê, các biện pháp tương giao đầy nghệ thuật. Khiến cho ta như cảm
nhận rõ hơn một tư tưởng lớn, một trái tim không khi nào vơi cạn với tình yêu với cuộc đời.
=> Đoạn thơ thể hiện chân thật tiếng lòng khao khát mãnh liệt của chủ thể
trữ ... khát sống để tận hưởng một thiên đường trên mặt đất.
=> Có ý nghĩa nhân văn mới mẻ.
5. Đánh giá: a) Nội dung:
- Xuân Diệu đặt tên bài thơ là “Vội vàng”, bởi lẽ: Xuân Diệu yêu tha thiết cuộc
sống, cuộc sống quanh ta rất đẹp nhưng tuổi trẻ qua nhanh, đời người ngắn ngủi,
thời gian không chờ đợi. Phải khẩn trương, hối hả đến với cuộc sống để tận
hưởng vẻ đẹp của đời.
- Quan điểm nhân sinh của Xuân Diệu được thể hiện qua bài thơ có mặt tích
cực: Yêu mùa xuân và tuổi trẻ - những cái đẹp nhất của cuộc sống, hãy sống hết
mình sao cho mỗi khoảnh khắc của đời đều có ý nghĩa.
=> Đó là quan niệm sống tích cực, có giá trị nhân văn sâu sắc. b) Nghệ thuật:
- Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận.
- Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.
- Sử dụng ngôn từ; nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, cuồng nhiệt.
- Những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả
rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả. TRÀNG GIANG II. Thân bài: 1. Khái quát:
(*) Ý nghĩa nhan đề “Tràng giang”
- Từ Hán Việt mang âm hưởng cổ kính.
- Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài
thơ. Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận.
- Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông
không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
- Hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về
dòng Trường Giang trong Đường thi – một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng,
dòng sông của tâm tưởng. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để
mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư,
buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
2. Ý nghĩa câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:
- Đề từ không chỉ là cách làm đẹp cho bài thơ về mặt hình thức mà chủ yếu nó là
điểm tựa cho cảm hứng, ý tưởng của tác giả trong tác phẩm
- Từ “bâng khuâng”, “nhớ” trong câu đề từ là trạng thái nội tâm chủ yếu của chủ thể trữ tình.
- Theo kết trật tự câu chữ thì lời đề từ có các tầng nghĩa:
Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài.
Nỗi bâng khuâng nhớ nhung của con người trước cái mênh mông của đất trời.
=> Nỗi lòng nhà thơ không chỉ nặng trĩu nhớ nhung mà còn cảm thông với
nỗi buồn sông núi.

3. Khổ 1: Hình ảnh dòng sông và nỗi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi buồn
về kiếp người nhỏ bé, vô định.
- Hình ảnh quan sát được trên dòng sông rất chân thực nhưng đầy sức gợi.
- Sóng gợn tràng giang thật nhẹ nhàng, lan tỏa đến vô cùng - gợi nỗi buồn mênh mang.
- Con thuyền buông xuôi mái chèo một cách thụ động, mặc cho dòng nước đẩy
đưa gợi sự lênh đênh. So với sông nước tràng giang nó cũng hết sức lẻ loi, bé nhỏ.
- Thuyền và nước thường sóng đôi với nhau, ấy vậy mà qua ý thơ của Huy Cận,
thuyền và nước lại chia lìa hai ngả. Hình ảnh “nước song song”, “thuyền về
nước lại”
không hứa hẹn về sự hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
- Đặc biệt gợi cảm là câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng” hoàn toàn tả
thực, không sa vào ước lệ sáo mòn. Một cành khô nhỏ bé, mỏng manh, lạc loài
giữa mênh mông sóng nước biết trôi dạt về đâu.
- Cành củi đó đã khô mục, chỉ còn vỏ bọc bên ngoài ngoài còn ân phía trong đã
rỗng tuếch từ lúc nào. Hình ảnh này làm người đọc liên tưởng đến thân phận con
người, khi họ chỉ còn cái xác bên ngoài, còn trong lòng đã dần khô cạn.
- Người trong cảnh không thể không chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình: một
cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ trôi dạt giữa dòng đời.
- Nghệ thuật: Phép đối “buồn điệp điệp” - “nước song song”; “sầu trăm ngả” -
“lạc mấy dòng”; từ láy âm “điệp điệp”, “song song”; tương phản giữa cá thể
và vũ trụ “một cành”/ “mấy dòng”.
=> Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa các cá
thể với nhau, đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời.
4. Khổ 2: Cảnh hai bên bờ sông và cảm giác cô đơn, rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng. a) Hai câu đầu:
- Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh
không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao được nghe những
tiếng vọng thân thiết của cuộc đời.
- Nghệ thuật dùng từ láy “lơ thơ”, “đìu
hiu” vừa có giá trị tạo hình vừa có khả
năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn...;
- Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người “đâu tiếng... chợ chiều”
nhưng đồng thời phủ định ngay trong cách dùng từ “đâu”. Chợ ở một làng xa,
lại là chợ chiều, mà chợ đã mãn thì làm sao còn tiếng. Tất cả đều vắng lặng cô tịch.
- Những từ: “chiều”, “xa”, “vãn” góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều
tác giả khát khao tìm kiếm.
- “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái,
vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đầu” như
một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm
thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn
toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
- Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng,
dài. Trong vũ trụ vô cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, cô liêu mà lòng
người cũng như rợn ngợp, bởi sự bé nhỏ, lạc loài của cá thể trước cái mênh mông của đất trời.
- Hàng loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: “xuống”, “lên”, “sâu chót vót”,
“dài”, “rộng”
cùng với cách kết hợp từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được
độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu thăm thẳm của vũ trụ.
- Cách ngắt nhịp thơ có hiệu quả diễn ý: “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”,
đậm thêm tính chất phân li của các sự vật.
=> Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong
Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán
chường, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
5. Khổ 3: Toàn cảnh dòng sông và nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát giao cảm với cuộc đời.
- Cái hiện hữu trước mắt vẫn là những hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định “bèo dạt về đâu”
“bờ xanh tiếp bãi vàng” và tĩnh vắng, cô liêu .
- Từ ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn “hàng nối hàng”, “bờ...
tiếp... bãi…”
cùng đảo ngữ “lặng
lẽ” tiếp tục khắc sâu, tô đậm mạch cảm xúc
đã thể hiện ở hai khổ đầu.
- Hình ảnh mà thi sĩ khát khao tìm kiếm là “chuyến đò ngang”, là “cây cầu”
nhưng sự phủ định đã nằm ngay trong điệp từ “không”.
- Cảm thức về sự cô đơn lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ
mong được đón nhận tiếng nói của con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu,
gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn .
=> Nhà thơ không chỉ buồn khi đối diện với vũ trụ bao la, mà còn buồn về
cuộc đời, về nhân thế.
6. Khổ 4: Cảnh sông nước hùng vĩ và nỗi nhớ quê tha thiết.
-
Khổ thơ này mang màu sắc Đường thi khá rõ từ hình ảnh ước lệ: Cánh chim
hướng về núi chỉ cảnh chiều tố, đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường.
- Hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi
bạc” lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong
bài Thu hứng “Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm/ Mặt đất mây đùn cửa đi xa”
đều nhằm chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu
tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng
- Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc chứa đựng trong
lớp ngôn từ đó lại mang tính hiện đại: cái tôi bơ vơ, cô đơn, rợn ngợp trước cuộc đời.
- Hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp. Nỗi
nhớ nhà “dợn dợn” trong lòng. Đó là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm
hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê. 7. Đánh giá: a) Nội dung:
- Thiên nhiên trong bài thơ là những hình ảnh quen thuộc của cảnh sắc quê hương đất nước.
- Đi vào thơ Huy Cận, thiên nhiên mang vẻ đẹp hùng vĩ, sáng trong những
nhuốm màu sắc tâm trạng chủ thể trữ tình nên tất cả đều toát lên vẻ đìu hiu, quạnh quẽ.
- Rất nhiều hình ảnh được lựa chọn: Sóng gợn, thuyền xuôi mái, hành củi khô,
bèo dạt, bờ xanh, bãi vàng, mây núi, cánh chim... đều nghiêng về gợi nỗi buồn.
- Từ đó người đọc có thể cảm nhận được rõ nét nỗi lòng yêu nước, yêu quê hương của tác giả. b) Nghệ thuật:
- Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại.
- Nghệ thuật đối: bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình; hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.
- Các biện pháp tu từ đặc sắc: nhân hóa, ẩn dụ.
- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở nhiều phương diện:
Mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng. Tách ra, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt.
Cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét
đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật. Mượn cảnh ngụ tình.
Sự trang nhã, thanh cao toát ra từ hình ảnh, ngôn từ...
- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự vật, tâm trạng bơ vơ, buồn bã
phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời. ĐÂY THÔN VĨ DẠ II. Thân bài: 1. Khái quát:
2. Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết.
- Bao trùm khổ thơ là niềm thích thú, say sưa, lòng yêu mến, tân thưởng vẻ đẹp
của cảnh và người thôn Vĩ.
- Có lẽ tấm thiệp của người thôn Vĩ là một tín hiệu tình cảm tác động mạnh tới
vùng kỉ niệm đẹp trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Vì vậy mà hàng loạt hình ảnh về
thôn Vĩ hiện lên rất rõ và thực, tưởng như thi sĩ đang đứng trước cảnh sắc thôn
Vĩ mà nhìn ngắm, nâng niu.
- Hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” ở thôn Vĩ mang một vẻ đẹp lấp lánh,
tinh khiết. Được nhìn nắng mới, trên những lá cau non là khoảnh khắc khó quên.
- Cảnh vườn tược “mướt”, “xanh như ngọc” cũng là nét độc đáo của thôn Vĩ. Vì
là lúc cấu trúc vườn - nhà nên những khóm hoa, cây cảnh được chăm sóc kĩ
càng, không chỉ xanh mà còn mỡ màng, óng ả. => Lại thêm một vẻ đẹp thanh khiết.
- Từ cảm thán “mướt quá” bộc lộ trực tiếp sự trầm trồ của thi sĩ. Chứng tỏ Hàn
Mặc Tử đang say sưa trong dòng hồi tưởng. Vậy mới biết, xa thôn Vĩ nhưng tình
đối với thôn Vĩ vẫn tràn đầy.
- Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” mang nghĩa hướng về một “ai” đó được
xác định trong tâm tưởng của nhà thơ.
- Người thôn Vĩ chỉ hiện lên chưa đầy nửa câu thơ, không trực diện, nguyên
hình mà chỉ một nét thấp thoáng sau lá trúc. Khuôn mặt chữ điền phúc hậu càng
gây ấn tượng trong sự kín đáo, duyên dáng.
=> Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp nhưng cũng chỉ là hoài niệm.
3. Khổ 2: Cảnh hoàng hôn sông Hương và niềm đau cô lẻ, chia lìa.
- Hình ảnh gió, mây, sông, trăng vẫn là những vẻ đẹp của cảnh sắc xứ Huế
nhưng đã nhuốm màu sắc tâm trạng của chủ thể trữ tình.
- Ý thức về sự ngăn cách giữa số phận bất hạnh của mình với người thôn Vĩ
khiến ý thơ từ vui chuyển sang buồn, từ thực bay tới mộng. Phải từ lô-gic tâm
trạng của nhà thơ ta mới hiểu được ý nghĩa tượng trưng trong khổ thơ này.
- Thường thì gió thổi mây bay, cùng chung một hướng nhưng ở đây “Gió theo
lối gió, mây đường mây”, chia lìa đôi ngả. Phải chăng Hàn Mặc Tử đang nghĩ
đến mình ở Quy Nhơn và người thôn Vĩ giờ cũng đôi ngả chia lìa. Trước đây
chưa đồng điệu, giờ lại khó tương phùng.
- Sông Hương thơ mộng giờ cũng “buồn thiu”, “hoa bắp lay” càng tăng sự hắt
hiu Hình ảnh thơ không còn thực mà nghiêng về gợi nỗi buồn man mác, xa cách chia li.
- Đẹp nhưng khó cảm thụ là hai câu thơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
- Trăng là bạn cố tri của Hàn Mặc Tử, trăng cũng là giai nhân. Nơi Hàn Mặc Tử
điều trị bệnh là thế giới cận kề cõi âm, chẳng có “niềm trăng và ý nhạc”. Thế
giới bên ngoài lại tràn ngập sắc màu, nhất là vẻ đẹp của xứ Huế.
- Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật
thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng
sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bôi lung linh, huyền ảo.
=> Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào
con thuyền trắng, vào cả dòng sông trăng.
- Khát khao thành mộng ảo. => Hình dung sông Hương thành sông trăng. Mong
có phép mầu nhiệm nào đó để “ai” “chở trăng về kịp”..
- Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp
chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số
phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm
về thời gian cuộc đời ngắn ngủi.
