




Preview text:
1. Tại sao lại cần Hiệp thương thống nhất đất nước về mặt nhà nước?
- Mục tiêu thống nhất đất nước được Đảng đưa ra được hiểu là đưa non sông thu về một
mối, có cùng chung một thể chế chính trị, một đảng lãnh đạo và một chính phủ duy nhất
đại diện cho nhân dân Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước bởi:
+ Thứ nhất, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước xây dựng
nước Việt Nam độc lập, thống nhất tiến lên CNXH. Sau năm 1975, miền Nam được giải
phóng sau hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập,
thống nhất về mặt lãnh thổ song hai miền lại tồn tại hai chế độ khác nhau. Điều này là
trái với nguyện vọng của nhân dân. Xuyên suốt lịch sử từ các triều đại phong kiến cho
tới hiện đại, đất nước ta nhiều lần bị chia cắt. Điển hình, vào thế kỷ X (945-967), đất nước
ở trong tình trạng phân chia bởi cuộc chiến tương tàn giữa các phe phái phong kiến.
Đinh Tiên Hoàng nổi lên dẹp loạn mười hai sứ quân, đem lại thống nhất cho dân tộc vào
năm 967 hay thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Việt Nam lại một lần nữa bị chia cắt.
Sau này, hiệp định Giơ-ne-vơ chia tách Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc tại vĩ tuyến
17, Mỹ dựng lên chính quyền Ngụy nhằm ngăn cản nước ta thống nhất. Tuy nhiên, khát
vọng được thống nhất, được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà là ước
nguyện lớn lao của nhân dân, vừa là bước tiến khách quan trong lịch sử giống như câu
nói của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có
thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”
+ Thứ hai, sự thống nhất đất nước về mặt nhà nước góp phần đập tan âm mưu tiếp tục
thâu tóm quyền lực của đế quốc. Sau hiệp định Paris (1973), Mỹ đã hi vọng tạo dựng một
chính phủ liên hiệp 3 thành phần ở miền Nam Việt Nam: Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và các lực lượng
trung lập. Nhưng sau thất bại tại Buôn Ma Thuột, Mỹ nhận ra kế hoạch 3 thành phần sẽ
không thực hiện được nữa. Tuy nhiên, quân Mỹ vẫn tiếp tục đưa ra giải pháp “2 thành
phần” bao gồm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và một
thành phần trung lập do Mỹ chi phối. Ngoài ra, chính phủ Pháp cũng muốn nhân cơ hội
này, tiếp tục kiểm soát về quân sự tại Việt Nam. Chính vì thế, một đòi hỏi cấp thiết ở thời
điểm đó là đất nước ta phải nhanh chóng thống nhất về mặt nhà nước, tiến đến khẳng
định vị thế là một quốc gia độc lập, có một Đảng cầm quyền duy nhất, một chính phủ duy
nhất, ngăn cản âm mưu thâu tóm của đế quốc.
+ Thứ ba, sự thống nhất về mặt nhà nước giúp hợp nhất các nguồn lực, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai các chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trên phạm vi cả nước. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang trong
giai đoạn chuyển đổi từ một xã hội nông nghiệp sang một xã hội công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đòi hỏi sự đồng thuận và thống nhất cao trong lãnh đạo và quản lý nhà nước.
Ngoài ra, việc thống nhất nhà nước còn thể hiện sự đoàn kết quốc gia, tăng cường sức
mạnh tổng hợp của đất nước để đối phó với các thách thức từ bên ngoài, đồng thời khẳng
định vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là những yếu tố cần thiết để
xây dựng một xã hội CNXH vững mạnh và phát triển bền vững.
→ Có thể nói, một quốc gia chỉ có thể phát triển toàn diện khi quốc gia đó thực sự thống
nhất hoàn toàn về mặt nhà nước, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, phá tan âm mưu
chia rẽ của các thế lực thù địch.
2. Nêu những điểm hạn chế của Đại hội IV
Hạn chế về tổ chức Đảng: Đại hội IV đã không đưa ra các biện pháp cụ thể để cải thiện tổ
chức và hoạt động của Đảng. Điều này đã gây ra sự thiếu linh hoạt và hiệu quả trong việc
quản lý và lãnh đạo Đảng.
Hạn chế về dân chủ hóa: Mặc dù Đại hội IV đã nhấn mạnh về việc tăng cường dân chủ
trong Đảng, nhưng thực tế là quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp và quyền tự do
tư tưởng vẫn bị hạn chế. Điều này đã gây ra sự bất mãn và phản đối từ một số thành viên Đảng.
