



















Preview text:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM HỌC KỲ 
I NĂM HỌC 2021- 2022 
Câu 1: Vì sao nói “Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu của sự phát triển” ? Ý 
nghĩa của nhận định trên trong bối cảnh Việt Nam hiện nay? Văn hóa tác động 
như thế nào tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường? Phân tích và lấy  ví dụ minh họa. 
 Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu của sự phát triển 
Trước hết chúng ta cần hiểu văn hóa là gì? Theo UNESSCO đưa ra định nghĩa: 
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người 
sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển”. Trong Nghị quyết Trung ương 
5 khóa VIII, Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật 
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình 
dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền 
văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam dã hun đúc 
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân  tộc.  - 
Mục tiêu của xã hội Việt Nam là: dân giàu nước manh, xã hội công  bằng,  - 
Mục tiêu của xã hội Việt Nam là: dân giàu nước mạnh, xã hội công 
bằng, dân chủ văn minh chính là mục tiêu của văn hóa.  - 
- Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con  - 
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con 
người, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã 
hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Phát triển hướng tới mục 
tiêu văn hóa – xã hội mới đảm bảo sự bền vững và trường tồn.  - 
Mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện 
trìđộ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm 
cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là  - 
Mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện 
trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, 
làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa 
là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc 
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân 
văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi 
dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn 
xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là 
mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là     
một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây  dựng  - 
Xác định văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức  - 
Xác định văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức 
đúng bản chất của văn hóa và quan niệm đúng về sự phát triển, bởi mục 
tiêu cuối cùng của một xã hội có một nền văn hóa tiên tiến chính là phát 
triển con người, đó cũng chính là quy luật phát triển của lịch sử. Con 
người đó phải là con người thật sự có hạnh phúc, đó là con người toàn 
diện theo chuẩn mực giá trị văn hóa. Con người là yếu tố quyết định 
nhất của sự phát triển kinh tế xã hội, mà nguồn lực này lại nằm trong 
văn hóa bởi văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người. cho nên xây 
dựng nền văn hóa VN cũng chính là xây dựng và phát huy nguồn lực 
con người, đó là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển. tiềm năng 
sángtạo của con người chính là tiềm lực văn hóa xã hội, nên khi xây 
dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải lấy việc phục 
vụ con người là mục đích, lấy văn hóa là mục tiêu và động lực. con 
người đã sáng tạo văn hóa thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của 
chính mình, khi đó con người là chủ thể của văn hóa. Nhưng đồng thời 
những giá trị văn hóa lại phục vụ cho mục đích nâng cao giá trị cuộc 
sống của con người, khi đó con người là khách thể của văn hóa.  - 
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân 
tộc, gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện môi trường xã 
hội nhằm giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hóa của Việt Nam là 
tổng hợp bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN, 
thể hiện qua những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những 
giá trị văn hóa tinh thần, qua thế ứng xử trong quan hệ với tự nhiện và 
xã hội. Cái chung của văn hóa VN để làm nên bản sắc dân tộc, làm nên 
tính thống nhất của văn hóa chính là các dân tộc cùng một cội nguồn từ 
nền văn hóa bản địa, có mẫu số chung là nền văn hóa lúa nước. Cùng 
sinh tụ lâu đời trên một khu vực địa lý, cùng chịu sự tác động của những 
điều kiện tự nhiên, nhưng với sự phát triển trong những không gian văn 
hóa khác nhau, văn hóa dân tộc vừa có sự tiếp thi các yếu tố văn hóa 
của các dân tộc khác, vừa lưu trữ yếu tố nội sinh đã trở thành truyền  thống, bản sắc  - 
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân 
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc dân tộc, gắn 
liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện mội trường xã hội nhằm 
giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hóa của VN là tổng hợp bản sắc 
văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN, thể hiện qua 
những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những giá 
 Văn hóa tác động tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường Đối với 
phát triển kinh tế:     
Thứ nhất, văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế là kết 
quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của kinh tế. Thực tiễn ngày càng cho 
thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa 
không chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế. 
Mỗi nấc thang của tăng trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn 
hóa phát triển lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
Thứ hai, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển kinh 
tế. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, vì phát triển kinh tế để phát triển con người. 
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh phúc và phát triển 
toàn diện. Vì vậy, văn hóa đóng vai trò là mục tiêu trước mắt và lâu dài của sự phát 
triển kinh tế. Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết vì nó là nền 
tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu cứu cánh mà nó đặt ra cho tất cả 
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển kinh tế đều phải 
hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản nhất là bảo vệ con người, 
phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bất cứ chính sách, 
biện pháp kinh tế nào về sản xuất, luu thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm 
hàng hóa đều phải thực hiện mục tiêu cao nhất đó yêu cầu cơ bản đó, tức là vì chính 
lợi ích của con người. Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất 
phát từ văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao. Bằng 
nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng ta có thể làm chủ 
được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào hoạt động kinh tế theo 
chiều sức mạnh thúc đẩy. 
 Thứ ba, văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định. Văn hóa phát triển tương 
xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách toàn diện. Văn hóa và tăng trưởng 
kinh tế là mối quan hệ đa chiều. mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng 
lực khác nhau. Với luận điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng 
xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng 
lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. 
Chính vì thế mà văn hóa sẽ là điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát 
triển ổn định. Thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có sự phát 
triển kinh tế bền vững. 
Đối với phát triển xã hội: 
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội. 
Điều tiết xã hội: Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn làm 
tròn trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội. 
Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững hiện nay. 
Điều quan trọng nhất khi nói văn hóa là nền tảng tinh thần bởi văn hóa có chức 
năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi     
của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị, chuẩn mực đó được 
truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở 
thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, 
luật pháp, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán, 
lối sống, tạo nên cái cốt, cái hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi 
nói bản sắc văn hóa của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu 
nước với những khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng 
lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập, tự do. 
Những giá trị đó là truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế thừa và phát 
triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của dân tộc. 
