
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58478860
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP PHƯƠNG PHÁP NCKH
Câu 1: phân tích đặc điểm của nghiên cứu khoa học
* Tính mới mẻ Nghiên cứu khoa học là một quá trình thâm nhập vào thế giới
của những sự vật, hiện tượng mà con người chưa biết. Vì vậy, quá trình nghiên cứu
khoa học là quá trình sáng tạo luôn hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới.
Đặc điểm trên đây cho thấy một đặc điểm khác, là quá trình nghiên cứu khoa học
không có sự lặp lại một thí nghiệm hoặc một quan sát đúng như công việc đã làm trước đó.
Ví dụ, khi làm lại một thí nghiệm hóa học với những thành phần hóa chất tham gia phản ứng
vẫn được giữ nguyên như ban đầu, thì các tham số về điều kiện phản ứng, như nhiệt độ, áp
suất, v.v… phải thay đổi.
“Tính mới” cần phải được hiểu là, cho dù đạt được một phát hiện mới, nhưng người
nghiên cứu còn tiếp tục vươn tới những phát hiện mới hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, tính
mới của nghiên cứu khoa học không hề mâu thuẫn, và do vậy, không thể bị hiểu lầm bởi một
tính chất khác về tính tin cậy của kết quả nghiên cứu.
* Tính thông tin Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều
dạng, có thể đó là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một
mẫu vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương pháp tổ chức
sản xuất mới, vv… Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học luôn
mang đặc trưng thông tin về quy luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng, thông tin về
quy trình công nghệ và các tham số đi kèm quy trình đó.
* Tính khách quan
Tính khách quan vừa là đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một tiêu chuẩn của
người nghiên cứu khoa học. Một nhận định vội vã theo cảm tính, một kết luận thiếu các xác
nhận bằng kiểm chứng chưa thể xem là một phản ánh khách quan về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
* Tính tin cậy Tính tin cậy là một thuộc tính của sản phẩm khoa học. Một kết
quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó chỉ có thể xem là tin cậy khi nó
có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những
điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những kết quả thu
được hoàn toàn giống nhau.
Một kết quả ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đã đặt ra trước đó cũng chưa thể
xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vận động hoặc hiện tượng. Điều này dẫn
đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận của nghiên cứu khoa học, là khi trình bầy lOMoAR cPSD| 58478860
một kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu đã chỉ rõ các điều kiện, các nhân tố và phương
tiện thực hiện (nếu có).
* Tính rủi ro
Tính hướng mới của nghiên cứu khoa học quy định một thuộc tính quan trọng khác
của nghiên cứu khoa học, đó chính là tính rủi ro.
Ngay cả những nghiên cứu đã thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi ro trong áp
dụng kỹ thuật chưa được làm chủ, hoặc ngay cả khi đã thử nghiệm thành công thì vẫn không
thể đi đến quyết định áp dụng vì một nguyên nhân xã hội nào đó.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, sự thất bại cũng được xem là một kết quả. Kết
quả ấy cũng được mang ý nghĩa về một kết luận của nghiên cứu khoa học, mà nội dung là,
các giả thuyết đã đặt ra không được xác nhận về mặt khoa học, nghĩa là, trong sự vật hoặc
hiện tượng không tồn tại quy luật hoặc giải pháp như đã dự kiến.
* Tính kế thừa Ngày nay không còn một công trình nghiên cứu khoa học nào
bắt đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến trúc. Mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết
quả nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học rất xa khác nhau. Chẳng hạn, khi nghiên cứu
kinh tế học, Marx đã kế thừa những kiến thức về mô hình toán học để thiết lập mô hình
toán học của quá trình tái sản xuất xã hội.
Tính kế thừa có một ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận nghiên cứu: một
người nghiên cứu chân chính không bao giờ đóng cửu cố thủ trong những “kho tàng” lý luận
và phương pháp luận “riêng có” của mình mà bài xích sự thâm nhập cả về lý luận và phương
pháp luận từ các lĩnh vực khoa học dù là rất khác nhau. Hàng loạt các phương hướng nghiên
cứu mới và các bộ môn khoa học mới xuất hiện chính là kết quả kế thừa lẫn nhau giữa các
bộ môn khoa học. Chẳng hạn, sự xuất hiện bộ môn Kinh tế chính trị học chính là kết quả kế
thừa những cơ sở lý luận và phương pháp luận của chính trị học và nghiên cứu kinh tế học.
