ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM HỌC KỲ
I NĂM HỌC 2021- 2022
Câu 1: sao nói “Văn hóa nền tảng, mục tiêu của sự phát triển” ? Ý
nghĩa của nhận định trên trong bối cảnh Việt Nam hiện nay? Văn hóa tác động
như thế nào tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường? Phân tích và lấy
ví dụ minh họa.
Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu của sự phát triển
Trước hết chúng ta cần hiểu văn hóa gì? Theo UNESSCO đưa ra định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất tinh thần do con người
sáng tạo ra. Văn hóa chìa khóa của sự phát triển”. Trong Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII, Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật
chất tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình
dựng nước giữ nước…, kết quả giao lưu tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam dã hun đúc
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân
tộc.
- Mục tiêu của hội Việt Nam là: dân giàu nước manh, hội công
bằng,
- Mục tiêu của hội Việt Nam là: dân giàu nước mạnh, hội công
bằng, dân chủ văn minh chính là mục tiêu của văn hóa.
- - Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
- Mục tiêu động lực chính của sự phát triển con người, do con
người, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ công bằng
hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Phát triển hướng tới mục
tiêu văn hóa – xã hội mới đảm bảo sự bền vững và trường tồn.
- Mọi sự phát triển đều do con người quyết định văn hóa thể hiện
trìđộ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và hội, làm
cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa
- Mọi sự phát triển đều do con người quyết định văn hóa thể hiện
trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội,
làm cho con người và hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa
ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân
văn, nhân đạo của mỗi nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi
dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý chuẩn mực tốt đẹp của tn
xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là
mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là
một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa hội chúng ta đang xây
dựng
- Xác định văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức
- Xác định văn hóa mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức
đúng bản chất của văn hóa quan niệm đúng về sự phát triển, bởi mục
tiêu cuối cùng của một hội một nền văn hóa tiên tiến chính phát
triển con người, đó ng chính là quy luật phát triển của lịch sử. Con
người đó phải là con người thật sự có hạnh phúc, đó là con người toàn
diện theo chuẩn mực giá trị văn hóa. Con người yếu tố quyết định
nhất của sphát triển kinh tế hội, nguồn lực này lại nằm trong
văn hóa bởi văn hóa sản phẩm sáng tạo của con người. cho nên xây
dựng nền văn hóa VN cũng chính xây dựng phát huy nguồn lực
con người, đó là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển. tiềm năng
sángtạo của con người chính tiềm lực văn hóa hội, nên khi xây
dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải lấy việc phục
vụ con người mục đích, lấy văn hóa mục tiêu động lực. con
người đã sáng tạo văn hóa thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của
chính mình, khi đó con người là chủ thể của văn hóa. Nhưng đồng thời
những giá trị văn hóa lại phục vụ cho mục đích nâng cao giá trị cuộc
sống của con người, khi đó con người là khách thể của văn hóa.
- Phát triển kinh tế -hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện môi trường xã
hội nhằm giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hóa của Việt Nam là
tổng hợp bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN,
thể hiện qua những biểu hiện phương thức sinh hoạt vật chất, những
giá trị văn hóa tinh thần, qua thế ứng xử trong quan hệ với tự nhiện và
xã hội. Cái chung của văn hóa VN để làm nên bản sắc dân tộc, làm nên
tính thống nhất của văn hóa chính các dân tộc cùng một cội nguồn từ
nền văn hóa bản địa, mẫu số chung nền văn hóa lúa nước. Cùng
sinh tụ lâu đời trên một khu vực địa lý, cùng chịu sự tác động của những
điều kiện tnhiên, nhưng với sphát triển trong những không gian văn
hóa khác nhau, văn hóa dân tộc vừa sự tiếp thi các yếu tố văn hóa
của các dân tộc khác, vừa lưu trữ yếu tố nội sinh đã trở thành truyền
thống, bản sắc
- Phát triển kinh tế -hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc dân tộc, gắn
liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện mội trường hội nhằm
giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc n hóa của VN tổng hợp bản sắc
văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN, thể hiện qua
những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những giá
Văn hóa tác động tới sự phát triển kinh tế, xã hội môi trường Đối với
phát triển kinh tế:
Thứ nhất, văn hóa kinh tế mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế kết
quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của kinh tế. Thực tiễn ngày càng cho
thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa
không chỉ mục tiêu, động lực nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế.
Mỗi nấc thang của tăng trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn
hóa phát triển lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển kinh
tế. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, phát triển kinh tế để phát triển con người.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh phúc phát triển
toàn diện. vậy, văn hóa đóng vai tlà mục tiêu trước mắt lâu dài của sự phát
triển kinh tế. Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết nền
tảng tinh thần, động lực thông qua mục tiêu cứu cánh đặt ra cho tất cả
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển kinh tế đều phải
hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản nhất là bảo vệ con người,
phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bất cứ chính sách,
biện pháp kinh tế nào về sản xuất, luu thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm
hàng hóa đều phải thực hiện mục tiêu cao nhất đó yêu cầu bản đó, tức chính
lợi ích của con người. Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất
phát từ văn hóa bằng tố chất văn hóa, đó nguồn nhân lực chất lượng cao. Bằng
nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất con người, chúng ta thể làm chủ
được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào hoạt động kinh tế theo
chiều sức mạnh thúc đẩy.
Thứ ba, văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định. Văn hóa phát triển tương
xứng sở cho phát triển kinh tế một cách toàn diện. Văn hóa tăng trưởng
kinh tế là mối quan hệ đa chiều. mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng
lực khác nhau. Với luận điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng
xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ tâm hồn, năng
lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của nhân cộng đồng.
Chính thế văn hóa sẽ điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát
triển ổn định. Thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có sự phát
triển kinh tế bền vững.
Đối với phát triển xã hội:
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội.
Điều tiết hội: Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn làm
tròn trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội.
Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững hiện nay.
Điều quan trọng nhất khi nói văn hóa nền tảng tinh thần bởi văn hóa chức
năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi
của mỗi người toàn hội. Với tính lịch sử, các giá trị, chuẩn mực đó được
truyền bá, lưu giữ, chắt lọc phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở
thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức,
luật pháp, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán,
lối sống, tạo nên cái cốt, cái hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi
nói bản sắc văn hóa của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu
nước với những khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng
lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu độc lập, tdo.
Những giá trị đó truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế thừa phát
triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
Thứ hai: Văn hóa nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển hội. Chìa khóa của sự
phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những nhân tố như: Nguồn lực
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công nghệ, nguồn lực con
người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ chốt. Chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8 nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình
phát triển, thì quy nguyên tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên con người, nguồn
lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá.
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ n
nhu cầu vật chất tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu
mạnh, hội công bằng, dân chủ và văn minh nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong mọi giai đoạn phát triển.
Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con người mới, có đủ phẩm chất, năng lực
đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất cần thiết trong quá trình phát triển bền vững.
Thứ ba, hệ Giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa tác động mạnh đến quá trình phát
triển xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tinh
thần nhân văn nhân đạo xây dựng một xã hội toàn diện hơn.
Đối với bảo bệ môi trường:
Thứ nhất, văn a xây dựng mối quan hhài hòa giữa con người tự nhiên
vấn đề chính cần quan tâm để đảm bảo tốt nhất môi trường sống của con người.
Nam đã có mối liên hệ đặc biệt , phụ thuộc vào tự nhiên. vậy, con người mối
quan hệ gắn bó vô cùng mật thiết với tự nhiên. Tự nhiên chính là môi trường sống
của con người. Môi trường sống không chỉ cung cấp những điều kiện bản cho
con người sinh hoạt như: ăn, mặc, ở… Như vậy, thể nhìn nhận thấy tầm quan
trọng của môi trường tự nhiên đối với con người. Trong quá trình phát triển bền
vững, vô tình sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại đến môi trường tự nhiên.
Điều này sẽ đe dọa đến sự sống của con người. Con người luôn nhận thức rõ mối
quan hệ hài hòa của nh với tnhiên. Cần phải giữ gìn bảo vệ tài nguyên
vấn đề cấp bách để có thể phát triển bền vững.
Thứ hai, xây dựng con người tự ý thức, tự giác đối với việc bảo vệ môi trường là
vai trò quan trọng của văn hóa. đang trở thành thách thức. bảo vệ môi trường đang
trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của chính con người Việt Nam-
được hiểu như quá trình không ngừng mở rộng hội nâng cao năng lực lựa
chọn cho con người. Thứ nhất, sức khỏe, tính mạng người dân bị đe dọa trực tiếp
do tình trạng nhiễm khuẩn không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng phát dịch bệnh.
Thứ hai, suy thoái i trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên tái sinh nuôi sống
con người nbiển, sông, hồ, đất màu, rừng,... Thứ ba, bất bình đẳng hội gia
tăng do những doanh nghiệp gây ô nhiễm tạo ra chi phí kéo theo về bệnh tật, giảm
thu nhập lên những người khác, đặc biệt nhóm yếu thế như người nghèo, dân
các vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số… Thứ tư, khủng hoảng môi trường,
thiên tai bùng phát, biến đổi khí hậu đe dọa an ninh, tính mạng và tài sản của con
người. Chính vậy xây dựng ý thức tgiác của con người đối với việc bảo vệ môi
trường chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đến sự sống còn của con người. Văn hóa
xây dựng ý thức tự giác của con người, trước hết bởi chức năng nhận thức của nó.
Con người là trung tâm của văn hóa, tất cả hành vi, hoạt động của con người đều
liên quan đến văn hóa. Văn hóa tạo dựng cho con cách ứng xử thân thiện với môi
trường trên sđổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với
thiên nhiên, môi trường trong hội của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức,
lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường.
Câu 2: Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa du mục và văn hóa nông
nghiệp qua một số đặc trưng văn hóa. Hiện nay, dịch Covid đang bùng phát
mạnh mẽ c quốc gia trên thế giới. Phân tích sự c động của văn hóa tới
cách ứng phó với Covid khác nhau tại một số quốc gia trên thế giới.
Tiêu chí
Văn hóa nông
nghiệp
Văn hóa du mục
Đặc trưng
gốc
Địa hình
Đồng bằng(ẩm,thấp)
Đồng cỏ( khổ cao)
Nghề chính
Trồng trọt
Chăn nuôi
Cách sống
Định cư
Du cư
Ứng xử với
môi trường
Tôn trọng, sống hòa
hợp với thiên nhiên
Coi thường, tham vọng
chế ngự thiên nhiên
tự nhiên
Lối nhận
thức tư duy
Thiên về tổng hợp
biện chứng (trọng
quan hệ); chủ quan,
cảm tính kinh
nghiệm
Thiên về phân tích siêu
hình (trọng yếu tố); khách
quan, lý tính thực
nghiệm
Tổ chức cộng
đồng
Nguyên tắc tổ
chức
Trọng tình, trọng
đức, trọng văn, trọng
nữ
Trọng sức mạnh, trọng tài,
trọng võ, trọng nam
Cách thức tổ
chức CĐ
Linh hoạt và dân
chủ, trọng cộng đồng
Nguyên tắc quân chủ,
trọng cá nhân
Ứng xử với
môi trường
xã hội
Dung hợp trong tiếp
nhận; mềm dẻo, hiếu
hòa trong đối p
Độc tôn trong tiếp nhận;
cứng rắn, hiếu thắng trong
đối phó
Tiêu chí
Văn hóa gốc phương
Đông
Văn hóa gốc phương Tây
Cơ sở hình
thành
Khí hậu nóng ẩm
mưa nhiều,sông ngòi
chằng chịt , đồng
bằng phì nhiêu màu
mỡ nông nghiệp
trồng trọt phát triển.