Thứ hai: Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội. Chìa khóa của sự 
phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những nhân tố như: Nguồn lực 
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công nghệ, nguồn lực con 
người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ chốt. Chiến lược phát triển 
bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8 nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình 
phát triển, thì quy nguyên tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên là con người, nguồn 
lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá. 
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn 
nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu 
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán 
trong mọi giai đoạn phát triển. 
Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con người mới, có đủ phẩm chất, năng lực 
đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất cần thiết trong quá trình phát triển bền vững. 
 Thứ ba, hệ Giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa tác động mạnh đến quá trình phát 
triển xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để 
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tinh 
thần nhân văn nhân đạo xây dựng một xã hội toàn diện hơn. 
Đối với bảo bệ môi trường: 
Thứ nhất, văn hóa xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên là 
vấn đề chính cần quan tâm để đảm bảo tốt nhất môi trường sống của con người. 
Nam đã có mối liên hệ đặc biệt , phụ thuộc vào tự nhiên. Vì vậy, con người có mối 
quan hệ gắn bó vô cùng mật thiết với tự nhiên. Tự nhiên chính là môi trường sống 
của con người. Môi trường sống không chỉ cung cấp những điều kiện cơ bản cho 
con người sinh hoạt như: ăn, mặc, ở… Như vậy, có thể nhìn nhận thấy tầm quan 
trọng của môi trường tự nhiên đối với con người. Trong quá trình phát triển bền 
vững, vô tình sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại đến môi trường tự nhiên. 
Điều này sẽ đe dọa đến sự sống của con người. Con người luôn nhận thức rõ mối 
quan hệ hài hòa của mình với tự nhiên. Cần phải giữ gìn và bảo vệ tài nguyên là 
vấn đề cấp bách để có thể phát triển bền vững.     
Thứ hai, xây dựng con người tự ý thức, tự giác đối với việc bảo vệ môi trường là 
vai trò quan trọng của văn hóa. đang trở thành thách thức. bảo vệ môi trường đang 
trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của chính con người Việt Nam- 
được hiểu như quá trình không ngừng mở rộng cơ hội và nâng cao năng lực lựa 
chọn cho con người. Thứ nhất, sức khỏe, tính mạng người dân bị đe dọa trực tiếp 
do tình trạng nhiễm khuẩn không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng phát dịch bệnh. 
Thứ hai, suy thoái môi trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên tái sinh nuôi sống 
con người như biển, sông, hồ, đất màu, rừng,... Thứ ba, bất bình đẳng xã hội gia 
tăng do những doanh nghiệp gây ô nhiễm tạo ra chi phí kéo theo về bệnh tật, giảm 
thu nhập lên những người khác, đặc biệt là nhóm yếu thế như người nghèo, dân cư 
các vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số… Thứ tư, khủng hoảng môi trường, 
thiên tai bùng phát, biến đổi khí hậu đe dọa an ninh, tính mạng và tài sản của con 
người. Chính vì vậy xây dựng ý thức tự giác của con người đối với việc bảo vệ môi 
trường chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đến sự sống còn của con người. Văn hóa 
xây dựng ý thức tự giác của con người, trước hết bởi chức năng nhận thức của nó. 
Con người là trung tâm của văn hóa, tất cả hành vi, hoạt động của con người đều 
liên quan đến văn hóa. Văn hóa tạo dựng cho con cách ứng xử thân thiện với môi 
trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với 
thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, 
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, 
lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường. 
Câu 2: Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa du mục và văn hóa nông 
nghiệp qua một số đặc trưng văn hóa. Hiện nay, dịch Covid đang bùng phát 
mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới. Phân tích sự tác động của văn hóa tới 
cách ứng phó với Covid khác nhau tại một số quốc gia trên thế giới.  Tiêu chí    Văn hóa nông  Văn hóa du mục  nghiệp 
Đặc trưng Địa hình 
Đồng bằng(ẩm,thấp) Đồng cỏ( khổ cao)  gốc  Nghề chính  Trồng trọt  Chăn nuôi  Cách sống  Định cư  Du cư  Ứng xử với  
Tôn trọng, sống hòa Coi thường, tham vọng  môi trường  hợp với thiên nhiên  chế ngự thiên nhiên    tự nhiên            Lối nhận 
Thiên về tổng hợp và Thiên về phân tích và siêu  thức tư duy 
biện chứng (trọng hình (trọng yếu tố); khách 
quan hệ); chủ quan, quan, lý tính và thực  cảm tính và kinh nghiệm  nghiệm 
Tổ chức cộng Nguyên tắc tổ  Trọng tình, trọng 
Trọng sức mạnh, trọng tài,  đồng  chức 
đức, trọng văn, trọng trọng võ, trọng nam  nữ 
Cách thức tổ Linh hoạt và dân 
Nguyên tắc và quân chủ,  chức CĐ 
chủ, trọng cộng đồng trọng cá nhân  Ứng xử với  
Dung hợp trong tiếp Độc tôn trong tiếp nhận;  môi trường 
nhận; mềm dẻo, hiếu cứng rắn, hiếu thắng trong  xã hội  hòa trong đối phó  đối phó  Tiêu chí   
Văn hóa gốc phương Văn hóa gốc phương Tây  Đông  Cơ sở hình   
Khí hậu nóng ẩm Khí hậu lạnh khô, địa hình  thành 
mưa nhiều,sông ngòi chủ yếu là thảo nguyên 
chằng chịt , đồng thích hợp cho chăn nuôi 
bằng phì nhiêu màu phát triển. 
mỡ nông nghiệp => Văn hóa chăn nuôi du 
trồng trọt phát triển. mục.  => Văn hóa nông  nghiệp trồng trọt  Đặc điểm   
-Sống định cư, không -Sống du cư .nên có thói  thích di  quen thích di chuyển  chuyển  =>trọng động.  => Trọng tĩnh  –  Tham vọng chinh  – 
Tôn thờ sùng phục,chế ngự tự nhiên.  bái tựnhiên mong –  Yếu tố cá nhân được 
muốn hòa hợp với coitrọng .  thiên nhiên. 