=> Hình ảnh đẹp nhưng đầy mộng ảo, khát khao mãnh liệt nhưng đầy khắc
khoải, tuyệt vọng. Tất cả đều từ ý thức của con người đang chạy đua với thời
gian, với căn bệnh hiểm nghèo.
4. Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.
- Nhà thơ thiết tha hướng về người thôn Vĩ nhưng cảm thấy xa vời, khó tiếp cận.
- Điệp ngữ “khách đường xa” có ý nghĩa đặc biệt. Huế và Quy Nhơn không quá
xa về không gian địa lí. Đây là không gian tâm trạng. Đối với Hàn Mặc Tử, Huế
và Quy Nhơn là hai thế giới cách biệt.
- Các từ: “Xa”, “trắng quá”, “sương khói”, “mờ”, “ảnh”... càng tăng cảm giác khó nắm bắt.
- Nhà thơ chỉ còn biết mơ tưởng, lòng đầy hoài nghi, làm sao biết “tình ai có đậm đà”..
- Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó
chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà
không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn.
- Cả bài thơ được liên kết bởi từ phiếm chỉ “ai”, mở đầu: “Vườn ai mướt quá
xanh như ngọc”, tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và kết thúc là “Ai
biết tình ai có đâm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn. 5. Đánh giá: a) Nội dung:
- “Đây thôn Vĩ Dạ” khắc sâu vẻ đẹp đượm buồn của xứ Huế với cảnh thôn Vĩ
bên dòng sông Hương êm đềm, thơ mộng cùng với biết bao yêu thương, khát
khao và hy vọng của nhà thơ về con người, cuộc sống. b) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ.
- Hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo..
- Tứ thơ: Mở đầu là niềm vui say, chuyển sang buồn bã, khắc khoải, cuối cùng là
sự hoài nghi. Tất cả trạng thái tâm hồn đó đều xuất phát từ lòng yêu đời, niềm
thiết tha với cuộc sống và tình yêu của một số phận bất hạnh.
- Bút pháp lãng mạn, tượng trưng, siêu thực. CHIỀU TỐI II. Thân bài: 1. Khái quát:
2. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên chiều muộn nơi núi rừng.
-
Cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn được hiện lên thật đẹp, mênh mông nhưng buồn và tĩnh lặng: “Trích” - Hình ảnh cánh chim:
+ Ý nghĩa tả thực: Cánh chim chiều nên dáng bay mệt mỏi nhưng hướng
bay có mục đích “về rừng tìm chốn ngủ”. Chiều tối đối với vạn vật là sự trở về
nơi nghỉ ngơi. Hoạt động của chim có động lực thúc đẩy.
* Thơ xưa: Cánh chim => Mệt mỏi, trầm buồn, kết thúc.
* Thơ Bác: Cánh chim => Tự do, rộng mở, bác ái.
+ Ý nghĩa liên tưởng: Giữa chủ thể trữ tình với hình ảnh cánh chim có nét
tương đồng ở chỗ là đều mỏi mệt, chim tiếp tục bay, người tù tiếp tục đi, nhưng
lại có nét tương phản ở chỗ chim cố gắng bay để được về tổ ấm, còn người tù
tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác mà thôi. Người tù chẳng có động lực
thúc đẩy. Nếu không có bản lĩnh thì rất dễ mệt mỏi, chán nản. Mặt khác, khi
nhìn cánh chim bay về núi lúc chiều tối làm sao Bác khỏi chạnh lòng. Có lẽ
người rất nhớ đất nước, nhớ đồng bào.
=> Hình ảnh cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian, vừa mang ý
nghĩa thời gian, gợi sự liên tưởng đến hoàn cảnh của người tù đang trên
đường bị giải đi trong trạng thái rã rời, mệt mỏi.
- Hình ảnh chòm mây:
+ Ý nghĩa tả thực: Chòm mây lẻ trôi lững lờ giữa tầng không. Cũng như
cánh chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi bay về tổ để nghỉ ngơi, đám mây cũng
như muốn ngừng hoạt động.
+ Ý nghĩa liên tưởng: Đám mây lẻ loi giữa bầu trời cũng như sự cô đơn, lẻ
loi của người tù giữa bao la rừng núi.