* Tính cá nhân
Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực hiện, thì vai trò cá nhân
trong sáng tạo cũng mang tính chất quyết định. Tư duy cá nhân trong nghiên cứu chính là
quá trình tự tìm tòi, điều tra, sáng tạo để có ý kiến riêng có giá trị mới mẻ về mặt khoa học.
Người nghiên cứu nên thường xuyên kiểm tra trong các tác phẩm của mình về xuất xứ của
các sản phẩm trí tuệ, xem đâu là sản phẩm tư duy của riêng mình, đâu là ý kiến cấp trên, đâu
là tiếp thu của người khác hoặc kế thừa từ một công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp đi trước.
* Tính kinh tế lOMoAR cPSD| 58478860
Tính kinh phí là một đặc trưng đáng lưu ý của nghiên cứu khoa học. Đặc trưng này
thể hiện ở một số điểm sau: -
Lao động nghiên cứu khoa học rất khó định mức một cách chính xác như
tronglĩnh vực sản xuất vật chất, thậm chí có thể nói, lao động khoa học hầu như không thể định mức. -
Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể
khấuhao, nếu nó được đặt trong balô của các nhà nghiên cứu. Có hai lý do:
+ Thứ nhất, tần suất sử dụng không ổn định và hầu như rất thấp. Một kính hiển vi
điện tử rất đắt tiền có thể chỉ sử dụng để phân tích một vài mẫu thí nghiệm trong một tuần,
đôi khi sử dụng dồn dập trong vài ba ngày với tần suất 24/24 giờ, và sau đó hàng tháng, thậm
chí hàng năm không sử dụng đến nữa.
+ Thứ hai, tốc độ hao mòn vô hình luôn vượt trước rất xa so với tốc độ hao mòn hữu
hình, một thiết bị thí nghiệm hoặc một máy vi tính đắt tiền chưa kịp hao mòn hữu hình thì
đã bị lỗi thời về kỹ thuật. -
Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định
được,ngay cả những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật dưới dạng các sáng chế và hình mẫu rất
có giá trị về kỹ thuật, thậm chí có thể giá trị mua bán rất cao trên thị trường, song không thể
áp dụng chỉ vì một lý do thuần túy xã hội, và như vậy hiệu quả kinh tế cũng không thành hiện thực. -
Lợi nhuận trong nghiên cứu khoa học không dễ xác định.
Câu 2: phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất -
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất: các phương pháp
nghiên cứu lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phân tích nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
a. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (0,5 điểm)
Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu lý
luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận, từng mặt theo
lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện. Phân tích lý thuyết còn nhằm
phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn
lọc những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ
phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được để được tạo ra một hệ thống lý thuyết mới
đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thực hiện khi ta đã thu lOMoAR cPSD| 58478860
thập được nhiều tài liệu phong phú về một đối tượng. Tổng hợp cho chúng ta tài liệu toàn
diện và khái quát hơn các tài liệu đã có.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song chúng
lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp và tổng hợp lại giúp
cho phân tích càng sâu sắc hơn.
b. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic chặt
chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất,
cùng một hướng phát triền.
Phương pháp hệ thống hóa là phương pháp sắp xếp tri thức khoa học thành hệ thống
trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm cho sự hiểu biết của ta về đối tượng được đầy đủ và sâu sắc.
Hệ thống hóa là phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống- cấu trúc trong nghiên
cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài liệu khác nhau, nhờ
phương pháp hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với một kết cấu chặt chẽ để từ đó
mà ta xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh.
Phân loại và hệ thống hóa là hai phương pháp đi liền với nhau, trong phân loại đã có
yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và hệ thống hóa làm cho
phân loại được đầy đủ và chính xác hơn. Phân loại và hệ thống hóa là hai bước tiến để tạo
ra những kiến thức mới sâu sắc và toàn diện. c. Mô hình hóa
Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng khoa học bằng xây dựng gần
giống với đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tái hiện lại những mối liên hệ cơ cấu- chức năng,
mối liên hệ nhân quả của các yếu tố trong đối tượng.