=> Hình thành lối sống  –  Cuộc 
sống thích ganh đua, cạnh 
định cưtạo nên tính tranh,ứng xử độc đoán  cộng đồng cao.  trong giao tiếp.  =>Hình thành lối  –  Chăng nuôi du mục 
sống trọng tình,trọng hìnhthành kiểu tư duy phân  văn trọng phụ nữ. 
tích chú trọng vào từng yếu  -Phương thức sản tố.  xuất phụ thuộc vào  –  Do kiểu tư duy này  nên         
nhiều yếu tố tự nhiên hình thành lối sống trọng 
nên hình thành kiểu lý, ứng xử theo nguyên tắc. 
tư duy tổng hợp biện => Thói quen tôn trọng  chứng. 
pháp luật vì vậy mà hình 
-Do tư duy tổng hợp thành rất sớm ở phương 
biện chứng nên hình tây.  thành thái độ ứng xử  linh hoạt mềm dẻo  Phân tích :  
Như ta biết Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo và có rất nhiều tín ngưỡng lạ được 
người dân sung bái và tin tưởng. Trong khi dịch covid 19 ở Ấn độ đang có diễn 
biến rất căng thẳng và phức tạp, mỗi ngày nước này lên đến 100 nghìn ca nhiễm 
covid thì có rất nhiều người dân vẫn chủ quan tổ chức những lệ hội có sự tham gia 
của đám đông bất chất sự ngăn cản của chính phủ. Khi mà chính phủ kêu gọi người 
dân hãy ở nhà và chỉ ra ngoài khi cần thiết thì lại có hàng nghìn người theo các tôn 
giáo khác nhau đã đổ ra sông Hằng tham gia nghi lễ tắm sông bất chấp sự lây lan 
dịch bệnh. Ấy vậy ở một nghi lễ đông đúc và chen lấn như thế họ lại không đeo 
khẩu trang, không giãn cách, điều này đã làm cho một làn sóng dịch covid tăng cao 
ở đất nước bắt nguồn từ dòng sông Ấn này. Một người Ấn đã chia sẻ họ không sợ 
trận đại dịch này vì họ tin rằng các nghi lễ tắm sông sẽ giúp họ được các vị thần 
bảo vệ, che chở, nước sông Hằng sẽ giúp họ thanh tẩy đi những bụi bẩn, vi khuẩn 
và có thể khiến họ chống lại covid 19. Khi người dân trên thế giới đều không đồng 
tình với nghi lễ này thì người Ấn vẫn tin vào niềm tin và tín ngưỡng của mình, 
cũng vì thế mà Ấn độ đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mĩ về số người mắc covid 
Hay như ở các nước châu Âu cũng vậy, vốn từ đầu người châu Âu đã có tư tưởng 
thoáng hơn châu Á rất nhiều, họ luôn thích tự do, ghét những việc bị bắt ép và hay 
chống đối chính phủ. Chính tư tưởng thoáng này mà số người nhiễm covid ở nước 
châu Âu đã tăng cao một cách chóng mặt, chỉ trong một tuần ngắn ngủi, khi mà 
Việt Nam chưa đến 1000 ca trên cả nước thì ở các quốc gia ở trời Âu đã có trăm 
nghìn ca mắc mỗi ngày. Nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ở chỗ WHO công 
bố đại dịch trên toàn cầu quá muộn khiến chính phủ của các nước châu Âu có sự 
chủ quan không hề nhẹ, chính việc này đã làm lỡ mất thời điểm vàng để ngăn chặn 
dịch bệnh. Còn tại Việt Nam thì ngay từ khi biết Trung Quốc có ca nhiễm và Việt 
Nam có ca mắc đầu tiên, nhà nước đã ngay lập tức cho dừng tất cả hoạt động và 
giãn cách toàn xã hội, học sinh thì học online và người lớn cũng làm việc ở nhà. 
Thời điểm đầu của dịch chính phủ Anh đã từng từ chối các hoạt động chống dịch, 
thậm chí tổng thống Donald Trump còn phát ngôn rằng mình sẽ không đeo khẩu 
trang vì xung quanh không có ai nhiễm covid, từ sợ lơ là này đã làm cho người dân 
có nhận thức sai lệch về bệnh dịch, rất nhiều người dân Anh đã coi thường, chỉ 
nghĩ nó là một bệnh cúm mùa, có thể chữa khỏi. Mọi người đã không đeo khẩu     
trang và vẫn tham gia các hoạt động cộng đồng chỉ đến khi chính phủ nước Anh 
phong tỏa 4 tuần thì người dân mới dần ý thức được tính nghiêm trọng của sự việc. 
Khi mà người dân Việt Nam chấp hành giãn cách xã hội và nghe theo các chỉ thị 
của nhà nước thì ở một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Itali..một bộ phận người 
dân lại đi biểu tình phản đối các lệnh cấm của chính phủ cũng như không đồng ý 
với việc tiêm vaccine làm dấy lên một làn sóng mạnh mẽ phản đối chính phủ và là 
nguyên nhân của số ca nhiễm tăng cao đột ngột. 
Mặc dù mỗi người đã được tiêm 2 mũi vaccine nhưng dường như người Việt ta vẫn 
còn rất e dè với dịch bệnh và ngại đi đến những nơi đông người có thể là vì những 
tổn thất và mất mát quá lớn của nước ta khi bắt đầu đại dịch đã khiến nhiều người 
sợ hãi và trở thành nỗi ám ảnh hoặc do chủ chương cứng rắn cương quyết của chính 
phủ ta như ín sâu vào tâm trí mỗi người. Ngược lại với đó, các nước ở châu Âu 
quay lại với cuộc sống bỉnh thường mới rất sớm, mặc kệ số ca nhiễm có tăng mỗi 
ngày cũng không cản trở họ tham gia các hoạt động xã hội. Họ tin rằng covid đã 
trở thành một bệnh cúm mùa và không gây nguy hiểm đến tính mạng. 
Câu 3: Tại sao “làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ”? Phân tích 
những nét đặc sắc của “văn hóa làng” Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập 
quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa làng có sự biến đổi như thế nào? 
Cần phải làm gì để giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập  quốc tế? 
• “làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ” vì 
 Làng xã Việt Nam xuất hiện từ cuối thời Nguyên Thủy, đầu thời dựng nước. 
Chính vì thế làng là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nước. 