- Hình ảnh chòm mây trôi chậm giữa bầu trời gợi nên cái cao rộng, trong trẻo,
êm ả của một chiều thu miền sơn cước, tuy nhiên, thiên nhiên như cũng mang
hồn người tâm trạng mỏi mệt, cô đơn của người lữ thứ.
=> Chỉ với vài nét chấm phá, Bác đã vẽ nên một không gian bát ngát, cao
rộng, gợi không khí êm ả, thanh bình vào lúc trời chiều.
=> Vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: tình yêu thiên nhiên và phong thái ung
dung, tự tại, ý chí kiên cường.
- Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại:
+ Thi pháp cổ điển: Hình ảnh ước lệ, tượng trưng, bút pháp chấm phá, tả
cảnh ngụ tình, dùng điểm vẽ diện, lấy tĩnh tả động độc đáo của thơ cổ. Chỉ với
một cánh chim mà tác giả gợi ra một không gian êm đềm, tĩnh lặng của không
gian tạo vật. Chỉ với một chòm mây mà tác giả gợi nên cái bát ngát thi vị của bầu trời.
+ Tinh thần hiện đại: Hình ảnh thơ cổ nhưng gần gũi, tả thực, vận động
hướng về sự sống. Tâm trạng nhà thơ buồn, cô đơn, mệt mỏi nhưng không bi lụy
mà vẫn thiết tha giao hòa, đồng cảm với thiên nhiên bằng những cảm nhận tinh
tế. Thể hiện một tâm hồn ung dung thư thái, tự chủ, hoàn toàn tự do
=> Hai câu thơ vừa ghi lại bức tranh thiên nhiên cao rộng, yên ả của cảnh
trời chiều, vừa thể hiện tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống
của nhà thơ. => Chất thép của bài thơ.
3. Hai cầu sau : Bức tranh sinh hoạt của con người.
- Bức tranh chiều tối trở nên ấm áp và sinh động hẳn lên bởi hình ảnh người
thiếu nữ vùng sơn cước xay ngô bên ánh lửa bập bùng của lò than. “Trích”
- Hình ảnh thiếu nữ xay ngô là trung tâm của bức tranh, thu hút sự chú ý của
người tù. Đó là một vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động. Sự xuất hiện của
thiếu nữ xay ngô khiến cho bài thơ có một bước phát triển mới.
- Nếu như ở hai câu đầu, thiên nhiên đã đi vào sự nghỉ ngơi thì con người vẫn
gợi lên nhịp sống dẻo dai.
- Cảnh ở hai câu đầu rất tĩnh thì đến đây nhờ hoạt động xay ngô của thiếu nữ mà trở nên sinh động hơn.
- Đặc biệt là lò than rực hồng được bàn tay thiếu nữ nhen nhóm lên. Một chút
sáng trong đêm tối cũng nhen nhóm được niềm vui, niềm lạc quan. Một chút ấm
từ màu hồng của lò than, cũng xóa bớt cảm giác lạnh lẽo, cô đơn trong lòng người tù, xa xứ.
- Đằng sau cặp mắt quan sát cảnh là tâm hồn của một người chiến sĩ cộng sản
luôn hướng tới cuộc sống để tìm niềm vui, tăng niềm lạc quan tin tưởng để bước
tiếp trên con đường chuyển lao gian
- Chữ “hồng” và hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ trở thành điểm hội tụ
của bức tranh, kết tinh thành ánh sáng của toàn bài thơ. => Đây là tứ thơ và
cũng là nhãn tự, tạo nên cái thần của bài thơ.
=> Cuộc sống đời thường đã đem lại cho người tù lữ thứ hơi ấm, niềm vui
hướng về cuộc sống. => Chất tình của bài thơ.
- Một lần nữa, tác giả đã kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại:
+ Lấy sáng để tả tối: lấy lò than hồng để nói trời tối.
+ Lấy cảnh tả tình: cảnh sinh hoạt đầm ấm của người dân. => Sự quan
tâm và niềm tin yêu vào cuộc sống của tác giả.
+ Cảnh được miêu tả trong sự chuyển động từ sáng sang tối, từ buồn sang vui.
=> Vẻ đẹp nghị lực, cái nhìn lạc quan luôn hướng về sự sống, ánh sáng của
nhà thơ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.
4. Đánh giá: a) Nội dung:
- Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vào lúc chiều tối nơi núi rừng với
hình ảnh một cánh chim mỏi bay về rừng tìm chốn ngủ, một chòm mây cô lẻ
giữa tầng không mênh mông, một “cô em xóm núi” đang xay ngô bên cạnh ánh
lửa bập bùng của bếp lò than.