=> Văn hóa nông
nghiệp trồng trọt
Khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu thảo nguyên
thích hợp cho chăn nuôi
phát triển.
=> Văn hóa chăn nuôi du
mục.
Đặc điểm
-Sống định cư, không
thích di
chuyển
=> Trọng tĩnh
Tôn thờ sùng
bái tựnhiên mong
muốn hòa hợp với
thiên nhiên.
Cuộc sống
định cưtạo n tính
cộng đồng cao.
=>Hình thành lối
sống trọng tình,trọng
văn trọng phụ nữ.
-Phương thức sản
xuất phụ thuộc vào
-Sống du .nên thói
quen thích di chuyển
=>trọng động.
Tham vọng chinh
phục,chế ngự tự nhiên.
Yếu tố cá nhân được
coitrọng .
=> Hình thành lối sống
thích ganh đua, cạnh
tranh,ứng xử độc đoán
trong giao tiếp.
Chăng nuôi du mục
hìnhthành kiểu duy phân
tích chú trọng vào từng yếu
tố.
Do kiểu duy này
nên
nhiều yếu tố tự nhiên
nên hình thành kiểu
duy tổng hợp biện
chứng.
-Do duy tổng hợp
biện chứng nên nh
thành thái độ ứng xử
linh hoạt mềm dẻo
hình thành lối sống trọng
lý, ứng xử theo nguyên tắc.
=> Thói quen tôn trọng
pháp luật vậy hình
thành rất sớm phương
tây.
Phân tích :
Như ta biết Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo và có rất nhiều tín ngưỡng lạ được
người dân sung bái tin tưởng. Trong khi dịch covid 19 Ấn độ đang diễn
biến rất căng thẳng phức tạp, mỗi ngày nước này lên đến 100 nghìn ca nhiễm
covid thì có rất nhiều người dân vẫn chủ quan tổ chức những lệ hội có sự tham gia
của đám đông bất chất sự ngăn cản của chính phủ. Khi chính phủ kêu gọi người
dân hãy ở nhà và chỉ ra ngoài khi cần thiết thì lại hàng nghìn người theo các tôn
giáo khác nhau đã đổ ra sông Hằng tham gia nghi lễ tắm sông bất chấp sự lây lan
dịch bệnh. Ấy vậy một nghi lễ đông đúc chen lấn như thế họ lại không đeo
khẩu trang, không giãn cách, điều này đã làm cho một làn sóng dịch covid tăng cao
ở đất nước bắt nguồn từ dòng sông Ấn này. Một người Ấn đã chia sẻ họ không sợ
trận đại dịch này họ tin rằng các nghi lễ tắm sông sẽ giúp họ được các vị thần
bảo vệ, che chở, nước sông Hằng sẽ giúp họ thanh tẩy đi những bụi bẩn, vi khuẩn
và có thể khiến hchống lại covid 19. Khi người dân trên thế giới đều không đồng
tình với nghi lễ này thì người Ấn vẫn tin vào niềm tin tín ngưỡng của nh,
cũng vì thế mà Ấn độ đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mĩ về số người mắc covid
Hay như ở các nước châu Âu cũng vậy, vốn từ đầu người châu Âu đã có tư tưởng
thoáng hơn châu Á rất nhiều, họ luôn thích tự do, ghét những việc bị bắt ép và hay
chống đối chính phủ. Chính tư tưởng thoáng này mà số người nhiễm covid ở nước
châu Âu đã tăng cao một cách chóng mặt, chtrong một tuần ngắn ngủi, khi
Việt Nam chưa đến 1000 ca trên cả nước thì các quốc gia trời Âu đã trăm
nghìn ca mắc mỗi ngày. Nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ở chỗ WHO công
bố đại dịch trên toàn cầu quá muộn khiến chính phủ của các nước châu Âu sự
chủ quan không hề nhẹ, chính việc này đã làm lỡ mất thời điểm vàng để ngăn chặn
dịch bệnh. Còn tại Việt Nam thì ngay từ khi biết Trung Quốc có ca nhiễm và Việt
Nam ca mắc đầu tiên, nhà nước đã ngay lập tức cho dừng tất cả hoạt động
giãn cách toàn xã hội, học sinh thì học online người lớn cũng làm việc nhà.
Thời điểm đầu của dịch chính phủ Anh đã từng từ chối các hoạt động chống dịch,
thậm chí tổng thống Donald Trump còn phát ngôn rằng mình sẽ không đeo khẩu
trang xung quanh không có ai nhiễm covid, từ sợ lơ là này đã làm cho người dân
nhận thức sai lệch về bệnh dịch, rất nhiều người dân Anh đã coi thường, chỉ
nghĩ một bệnh cúm mùa, thể chữa khỏi. Mọi người đã không đeo khẩu
trang và vẫn tham gia các hoạt động cộng đồng chỉ đến khi chính phủ nước Anh
phong tỏa 4 tuần thì người dân mới dần ý thức được tính nghiêm trọng của sự việc.
Khi người dân Việt Nam chấp hành giãn cách hội nghe theo các chỉ thị
của nhà nước thì ở một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Itali..một bộ phận người
dân lại đi biểu tình phản đối các lệnh cấm của chính phủ cũng như không đồng ý
với việc tiêm vaccine làm dấy lên một làn sóng mạnh mẽ phản đối chính phủ và
nguyên nhân của số ca nhiễm tăng cao đột ngột.
Mặc mỗi người đã được tiêm 2 mũi vaccine nhưng dường như người Việt ta vẫn
còn rất e dè với dịch bệnh và ngại đi đến những nơi đông người có thể là vì những
tổn thất và mất mát quá lớn của nước ta khi bắt đầu đại dịch đã khiến nhiều người
sợ hãi trở thành nỗi ám ảnh hoặc do chủ chương cứng rắn cương quyết của chính
phủ ta như ín sâu vào tâm trí mỗi người. Ngược lại với đó, các nước châu Âu
quay lại với cuộc sống bỉnh thường mới rất sớm, mặc kệ số ca nhiễm có tăng mỗi
ngày cũng không cản trở họ tham gia các hoạt động xã hội. Họ tin rằng covid đã
trở thành một bệnh cúm mùa và không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Câu 3: Tại sao “làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ”? Phân tích
những nét đặc sắc của “văn hóa làng” Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa làng sự biến đổi như thế nào?
Cần phải làm để giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế?
“làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ” vì
Làng xã Việt Nam xuất hiện từ cuối thời Nguyên Thủy, đầu thời dựng nước.
Chính vì thế làng là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nước.
- Làng tồn tại tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão và trọng nữ
- Dưới các vương triều phong kiến, làng đơn vị hành chính quốc gia, 1
xã có thể có 1 hoặc nhiều làng.
- Nhìn tổng thể làng Việt Nam truyền thống mang nhiều đặc điểm chung
+ Cộng đồng cố kết chặt
+ Cấu trúc phân tầng sâu sắc
Làng tính tự quản, tính cộng đồng sở làm nền móng cho truyền thống
- Địa giới về mặt hành chính: các làng ngăn cách nhau bởi cổng làng, các
con sông, đê…ntạo thành một quốc gia thu nhỏ - Kinh tế những làng
thuần nông là kinh tế bán tự túc - Chính trị: tồn tại song song 2 hình thức
chính quyền.
- Làng cũng thủ lĩnh, bộ máy tổ chức, nơi làm việc của lãnh đạo như
một quốc gia. Người đứng đầu của làng ông trưởng, mục, già làng
trưởng bản. Các cuộc họp làng thường được diễn ra ở đình làng.
Làng xã còn là cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa truyền thống
- Tôn giáo: mỗi làng sẽmột Thành Hoàng Làng riêng – vị thần che chở
và bảo vệ cho ngôi làng, người dân sẽ thờ cúng Thành Hoàng Làng.
- Không gian linh thiêng của làng là đình, chùa, miếu, nghĩa trang
- Trong làng người dân thường sống theo phong tục tập quán cổ truyền
mềm dẻo đối trọng với pháp nước cứng rắn
- Nếu như mỗi quốc gia đều một biểu tượng riêng thì làng cũng vậy.
Mỗi làng một biểu tượng riêng gắn với hình ảnh làng, dụ như cây
tre, bến nước, sân đình là nơi mọi người truyện trò, sinh hoạt tập thể
- Mỗi làng sẽ có một thổ ngữ riêng
- Làng cũng có luật lệ, được gọi là hương ước, luật làng thường do những
người đứng đầu lạng lập ra
- Giáo dục: trẻ em sẽ được giao cho thầy đồ dạy, thầy đồ sẽ được làng chu
cấp
- Trong năm làng tổ chức nhiều đám rước, đám tế, lễ hội, những bữa c
tập thể đình đám như tục hương ẩm, dịp khao vọng, cheo cưới đều thu
hút đông đảo mọi tầng lớp trong làng tham gia, nghiêm trang, vui vẻ
nhưng lãng phí, hình thức thì hủ tục.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa
làng có sự biến đổi
- Biến đổi không gian làng:
Từ xa xưa, làng các vùng châu thổ Bắc Bộ đặc trưng không gian tương đối
khép kín, lũy tre bao quanh được xem như ranh giới giữa không gian trú
không gian sản xuất của làng. Trong thời đại ngày nay, quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa diễn ra liên tục, cùng với sự thu hẹp đáng kể của diện tích đất nông
nghiệp đã làm không gian cảnh quan các làng quê biến đổi rệt. n cạnh không
gian trú truyền thống được định vị theo các xóm, ngõ những những hình thức
tập trung dân mới theo nghề nghiệp: những xóm mới, phố làng mớikhiến cho
không gian cư trú và không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với
nhau, không phân biệt ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng vai
trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa
hiện cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như
nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các công trình như trường học, nhà văn hóa, sân
chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao thông
quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị. Ta thể
thấy, không gian cảnh quan các làng qhiện đại đã không n khép kín ngày
càng trở nên mở, linh hoạt hơn- Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã
Cùng với những tác động ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng xã và những mối quan hệ xã hội liên quan ở
các làng qhiện nay cũng đang chứng kiến những thay đổi rõ nét. Sự đa dạng hóa
khác biệt vlao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu tiên riêng của các
thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành viên trong gia đình
ngày càng ít đi. Sự gắn bó, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên, gia đình trong
họ tộc, ng xóm láng giềng, nhất mỗi khi có công việc quan trọng như tang ma,
cưới xin tuy vẫn được coi trọng, duy trì nhưng không còn đóng vai trò nhân tố
thiết yếu như trước đây
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề
nghiệp, việc làm khiến cho ai cũng bận rộn với công việc riêng của mình, mọi
người ít thời gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia. Bên cạnh đó
đời sống vật chất ngày càng được nâng lên, những ngôi nhà kín cổng cao tường
ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt động, gặp gỡ, trò chuyện giữa những người
hàng xóm với nhau bị hạn chế, dẫn đến nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi
thân tình thì nay trở nên xa cách hơn. Ngày nay mạng lưới dịch vụ ngày càng được
mở rộng, phát triển ở các làng qkhiến cho nhiều người thói quen sử dụng các
dịch vụ, tiện ích sẵn mỗi khi công việc thay tìm kiếm sgiúp đỡ từ họ
hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc, ràng buộc
của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những người hàng xóm
xu hướng suy giảm
- Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán
Đời sống kinh tế của người dân ngày càng khởi sắc thế mà người dân ở các làng
quê có điều kiện quan tâm hơn đến việc bảo tồn giữ gìn các di tích cũng như phục
dựng các lễ tiết, lễ hội của làng. Các di tích được đầu nhiều tiền của, công sức
tu bổ, làm mới, được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của
cộng đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất là lễ hội cổ truyền được tiếp
nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức và nhân lực
tham gia không ngừng được tăng cường, xã hội hóa. Bên cạnh các nghi lễ, trò vui
truyền thống, lễ hội làng cũng được bổ sung nhiều hoạt động mới mang hơi thở
cuộc sống đương đại, các tchơi giải trí, hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ đặc
sắc.