- Làng tồn tại tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão và trọng nữ 
- Dưới các vương triều phong kiến, làng là đơn vị hành chính quốc gia, 1 
xã có thể có 1 hoặc nhiều làng. 
- Nhìn tổng thể làng xã Việt Nam truyền thống mang nhiều đặc điểm chung 
+ Cộng đồng cố kết chặt 
+ Cấu trúc phân tầng sâu sắc 
 Làng có tính tự quản, tính cộng đồng có cơ sở làm nền móng cho truyền thống 
- Địa giới về mặt hành chính: các làng ngăn cách nhau bởi cổng làng, các 
con sông, đê…như tạo thành một quốc gia thu nhỏ - Kinh tế ở những làng 
thuần nông là kinh tế bán tự túc - Chính trị: tồn tại song song 2 hình thức  chính quyền.     
- Làng cũng có thủ lĩnh, bộ máy tổ chức, nơi làm việc của lãnh đạo như 
một quốc gia. Người đứng đầu của làng là ông lý trưởng, kì mục, già làng 
trưởng bản. Các cuộc họp làng thường được diễn ra ở đình làng. 
 Làng xã còn là cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa truyền thống 
- Tôn giáo: mỗi làng sẽ có một Thành Hoàng Làng riêng – vị thần che chở 
và bảo vệ cho ngôi làng, người dân sẽ thờ cúng Thành Hoàng Làng. 
- Không gian linh thiêng của làng là đình, chùa, miếu, nghĩa trang 
- Trong làng người dân thường sống theo phong tục tập quán cổ truyền 
mềm dẻo đối trọng với pháp nước cứng rắn 
- Nếu như mỗi quốc gia đều có một biểu tượng riêng thì làng cũng vậy. 
Mỗi làng có một biểu tượng riêng gắn với hình ảnh làng, ví dụ như cây 
tre, bến nước, sân đình là nơi mọi người truyện trò, sinh hoạt tập thể 
- Mỗi làng sẽ có một thổ ngữ riêng 
- Làng cũng có luật lệ, được gọi là hương ước, luật làng thường do những 
người đứng đầu lạng lập ra 
- Giáo dục: trẻ em sẽ được giao cho thầy đồ dạy, thầy đồ sẽ được làng chu  cấp 
- Trong năm làng tổ chức nhiều đám rước, đám tế, lễ hội, có những bữa cỗ 
tập thể đình đám như tục hương ẩm, dịp khao vọng, cheo cưới đều thu 
hút đông đảo mọi tầng lớp trong làng tham gia, nghiêm trang, vui vẻ 
nhưng lãng phí, hình thức thì hủ tục. 
• Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa 
làng có sự biến đổi 
- Biến đổi không gian làng: 
Từ xa xưa, làng ở các vùng châu thổ Bắc Bộ có đặc trưng không gian tương đối 
khép kín, lũy tre bao quanh được xem như ranh giới giữa không gian cư trú và 
không gian sản xuất của làng. Trong thời đại ngày nay, quá trình công nghiệp hóa 
hiện đại hóa diễn ra liên tục, cùng với sự thu hẹp đáng kể của diện tích đất nông 
nghiệp đã làm không gian cảnh quan ở các làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không 
gian cư trú truyền thống được định vị theo các xóm, ngõ là những những hình thức 
tập trung dân cư mới theo nghề nghiệp: những xóm mới, phố làng mới… khiến cho 
không gian cư trú và không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với 
nhau, không phân biệt rõ ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng có vai 
trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa 
hiện cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như 
nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các công trình như trường học, nhà văn hóa, sân 
chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao thông 
quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị. Ta có thể     
thấy, không gian cảnh quan ở các làng quê hiện đại đã không còn khép kín mà ngày 
càng trở nên mở, linh hoạt hơn… - Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã 
Cùng với những tác động và ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng xã và những mối quan hệ xã hội liên quan ở 
các làng quê hiện nay cũng đang chứng kiến những thay đổi rõ nét. Sự đa dạng hóa 
và khác biệt về lao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu tiên riêng của các 
thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành viên trong gia đình 
ngày càng ít đi. Sự gắn bó, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên, gia đình trong 
họ tộc, hàng xóm láng giềng, nhất là mỗi khi có công việc quan trọng như tang ma, 
cưới xin tuy vẫn được coi trọng, duy trì nhưng không còn đóng vai trò là nhân tố 
thiết yếu như trước đây 
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề 
nghiệp, việc làm khiến cho ai cũng bận rộn với công việc riêng của mình, mọi 
người ít thời gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia. Bên cạnh đó 
đời sống vật chất ngày càng được nâng lên, những ngôi nhà kín cổng cao tường 
ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt động, gặp gỡ, trò chuyện giữa những người 
hàng xóm với nhau bị hạn chế, dẫn đến nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi 
thân tình thì nay trở nên xa cách hơn. Ngày nay mạng lưới dịch vụ ngày càng được 
mở rộng, phát triển ở các làng quê khiến cho nhiều người có thói quen sử dụng các 
dịch vụ, tiện ích có sẵn mỗi khi có công việc thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ từ họ 
hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc, ràng buộc 
của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những người hàng xóm có  xu hướng suy giảm 
- Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán 
Đời sống kinh tế của người dân ngày càng khởi sắc vì thế mà người dân ở các làng 
quê có điều kiện quan tâm hơn đến việc bảo tồn giữ gìn các di tích cũng như phục 
dựng các lễ tiết, lễ hội của làng. Các di tích được đầu tư nhiều tiền của, công sức 
tu bổ, làm mới, được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của 
cộng đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất là lễ hội cổ truyền được tiếp 
nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức và nhân lực 
tham gia không ngừng được tăng cường, xã hội hóa. Bên cạnh các nghi lễ, trò vui 
truyền thống, lễ hội làng cũng được bổ sung nhiều hoạt động mới mang hơi thở 
cuộc sống đương đại, các trò chơi giải trí, hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ đặc  sắc. 