- Đằng sau bức tranh chiều tối là vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ - chiến sĩ
Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống; kiên cường vượt
lên mọi hoàn cảnh, luôn ung dung, tự tại và lạc quan trong mọi cảnh ngộ đời sống. b) Nghệ thuật:
- Là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.
- Từ ngữ cô đọng, hàm súc.
- Thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn, nhãn tự “hồng” đặc sắc.
- Ngôn ngữ tả ít, gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. TỪ ẤY II. Thân bài: 1. Khái quát:
2. Khổ 1: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng, cách mạng.

“Từ ấy trong tôi ... qua tim”
- “Từ ấy” đánh dấu thời điểm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Tố Hữu. Ở Tố
Hữu lúc này có sự gặp gỡ của lí tưởng cách mạng, tuổi trẻ và thơ. Cuộc hội ngộ
kì lạ này đã tạo nên chất men say của tình yêu đằm thắm với lí tưởng cách mạng
và cuộc đời. Và trước hết là một niềm vui trong trẻo, tin yêu, nhân hậu, niềm vui bắt gặp lí tưởng.
- Niềm vui này đã được Tố Hữu tả qua nhiều trạng thái cảm xúc thơ. Người
thanh niên đang đi giữa cuộc đời mờ mịt không thấy lối ra, bỗng một ngày kia
một nguồn sáng mới, một niềm tin mới đã giải thoát anh khỏi sự ràng buộc vây hãm.
- Tố Hữu đã rất khéo léo khi kết hợp những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời
chân lí”, “chói qua tim” với các động từ “bừng”, “chói” nhằm khẳng định lí
tưởng cách mạng như nguồn sáng mới bừng chiếu, soi sáng tâm hồn mình.
- Tố Hữu muốn nói đến lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới đã làm
bừng sáng lên trong tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh sáng thu
vàng nhẹ hay nắng xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ.
Tất cả đều trở nên rực rỡ chói lọi.
- Nguồn sáng ấy rực rỡ như nắng hạ, kì diệu như ánh sáng mặt trời tỏa ra những
tư tưởng đúng đắn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản, mở ra trong
tâm hồn người thanh niên một chân trời mới: hiến dâng cho cách mạng.
- Cách dùng hình ảnh ẩn dụ và so sánh trực tiếp: so sánh ánh sáng của lí tưởng
Đảng như “nắng hạ” và “mặt trời chân lí” thể hiện thái độ thành kính, ân tình,
biết ơn của nhà thơ với Đảng.
- Bút pháp tự sự: trần thuật, tình cảm chân thành, tha thiết với cách mạng.
=> Hình ảnh mặt trời chân lí lần đầu tiên được nói đến trong thơ như một
biểu tượng đẹp của cách mạng.
- Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu đến với cách mạng:
“Hồn tôi … tiếng chim…”
- Hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ, so sánh: “Hồn tôi” - “vườn hoa lá”, “đậm
hương”, “rộn tiếng chim” gợi tả một thế giới tràn đầy sức sống (có hoa lá, có âm thanh,...).
- Ánh mặt trời kì diệu đã mang sức sống đến cho thiên nhiên khiến tất cả bừng
dậy như một vườn hoa lá đượm hương thơm và rộn rã tiếng chim ca hát. Âm
thanh, màu sắc, hương vị tạo được sự hòa hợp.
- Chưa có một niềm vui nào đến với tuổi trẻ lại tạo được sự đổi thay đến như
vậy. => Lí tưởng cách mạng đã đem lại cho tâm hồn thơ một cảm hứng sáng tạo mới.
- Tố Hữu đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón nhận ánh sáng mặt trời. Cỏ
cây xanh tươi nhờ ánh nắng mặt trời còn nhà thơ thêm yêu đời và thấy cuộc đời
có ý nghĩa là nhờ ánh sáng của lí tưởng Đảng.
- Bút pháp trữ tình lãng mạn kết hợp với hình ảnh so sánh độc đáo đã giúp nhà
thơ diễn đạt thành công cảm xúc sung sướng hạnh phúc và niềm biết ơn vô hạn
hướng về lí tưởng của Đảng.
=> Đoạn thơ thể hiện tình cảm chân thành, trong trẻo và hết sức nồng nhiệt
của một thanh niên lần đầu tiên được tiếp nhận lí tưởng của Đảng, tìm được
hướng đi đúng đắn cho đời mình.