Phong tục tập quán, lối sống của người dân làng quê sự biến đổi nét khi
ngày ng ít người làm lĩnh vực nông nghiệp, cùng với đó xu hướng đa dạng hóa
trong cấu nghề nghiệp, việc làm. Dường như nhịp sống, lối sống của dân làng
cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn, việc tuân thủ giờ giấc được chú trọng với
tác phong nhanh nhẹn, năng động vì một bộ phận dân cư đã chuyển hẳn sang các
hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ, làm công nhân trong các khu công
nghiệp. Người dân ở các làng quê ngày nay cũng quen với tư duy cần gì là có thể
mua được chứ không cần chạy sang làng xóm vay, mượn như trước kia. Chính
lẽ đó mà xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ, thị trường, coi trọng sự
minh bạch, song phẳng song lối sống nghĩa tình vẫn không hề bị mất đi.
Các phong tục tập quán truyền thống như ma chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được
coi trọng, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng đã sự giản lược và cải
biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng như những nghi lễ phức
tạp, rườm rà để phù hợp với nhịp sống, lối sống công nghiệp, đô thị
- Biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin và giải trí
Hiện nay hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng thôn xóm, hệ
thống thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa dạng của người
dân, các gia đình ngày càng sdụng phương tiện nghe nhìn hiện đại như tivi, radio,
điện thoại máy tính kết nối internet…Xuất hiện nhiều hoạt động, loại hình câu
lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe,
hưởng thụ cuộc sống của người dân. n cạnh đó những hình thức giải trí, sử dụng
thời gian nhàn rỗi vốn thường thấy ở các dân đô thị như mua sắm, tham quan,
du lịch cũng dần phổ biến trong đời sống cộng đồng dân cư ở các làng quê.
Tuy nhiên bên cạnh những biến đổi tích cực, quá trình công nghiệp, hiện đại hóa
cũng cho thấy những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sốn dân làng quê hiện nay:
việc sử dụng đất nông nghiệp tùy tiện, lãng phí nhiều nơi dẫn tới tình trạng
thừa lao động, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của một bộ phận người dân;
tình trạng san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng sự yếu kém trong xử lý
nước thải, rác thải... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn và đời sống, sức khỏe của nông dân. Ngoài ra, có
thể thấy, ở nhiều làng quê, mặc dù bắt nhịp được với quá trình chuyển đổi, nhưng
với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân trong làng đã nảy sinh nhiu
vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội...
Một số những giải pháp cụ thể sau đây:
- Một là, chúng ta phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng
cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản
sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
một cách chủ động, tích cực và tự giác trong mỗi người.
- Hai là, bản thân chúng ta phải thích nghi dần với văn hóa công nghiệp, phải
những thay đổi phù hợp, không chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa phù
phiếm
- Ba là, phải biết tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân
loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc dân
tộc của nền văn hóa Việt Nam. Phải bảo tồn giữ gìn các truyền thống tốt đẹp
của người Việt như: lòng u nước, đoàn kết, tự tôn n tộc, thương người,…
- Bốn là, mỗi người nên không ngừng học tập để nâng cao nhận thức của bản
thân trong quá trình hội nhập quốc tế. Chúng ta càng hiểu biết, nội lực của
ta càng mạnh thì ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc
và hợp tác với các nền văn hóa khác nhau mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa
truyền thống.
- Năm là, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không
gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc.
Câu 4: Khái quát những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa
Việt Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới? Trong bối cảnh Đảng
Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực, văn
hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề gì? Vì sao?
Những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt
Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới
- Thành tựu văn hóa Việt – Hán
Trung quốc đã đô hộ nhân dân ta trong 1000 năm, trong khoảng thời gian đó văn
hóa Trung Hoa đã có nhiều ảnh hưởng không hề nhỏ đến đất nước ta. Sự giao lưu
văn hóa đã diễn ra thông qua hai con đường đó cưỡng bức phi cưỡng bức.
Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống của người
Việt. Người Việt đã có sự kế thừa chọn lọc các văn hóa tốt đẹp của người Trung và
chuyển hóa nó để phù hợp văn hóa mình:
+ Về tôn giáo đời sống tâm linh: Trung Quốc cũng rất nhiều những
giáo tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng đến
Việt Nam như Phật giáo đại thừa, các hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo…
cho đến nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong học tập,
đời sống, nghiên cứu hay quản lý nhà nước.
+ Về thế giới quan:
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành nguồn gốc từ Trung Quốc cxưa, bắt
đầu từ thời Hoàng Đế (2897-253 trước công nguyên), tương đương
thời 18 đời vua Hùng tại Việt Nam. Không một nhà sử học nào thể
chắc chắn về thời điểm thuyết âm dương du nhập vào Việt Nam nhưng
tất cả tài liệu đều cho rằng người Việt Nam đã nhận thức được về Âm
dương từ rất sớm và đã biết vận dụng vào đời sống hàng ngày.
Không những vậy trong thời kì Bắc thuộc chúng ta còn bị ảnh hưởng
từ Trung quốc bởi cách dùng lịch âm. Âm lịch loại lịch nguồn
gốc tại Trung Quốc cổ xưa. Qua các thời đại nhà Lý, nhà Trần, nhà
Hồ nhà Lê, có nhiều giai đoạn người Việt ta vẫn sử dụng lịch của
Trung Quốc nhưng cũng có nhiều thời kì chúng ta tự tính âm lịch của
mình cho đúng. Tuy dựa vào các nguyên tắc chung nhưng vì cách áp
dụng nguyên tắc tính lịch khác nhau nên âm lịch Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điểm khác biệt.
Học thuyết tam tài hình thành từ thời cổ đại Trung Quốc chi phối
đến tư tưởng quan điểm của đại bộ phận cư dân nông nghiệp nguyên
thủy. Học thuyết này đcao mối quan hệ hài hòa giữa trời-người-đất.,
con người vừa chịu ảnh hưởng của trời đất vừa tác động ngược trở lại
trời đất tạo thành một thế rất vững vàng. Dần dần thuyết tam tài này
đã du nhập vào Việt Nam cũng ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa
Việt Nam như: muốn năm đó mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa
thì người dân ta thường hay làm các các lễ cúng trời đất, dâng lên trời
đất như lễ vật như lợn, trâu để tỏ lòng biết ơn của mình với thiên địa.
+ Về chuẩn mực đạo đức
Một trong những ảnh hưởng nổi bật của văn hóa Trung Hoa vào văn hóa
Việt Nam chuẩn mực đạo đức với quan điểm của Nho giáo như Tam
cương (đạo đức hội gồm ba mối quan hệ bản vuatôi, cha-con,
chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất
dịch nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Với việc đề cao tu thân, coi đây cái gốc
trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống
đạo đức. Và cho đến ngày nay những chuẩn mức đạo đức này vẫn được
người Việt Nam đề cao, lấy đó làm gốc rễ để dạy bảo con cháu qua các
thế hệ, góp phần giúp nước ta nhiều người tài đức, giúp đất nước ngày
càng hưng thịnh.
Nho giáo cũng cho ra nội dung giáo dục đối với người phụ nữ thông qua
thuyết Tam tòng, Tứ đức. Học thuyết này được truyền vào nước ta thời
kì Bắc thuộc. Khi vào Việt Nam nó đã được cải biến đi cho phù hợp với
tính chất ôn hòa của người việt. tưởng này đã ảnh hưởng rất sâu
sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt
Nam, nó giúp giá trị của người phụ nữ được nâng cao, giúp người
phụ nhoàn thiện vđẹp hình thức và nội dung đáp ứng được yêu cầu
phát triển của xã hội.
+ Về ngôn ngữ: Ngay từ khi xâm lược nước ta trong suốt một ngàn năm
phương Bắc đô hộ, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch đồng hóa, áp đặt chúng
ta sử dụng chữ Hán với ý nghĩa như chữ quốc ngữ. Tuy nhiên mưu đồ này đã
bất thành vì ngươi Việt dùng chữ Hán nhưng đã sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của
mình đó chữ Nôm. Sự ra đời của chNôm trên sở cải biến từ chữ Hán
được xem một thành tựu quan trọng của văn minh Đại Việt. Bởi chữ Nôm
vừa mang đậm tính dân tộc nhưng cũng chứa đựng văn hóa dân gian trong
đó. Do đó, chữ Nôm cũng được xem Quốc ngữ, quốc âm của VN thời đó.
Mặc vậy ta cũng không thể phủ nhận sự chi phối, ảnh hưởng của chữ Hán
tới hệ thống văn học nghệ thuật. Từ chữ Hán, tiếng Hán mà ở Việt Nam biết tới
thể thơ Đường Cổ trong văn học Trung Hoa + Về ăn, mặc, ở:
Sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực của Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn
tới nền ẩm thực Việt Nam. Trong đó nhiều món của người Việt được
biến tấu từ ẩm thực Trung Hoa như vịt quay, bún nước, lẩu,.. nhiều
gia vị của ta cũng bắt nguồn từ Trung Quôc như dầu hào, dầu, dấm
trắng, cam thảo, dầu mè…
Sau 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục cổ Việt Nam
nhiều nét tương đồng với Han Fu một loại quần áo cổ trang của
Trung Quốc từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà
Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới.
Trung Quốc vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới
như Vạn trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Khi
du nhập vào Việt Nam, các hình thức nghệ thuật này không chỉ sự kế
thừa mà nó còn là sự phát triển, giao thoa cùng với đặc trưng nghệ thuật
của chính người Việt, từ đó tạo nên những thành tựu độc đáo như: trong
Kiến trúc chúng ta những công trình nổi tiếng với vẻ đẹp độc đáo như
Văn Miếu Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ và
một số công trình đền đài, tượng điêu khắc, tứ linh (long, ly, quy,
phượng)…
- Thành tựu văn hóa Việt - Ấn
Không như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ thẩm thấu rất sâu vào trong tâm
thức người Việt bản tính hòa bình, giá trị nhân đạo con đường du nhập tự
nhiên, phi cưỡng chế của
+ Phật giáo không chỉ du nhập vào nước ta từ Trung Quốc còn nguồn gốc
từ Ấn Độ. Từ xa xưa các nhà n Độ đã đến Việt Nam bằng con đường biển vào
đầu Công nguyên và thành lập trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy
Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Những tưởng từ bi, hỉ
xả… trong giáo lý của nhà Phật khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung, yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau trong đạo truyền thống của người Việt. Chính
sự tương đồng đó ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh
được nhân dân ta tiếp nhận và cải biến đi rất nhiều để phù hợp với cư dân bản
địa, khiến Đạo Phật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta
mang đậm bản sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo – tôn giáo
du nhập từ Ấn Độ, tồn tại kphổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. nh thái thờ thần
Tứ pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ
khi đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Hệ thống chùa
Tứ pháp hiện chỉ thấy trong vùng đồng bằng Bắc Bộ.
+ Phật giáo dạy chủ trương diệt dục không nghĩa diệt tất cả những ham muốn
mà chỉ là diệt cái đam mê ngũ dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ). Đặt vào thời điểm lịch sử thì chủ trương này đã góp phần đấu tranh giải
phóng đất nước.
+ Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ nhưng lại đọc kinh phật qua bản dịch bằng
chữ Hán => Muốn giỏi kinh phật phải học chữ Hán qua nho giáo.