Hạn chế về đổi mới kinh tế: Đại hội IV không đưa ra các biện pháp cụ thể để đổi mới kinh
tế và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Điều này đã gây ra sự chậm trễ trong quá trình cải
cách kinh tế và làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
Hạn chế về quản lý và kiểm soát: Đại hội IV không đưa ra các biện pháp cụ thể để cải
thiện quản lý và kiểm soát của Đảng. Điều này đã gây ra sự thất thoát và lãng phí tài
nguyên, cũng như sự thất bại trong việc đảm bảo sự trung thực và minh bạch trong quản
lý. Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán
bộ. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không
đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định.
Hạn chế về đối ngoại: Đại hội IV không đưa ra các chiến lược cụ thể để nâng cao vai trò
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này đã gây ra sự hạn chế trong việc
thúc đẩy quan hệ đối ngoại và phát triển kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Hạn chế trong lĩnh vực tư tưởng: sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy
luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực
hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường
đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa
nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý
vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ
việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em
Tóm lại, Đại hội IV (1976) đã đặt ra một số hạn chế quan trọng cho Đảng Cộng sản Việt
Nam, bao gồm hạn chế về tổ chức đảng, dân chủ hóa, đổi mới kinh tế, quản lý và kiểm
soát, cũng như đối ngoại
3. Tìm hiểu những thuật ngữ như “bung ra”, “xé rào”, “khoán chui”,... ? Tại sao
có những thuật ngữ đó?
Ý nghĩa của các thuật ngữ trên:
- “Khoán chui” là giao khoán cho mỗi hộ một số diện tích ruộng, hợp tác xã có thể điều
hành một số khâu, xã viên nộp mức khoán sản phẩm theo diện tích được chia cho hợp
tác xã, phần dư thừa nông dân được hưởng. Sở dĩ việc này được gọi là “khoán chui” vì
trái với hình thức hợp tác hóa nông nghiệp thời đó.
- Hiện tượng “xé rào” , “bung ra” là một cụm từ được dùng để chỉ những hành động phá
vỡ những quy định, quy chế hay cơ chế chung để đạt được mục tiêu cá nhân hay tập thể.
Hiện tượng này có thể có tính tích cực hoặc tiêu cực tùy theo hoàn cảnh và mục đích của người “xé rào”
VD: Trong lĩnh vực xã hội, hiện tượng “xé rào” là khi người ta phá vỡ những giới hạn,
quy chuẩn hay truyền thống để theo đuổi những điều mới lạ, khác biệt hay cá nhân hóa.
Hiện tượng này có thể gây ra những xung đột, bất ổn hay mất mát cho cá nhân và gia
đình. Ví dụ: người ta “xé rào” để ngoại tình, ly hôn, bỏ gia đình…. Tuy nhiên, nó cũng có
thể được coi là một biểu hiện của sự tự do, sáng tạo và tiến bộ của con người. Ví dụ: người
ta “xé rào” để khám phá, sáng tạo, phát triển bản thân…
Hoàn cảnh xuất hiện những từ ngữ đó:
Những năm đầu sau kháng chiến chống Mỹ, nền kinh tế TP.HCM đã gặp những lỗ hổng
nghiêm trọng: ngành công nghiệp thiếu nguyên liệu và phụ tùng thay thế trầm trọng.
Nhiều cơ sở sản xuất phải đóng cửa, thất nghiệp tăng cao. Cộng vào khó khăn kinh tế
chưa có lối ra, năm đó, thành phố lại phải thực hiện chủ trương của trung ương về cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh mà đỉnh cao là cải tạo tư sản thương nghiệp vào
tháng 3-1978 khiến hoạt động phân phối lưu thông bị xáo trộn, lòng người cũng bị xao
động rất lớn. Tháng 6-1978 xảy ra vụ “nạn kiều” mà TP.HCM là một tâm điểm lớn để các
thế lực thù địch lợi dụng. Lũ lụt nặng ở đồng bằng sông Cửu Long cùng năm đó ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm của thành phố. Và, còn cả
hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc cũng diễn ra trong năm 1977 đến 1979!
Chính vì thế, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc làm xoay chuyển các gam màu
theo hướng sáng lên ngày càng nặng nề . Chẳng lẽ ngồi khoanh tay nhìn dân thiếu gạo
ăn? Chẳng lẽ nhắm mắt trước tình trạng các cơ sở công nghiệp lớn, nhỏ không thể nhập
khẩu nguyên liệu, vật tư, phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất?
Sau quá trình quan sát thực tiễn, người đứng đầu thành phố và các cộng sự của mình
hiểu ra rằng: rào cản lớn nhất và cũng là thủ phạm của tình trạng trì trệ sản xuất chính là
cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ, phi thị trường, bất chấp hiệu quả, khiến cho các
sáng kiến không thể thực thi. “Nhìn rõ được rào cản rồi thì phải xé rào thôi, để các sáng
kiến được áp dụng, để sản xuất bung ra, không còn cách nào khác!”