Phong tục tập quán, lối sống của người dân ở làng quê có sự biến đổi rõ nét khi 
ngày càng ít người làm lĩnh vực nông nghiệp, cùng với đó là xu hướng đa dạng hóa 
trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Dường như nhịp sống, lối sống của dân làng 
cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn, việc tuân thủ giờ giấc được chú trọng với 
tác phong nhanh nhẹn, năng động vì một bộ phận dân cư đã chuyển hẳn sang các 
hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ, làm công nhân trong các khu công     
nghiệp. Người dân ở các làng quê ngày nay cũng quen với tư duy cần gì là có thể 
mua được chứ không cần chạy sang làng xóm vay, mượn như trước kia. Chính vì 
lẽ đó mà xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ, thị trường, coi trọng sự 
minh bạch, song phẳng song lối sống nghĩa tình vẫn không hề bị mất đi. 
Các phong tục tập quán truyền thống như ma chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được 
coi trọng, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng đã có sự giản lược và cải 
biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng như những nghi lễ phức 
tạp, rườm rà để phù hợp với nhịp sống, lối sống công nghiệp, đô thị 
- Biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin và giải trí 
Hiện nay hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng thôn xóm, hệ 
thống thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa dạng của người 
dân, các gia đình ngày càng sử dụng phương tiện nghe nhìn hiện đại như tivi, radio, 
điện thoại máy tính có kết nối internet…Xuất hiện nhiều hoạt động, loại hình câu 
lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe, 
hưởng thụ cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó những hình thức giải trí, sử dụng 
thời gian nhàn rỗi vốn thường thấy ở các dân cư đô thị như mua sắm, tham quan, 
du lịch cũng dần phổ biến trong đời sống cộng đồng dân cư ở các làng quê. 
Tuy nhiên bên cạnh những biến đổi tích cực, quá trình công nghiệp, hiện đại hóa 
cũng cho thấy những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sốn dân cư ở làng quê hiện nay: 
việc sử dụng đất nông nghiệp tùy tiện, lãng phí ở nhiều nơi dẫn tới tình trạng dư 
thừa lao động, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của một bộ phận người dân; 
tình trạng san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng sự yếu kém trong xử lý 
nước thải, rác thải... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh 
hưởng đến cảnh quan nông thôn và đời sống, sức khỏe của nông dân. Ngoài ra, có 
thể thấy, ở nhiều làng quê, mặc dù bắt nhịp được với quá trình chuyển đổi, nhưng 
với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân cư trong làng đã nảy sinh nhiều 
vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội... 
• Một số những giải pháp cụ thể sau đây: 
- Một là, chúng ta phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng 
cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản 
sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 
một cách chủ động, tích cực và tự giác trong mỗi người. 
- Hai là, bản thân chúng ta phải thích nghi dần với văn hóa công nghiệp, phải 
có những thay đổi phù hợp, không chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa phù  phiếm 
- Ba là, phải biết tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân 
loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc dân     
tộc của nền văn hóa Việt Nam. Phải bảo tồn giữ gìn các truyền thống tốt đẹp 
của người Việt như: lòng yêu nước, đoàn kết, tự tôn dân tộc, thương người,… 
- Bốn là, mỗi người nên không ngừng học tập để nâng cao nhận thức của bản 
thân trong quá trình hội nhập quốc tế. Chúng ta càng hiểu biết, nội lực của 
ta càng mạnh thì ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc 
và hợp tác với các nền văn hóa khác nhau mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa  truyền thống. 
- Năm là, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không 
gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc. 
Câu 4: Khái quát những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa 
Việt Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới? Trong bối cảnh Đảng 
và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực, văn 
hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề gì? Vì sao?  
 Những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt 
Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới 
- Thành tựu văn hóa Việt – Hán 
Trung quốc đã đô hộ nhân dân ta trong 1000 năm, trong khoảng thời gian đó văn 
hóa Trung Hoa đã có nhiều ảnh hưởng không hề nhỏ đến đất nước ta. Sự giao lưu 
văn hóa đã diễn ra thông qua hai con đường đó là cưỡng bức và phi cưỡng bức. 
Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống của người 
Việt. Người Việt đã có sự kế thừa chọn lọc các văn hóa tốt đẹp của người Trung và 
chuyển hóa nó để phù hợp văn hóa mình: 
+ Về tôn giáo và đời sống tâm linh: Trung Quốc cũng có rất nhiều những 
giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng đến 
Việt Nam như Phật giáo đại thừa, các hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo… 
và cho đến nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong học tập, 
đời sống, nghiên cứu hay quản lý nhà nước.  + Về thế giới quan: 
 Thuyết Âm Dương Ngũ Hành có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ xưa, bắt 
đầu từ thời Hoàng Đế (2897-253 trước công nguyên), tương đương 
thời 18 đời vua Hùng tại Việt Nam. Không một nhà sử học nào có thể 
chắc chắn về thời điểm thuyết âm dương du nhập vào Việt Nam nhưng 
tất cả tài liệu đều cho rằng người Việt Nam đã nhận thức được về Âm 
dương từ rất sớm và đã biết vận dụng vào đời sống hàng ngày. 
 Không những vậy trong thời kì Bắc thuộc chúng ta còn bị ảnh hưởng 
từ Trung quốc bởi cách dùng lịch âm. Âm lịch là loại lịch có nguồn 
gốc tại Trung Quốc cổ xưa. Qua các thời đại nhà Lý, nhà Trần, nhà 
Hồ và nhà Lê, có nhiều giai đoạn người Việt ta vẫn sử dụng lịch của     
Trung Quốc nhưng cũng có nhiều thời kì chúng ta tự tính âm lịch của 
mình cho đúng. Tuy dựa vào các nguyên tắc chung nhưng vì cách áp 
dụng nguyên tắc tính lịch khác nhau nên âm lịch Việt Nam và Trung 
Quốc có nhiều điểm khác biệt. 
 Học thuyết tam tài hình thành từ thời cổ đại Trung Quốc và chi phối 
đến tư tưởng quan điểm của đại bộ phận cư dân nông nghiệp nguyên 
thủy. Học thuyết này đề cao mối quan hệ hài hòa giữa trời-người-đất., 
con người vừa chịu ảnh hưởng của trời đất vừa tác động ngược trở lại 
trời đất tạo thành một thế rất vững vàng. Dần dần thuyết tam tài này 
đã du nhập vào Việt Nam và nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa 
Việt Nam như: muốn năm đó mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa 
thì người dân ta thường hay làm các các lễ cúng trời đất, dâng lên trời 
đất như lễ vật như lợn, trâu để tỏ lòng biết ơn của mình với thiên địa. 