+ Văn hóa kiến trúc Ấn Độ đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối kiến trúc của người
Việt Nam, điều này được thể hiện qua các công trình có tính chất tôn giáo như
đền, tháp, điêu khắc trên phù điêu. Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi
phù hợp với nền văn hóa của từng nước khác nhau trở thành điểm nổi bật
của chính nước đó như thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam.
+ Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của văn hóa Ấn.
Vì vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ
hội đền tháp như: lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm
+ Còn với ẩm thực, đặc biệt là món cà ri Ấn Độ sau khi du nhập vào Việt Nam thì
đã được người Việt biến tấu bằng cách nấu nhiều nước hơn được dùng với
nhiều hình thức đa dạng.
- Giao lưu văn hóa Việt – phương Tây
Trong mấy thế kỉ tiếp xúc, văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng một cách sâu rộng
vào nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Tuy tùy lúc tùy nơi, người Việt Nam có
thể chấp nhận hay chống đối, nhưng cuối cùng bao giờ cũng sự thâu hóa tiếp
nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp.
+ Trên lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỉ 19, đô thị Việt Nam từ hình cổ
truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển theo
hình đô thị công nghiệp thương nghiệp chú trọng chức năng kinh
tế. các đô thị lớn dần hình thành một tầng lớp sản dân tộc, nhiều
ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ, chế biến nông lâm
sản…). Các đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần phát triển.
+ Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây
với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. dụ
như các tòa nhà của trường ĐH Đông Dương (nay ĐH Quốc Gia
Nội) đã sử dụng hệ thống mái ngói, bcục kiểu tam quan, lầu hình bát
giác…làm nổi bật tính dân tộc.
+ Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo gặp
phải sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Bởi vậy, họ đã dùng bchữ
cái Latinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ.
Chữ Quốc ngữ thành quả tập thể của nhiều giáo Bồ Đào Nha, Ý,
Pháp… những người Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt. Tuy chữ
Quốc ngữ ban đầu chỉcông cụ truyền đạo của các giáo sĩ, nhưng do
ưu điểm dễ học, nên đã được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền
để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí cho người dân.
+ Sự ảnh hưởng tiếp theo từ văn hóa phương Tây vào Việt Nam đó là sự ra
đời của báo chí. Việc này trước hết để nhằm phục vụ cho nhu cầu thông
tin cai trị của thực dân Pháp. Gia định báo tờ báo đầu tiên được phát
hành bằng chữ quốc ngữ. Sau đó ở Sài Gòn và Hà Nội lần lượt xuất hiện
nhiều tờ báo khác bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán. Báo chí đã góp phần
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc tăng
cường tính năng động của người Việt Nam.
+ Tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã khiến cho Tiếng Việt có nhiều các từ
ngữ vay mượn để diễn tả những khái niệm trong cuộc sống thường ngày
như xà phòng, kem, ga, tivi, radio,…
+ Giao thoa với phương Tây đã làm nảy sinh trong lĩnh vực văn học thể loại
tiểu thuyết hiện đại – vốn là cái truyền thống VN ko có, khởi đầu là tiểu
thuyết của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc Ngữ, tiếp đó là hàng
loạt tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh….Chất văn xuôi, tính cách nhân
phương Tây còn ảnh hưởng vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời
như thể dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ mới với những tên tuổi như
Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào nhữn năm 30
Trong bối cảnh Đảng Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc
tế trên nhiều lĩnh vực, văn hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề là
- Thứ nhất, trong quá trình phát triển, mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển kinh tế giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thực sự được tôn
trọng. Phát triển kinh tế còn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc xu hướng chạy theo phong trào, hình thức,
khuôn mẫu chưa tính hết tính đa dạng, làm nghèo nàn bản sắc văn
hóa vốn có của các dân tộc. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế
bước phát triển nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần
hoặc lai căng một cách tự phát. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh
tế chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên
khai thác tiềm năng thiên nhiên chưa chú trọng thích đáng đến phát
triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa đã
dẫn đến hệ quả "kép" về cả hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc. Tất yếu hình thành thứ văn hóa "ăn theo", "bắt chước" văn
hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho chúng thâm
nhập vào đời sống của dân ta. Đó một nguy làm nghèo nàn đi bản
sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi sức sáng tạo của dân tộc thời hiện đại.
- Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa được thể hiện rõ nét trong
quá trình phát triển dẫn đến “sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa đủ
mạnh. Mà khi chưa đủ mạnh thì đời sống tinh thần của dân tộc dễ bị cái
mới lạ từ bên ngoài mê hoặc một cách mù quáng, từ đó con người dễ có
thái độ tự ti, xa rời những giá trị văn hóa dân tộc truyền thống. Đây
nguy cơ khiến chúng ta bị "hòa tan", tự đánh mất mình, mất bản sắc dân
tộc trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đnày là do công tác giáo dục, tuyên truyền
nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự đi vào
chiều sâu một cách hệ thống, nhiều khi chỉ mới những giải pháp
tình thế trước mắt.
- Thứ ba, giữ gìn phát huy bản sắc n hóa dân tộc còn mang tính "bao
cấp", dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước chính chưa khơi dậy, phát
huy tính chủ động, tích cực, tự giác của các chủ thể văn hóa dân tộc.
Trong khi đó giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các
chủ thể sinh ra và lưu giữ chúng.
- Thứ , đầu cho phát triển tập trung nhiều phát triển kinh tế chưa
điều kiện đầu cho phát triển văn hóa nói chung, giữ gìn phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Đầu còn thấp dẫn đến việc nghiên
cứu, bảo tồn những giá trị thuộc bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính
toàn diện, hoặc không kịp thời. Một thực tế nữa trong giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị
văn hóa dân tộc, dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa "không
giống ai", không rõ bản sắc văn hóa dân tộc.
Câu 5: Phân tích và giải thích những khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực
phương Đông phương Tây? Anh/chị hãy giới thiệu những nét đặc sắc trong
văn hóa ẩm thực của Việt Nam?
Khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực phương Đông và phương Tây:
Tiêu chí so sánh
Phương Đông
Phương Tây
Thức ăn chính
Một bữa ăn truyền thống
sẽ bao gồm cơm – canh –
rau – – thịt
Gồm thịt nước sốt, bánh
mì hoặc bánh ngọt
Thành phần kết hợp và gia vị
-Đa dạng trong sự kết hợp
các thành phần nguyên
liệu phổ biến, stương
đồng về vị
-Hạt nêm, muối, đường,
nước mắm,… những gia
vị được sdụng nhiều nhất
-Bữa ăn thường kèm theo
nước mắm/ nước tương để
chấm, thể dùng chung
cho tất cả món ăn
-Luôn luôn kết hợp các
thành phần nguyên liệu có
hơi hướng mâu thuẫn
tránh ghép nối những thứ
có hương vị tương tự
-Bơ, sữa, trứng những
thành phần kết hợp được
sử dụng nhiều nhất
-Ăn kèm theo nước sốt,
mỗi món ăn sẽ có một loại
nước sốt riêng biệt
Quan niệm ẩm thực
“Quan niệm m thực thẩm
mỹ”: đánh giá món ăn
bằng màu sắc, hương vị,
hình thức, bát đĩa, ưu tiên
tính ngon miệng, ít quan
tâm đến chất lượng dinh
dưỡng
Một bữa ăn phải có đầy đủ
các màu sắc, các vị n
cay, ngọt, mặn… để cân
bằng âm ơng của bữa ăn
Quan niệm ẩm thực
tính”: ít quan tâm đến mùi
vị, màu sắc, hình thức ra
sao, chỉ chú trọng hàm
lượng dinh dưỡng trong đó
cung cấp cho một bữa ăn
Văn hóa ăn uống
-Dùng đũa là chủ yếu
-Ăn chung theo mâm, tức
món ăn được đựng
chung trong một tô/ âu/ nồi
lớn, những người trong
bàn sẽ dùng vá/ thìa để lấy
thức ăn vào chén của mình
-Chỉ dùng dao-thìa-nĩa
-Ăn riêng theo từng phần
-Tuyệt đối không nói
chuyện trong khi ăn, tránh
gây mất lịch sự, khiếm nhã
-Thường nói chuyện trong
bữa ăn, tạo sự gần gũi, vui
vẻ và thân mật
-Ăn nhẹ nhàng, từ tốn,
tránh phát ra tiếng động;
tuy nhiên, với một số món
ăn tại một số quốc gia, việc
bạn ăn phát ra tiếng
động càng lớn thể hiện
món ăn đó càng ngon
hành động này thể hiện sự
biết ơn đầu bếp.
-Một bộ dụng cụ gồm đôi
đũa-cái thìa thể được sử
dụng cho toàn bộ bữa ăn
(trừ món tráng miệng)
-Ăn thật khéo o, gọn
gàng, không phát ra tiếng
động, tuân thủ nghiêm
ngặt những quy tắc về
cách dùng dao-nĩa-thìa,
khăn ăn, đồ uống,…
-Mỗi món ăn sẽ yêu cầu
một bộ dụng cụ ăn khác
nhau đảm bảo phù hợp
với món ăn đó
- Dùng bữa theo thứ tự:
khai vị nhẹ - món chính
tráng miệng
Hình thức bày biện
-Đa dạng nhiều hình thức:
nhỏ nhất như sợi bún,
mỏng như tờ giấy, có
miếng vuông, tròn,…
ngoài ra, còn kết hợp
thêm nhiều nguyên liệu
cho một món ăn
-Đa dạng các món ăn trong
các bữa tiệc, cúng, giỗ
-Thường để nguyên miếng
to, người dùng phải
dùng dao, nĩa để cắt nhỏ
khi ăn
-Đơn giản hóa các món ăn
Xu hướng ăn uống
-Tự chế biến
-Thức ăn tươi sống
-Mua sẵn về nhà ăn
-Đồ hộp, thức ăn nhanh
Đặc trưng ẩm thực VN:
Tính hoà đồng hay đa dạng
Bắt đầu từ tính cách dễ dàng tiếp thu văn hóa, đặc biệt văn hóa ẩm thực từ các
dân tộc khác của người Việt, để từ đó chế biến thành của mình. Đây cũng là điểm
nổi bật của ẩm thực của nước ta từ Bắc chí Nam. Người Việt ta đã nhiều món
chế biến đặc sắc như: dưa, cà, nem, gỏi…
Tính ít mỡ
Các món ăn Việt Nam chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ (khá ít món ăn nấu
ngập dầu), không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng
nhiều dầu mỡ như món của người Hoa.
Tính đậm đà hương vị
Khi chế biến thức ăn người Việt Nam thường dùng nước mắm để nêm, lại kết hợp
với rất nhiều gia vị khác,… nên n ăn rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều
nước chấm tương ứng phù hợp với hương vị.
Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều v
Các món ăn Việt Nam thường bao gồm nhiều lọai thực phẩm như thịt, tôm, cua
cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngoài ra còn sự tổng hợp của nhiều vị như chua,
cay, mặn, ngọt, bùi béo…
Tính ngon và lành
Ẩm thực Việt Nam là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng
riêng. Những thực phẩm mát như thịt vịt, ốc thường được chế biến kèm với các gia
vị ấm nóng như gừng, rau răm… Đó là cách cân bằng âm dương rất thú vị, chỉ có
người Việt Nam mới …Một điều đặc biệt trong ẩm thực của người Việt các
món “non” đang giữa quá trình chuyển hóa và giàu dinh dưỡng, ví dụ như vịt lôn,
măng, giá, cốm, dồi, tràng, heo sữa, nhộng…
Dùng đũa
Giống một vài nước châu Á khác thì việc sử dụng đũa là một nét đặc trưng rất thú
vị của ẩm thực Việt, bạn thể sử dụng đũa trong hầu hết các món ăn, từ kho, xào,
chiên, hay thậm chí cả canh. Đôi đũa Việt mặt trong mọi bữa cơm gia đình,
ngay cả khi quay nướng, người Việt cũng ít dùng nĩa để xiên thức ăn như người
phương Tây. Kèm với đó thì gắp một nghệ thuật, gắp sao cho khéo, cho chặt
đừng để rơi thức ăn…
Tính cộng đồng hay tính tập thể
Tính cộng đồng thể hiện rất trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa cơm
cũng có bát nước mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung
ấy.