4. Tìm hiểu về 3 bước đột phá trong nhận thức về xây dựng kinh tế trong giai
đoạn này để đi đến đổi mới.
Bước đột phá thứ nhất được đánh dấu bởi Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979)
với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”. Đây có thể coi là sự “đột phá đầu tiên” trong
việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là khắc phục
những khiếm khuyết, sai lầm trong quản lý kinh tế, cải tạo XHCN, điều chỉnh những chủ
trương, chính sách kinh tế, tạo ra sự tự do lưu thông hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm
chợ” để cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo động lực cho sản xuất, chú ý kết hợp các lợi
ích, quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động...
Bước đột phá thứ hai được đánh dấu bằng Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6/1985),
với chủ trương “Dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế
một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chuyển ngân hàng sang
nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng của Hội nghị lần này là thừa nhận sản xuất
hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Bước đột phá thứ ba được đánh dấu bằng Hội nghị Bộ Chính trị khóa V của Đảng (8/1986)
đã hình thành và khẳng định ba quan điểm kinh tế cơ bản: một là, trong bố trí cơ cấu
kinh tế, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; hai là, trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ; ba là, trong khi lấy kế hoạch làm trung tâm, phải đồng thời sử dụng đúng đắn các
quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính
sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Câu 5. Tại sao HNBCT (8/1986) đưa ra kết luận đối với một số vấn đề về quan điểm kinh
tế đươc coi là bước đột phá thứ 3? Nội dung là:
(1) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu; ra sự phát triển công nghiệp nhẹ; phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng. Cần tập
trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được 3 chương trình quan trọng
nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu
Thứ nhất, Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển
ổn định. Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tư là những vấn đề
quan trọng đầu tiên của đường lối kinh tế, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội trong mỗi chặng đường.
Thứ hai, Hội nghị thẳng thắn thừa nhận trong hơn mười năm (từ 1976- 1986)Đảng ta đã
mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư. Vì vậy,
những mục tiêu do Đại hội lần thứ V xác định đã không thực hiện được. Chúng ta muốn
đi nhanh nhưng thực tế đã đi đường vòng, gây thêm cho mình những khó khăn lớn và
lãng phí thời gian, làm cho chặng đường đầu tiên bị kéo dài.
Thứ ba, Hội nghị yêu cầu phải kiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư theo hướng: “thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho
người lao động và tạo dần tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân”. Công nghiệp nặng
phải được phát triển một cách có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô
nhỏ và vừa, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Những gì nhất thiết phải tạo ra ở trong nước (như
điện, than, phân lân…) thì cố gắng làm cho được với kỹ thuật thích hợp;những gì chưa
thể làm ngay, thì thông qua xuất khẩu để nhập khẩu. Phát triển đồng bộ giao thông vận
tải cùng kết cấu hạ tầng khác và các hoạt động dịch vụ cần thiết.Coi trọng đầu tư cho
khoa học, kỹ thuật. Chuẩn bị điều kiện mọi mặt để đẩy mạnh công nghiệp hoá trong
chặng đường sau. Trong các phương án kinh tế, phải rất coi trọng áp dụng thành tựu
khoa học và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả
(2) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lựa chọn bước đi và hình
thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua
những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình rồi tiến lên quy mô lớn
Một là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải tuân theo quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ sản xuất nhỏ đi lên
chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất của ta còn nhỏ yếu, trìnhđộ xã hội hoá sản xuất còn
thấp, lại phát triển không đều”2.Và tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuấtmà tiếp
tục cải tạo với những hình thức cao hơn, quy mô rộng lớn hơn để từngbước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Hai là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa là một bộ phận trọng yếu của cuộc đấutranh nhằm giải
quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tưbản trong thời kỳ quá
độ”1. Đặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
Ba là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu màlà giải quyết
vấn đề quan hệ sản xuất một cách đồng bộ, cả trên ba mặt: chế độ sởhữu, chế độ quản lý
và chế độ phân phối. Cải tạo bao hàm nội dung chủ yếu là xâydựng, nhằm từng bước làm
cho ba mặt đó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa
(3) Trong cơ chế quản lý kinh tế: lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng
đúng quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, chính sách
giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Bố trí lại cơ cấu kinh
tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý, làm cho 2 mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực
mới thúc đẩy sản xuất phát triển
Thứ hai, Hội nghị chỉ rõ: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng của quản lý kinh
tế thể hiện tính thống nhất trong việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản
lý của Nhà nước và phát huy thật sự vai trò làm chủ của nhân dân lao động”
Thứ ba, “Kế hoạch hoá là công cụ trung tâm của hệ thống quản lý, bao quátmọi mặt kinh
tế - xã hội trong nước, gắn liền với quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằmbảo đảm phát triển
nền kinh tế quốc dân với hiệu quả cao