+ Về chuẩn mực đạo đức 
 Một trong những ảnh hưởng nổi bật của văn hóa Trung Hoa vào văn hóa 
Việt Nam là chuẩn mực đạo đức với quan điểm của Nho giáo như Tam 
cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là vuatôi, cha-con, 
chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất 
dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc 
trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có 
đạo đức. Và cho đến ngày nay những chuẩn mức đạo đức này vẫn được 
người Việt Nam đề cao, lấy đó làm gốc rễ để dạy bảo con cháu qua các 
thế hệ, góp phần giúp nước ta có nhiều người tài đức, giúp đất nước ngày  càng hưng thịnh. 
 Nho giáo cũng cho ra nội dung giáo dục đối với người phụ nữ thông qua 
thuyết Tam tòng, Tứ đức. Học thuyết này được truyền vào nước ta thời 
kì Bắc thuộc. Khi vào Việt Nam nó đã được cải biến đi cho phù hợp với 
tính chất ôn hòa của người việt. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng rất sâu 
sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt 
Nam, nó giúp giá trị của người phụ nữ được nâng cao, giúp người 
phụ nữ hoàn thiện vẻ đẹp hình thức và nội dung đáp ứng được yêu cầu 
phát triển của xã hội. 
+ Về ngôn ngữ: Ngay từ khi xâm lược nước ta và trong suốt một ngàn năm 
phương Bắc đô hộ, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch đồng hóa, áp đặt chúng 
ta sử dụng chữ Hán với ý nghĩa như chữ quốc ngữ. Tuy nhiên mưu đồ này đã 
bất thành vì ngươi Việt dùng chữ Hán nhưng đã sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của 
mình đó là chữ Nôm. Sự ra đời của chữ Nôm trên cơ sở cải biến từ chữ Hán 
được xem là một thành tựu quan trọng của văn minh Đại Việt. Bởi chữ Nôm 
vừa mang đậm tính dân tộc nhưng cũng chứa đựng văn hóa dân gian ở trong 
đó. Do đó, chữ Nôm cũng được xem là Quốc ngữ, quốc âm của VN thời đó. 
Mặc dù vậy ta cũng không thể phủ nhận sự chi phối, ảnh hưởng của chữ Hán     
tới hệ thống văn học nghệ thuật. Từ chữ Hán, tiếng Hán mà ở Việt Nam biết tới 
thể thơ Đường Cổ trong văn học Trung Hoa + Về ăn, mặc, ở: 
 Sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực của Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn 
tới nền ẩm thực Việt Nam. Trong đó có nhiều món của người Việt được 
biến tấu từ ẩm thực Trung Hoa như vịt quay, bún nước, lẩu,.. Có nhiều 
gia vị của ta cũng bắt nguồn từ Trung Quôc như dầu hào, xì dầu, dấm 
trắng, cam thảo, dầu mè… 
 Sau 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục cổ Việt Nam 
có nhiều nét tương đồng với Han Fu – một loại quần áo cổ trang của 
Trung Quốc từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà 
Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới. 
 Trung Quốc vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới 
như Vạn Lý trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Khi 
du nhập vào Việt Nam, các hình thức nghệ thuật này không chỉ là sự kế 
thừa mà nó còn là sự phát triển, giao thoa cùng với đặc trưng nghệ thuật 
của chính người Việt, từ đó tạo nên những thành tựu độc đáo như: trong 
Kiến trúc chúng ta có những công trình nổi tiếng với vẻ đẹp độc đáo như 
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ và 
một số công trình đền đài, tượng điêu khắc, tứ linh (long, ly, quy,  phượng)… 
- Thành tựu văn hóa Việt - Ấn 
Không như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ thẩm thấu rất sâu vào trong tâm 
thức người Việt vì bản tính hòa bình, giá trị nhân đạo và con đường du nhập tự 
nhiên, phi cưỡng chế của nó 
+ Phật giáo không chỉ du nhập vào nước ta từ Trung Quốc mà nó còn có nguồn gốc 
từ Ấn Độ. Từ xa xưa các nhà Ấn Độ đã đến Việt Nam bằng con đường biển vào 
đầu Công nguyên và thành lập trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy 
Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Những tư tưởng từ bi, hỉ 
xả… trong giáo lý của nhà Phật khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung, yêu 
thương, đùm bọc lẫn nhau trong đạo lý truyền thống của người Việt. Chính vì 
có sự tương đồng đó mà ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh 
được nhân dân ta tiếp nhận và cải biến đi rất nhiều để phù hợp với cư dân bản 
địa, khiến Đạo Phật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. 
+ Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta 
mang đậm bản sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo – tôn giáo 
du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình thái thờ thần 
Tứ pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ 
khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Hệ thống chùa 
Tứ pháp hiện chỉ thấy trong vùng đồng bằng Bắc Bộ.     
+ Phật giáo dạy chủ trương diệt dục không có nghĩa là diệt tất cả những ham muốn 
mà chỉ là diệt cái đam mê ngũ dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ 
nghỉ). Đặt vào thời điểm lịch sử thì chủ trương này đã góp phần đấu tranh giải  phóng đất nước. 
+ Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ nhưng lại đọc kinh phật qua bản dịch bằng 
chữ Hán => Muốn giỏi kinh phật phải học chữ Hán qua nho giáo. 
+ Văn hóa kiến trúc Ấn Độ đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối kiến trúc của người 
Việt Nam, điều này được thể hiện qua các công trình có tính chất tôn giáo như 
đền, tháp, điêu khắc trên phù điêu. Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi 
phù hợp với nền văn hóa của từng nước khác nhau và trở thành điểm nổi bật 
của chính nước đó như thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam. 
+ Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của văn hóa Ấn. 
Vì vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ 
hội đền tháp như: lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm 
+ Còn với ẩm thực, đặc biệt là món cà ri Ấn Độ sau khi du nhập vào Việt Nam thì 
đã được người Việt biến tấu bằng cách nấu nhiều nước hơn và được dùng với 
nhiều hình thức đa dạng. 