Tính hiếu khách
Trước mỗi bữa ăn người Việt thường thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao
thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng người khác…
Tính dọn thành mâm
Người Việt có thói quen dọn sẵn thành mâm, dọn nhiều món ăn trong một bữa lên
cùng một lúc chứ không như phương Tây ăn món nào mới mang món đó ra.

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM HỌC KỲ
I NĂM HỌC 2021- 2022
Câu 1: Vì sao nói “Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu của sự phát triển” ? Ý
nghĩa của nhận định trên trong bối cảnh Việt Nam hiện nay? Văn hóa tác động
như thế nào tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường? Phân tích và lấy ví dụ minh họa.

Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu của sự phát triển
Trước hết chúng ta cần hiểu văn hóa là gì? Theo UNESSCO đưa ra định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển”. Trong Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII, Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình
dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam dã hun đúc
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. -
Mục tiêu của xã hội Việt Nam là: dân giàu nước manh, xã hội công bằng, -
Mục tiêu của xã hội Việt Nam là: dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh chính là mục tiêu của văn hóa. -
- Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con -
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Phát triển hướng tới mục
tiêu văn hóa – xã hội mới đảm bảo sự bền vững và trường tồn. -
Mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện
trìđộ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm
cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là -
Mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện
trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội,
làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa
là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân
văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi
dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn
xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là
mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là
một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng -
Xác định văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức -
Xác định văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức
đúng bản chất của văn hóa và quan niệm đúng về sự phát triển, bởi mục
tiêu cuối cùng của một xã hội có một nền văn hóa tiên tiến chính là phát
triển con người, đó cũng chính là quy luật phát triển của lịch sử. Con
người đó phải là con người thật sự có hạnh phúc, đó là con người toàn
diện theo chuẩn mực giá trị văn hóa. Con người là yếu tố quyết định
nhất của sự phát triển kinh tế xã hội, mà nguồn lực này lại nằm trong
văn hóa bởi văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người. cho nên xây
dựng nền văn hóa VN cũng chính là xây dựng và phát huy nguồn lực
con người, đó là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển. tiềm năng
sángtạo của con người chính là tiềm lực văn hóa xã hội, nên khi xây
dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải lấy việc phục
vụ con người là mục đích, lấy văn hóa là mục tiêu và động lực. con
người đã sáng tạo văn hóa thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của
chính mình, khi đó con người là chủ thể của văn hóa. Nhưng đồng thời
những giá trị văn hóa lại phục vụ cho mục đích nâng cao giá trị cuộc
sống của con người, khi đó con người là khách thể của văn hóa. -
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện môi trường xã
hội nhằm giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hóa của Việt Nam là
tổng hợp bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN,
thể hiện qua những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những
giá trị văn hóa tinh thần, qua thế ứng xử trong quan hệ với tự nhiện và
xã hội. Cái chung của văn hóa VN để làm nên bản sắc dân tộc, làm nên
tính thống nhất của văn hóa chính là các dân tộc cùng một cội nguồn từ
nền văn hóa bản địa, có mẫu số chung là nền văn hóa lúa nước. Cùng
sinh tụ lâu đời trên một khu vực địa lý, cùng chịu sự tác động của những
điều kiện tự nhiên, nhưng với sự phát triển trong những không gian văn
hóa khác nhau, văn hóa dân tộc vừa có sự tiếp thi các yếu tố văn hóa
của các dân tộc khác, vừa lưu trữ yếu tố nội sinh đã trở thành truyền thống, bản sắc -
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hóa dân
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với giữ gìn bản sắc dân tộc, gắn
liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện mội trường xã hội nhằm
giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hóa của VN là tổng hợp bản sắc
văn hóa của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ VN, thể hiện qua
những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những giá
Văn hóa tác động tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường Đối với
phát triển kinh tế:
Thứ nhất, văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế là kết
quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của kinh tế. Thực tiễn ngày càng cho
thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa
không chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế.
Mỗi nấc thang của tăng trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn
hóa phát triển lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển kinh
tế. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, vì phát triển kinh tế để phát triển con người.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh phúc và phát triển
toàn diện. Vì vậy, văn hóa đóng vai trò là mục tiêu trước mắt và lâu dài của sự phát
triển kinh tế. Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết vì nó là nền
tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu cứu cánh mà nó đặt ra cho tất cả
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển kinh tế đều phải
hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản nhất là bảo vệ con người,
phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bất cứ chính sách,
biện pháp kinh tế nào về sản xuất, luu thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm
hàng hóa đều phải thực hiện mục tiêu cao nhất đó yêu cầu cơ bản đó, tức là vì chính
lợi ích của con người. Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất
phát từ văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao. Bằng
nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng ta có thể làm chủ
được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào hoạt động kinh tế theo
chiều sức mạnh thúc đẩy.
Thứ ba, văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định. Văn hóa phát triển tương
xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách toàn diện. Văn hóa và tăng trưởng
kinh tế là mối quan hệ đa chiều. mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng
lực khác nhau. Với luận điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng
xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng
lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng.
Chính vì thế mà văn hóa sẽ là điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát
triển ổn định. Thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có sự phát
triển kinh tế bền vững.
Đối với phát triển xã hội:
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội.
Điều tiết xã hội: Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn làm
tròn trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội.
Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững hiện nay.
Điều quan trọng nhất khi nói văn hóa là nền tảng tinh thần bởi văn hóa có chức
năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi
của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị, chuẩn mực đó được
truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở
thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức,
luật pháp, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán,
lối sống, tạo nên cái cốt, cái hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi
nói bản sắc văn hóa của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu
nước với những khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng
lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập, tự do.
Những giá trị đó là truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế thừa và phát
triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
Thứ hai: Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội. Chìa khóa của sự
phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những nhân tố như: Nguồn lực
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công nghệ, nguồn lực con
người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ chốt. Chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8 nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình
phát triển, thì quy nguyên tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên là con người, nguồn
lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá.
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn
nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong mọi giai đoạn phát triển.
Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con người mới, có đủ phẩm chất, năng lực
đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất cần thiết trong quá trình phát triển bền vững.
Thứ ba, hệ Giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa tác động mạnh đến quá trình phát
triển xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tinh
thần nhân văn nhân đạo xây dựng một xã hội toàn diện hơn.
Đối với bảo bệ môi trường:
Thứ nhất, văn hóa xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên là
vấn đề chính cần quan tâm để đảm bảo tốt nhất môi trường sống của con người.
Nam đã có mối liên hệ đặc biệt , phụ thuộc vào tự nhiên. Vì vậy, con người có mối
quan hệ gắn bó vô cùng mật thiết với tự nhiên. Tự nhiên chính là môi trường sống
của con người. Môi trường sống không chỉ cung cấp những điều kiện cơ bản cho
con người sinh hoạt như: ăn, mặc, ở… Như vậy, có thể nhìn nhận thấy tầm quan
trọng của môi trường tự nhiên đối với con người. Trong quá trình phát triển bền
vững, vô tình sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại đến môi trường tự nhiên.
Điều này sẽ đe dọa đến sự sống của con người. Con người luôn nhận thức rõ mối
quan hệ hài hòa của mình với tự nhiên. Cần phải giữ gìn và bảo vệ tài nguyên là
vấn đề cấp bách để có thể phát triển bền vững.
Thứ hai, xây dựng con người tự ý thức, tự giác đối với việc bảo vệ môi trường là
vai trò quan trọng của văn hóa. đang trở thành thách thức. bảo vệ môi trường đang
trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của chính con người Việt Nam-
được hiểu như quá trình không ngừng mở rộng cơ hội và nâng cao năng lực lựa
chọn cho con người. Thứ nhất, sức khỏe, tính mạng người dân bị đe dọa trực tiếp
do tình trạng nhiễm khuẩn không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng phát dịch bệnh.
Thứ hai, suy thoái môi trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên tái sinh nuôi sống
con người như biển, sông, hồ, đất màu, rừng,... Thứ ba, bất bình đẳng xã hội gia
tăng do những doanh nghiệp gây ô nhiễm tạo ra chi phí kéo theo về bệnh tật, giảm
thu nhập lên những người khác, đặc biệt là nhóm yếu thế như người nghèo, dân cư
các vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số… Thứ tư, khủng hoảng môi trường,
thiên tai bùng phát, biến đổi khí hậu đe dọa an ninh, tính mạng và tài sản của con
người. Chính vì vậy xây dựng ý thức tự giác của con người đối với việc bảo vệ môi
trường chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đến sự sống còn của con người. Văn hóa
xây dựng ý thức tự giác của con người, trước hết bởi chức năng nhận thức của nó.
Con người là trung tâm của văn hóa, tất cả hành vi, hoạt động của con người đều
liên quan đến văn hóa. Văn hóa tạo dựng cho con cách ứng xử thân thiện với môi
trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với
thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức,
lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường.
Câu 2: Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa du mục và văn hóa nông
nghiệp qua một số đặc trưng văn hóa. Hiện nay, dịch Covid đang bùng phát
mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới. Phân tích sự tác động của văn hóa tới
cách ứng phó với Covid khác nhau tại một số quốc gia trên thế giới.
Tiêu chí Văn hóa nông Văn hóa du mục nghiệp
Đặc trưng Địa hình
Đồng bằng(ẩm,thấp) Đồng cỏ( khổ cao) gốc Nghề chính Trồng trọt Chăn nuôi Cách sống Định cư Du cư Ứng xử với
Tôn trọng, sống hòa Coi thường, tham vọng môi trường hợp với thiên nhiên chế ngự thiên nhiên tự nhiên Lối nhận
Thiên về tổng hợp và Thiên về phân tích và siêu thức tư duy
biện chứng (trọng hình (trọng yếu tố); khách
quan hệ); chủ quan, quan, lý tính và thực cảm tính và kinh nghiệm nghiệm
Tổ chức cộng Nguyên tắc tổ Trọng tình, trọng
Trọng sức mạnh, trọng tài, đồng chức
đức, trọng văn, trọng trọng võ, trọng nam nữ
Cách thức tổ Linh hoạt và dân
Nguyên tắc và quân chủ, chức CĐ
chủ, trọng cộng đồng trọng cá nhân Ứng xử với
Dung hợp trong tiếp Độc tôn trong tiếp nhận; môi trường
nhận; mềm dẻo, hiếu cứng rắn, hiếu thắng trong xã hội hòa trong đối phó đối phó Tiêu chí
Văn hóa gốc phương Văn hóa gốc phương Tây Đông Cơ sở hình
Khí hậu nóng ẩm Khí hậu lạnh khô, địa hình thành
mưa nhiều,sông ngòi chủ yếu là thảo nguyên
chằng chịt , đồng thích hợp cho chăn nuôi
bằng phì nhiêu màu phát triển.
mỡ nông nghiệp => Văn hóa chăn nuôi du
trồng trọt phát triển. mục. => Văn hóa nông nghiệp trồng trọt Đặc điểm
-Sống định cư, không -Sống du cư .nên có thói thích di quen thích di chuyển chuyển =>trọng động. => Trọng tĩnh – Tham vọng chinh –
Tôn thờ sùng phục,chế ngự tự nhiên. bái tựnhiên mong – Yếu tố cá nhân được
muốn hòa hợp với coitrọng . thiên nhiên.