Đặc tính quan trọng của mô hình là sự tương ứng của nó với nguyên bản, mô hình
thay thế đối tượng và bản thân nó lại trở thành đối tượng để nghiên cứu, chính mô hình là
phương tiện để thu nhận thông tin mới.
Mô hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực quan. Tri thức thu được
từ nghiên cứu các mô hình là cơ sở để chuyển sang nghiên cứu nguyên bản sinh động, phong phú và phức tạp hơn.
d. Phương pháp giả thuyết Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối
tượng bằng cách dự đoán bản chất của đối tượng và tìm cách chứng minh các dự đoán đó.
Như vậy phương pháp giả thuyết có hai chức năng: chức năng dự đoán và chức năng chỉ lOMoAR cPSD| 58478860
đường, trên cơ sở dự đoán mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai chức năng đó giả thuyết
đóng vai trò là một phương pháp nhận thức.
Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định- suy diễn, có tính xác suất,
cho nên cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng
minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh dựa vào
các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy luận để rút ra luận đề. Chứng minh gián
tiếp là phép chứng minh khẳng định rằng phản luận đề là gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực.
e. Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng đi tìm nguồn gốc phát sinh,
quá trình phát triền và biến hóa của đối tượng, để phát hiện bản chất và quy luật của đối tượng.
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức là có
nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy trình phát triền lịch sử biểu
hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, những bước quanh co, những cái ngẫu
nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình, muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và
theo một trật tự thời gian nhất định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh
trung thực về bản thân đối tượng nghiên cứu.
Câu 3. Anh (chị) hãy lập một đề cương nghiên cứu khoa học chi tiết liên quan đến
ngành học của anh (chị)? (Ví dụ) MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Bố cục của đề tài
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XÚC TIẾN QUẢNG BÁ DU LỊCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Du lịch 1.1.2. Xúc tiến
1.1.4. Xúc tiến quảng bá du lịch lOMoAR cPSD| 58478860
1.2. Vấn đề xúc tiến quảng bá du lịch
1.2.1. Nội dung xúc tiến quảng bá 1.2.2. Nguyên tắc
1.2.3. Vai trò của xúc tiến quảng bá du lịch
1.3. Các công cụ xúc tiến quảng bá du lịch 1.3.1. Quảng cáo du lịch 1.3.2. Quan hệ công chúng
1.3.3. Xúc tiến quảng bá du lịch bằng Internet
1.4. Một số bài học kinh nghiệm về xúc tiến quảng bá du lịch 1.4.1. Trên thế giới 1.4.2. Ở Việt Nam 1.4.3. Bài học rút ra
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÚC TIẾN QUẢNG BÁ Ở KHU DU LỊCH
THÁC BẢN GIỐC - CAO BẰNG
2.1. Giới thiệu chung về Khu du lịch Thác Bản Giốc
2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
2.1.2. Các thành tố của Khu du lịch
2.2. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch ở Khu du lịch Thác Bản Giốc
2.2.1. Quan điểm phát triển
2.2.2. Nội dung xúc tiến quảng bá du lịch
2.2.3. Công cụ xúc tiến quảng bá
2.2.4. Thành tựu và hạn chế
2.3. Vai trò của hoạt động xúc tiến quảng bá của Khu du lịch thác Bản Giốc
2.3.1. Tạo lập hình ảnh tích cực và tăng khả năng thu hút khách
2.3.2. Tranh thủ nguồn vốn
2.2.3. Tăng cường khả năng khai thác, bảo vệ và sử dụng tài nguyên du lịch
2.3.4. Tạo cơ hội hợp tác quốc tế về du lịch
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XÚC TIẾN QUẢNG BÁ KHU
DU LỊCH QUỐC GIA THÁC BẢN GIỐC
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp
3.1.1. Căn cứ vào chính sách phát triển du lịch của địa phương
3.1.2. Căn cứ vào điểm mạnh – điểm yếu, cơ hội – thách thức trong phát triển của Khu du
lịch quốc gia Thác Bản Giốc lOMoAR cPSD| 58478860 3.2. Một số giải pháp
3.2.1. Giải pháp về nghiên cứu thị trường
3.2.2. Giải pháp về thiết kế ấn phẩm xúc tiến quảng bá du lịch
3.2.3. Giải pháp xúc tiến quảng bá du lịch qua Internet
3.2.4. Xúc tiến quảng bá du lịch qua kênh truyền thông đại chúng
3.2.5. Xúc tiến quảng bá du lịch bằng sự kiện
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kế luận 2. Kiến nghị
Câu 4: trình bày những hiểu biết về đề tài nghiên cứu khoa học? Những tính chất
của đề tài nghiên cứu khoa học?
