




Preview text:
Giai đoạn 1954 - 1960: Bối cảnh Việt Nam sau năm 1954 và chủ trương của
Đảng ở hai miền Nam-Bắc:
• Bối cảnh lịch sử:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký
kết vào tháng 7 năm 1954 đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp. Theo hiệp định, quân đội hai bên phải ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và
chuyển giao khu vực. 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên
thực hiện những điều khoản này. Tuy nhiên do việc so sánh lực lượng và tình
hình chính trị thế giới phức tạp lúc bấy giờ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành
hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. 1. Quốc tế:
Thuận lợi trên trường quốc tế là hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, cả
về kinh tế, quân sự lẫn khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sức mạnh của Liên Xô.
Ngược lại, khó khăn lúc bấy giờ là đế quốc Mỹ có âm mưu bá chủ thế giới, với
các chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau
xây dựng và thi hành chúng. Thế giới đi vào chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang,
có xuất hiện về sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là
giữa Liên Xô và Trung Quốc. 2. Trong nước:
Ở miền Bắc, trong quá trình thực hiện hiệp định Giơ-ne-vơ, chúng ta kiên
quyết đấu tranh chống lại sự phá hoại của Pháp và tay sai, bảo vệ máy móc,
thiết bị và tài sản chờ ngày tiếp quản, đập tan các luận điệu xuyên tạc. Đồng thời
ta đòi Pháp trao trả tù binh và dân thường bị bắt. Đến ngày 10 tháng 10 năm
1954, Hà Nội được giải phóng. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1955, hai mươi lăm vạn
dân thủ đô đã tiến hành cuộc mít-tinh tại quảng trường Ba Đình để chào đón chủ
tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ đô sau 9 năm xa cách
do kháng chiến. Đến giữa tháng 5 năm 1955, cuối cùng toàn bộ lính Pháp rút
khỏi Hải Phòng, miền Bắc sạch bóng quân thù. Miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng, đó là một thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đối với dân tộc ta. Từ đó tạo cơ sở vững chắc để xây dựng căn cứ địa hậu
phương chung cho cả nước và miền Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trái ngược với tình hình miền Bắc, vào tháng 5 năm 1956 Pháp rút quân
khỏi miền Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất
hai miền Nam - Bắc. Ngay sau đó, Mỹ liền nhảy vào, thiết lập nên bộ máy chính
quyền Việt Nam Cộng hòa và đưa tay sai là Ngô Đình Diệm lên nắm chính
quyền. Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm đã từ chối thi hành các điều khoản có trong
hiệp định Giơ-ne-vơ, thay vào đó thì chúng thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam
thành hai miền. Chúng biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ
quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Chúng trang bị vũ khí, súng
đạn giết người, ra sức đàn áp những người yêu nước và phá hoại hiệp định Giơ-
ne-vơ, lùa dân vào cái gọi là “khu trù mật”. Toàn miền Nam sống trong những
ngày tháng đen tối và vô cùng đau khổ.
Qua đó, thấy được cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước
chưa được hoàn thành, nhân dân ta vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà.
Tóm lại, sau năm 1954, nước Việt Nam ta tạm thời bị chia cắt thành hai
miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc thì được hoàn toàn giải phóng
và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Còn miền Nam thì tạm thời bị đế
quốc Mỹ và các tay sai của Mỹ thống trị. Từ đó, đế quốc Mỹ đã trở thành kẻ thù
trực tiếp của nhân dân Việt Nam.
• Chủ trương của Đảng ở hai miền Nam-Bắc:
Trước bối cảnh đất nước trên, nhằm để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên một
tầm mới Đảng ta bắt buộc phải đề xuất cũng như vạch ra các chiến lược đúng đắn và sáng suốt. • Miền Bắc
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên CNXH
Sau 9 năm chiến tranh đầy đau thương và mất mát, vào tháng 9-1954 Bộ
Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc với mục đích sớm đưa
miền Bắc trở lại cuộc sống bình thường, hàn gắn những tổn thương mà chiến
tranh đem lại và hồi phục lại nền kinh tế quốc dân.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3-1955) và thứ 8 (8-1955) đã nhận định: “ Mỹ
và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống
phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng.” [1]. Muốn chống đế
quốc Mỹ và tay sai thì phải củng cố miền Bắc, song đó giữ vựng và tập trung đẩy
mạnh đấu tranh ở miền Nam.
Ngay sau khi lập lại được hòa bình, Đảng ta ngay lập tức thực hiện theo Hiệp
định Giơ ne vơ, lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh buộc đối phương phải
tuân thủ theo lịch trình đã quy định rút quân ra khỏi miền Bắc. Bên cạnh đó,
Đảng và Nhà nước còn huy động thêm hàng vạn cán bộ và bộ đội đi đến các địa
phương để giúp đỡ, vận động và tuyên truyền đến người dân đứng lên cùng đấu
tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.
Với khí thế và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của dân ta đã khiến cho địch phải
tuân thủ theo Hiệp định rút quân về. Người lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà
Nội vào ngày 10-10-1954 và đến ngày 16-5-1955, miền Bắc đã hoàn toàn không
còn hình bóng của quân đội viễn chinh Pháp và tay sai.
Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục lại sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc làm trọng
tâm sau khi nhận rõ nông nghiệp là nền kinh tế cơ bản nhất. Phục hồi kết hợp
cùng cải cách ruộng đất và vận động đổi công, giúp đỡ nhau trong việc sản xuất,
song song đó chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp.
Bên cạnh đó, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải cũng đã
được khôi phục hoàn tất. Các cửa hàng, xí nghiệp, y tế dần khôi phục, phát triển văn hóa.
Tiếp tục đẩy mạnh các công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất.
Tháng 7-1956, ở đồng bằng, trung du và miền núi cải cách ruộng đất căn bản đã
hoàn thành, chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến bị xóa bỏ và bộ mặt nông
thôn miền Bắc có nhiều sự thay đổi, khối liên minh công nông được củng cố.
Nhưng tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được ta đã phạm phải một vài
sai lầm nghiêm trọng trong lúc cải cách. Và vào Hội nghị Trung ương lần thứ 10
tháng 9-1956, nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm ấy, chỉnh đốn lại tổ chức, tự
phê bình công khai trước dân và thi hành kỉ luật nghiêm đối với một số cá nhân.
Trong năm 1956, sau chỉ đạo của Đảng về công tác sửa sai đã dần dần khắc
phục được sai lầm xảy ra.
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 của Đảng (12-1957) đánh giá thắng lợi về
việc khôi phục kinh tế và bên cạnh đó đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng giai đoạn mới.
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (11-1958), Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đề ra kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo XHCN với kinh tế cá
thể và kinh tế tư bản tư doanh ( 1958-1960)
Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959), Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã đã được thông qua.
Và cuối cùng, từ các kết quả đạt được đã tạo nên những chuyển biến cách
mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc. Miền Bắc được củng cố, dần dần
từng bước tiến lên CNXH, đồng thời trở thành hậu phương vững chắc, ổn định
góp phần đáp ứng các yêu cầu của cách mạng Việt Nam. • Miền Nam:
Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu tranh từ đấu tranh vũ trang trong
kháng chiến chống Pháp chuyển sang đấu tranh chính trị, buộc đối phương phải
thực hiện theo Hiệp định Giơ ne vơ, tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 của Đảng (7-1954) đã chỉ rõ Mỹ là kẻ thù chính và
trực tiếp của nhân dân Đông Dương.
Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam bộ được thành lập ( do đồng chí Lê Duẩn làm Bí
thư ). Và từ các thực tiễn mà cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền
Nam, vào tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo “ Đề cương đường lối
cách mạng Việt Nam ở miền Nam”, và ông đã chỉ rõ rằng con đường duy nhất
để cứu nước là con đường cách mạng, ngoài ra không có bất kì một con đường nào khác.
Tháng 3-1959, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố “ đặt miền Nam trong
tình trạng chiến tranh”. Chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, bình
định miền Nam với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, “đặt cộng sản ngoài vòng
pháp luật”. Cùng với đạo luật 10/59, thực hiện khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn
bỏ sót”, thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, đem máy
chém đi khắp nơi miền Nam, dùng Tòa án quân sự đặc biệt để đưa người bị bắt
ra xét xử và thậm chí là bắn chết ngay tại chỗ.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1-1959), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp và ra Nghị quyết về cách mạng miền Nam, xác định rõ:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam:
• Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến
• Thực hiện độc lập dân tộc và khẩu hiệu “người cày có ruộng”
• Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
Tư tưởng chỉ đạo quan trọng cho cách mạng Việt Nam ở miền Nam: sử dụng
cách mạng bạo lực để tự giải phóng cho mình.
Phương hướng phát triển cơ bản: Khởi nghĩa để giành lại chính quyền.
Và sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đã mở đường cho
cách mạng miền Nam đi lên nhờ vào sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng.
Trong thời kỳ gian khổ, khó khăn của cách mạng, Đảng ta đã không ngừng cố
gắng bám sát thực tiễn cuộc sống, chính bản lĩnh độc lập, tự chủ mạnh mẽ của
Đảng đã giúp cách mạng miền Nam có một bước tiến mới.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền
Bắc đã mở đường chi viện cho cách mạng miền Nam. Con đường vận tải chi
viện chia ra 2 hình thức:
• Trên bộ mang tên đường 559
• Trên biển mang tên đường 759
Ở miền Nam, nhân dân đã tiến hành một số cuộc khởi nghĩa vũ trang với hình
thức là khởi nghĩa đồng loạt hay còn gọi là đồng khởi bắt đầu bùng nổ. Phong
trào “ Đồng Khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ. Phá vỡ hệ
thống kìm kẹp của địch ở ấp, xã, làm tê liệt và tan rã thành từng mảng lớn.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, có ý nghĩa
lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam.
Từ trong khí thế thắng lợi đó, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ra đời với mục đích tập hợp quần chúng nhân dân cùng
nhau đoàn kết đấu tranh theo chương trình hành động 10 điểm. Mục tiêu hướng
tới chính là lật đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc
tài Ngô Đình Diệm, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh xây dựng một miền
Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất đất nước.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt có ý
nghĩa lịch sử quan trọng đối với cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng
chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, mở đường cho cách mạng miền Nam
tiến lên giải phóng hoàn toàn, thống nhất nước nhà.