=> Hình thành lối sống – Cuộc
sống thích ganh đua, cạnh
định cưtạo nên tính tranh,ứng xử độc đoán cộng đồng cao. trong giao tiếp. =>Hình thành lối – Chăng nuôi du mục
sống trọng tình,trọng hìnhthành kiểu tư duy phân văn trọng phụ nữ.
tích chú trọng vào từng yếu -Phương thức sản tố. xuất phụ thuộc vào – Do kiểu tư duy này nên
nhiều yếu tố tự nhiên hình thành lối sống trọng
nên hình thành kiểu lý, ứng xử theo nguyên tắc.
tư duy tổng hợp biện => Thói quen tôn trọng chứng.
pháp luật vì vậy mà hình
-Do tư duy tổng hợp thành rất sớm ở phương
biện chứng nên hình tây. thành thái độ ứng xử linh hoạt mềm dẻo Phân tích :
Như ta biết Ấn Độ là một quốc gia đa tôn giáo và có rất nhiều tín ngưỡng lạ được
người dân sung bái và tin tưởng. Trong khi dịch covid 19 ở Ấn độ đang có diễn
biến rất căng thẳng và phức tạp, mỗi ngày nước này lên đến 100 nghìn ca nhiễm
covid thì có rất nhiều người dân vẫn chủ quan tổ chức những lệ hội có sự tham gia
của đám đông bất chất sự ngăn cản của chính phủ. Khi mà chính phủ kêu gọi người
dân hãy ở nhà và chỉ ra ngoài khi cần thiết thì lại có hàng nghìn người theo các tôn
giáo khác nhau đã đổ ra sông Hằng tham gia nghi lễ tắm sông bất chấp sự lây lan
dịch bệnh. Ấy vậy ở một nghi lễ đông đúc và chen lấn như thế họ lại không đeo
khẩu trang, không giãn cách, điều này đã làm cho một làn sóng dịch covid tăng cao
ở đất nước bắt nguồn từ dòng sông Ấn này. Một người Ấn đã chia sẻ họ không sợ
trận đại dịch này vì họ tin rằng các nghi lễ tắm sông sẽ giúp họ được các vị thần
bảo vệ, che chở, nước sông Hằng sẽ giúp họ thanh tẩy đi những bụi bẩn, vi khuẩn
và có thể khiến họ chống lại covid 19. Khi người dân trên thế giới đều không đồng
tình với nghi lễ này thì người Ấn vẫn tin vào niềm tin và tín ngưỡng của mình,
cũng vì thế mà Ấn độ đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mĩ về số người mắc covid
Hay như ở các nước châu Âu cũng vậy, vốn từ đầu người châu Âu đã có tư tưởng
thoáng hơn châu Á rất nhiều, họ luôn thích tự do, ghét những việc bị bắt ép và hay
chống đối chính phủ. Chính tư tưởng thoáng này mà số người nhiễm covid ở nước
châu Âu đã tăng cao một cách chóng mặt, chỉ trong một tuần ngắn ngủi, khi mà
Việt Nam chưa đến 1000 ca trên cả nước thì ở các quốc gia ở trời Âu đã có trăm
nghìn ca mắc mỗi ngày. Nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ở chỗ WHO công
bố đại dịch trên toàn cầu quá muộn khiến chính phủ của các nước châu Âu có sự
chủ quan không hề nhẹ, chính việc này đã làm lỡ mất thời điểm vàng để ngăn chặn
dịch bệnh. Còn tại Việt Nam thì ngay từ khi biết Trung Quốc có ca nhiễm và Việt
Nam có ca mắc đầu tiên, nhà nước đã ngay lập tức cho dừng tất cả hoạt động và
giãn cách toàn xã hội, học sinh thì học online và người lớn cũng làm việc ở nhà.
Thời điểm đầu của dịch chính phủ Anh đã từng từ chối các hoạt động chống dịch,
thậm chí tổng thống Donald Trump còn phát ngôn rằng mình sẽ không đeo khẩu
trang vì xung quanh không có ai nhiễm covid, từ sợ lơ là này đã làm cho người dân
có nhận thức sai lệch về bệnh dịch, rất nhiều người dân Anh đã coi thường, chỉ
nghĩ nó là một bệnh cúm mùa, có thể chữa khỏi. Mọi người đã không đeo khẩu
trang và vẫn tham gia các hoạt động cộng đồng chỉ đến khi chính phủ nước Anh
phong tỏa 4 tuần thì người dân mới dần ý thức được tính nghiêm trọng của sự việc.
Khi mà người dân Việt Nam chấp hành giãn cách xã hội và nghe theo các chỉ thị
của nhà nước thì ở một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Itali..một bộ phận người
dân lại đi biểu tình phản đối các lệnh cấm của chính phủ cũng như không đồng ý
với việc tiêm vaccine làm dấy lên một làn sóng mạnh mẽ phản đối chính phủ và là
nguyên nhân của số ca nhiễm tăng cao đột ngột.
Mặc dù mỗi người đã được tiêm 2 mũi vaccine nhưng dường như người Việt ta vẫn
còn rất e dè với dịch bệnh và ngại đi đến những nơi đông người có thể là vì những
tổn thất và mất mát quá lớn của nước ta khi bắt đầu đại dịch đã khiến nhiều người
sợ hãi và trở thành nỗi ám ảnh hoặc do chủ chương cứng rắn cương quyết của chính
phủ ta như ín sâu vào tâm trí mỗi người. Ngược lại với đó, các nước ở châu Âu
quay lại với cuộc sống bỉnh thường mới rất sớm, mặc kệ số ca nhiễm có tăng mỗi
ngày cũng không cản trở họ tham gia các hoạt động xã hội. Họ tin rằng covid đã
trở thành một bệnh cúm mùa và không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Câu 3: Tại sao “làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ”? Phân tích
những nét đặc sắc của “văn hóa làng” Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa làng có sự biến đổi như thế nào?
Cần phải làm gì để giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế?

“làng” ở Việt Nam được gọi là “quốc gia thu nhỏ” vì
Làng xã Việt Nam xuất hiện từ cuối thời Nguyên Thủy, đầu thời dựng nước.
Chính vì thế làng là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nước.
- Làng tồn tại tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão và trọng nữ
- Dưới các vương triều phong kiến, làng là đơn vị hành chính quốc gia, 1
xã có thể có 1 hoặc nhiều làng.
- Nhìn tổng thể làng xã Việt Nam truyền thống mang nhiều đặc điểm chung
+ Cộng đồng cố kết chặt
+ Cấu trúc phân tầng sâu sắc
Làng có tính tự quản, tính cộng đồng có cơ sở làm nền móng cho truyền thống
- Địa giới về mặt hành chính: các làng ngăn cách nhau bởi cổng làng, các
con sông, đê…như tạo thành một quốc gia thu nhỏ - Kinh tế ở những làng
thuần nông là kinh tế bán tự túc - Chính trị: tồn tại song song 2 hình thức chính quyền.
- Làng cũng có thủ lĩnh, bộ máy tổ chức, nơi làm việc của lãnh đạo như
một quốc gia. Người đứng đầu của làng là ông lý trưởng, kì mục, già làng
trưởng bản. Các cuộc họp làng thường được diễn ra ở đình làng.
Làng xã còn là cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa truyền thống
- Tôn giáo: mỗi làng sẽ có một Thành Hoàng Làng riêng – vị thần che chở
và bảo vệ cho ngôi làng, người dân sẽ thờ cúng Thành Hoàng Làng.
- Không gian linh thiêng của làng là đình, chùa, miếu, nghĩa trang
- Trong làng người dân thường sống theo phong tục tập quán cổ truyền
mềm dẻo đối trọng với pháp nước cứng rắn
- Nếu như mỗi quốc gia đều có một biểu tượng riêng thì làng cũng vậy.
Mỗi làng có một biểu tượng riêng gắn với hình ảnh làng, ví dụ như cây
tre, bến nước, sân đình là nơi mọi người truyện trò, sinh hoạt tập thể
- Mỗi làng sẽ có một thổ ngữ riêng
- Làng cũng có luật lệ, được gọi là hương ước, luật làng thường do những
người đứng đầu lạng lập ra
- Giáo dục: trẻ em sẽ được giao cho thầy đồ dạy, thầy đồ sẽ được làng chu cấp
- Trong năm làng tổ chức nhiều đám rước, đám tế, lễ hội, có những bữa cỗ
tập thể đình đám như tục hương ẩm, dịp khao vọng, cheo cưới đều thu
hút đông đảo mọi tầng lớp trong làng tham gia, nghiêm trang, vui vẻ
nhưng lãng phí, hình thức thì hủ tục.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, những đặc trưng văn hóa
làng có sự biến đổi
- Biến đổi không gian làng:
Từ xa xưa, làng ở các vùng châu thổ Bắc Bộ có đặc trưng không gian tương đối
khép kín, lũy tre bao quanh được xem như ranh giới giữa không gian cư trú và
không gian sản xuất của làng. Trong thời đại ngày nay, quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa diễn ra liên tục, cùng với sự thu hẹp đáng kể của diện tích đất nông
nghiệp đã làm không gian cảnh quan ở các làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không
gian cư trú truyền thống được định vị theo các xóm, ngõ là những những hình thức
tập trung dân cư mới theo nghề nghiệp: những xóm mới, phố làng mới… khiến cho
không gian cư trú và không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với
nhau, không phân biệt rõ ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng có vai
trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa
hiện cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như
nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các công trình như trường học, nhà văn hóa, sân
chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao thông
quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đô thị. Ta có thể
thấy, không gian cảnh quan ở các làng quê hiện đại đã không còn khép kín mà ngày
càng trở nên mở, linh hoạt hơn… - Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã
Cùng với những tác động và ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng xã và những mối quan hệ xã hội liên quan ở
các làng quê hiện nay cũng đang chứng kiến những thay đổi rõ nét. Sự đa dạng hóa
và khác biệt về lao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu tiên riêng của các
thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành viên trong gia đình
ngày càng ít đi. Sự gắn bó, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên, gia đình trong
họ tộc, hàng xóm láng giềng, nhất là mỗi khi có công việc quan trọng như tang ma,
cưới xin tuy vẫn được coi trọng, duy trì nhưng không còn đóng vai trò là nhân tố
thiết yếu như trước đây
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề
nghiệp, việc làm khiến cho ai cũng bận rộn với công việc riêng của mình, mọi
người ít thời gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia. Bên cạnh đó
đời sống vật chất ngày càng được nâng lên, những ngôi nhà kín cổng cao tường
ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt động, gặp gỡ, trò chuyện giữa những người
hàng xóm với nhau bị hạn chế, dẫn đến nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi
thân tình thì nay trở nên xa cách hơn. Ngày nay mạng lưới dịch vụ ngày càng được
mở rộng, phát triển ở các làng quê khiến cho nhiều người có thói quen sử dụng các
dịch vụ, tiện ích có sẵn mỗi khi có công việc thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ từ họ
hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc, ràng buộc
của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những người hàng xóm có xu hướng suy giảm
- Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán
Đời sống kinh tế của người dân ngày càng khởi sắc vì thế mà người dân ở các làng
quê có điều kiện quan tâm hơn đến việc bảo tồn giữ gìn các di tích cũng như phục
dựng các lễ tiết, lễ hội của làng. Các di tích được đầu tư nhiều tiền của, công sức
tu bổ, làm mới, được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của
cộng đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất là lễ hội cổ truyền được tiếp
nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức và nhân lực
tham gia không ngừng được tăng cường, xã hội hóa. Bên cạnh các nghi lễ, trò vui
truyền thống, lễ hội làng cũng được bổ sung nhiều hoạt động mới mang hơi thở
cuộc sống đương đại, các trò chơi giải trí, hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ đặc sắc.