3. Khổ 2: Nhận thức mới về lẽ sống.
“Tôi buộc … khối đời”
- Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần
chúng lao khổ. Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới tiếp nhận được từ
quần chúng lao động, không phải chỉ trong nhận thức mà bằng tình cảm mến
yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim.
- “Buộc”: ý thức tự nguyện sống chan hòa với mọi người.
- “Trang trải”: tâm hồn tác giả trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm
sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
=> Các từ "buộc", "trang trải", "gần gũi" đều nói lên sự gắn bó, gắn bó bằng tình
yêu thương, bằng tấm lòng với những người lao khổ, nạn nhân của cuộc đời cũ.
- Khi được giác ngộ lí tưởng Tố Hữu đã nhận thức được lẽ sống mới: tự nguyện
hòa “cái tôi” cá nhân vào “cái ta” chung của mọi người, trải rộng tình cảm với
đời, đồng cảm với nỗi khổ của con người.
- Điều đặc biệt là tình yêu thương của người trí thức tiểu tư sản đã hướng đến
quần chúng lao khổ với mục đích đoàn kết tăng thêm sức manh của khối đời để
đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Ở hai câu cuối của đoạn thơ, tác giả nhấn mạnh tình yêu thương của con người
là tình cảm hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ.
=> Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức
mà còn bằng tình cảm yêu mến và sự giao cảm của trái tim mình với mọi
người, khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống.
4. Khổ 3: Sự chuyển biến trong tình cảm.
- Những ý thơ của tác giả viết về người nghèo khổ thật tha thiết chân tình.
Không chỉ là tình ái giai cấp mà còn là tình thân yêu ruột thịt:
“Tôi đã là … cù bơ”
- Lí tưởng Cộng sản đã giúp cho nhà thơ không chỉ có lẽ sống mới mà còn vượt
qua được những tình cảm ích kỉ hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình
hữu đi giai cấp với quần chúng lao khổ bằng một yêu thương ruột thịt.
- Điệp từ “là” kết hợp với “con”, “em”, “anh” cùng số từ ước lệ “vạn” mang ý
nghĩa nhấn mạnh và khẳng định tình cảm gia đình đầm ấm, thân thiết.Tố Hữu
không chỉ đến với quần chúng lao khổ mà còn xem mình là một thành viên của đại gia đình ấy.
- Bên cạnh đó, sự kết hợp này cò biểu hiện sự đồng cảm, tấm lòng xót thương
chân thành của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ, nhận thức sâu sắc
mối quan hệ cá nhân với quần chúng.
- Đến với cuộc đời cần lao chính là đến với người anh em ruột thịt của mình.
Trong cuộc sống còn hàng vạn kiếp sống phôi pha, hàng vạn những em nhỏ sống
cù bất cù bơ. Cuộc đời đang chứa chất biết bao bất công căm giận.
- Từ ngữ gợi cảm: “kiếp phôi pha” chỉ những người đau khổ bất hạnh, dãi dầu
mưa nắng để kiếm sống; “cù bất cù bơ” là không nơi nương tựa phải lang thang
vất vưởng. => Tố Hữu không chỉ thương xót những người dưới đáy cùng
của xã hội mà còn vì họ hăng say hoạt động cách mạng. => Họ chính là đối
tượng của hàng loạt bài thơ Tố Hữu sáng tác trước Cách mạng Tháng Tám.
- Quan điểm của Tố Hữu cũng chính là quan điểm của giai cấp vô sản:
“Quyết chiến đấu nào ta liên hiệp lại
Hỡi những tù nhân khốn nạn của bần cùng” (Liên hiệp lại) 5. Đánh giá: a) Nội dung:
- Bài thơ diễn tả một cách cảm động niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt
gặp lý tưởng của Đảng.
- Kèm theo đó là những nhận thức mới mẻ về lẽ sống và sự chuyển biến sâu sắc
trong tình cảm của nhà thơ khi ông được đứng vào hàng ngũ của Đảng. b) Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, cách ngắt nhịp thay đổi liên tục theo cảm xúc, có sức ngân vang.
- Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ tăng sức biểu cảm cho thơ.
- Hình ảnh thơ tươi sáng, giàu ý nghĩa tượng trưng.
- Giọng thơ sảng khóa, nhịp điệu thơ hăm hở.