- Giao lưu văn hóa Việt – phương Tây 
Trong mấy thế kỉ tiếp xúc, văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng một cách sâu rộng 
vào nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Tuy tùy lúc tùy nơi, người Việt Nam có 
thể chấp nhận hay chống đối, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa tiếp 
nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp. 
+ Trên lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỉ 19, đô thị Việt Nam từ mô hình cổ 
truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển theo 
mô hình đô thị công nghiệp – thương nghiệp chú trọng chức năng kinh 
tế. Ở các đô thị lớn dần hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc, nhiều 
ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ, chế biến nông lâm 
sản…). Các đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần phát triển. 
+ Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây 
với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. Ví dụ 
như các tòa nhà của trường ĐH Đông Dương (nay là ĐH Quốc Gia Hà 
Nội) đã sử dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát 
giác…làm nổi bật tính dân tộc. 
+ Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ gặp 
phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Bởi vậy, họ đã dùng bộ chữ 
cái Latinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ. 
Chữ Quốc ngữ là thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý,     
Pháp… và những người Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt. Tuy chữ 
Quốc ngữ ban đầu chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ, nhưng do có 
ưu điểm là dễ học, nên đã được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá 
để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí cho người dân. 
+ Sự ảnh hưởng tiếp theo từ văn hóa phương Tây vào Việt Nam đó là sự ra 
đời của báo chí. Việc này trước hết để nhằm phục vụ cho nhu cầu thông 
tin cai trị của thực dân Pháp. Gia định báo là tờ báo đầu tiên được phát 
hành bằng chữ quốc ngữ. Sau đó ở Sài Gòn và Hà Nội lần lượt xuất hiện 
nhiều tờ báo khác bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán. Báo chí đã góp phần 
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc và tăng 
cường tính năng động của người Việt Nam. 
+ Tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã khiến cho Tiếng Việt có nhiều các từ 
ngữ vay mượn để diễn tả những khái niệm trong cuộc sống thường ngày 
như xà phòng, kem, ga, tivi, radio,… 
+ Giao thoa với phương Tây đã làm nảy sinh trong lĩnh vực văn học thể loại 
tiểu thuyết hiện đại – vốn là cái truyền thống VN ko có, khởi đầu là tiểu 
thuyết của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc Ngữ, tiếp đó là hàng 
loạt tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh….Chất văn xuôi, tính cách cá nhân 
phương Tây còn ảnh hưởng vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời 
như thể dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ mới với những tên tuổi như 
Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào nhữn năm 30 
 Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc 
tế trên nhiều lĩnh vực, văn hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề là 
- Thứ nhất, trong quá trình phát triển, mối quan hệ biện chứng giữa phát 
triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thực sự được tôn 
trọng. Phát triển kinh tế còn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ 
gìn bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng chạy theo phong trào, hình thức, 
khuôn mẫu mà chưa tính hết tính đa dạng, làm nghèo nàn bản sắc văn 
hóa vốn có của các dân tộc. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế 
có bước phát triển nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần 
hoặc lai căng một cách tự phát. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh 
tế chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên 
khai thác tiềm năng thiên nhiên mà chưa chú trọng thích đáng đến phát 
triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa đã 
dẫn đến hệ quả "kép" về cả hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn 
hóa dân tộc. Tất yếu hình thành thứ văn hóa "ăn theo", "bắt chước" văn 
hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho chúng thâm 
nhập vào đời sống của dân ta. Đó là một nguy cơ làm nghèo nàn đi bản 
sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi sức sáng tạo của dân tộc thời hiện đại.     
- Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa được thể hiện rõ nét trong 
quá trình phát triển dẫn đến “sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa đủ 
mạnh. Mà khi chưa đủ mạnh thì đời sống tinh thần của dân tộc dễ bị cái 
mới lạ từ bên ngoài mê hoặc một cách mù quáng, từ đó con người dễ có 
thái độ tự ti, xa rời những giá trị văn hóa dân tộc truyền thống. Đây là 
nguy cơ khiến chúng ta bị "hòa tan", tự đánh mất mình, mất bản sắc dân 
tộc trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc. 
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là do công tác giáo dục, tuyên truyền 
và nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự đi vào 
chiều sâu một cách có hệ thống, nhiều khi chỉ mới là những giải pháp  tình thế trước mắt. 
- Thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn mang tính "bao 
cấp", dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính mà chưa khơi dậy, phát 
huy tính chủ động, tích cực, tự giác của các chủ thể văn hóa dân tộc. 
Trong khi đó giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các 
chủ thể sinh ra và lưu giữ chúng. 
- Thứ tư, đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển kinh tế mà chưa 
có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung, giữ gìn và phát huy 
bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Đầu tư còn thấp dẫn đến việc nghiên 
cứu, bảo tồn những giá trị thuộc bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính 
toàn diện, hoặc không kịp thời. Một thực tế nữa trong giữ gìn, phát huy 
bản sắc văn hóa dân tộc là từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị 
văn hóa dân tộc, dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa "không 
giống ai", không rõ bản sắc văn hóa dân tộc. 
Câu 5: Phân tích và giải thích những khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực 
phương Đông và phương Tây? Anh/chị hãy giới thiệu những nét đặc sắc trong 
văn hóa ẩm thực của Việt Nam?  
• Khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực phương Đông và phương Tây:  Tiêu chí so sánh  Phương Đông  Phương Tây 
Thức ăn chính 
Một bữa ăn truyền thống Gồm thịt và nước sốt, bánh 
sẽ bao gồm cơm – canh – mì hoặc bánh ngọt  rau – cá – thịt     
Thành phần kết hợp và gia vị  -Đa dạng trong sự kết hợp -Luôn luôn kết hợp các 
các thành phần nguyên thành phần nguyên liệu có 
liệu phổ biến, có sự tương hơi hướng mâu thuẫn và  đồng về vị 
tránh ghép nối những thứ  có hương vị tương tự 
-Hạt nêm, muối, đường, 
nước mắm,… là những gia -Bơ, sữa, trứng là những 
vị được sử dụng nhiều nhất thành phần kết hợp được  sử dụng nhiều nhất 
-Bữa ăn thường kèm theo 
nước mắm/ nước tương để -Ăn kèm theo nước sốt, 
chấm, có thể dùng chung mỗi món ăn sẽ có một loại  cho tất cả món ăn  nước sốt riêng biệt 
Quan niệm ẩm thực 
“Quan niệm ẩm thực thẩm Quan niệm ẩm thực lý 
mỹ”: đánh giá món ăn tính”: ít quan tâm đến mùi 
bằng màu sắc, hương vị, vị, màu sắc, hình thức ra 
hình thức, bát đĩa, ưu tiên sao, chỉ chú trọng hàm 
tính ngon miệng, ít quan lượng dinh dưỡng trong đó 
tâm đến chất lượng dinh cung cấp cho một bữa ăn  dưỡng 
Một bữa ăn phải có đầy đủ 
các màu sắc, các vị như 
cay, ngọt, mặn… để cân 
bằng âm dương của bữa ăn 
Văn hóa ăn uống   -Dùng đũa là chủ yếu  -Chỉ dùng dao-thìa-nĩa 
-Ăn chung theo mâm, tức -Ăn riêng theo từng phần  là món ăn được đựng 
chung trong một tô/ âu/ nồi -Tuyệt đối không nói 
lớn, những người trong chuyện trong khi ăn, tránh 
bàn sẽ dùng vá/ thìa để lấy gây mất lịch sự, khiếm nhã 
thức ăn vào chén của mình       
-Thường nói chuyện trong -Ăn thật khéo léo, gọn 
bữa ăn, tạo sự gần gũi, vui gàng, không phát ra tiếng  vẻ và thân mật  động, tuân thủ nghiêm  ngặt những quy tắc về 
-Ăn nhẹ nhàng, từ tốn, cách dùng dao-nĩa-thìa, 
tránh phát ra tiếng động; khăn ăn, đồ uống,… 
tuy nhiên, với một số món 
ăn tại một số quốc gia, việc -Mỗi món ăn sẽ yêu cầu 
bạn ăn và phát ra tiếng một bộ dụng cụ ăn khác 
động càng lớn thể hiện nhau và đảm bảo phù hợp 
món ăn đó càng ngon và với món ăn đó 
hành động này thể hiện sự  biết ơn đầu bếp. 
- Dùng bữa theo thứ tự: 
khai vị nhẹ - món chính – 
-Một bộ dụng cụ gồm đôi tráng miệng 
đũa-cái thìa có thể được sử 
dụng cho toàn bộ bữa ăn  (trừ món tráng miệng) 
Hình thức bày biện  
-Đa dạng nhiều hình thức: -Thường để nguyên miếng  nhỏ nhất như sợi bún,  to, và người dùng phải  mỏng như tờ giấy, có 
dùng dao, nĩa để cắt nhỏ  miếng vuông, tròn,…  khi ăn  ngoài ra, còn kết hợp 
-Đơn giản hóa các món ăn  thêm nhiều nguyên liệu  cho một món ăn 
-Đa dạng các món ăn trong 
các bữa tiệc, cúng, giỗ 
Xu hướng ăn uống  -Tự chế biến  -Mua sẵn về nhà ăn  -Thức ăn tươi sống 
-Đồ hộp, thức ăn nhanh 
• Đặc trưng ẩm thực VN: 
Tính hoà đồng hay đa dạng 
Bắt đầu từ tính cách dễ dàng tiếp thu văn hóa, đặc biệt là văn hóa ẩm thực từ các 
dân tộc khác của người Việt, để từ đó chế biến thành của mình. Đây cũng là điểm 
nổi bật của ẩm thực của nước ta từ Bắc chí Nam. Người Việt ta đã có nhiều món 
chế biến đặc sắc như: dưa, cà, nem, gỏi…      Tính ít mỡ 
Các món ăn Việt Nam chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ (khá ít món ăn nấu 
ngập dầu), không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng 
nhiều dầu mỡ như món của người Hoa. 
Tính đậm đà hương vị 
Khi chế biến thức ăn người Việt Nam thường dùng nước mắm để nêm, lại kết hợp 
với rất nhiều gia vị khác,… nên món ăn rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều có 
nước chấm tương ứng phù hợp với hương vị. 
Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị 
Các món ăn Việt Nam thường bao gồm nhiều lọai thực phẩm như thịt, tôm, cua 
cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngoài ra còn có sự tổng hợp của nhiều vị như chua, 
cay, mặn, ngọt, bùi béo…  Tính ngon và lành 
Ẩm thực Việt Nam là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng 
riêng. Những thực phẩm mát như thịt vịt, ốc thường được chế biến kèm với các gia 
vị ấm nóng như gừng, rau răm… Đó là cách cân bằng âm dương rất thú vị, chỉ có 
người Việt Nam mới có…Một điều đặc biệt trong ẩm thực của người Việt là các 
món “non” đang giữa quá trình chuyển hóa và giàu dinh dưỡng, ví dụ như vịt lôn, 
măng, giá, cốm, dồi, tràng, heo sữa, nhộng…  Dùng đũa 
Giống một vài nước châu Á khác thì việc sử dụng đũa là một nét đặc trưng rất thú 
vị của ẩm thực Việt, bạn có thể sử dụng đũa trong hầu hết các món ăn, từ kho, xào, 
chiên, hay thậm chí là cả canh. Đôi đũa Việt có mặt trong mọi bữa cơm gia đình, 
ngay cả khi quay nướng, người Việt cũng ít dùng nĩa để xiên thức ăn như người 
phương Tây. Kèm với đó thì gắp là một nghệ thuật, gắp sao cho khéo, cho chặt 
đừng để rơi thức ăn… 
Tính cộng đồng hay tính tập thể 
Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa cơm 
cũng có bát nước mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung  ấy.  Tính hiếu khách 
Trước mỗi bữa ăn người Việt thường có thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao 
thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng người khác…  Tính dọn thành mâm 
Người Việt có thói quen dọn sẵn thành mâm, dọn nhiều món ăn trong một bữa lên 
cùng một lúc chứ không như phương Tây ăn món nào mới mang món đó ra.