Phong tục tập quán, lối sống của người dân ở làng quê có sự biến đổi rõ nét khi
ngày càng ít người làm lĩnh vực nông nghiệp, cùng với đó là xu hướng đa dạng hóa
trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Dường như nhịp sống, lối sống của dân làng
cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn, việc tuân thủ giờ giấc được chú trọng với
tác phong nhanh nhẹn, năng động vì một bộ phận dân cư đã chuyển hẳn sang các
hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ, làm công nhân trong các khu công
nghiệp. Người dân ở các làng quê ngày nay cũng quen với tư duy cần gì là có thể
mua được chứ không cần chạy sang làng xóm vay, mượn như trước kia. Chính vì
lẽ đó mà xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ, thị trường, coi trọng sự
minh bạch, song phẳng song lối sống nghĩa tình vẫn không hề bị mất đi.
Các phong tục tập quán truyền thống như ma chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được
coi trọng, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng đã có sự giản lược và cải
biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng như những nghi lễ phức
tạp, rườm rà để phù hợp với nhịp sống, lối sống công nghiệp, đô thị
- Biến đổi trong hoạt động tiếp cận thông tin và giải trí
Hiện nay hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng thôn xóm, hệ
thống thư viện, phòng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa dạng của người
dân, các gia đình ngày càng sử dụng phương tiện nghe nhìn hiện đại như tivi, radio,
điện thoại máy tính có kết nối internet…Xuất hiện nhiều hoạt động, loại hình câu
lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe,
hưởng thụ cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó những hình thức giải trí, sử dụng
thời gian nhàn rỗi vốn thường thấy ở các dân cư đô thị như mua sắm, tham quan,
du lịch cũng dần phổ biến trong đời sống cộng đồng dân cư ở các làng quê.
Tuy nhiên bên cạnh những biến đổi tích cực, quá trình công nghiệp, hiện đại hóa
cũng cho thấy những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sốn dân cư ở làng quê hiện nay:
việc sử dụng đất nông nghiệp tùy tiện, lãng phí ở nhiều nơi dẫn tới tình trạng dư
thừa lao động, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của một bộ phận người dân;
tình trạng san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng sự yếu kém trong xử lý
nước thải, rác thải... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn và đời sống, sức khỏe của nông dân. Ngoài ra, có
thể thấy, ở nhiều làng quê, mặc dù bắt nhịp được với quá trình chuyển đổi, nhưng
với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân cư trong làng đã nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội...
Một số những giải pháp cụ thể sau đây:
- Một là, chúng ta phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng
cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản
sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
một cách chủ động, tích cực và tự giác trong mỗi người.
- Hai là, bản thân chúng ta phải thích nghi dần với văn hóa công nghiệp, phải
có những thay đổi phù hợp, không chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa phù phiếm
- Ba là, phải biết tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân
loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc dân
tộc của nền văn hóa Việt Nam. Phải bảo tồn giữ gìn các truyền thống tốt đẹp
của người Việt như: lòng yêu nước, đoàn kết, tự tôn dân tộc, thương người,…
- Bốn là, mỗi người nên không ngừng học tập để nâng cao nhận thức của bản
thân trong quá trình hội nhập quốc tế. Chúng ta càng hiểu biết, nội lực của
ta càng mạnh thì ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc
và hợp tác với các nền văn hóa khác nhau mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa truyền thống.
- Năm là, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không
gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc.
Câu 4: Khái quát những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa
Việt Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới? Trong bối cảnh Đảng
và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực, văn
hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề gì? Vì sao?

Những thành tựu của quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt
Nam với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới
- Thành tựu văn hóa Việt – Hán
Trung quốc đã đô hộ nhân dân ta trong 1000 năm, trong khoảng thời gian đó văn
hóa Trung Hoa đã có nhiều ảnh hưởng không hề nhỏ đến đất nước ta. Sự giao lưu
văn hóa đã diễn ra thông qua hai con đường đó là cưỡng bức và phi cưỡng bức.
Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống của người
Việt. Người Việt đã có sự kế thừa chọn lọc các văn hóa tốt đẹp của người Trung và
chuyển hóa nó để phù hợp văn hóa mình:
+ Về tôn giáo và đời sống tâm linh: Trung Quốc cũng có rất nhiều những
giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng đến
Việt Nam như Phật giáo đại thừa, các hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo…
và cho đến nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong học tập,
đời sống, nghiên cứu hay quản lý nhà nước. + Về thế giới quan:
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ xưa, bắt
đầu từ thời Hoàng Đế (2897-253 trước công nguyên), tương đương
thời 18 đời vua Hùng tại Việt Nam. Không một nhà sử học nào có thể
chắc chắn về thời điểm thuyết âm dương du nhập vào Việt Nam nhưng
tất cả tài liệu đều cho rằng người Việt Nam đã nhận thức được về Âm
dương từ rất sớm và đã biết vận dụng vào đời sống hàng ngày.
Không những vậy trong thời kì Bắc thuộc chúng ta còn bị ảnh hưởng
từ Trung quốc bởi cách dùng lịch âm. Âm lịch là loại lịch có nguồn
gốc tại Trung Quốc cổ xưa. Qua các thời đại nhà Lý, nhà Trần, nhà
Hồ và nhà Lê, có nhiều giai đoạn người Việt ta vẫn sử dụng lịch của
Trung Quốc nhưng cũng có nhiều thời kì chúng ta tự tính âm lịch của
mình cho đúng. Tuy dựa vào các nguyên tắc chung nhưng vì cách áp
dụng nguyên tắc tính lịch khác nhau nên âm lịch Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điểm khác biệt.
Học thuyết tam tài hình thành từ thời cổ đại Trung Quốc và chi phối
đến tư tưởng quan điểm của đại bộ phận cư dân nông nghiệp nguyên
thủy. Học thuyết này đề cao mối quan hệ hài hòa giữa trời-người-đất.,
con người vừa chịu ảnh hưởng của trời đất vừa tác động ngược trở lại
trời đất tạo thành một thế rất vững vàng. Dần dần thuyết tam tài này
đã du nhập vào Việt Nam và nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa
Việt Nam như: muốn năm đó mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa
thì người dân ta thường hay làm các các lễ cúng trời đất, dâng lên trời
đất như lễ vật như lợn, trâu để tỏ lòng biết ơn của mình với thiên địa.
+ Về chuẩn mực đạo đức
Một trong những ảnh hưởng nổi bật của văn hóa Trung Hoa vào văn hóa
Việt Nam là chuẩn mực đạo đức với quan điểm của Nho giáo như Tam
cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là vuatôi, cha-con,
chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất
dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc
trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có
đạo đức. Và cho đến ngày nay những chuẩn mức đạo đức này vẫn được
người Việt Nam đề cao, lấy đó làm gốc rễ để dạy bảo con cháu qua các
thế hệ, góp phần giúp nước ta có nhiều người tài đức, giúp đất nước ngày càng hưng thịnh.
Nho giáo cũng cho ra nội dung giáo dục đối với người phụ nữ thông qua
thuyết Tam tòng, Tứ đức. Học thuyết này được truyền vào nước ta thời
kì Bắc thuộc. Khi vào Việt Nam nó đã được cải biến đi cho phù hợp với
tính chất ôn hòa của người việt. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng rất sâu
sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt
Nam, nó giúp giá trị của người phụ nữ được nâng cao, giúp người
phụ nữ hoàn thiện vẻ đẹp hình thức và nội dung đáp ứng được yêu cầu
phát triển của xã hội.
+ Về ngôn ngữ: Ngay từ khi xâm lược nước ta và trong suốt một ngàn năm
phương Bắc đô hộ, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch đồng hóa, áp đặt chúng
ta sử dụng chữ Hán với ý nghĩa như chữ quốc ngữ. Tuy nhiên mưu đồ này đã
bất thành vì ngươi Việt dùng chữ Hán nhưng đã sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của
mình đó là chữ Nôm. Sự ra đời của chữ Nôm trên cơ sở cải biến từ chữ Hán
được xem là một thành tựu quan trọng của văn minh Đại Việt. Bởi chữ Nôm
vừa mang đậm tính dân tộc nhưng cũng chứa đựng văn hóa dân gian ở trong
đó. Do đó, chữ Nôm cũng được xem là Quốc ngữ, quốc âm của VN thời đó.
Mặc dù vậy ta cũng không thể phủ nhận sự chi phối, ảnh hưởng của chữ Hán
tới hệ thống văn học nghệ thuật. Từ chữ Hán, tiếng Hán mà ở Việt Nam biết tới
thể thơ Đường Cổ trong văn học Trung Hoa + Về ăn, mặc, ở:
Sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực của Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn
tới nền ẩm thực Việt Nam. Trong đó có nhiều món của người Việt được
biến tấu từ ẩm thực Trung Hoa như vịt quay, bún nước, lẩu,.. Có nhiều
gia vị của ta cũng bắt nguồn từ Trung Quôc như dầu hào, xì dầu, dấm
trắng, cam thảo, dầu mè…
Sau 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục cổ Việt Nam
có nhiều nét tương đồng với Han Fu – một loại quần áo cổ trang của
Trung Quốc từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà
Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới.
Trung Quốc vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới
như Vạn Lý trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Khi
du nhập vào Việt Nam, các hình thức nghệ thuật này không chỉ là sự kế
thừa mà nó còn là sự phát triển, giao thoa cùng với đặc trưng nghệ thuật
của chính người Việt, từ đó tạo nên những thành tựu độc đáo như: trong
Kiến trúc chúng ta có những công trình nổi tiếng với vẻ đẹp độc đáo như
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ và
một số công trình đền đài, tượng điêu khắc, tứ linh (long, ly, quy, phượng)…
- Thành tựu văn hóa Việt - Ấn
Không như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ thẩm thấu rất sâu vào trong tâm
thức người Việt vì bản tính hòa bình, giá trị nhân đạo và con đường du nhập tự
nhiên, phi cưỡng chế của nó
+ Phật giáo không chỉ du nhập vào nước ta từ Trung Quốc mà nó còn có nguồn gốc
từ Ấn Độ. Từ xa xưa các nhà Ấn Độ đã đến Việt Nam bằng con đường biển vào
đầu Công nguyên và thành lập trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy
Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Những tư tưởng từ bi, hỉ
xả… trong giáo lý của nhà Phật khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung, yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau trong đạo lý truyền thống của người Việt. Chính vì
có sự tương đồng đó mà ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh
được nhân dân ta tiếp nhận và cải biến đi rất nhiều để phù hợp với cư dân bản
địa, khiến Đạo Phật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta
mang đậm bản sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo – tôn giáo
du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình thái thờ thần
Tứ pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ
khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Hệ thống chùa
Tứ pháp hiện chỉ thấy trong vùng đồng bằng Bắc Bộ.
+ Phật giáo dạy chủ trương diệt dục không có nghĩa là diệt tất cả những ham muốn
mà chỉ là diệt cái đam mê ngũ dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ). Đặt vào thời điểm lịch sử thì chủ trương này đã góp phần đấu tranh giải phóng đất nước.
+ Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ nhưng lại đọc kinh phật qua bản dịch bằng
chữ Hán => Muốn giỏi kinh phật phải học chữ Hán qua nho giáo.
+ Văn hóa kiến trúc Ấn Độ đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối kiến trúc của người
Việt Nam, điều này được thể hiện qua các công trình có tính chất tôn giáo như
đền, tháp, điêu khắc trên phù điêu. Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi
phù hợp với nền văn hóa của từng nước khác nhau và trở thành điểm nổi bật
của chính nước đó như thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam.
+ Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của văn hóa Ấn.
Vì vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ
hội đền tháp như: lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm
+ Còn với ẩm thực, đặc biệt là món cà ri Ấn Độ sau khi du nhập vào Việt Nam thì
đã được người Việt biến tấu bằng cách nấu nhiều nước hơn và được dùng với
nhiều hình thức đa dạng.
- Giao lưu văn hóa Việt – phương Tây
Trong mấy thế kỉ tiếp xúc, văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng một cách sâu rộng
vào nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Tuy tùy lúc tùy nơi, người Việt Nam có
thể chấp nhận hay chống đối, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa tiếp
nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp.
+ Trên lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỉ 19, đô thị Việt Nam từ mô hình cổ
truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển theo
mô hình đô thị công nghiệp – thương nghiệp chú trọng chức năng kinh
tế. Ở các đô thị lớn dần hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc, nhiều
ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ, chế biến nông lâm
sản…). Các đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần phát triển.
+ Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây
với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. Ví dụ
như các tòa nhà của trường ĐH Đông Dương (nay là ĐH Quốc Gia Hà
Nội) đã sử dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát
giác…làm nổi bật tính dân tộc.
+ Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ gặp
phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Bởi vậy, họ đã dùng bộ chữ
cái Latinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ.
Chữ Quốc ngữ là thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý,
Pháp… và những người Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt. Tuy chữ
Quốc ngữ ban đầu chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ, nhưng do có
ưu điểm là dễ học, nên đã được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá
để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí cho người dân.
+ Sự ảnh hưởng tiếp theo từ văn hóa phương Tây vào Việt Nam đó là sự ra
đời của báo chí. Việc này trước hết để nhằm phục vụ cho nhu cầu thông
tin cai trị của thực dân Pháp. Gia định báo là tờ báo đầu tiên được phát
hành bằng chữ quốc ngữ. Sau đó ở Sài Gòn và Hà Nội lần lượt xuất hiện
nhiều tờ báo khác bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán. Báo chí đã góp phần
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc và tăng
cường tính năng động của người Việt Nam.
+ Tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã khiến cho Tiếng Việt có nhiều các từ
ngữ vay mượn để diễn tả những khái niệm trong cuộc sống thường ngày
như xà phòng, kem, ga, tivi, radio,…
+ Giao thoa với phương Tây đã làm nảy sinh trong lĩnh vực văn học thể loại
tiểu thuyết hiện đại – vốn là cái truyền thống VN ko có, khởi đầu là tiểu
thuyết của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc Ngữ, tiếp đó là hàng
loạt tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh….Chất văn xuôi, tính cách cá nhân
phương Tây còn ảnh hưởng vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời
như thể dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ mới với những tên tuổi như
Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào nhữn năm 30
Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc
tế trên nhiều lĩnh vực, văn hóa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề là
- Thứ nhất, trong quá trình phát triển, mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thực sự được tôn
trọng. Phát triển kinh tế còn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng chạy theo phong trào, hình thức,
khuôn mẫu mà chưa tính hết tính đa dạng, làm nghèo nàn bản sắc văn
hóa vốn có của các dân tộc. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế
có bước phát triển nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần
hoặc lai căng một cách tự phát. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh
tế chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên
khai thác tiềm năng thiên nhiên mà chưa chú trọng thích đáng đến phát
triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa đã
dẫn đến hệ quả "kép" về cả hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc. Tất yếu hình thành thứ văn hóa "ăn theo", "bắt chước" văn
hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho chúng thâm
nhập vào đời sống của dân ta. Đó là một nguy cơ làm nghèo nàn đi bản
sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi sức sáng tạo của dân tộc thời hiện đại.
- Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa được thể hiện rõ nét trong
quá trình phát triển dẫn đến “sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa đủ
mạnh. Mà khi chưa đủ mạnh thì đời sống tinh thần của dân tộc dễ bị cái
mới lạ từ bên ngoài mê hoặc một cách mù quáng, từ đó con người dễ có
thái độ tự ti, xa rời những giá trị văn hóa dân tộc truyền thống. Đây là
nguy cơ khiến chúng ta bị "hòa tan", tự đánh mất mình, mất bản sắc dân
tộc trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là do công tác giáo dục, tuyên truyền
và nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự đi vào
chiều sâu một cách có hệ thống, nhiều khi chỉ mới là những giải pháp tình thế trước mắt.
- Thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn mang tính "bao
cấp", dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính mà chưa khơi dậy, phát
huy tính chủ động, tích cực, tự giác của các chủ thể văn hóa dân tộc.
Trong khi đó giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các
chủ thể sinh ra và lưu giữ chúng.
- Thứ tư, đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển kinh tế mà chưa
có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Đầu tư còn thấp dẫn đến việc nghiên
cứu, bảo tồn những giá trị thuộc bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính
toàn diện, hoặc không kịp thời. Một thực tế nữa trong giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc là từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị
văn hóa dân tộc, dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa "không
giống ai", không rõ bản sắc văn hóa dân tộc.
Câu 5: Phân tích và giải thích những khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực
phương Đông và phương Tây? Anh/chị hãy giới thiệu những nét đặc sắc trong
văn hóa ẩm thực của Việt Nam?

Khác biệt cơ bản trong văn hóa ẩm thực phương Đông và phương Tây: Tiêu chí so sánh Phương Đông Phương Tây
Thức ăn chính
Một bữa ăn truyền thống Gồm thịt và nước sốt, bánh
sẽ bao gồm cơm – canh – mì hoặc bánh ngọt rau – cá – thịt
Thành phần kết hợp và gia vị -Đa dạng trong sự kết hợp -Luôn luôn kết hợp các
các thành phần nguyên thành phần nguyên liệu có
liệu phổ biến, có sự tương hơi hướng mâu thuẫn và đồng về vị
tránh ghép nối những thứ có hương vị tương tự
-Hạt nêm, muối, đường,
nước mắm,… là những gia -Bơ, sữa, trứng là những
vị được sử dụng nhiều nhất thành phần kết hợp được sử dụng nhiều nhất
-Bữa ăn thường kèm theo
nước mắm/ nước tương để -Ăn kèm theo nước sốt,
chấm, có thể dùng chung mỗi món ăn sẽ có một loại cho tất cả món ăn nước sốt riêng biệt
Quan niệm ẩm thực
“Quan niệm ẩm thực thẩm Quan niệm ẩm thực lý
mỹ”:
đánh giá món ăn tính”: ít quan tâm đến mùi
bằng màu sắc, hương vị, vị, màu sắc, hình thức ra
hình thức, bát đĩa, ưu tiên sao, chỉ chú trọng hàm
tính ngon miệng, ít quan lượng dinh dưỡng trong đó
tâm đến chất lượng dinh cung cấp cho một bữa ăn dưỡng
Một bữa ăn phải có đầy đủ
các màu sắc, các vị như
cay, ngọt, mặn… để cân
bằng âm dương của bữa ăn
Văn hóa ăn uống -Dùng đũa là chủ yếu -Chỉ dùng dao-thìa-nĩa
-Ăn chung theo mâm, tức -Ăn riêng theo từng phần là món ăn được đựng
chung trong một tô/ âu/ nồi -Tuyệt đối không nói
lớn, những người trong chuyện trong khi ăn, tránh
bàn sẽ dùng vá/ thìa để lấy gây mất lịch sự, khiếm nhã
thức ăn vào chén của mình
-Thường nói chuyện trong -Ăn thật khéo léo, gọn
bữa ăn, tạo sự gần gũi, vui gàng, không phát ra tiếng vẻ và thân mật động, tuân thủ nghiêm ngặt những quy tắc về
-Ăn nhẹ nhàng, từ tốn, cách dùng dao-nĩa-thìa,
tránh phát ra tiếng động; khăn ăn, đồ uống,…
tuy nhiên, với một số món
ăn tại một số quốc gia, việc -Mỗi món ăn sẽ yêu cầu
bạn ăn và phát ra tiếng một bộ dụng cụ ăn khác
động càng lớn thể hiện nhau và đảm bảo phù hợp
món ăn đó càng ngon và với món ăn đó
hành động này thể hiện sự biết ơn đầu bếp.
- Dùng bữa theo thứ tự:
khai vị nhẹ - món chính –
-Một bộ dụng cụ gồm đôi tráng miệng
đũa-cái thìa có thể được sử
dụng cho toàn bộ bữa ăn (trừ món tráng miệng)
Hình thức bày biện
-Đa dạng nhiều hình thức: -Thường để nguyên miếng nhỏ nhất như sợi bún, to, và người dùng phải mỏng như tờ giấy, có
dùng dao, nĩa để cắt nhỏ miếng vuông, tròn,… khi ăn ngoài ra, còn kết hợp
-Đơn giản hóa các món ăn thêm nhiều nguyên liệu cho một món ăn
-Đa dạng các món ăn trong
các bữa tiệc, cúng, giỗ
Xu hướng ăn uống -Tự chế biến -Mua sẵn về nhà ăn -Thức ăn tươi sống
-Đồ hộp, thức ăn nhanh
Đặc trưng ẩm thực VN:
Tính hoà đồng hay đa dạng
Bắt đầu từ tính cách dễ dàng tiếp thu văn hóa, đặc biệt là văn hóa ẩm thực từ các
dân tộc khác của người Việt, để từ đó chế biến thành của mình. Đây cũng là điểm
nổi bật của ẩm thực của nước ta từ Bắc chí Nam. Người Việt ta đã có nhiều món
chế biến đặc sắc như: dưa, cà, nem, gỏi… Tính ít mỡ
Các món ăn Việt Nam chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ (khá ít món ăn nấu
ngập dầu), không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng
nhiều dầu mỡ như món của người Hoa.
Tính đậm đà hương vị
Khi chế biến thức ăn người Việt Nam thường dùng nước mắm để nêm, lại kết hợp
với rất nhiều gia vị khác,… nên món ăn rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều có
nước chấm tương ứng phù hợp với hương vị.
Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị
Các món ăn Việt Nam thường bao gồm nhiều lọai thực phẩm như thịt, tôm, cua
cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngoài ra còn có sự tổng hợp của nhiều vị như chua,
cay, mặn, ngọt, bùi béo… Tính ngon và lành
Ẩm thực Việt Nam là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng
riêng. Những thực phẩm mát như thịt vịt, ốc thường được chế biến kèm với các gia
vị ấm nóng như gừng, rau răm… Đó là cách cân bằng âm dương rất thú vị, chỉ có
người Việt Nam mới có…Một điều đặc biệt trong ẩm thực của người Việt là các
món “non” đang giữa quá trình chuyển hóa và giàu dinh dưỡng, ví dụ như vịt lôn,
măng, giá, cốm, dồi, tràng, heo sữa, nhộng… Dùng đũa
Giống một vài nước châu Á khác thì việc sử dụng đũa là một nét đặc trưng rất thú
vị của ẩm thực Việt, bạn có thể sử dụng đũa trong hầu hết các món ăn, từ kho, xào,
chiên, hay thậm chí là cả canh. Đôi đũa Việt có mặt trong mọi bữa cơm gia đình,
ngay cả khi quay nướng, người Việt cũng ít dùng nĩa để xiên thức ăn như người
phương Tây. Kèm với đó thì gắp là một nghệ thuật, gắp sao cho khéo, cho chặt
đừng để rơi thức ăn…
Tính cộng đồng hay tính tập thể
Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa cơm
cũng có bát nước mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung ấy. Tính hiếu khách
Trước mỗi bữa ăn người Việt thường có thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao
thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng người khác… Tính dọn thành mâm
Người Việt có thói quen dọn sẵn thành mâm, dọn nhiều món ăn trong một bữa lên
cùng một lúc chứ không như phương Tây ăn món nào mới mang món đó ra.