Đề tài khoa học (Subject) là một vấn đề khoa học (Problem) có chứa một nội dung
thông tin chua biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Có thể nói đơn giản đề tài khoa học là
một câu hỏi, một vấn đề của khoa học cần phải giải đáp và khi giải đáp được thì làm cho
khoa học tiến thêm một bước.
Một vấn đề trở thành đề tài khoa học phải có các điều kiện sau -
Một là, đó là sự kiện hay hiện tượng mới chưa từng ai biêt, một mâu
thuẫn hayvướng mắc cả trở bước tiến cũ khoa học hay thực tiễn. -
Hai là, bằng kiến thức cũ không thể giải quyết được, đòi hỏi các nhà
khoa họcphải nghiên cứu giải quyết. -
Ba là, vấn đề nếu được giải quyết sẽ cho một thông tin mới có giá trị
cho khoahọc hay làm khai thông các hoạt động của thực tiễn.
Ngược lại nếu một sự kiện, một mâu thuẫn của thực tế đã quen biết, bằng kiến thức
và kinh nghiệm cũ có thể giải quyết được thì vấn đề này không có giá trị thông tin không thể
lấy làm đề tài khoa học.
Đề tài hay đề tài NCKH lại có những quan điểm khác nhau. -
Vũ Cao Đàm (2007; Phương pháp luận NCKH), quan niệm đề tài là
một hìnhthức tổ chức NCKH, trong đó có một nhóm người cùng thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu. -
Nguyễn Duy Bảo (2007; Phương pháp luận NCKH và thực hiện đề tài
NCKH) quan niệm đề tài NCKH là một hình thức tổ chức NCKH được đặc trưng bởi
một nhiệm vụ và tập thể người thực hiện. Tập thể người thực hiện trong trường hợp
cá biệt chỉ có một người. lOMoAR cPSD| 58478860
-> Điểm chung của các quan niệm trên về đề tài hay đề tài NCKH đều là một hình
thức tổ chức NCKH; thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu; do một hoặc một nhóm người thực
hiện khi đề cập đến khái niệm đề tài hay đề tài NCKH.
Như vậy: Đề tài NCKH thường được đặt ra theo yêu cầu của lý luận hay thực tiễn và
thỏa mãn hai điều kiện.
+ Vấn đề đang chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết + Đã
xuất hiện khả năng giải quyết mâu thuẫn đó.
=> Để nhận dạng đề tài NCKH, người nghiên cứu trước hết phải xem xét những vấn
đề khoa học (vấn đề nghiên cứu) đặt ra. Có thể có ba trường hợp: -
Có vấn đề nghiên cứu, nghĩa là có nhu cầu giải đáp vấn đề nghiên cứu
và như vậy hoạt động nghiên cứu được thực hiện. -
Không có vấn đề hoặc không còn vấn đề. Trường hợp này không xuất
hiện nhu cầu giải đáp, nghĩa là không có hoạt động nghiên cứu. -
Giả - vấn đề: tưởng là có vấn đề, nhưng sau khi xem xét thì lại không
có vấn đề hoặc có vấn đề khác. Phát hiện “giả -vấn đề” vừa dẫn đến tiết kiệm chi phí, vừa
tránh dược những hậu quả nặng nề cho hoạt động thực tiễn.
Sự xuất hiện của đề tài là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống hay nhu cầu phát triển
khoa học. Giải quyết những yêu cầu đó đòi hỏi phải huy động lực lượng các nhà khoa học nghiên cứu.
Do vậy đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với lý luận hay đối với
thực tiễn. Đề tài phải có tính mới mẻ, giải quyết được vấn đề sẽ làm cho khoa học phát triển,
sẽ bổ sung cho kho tàng tri thức nhân loại những thông tin mới.
Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài. Tên đề tài là tên gọi của vấn đề khoa
học mà ta cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bên ngoài còn vấn đề khoa học là nội dung bên
trong. Cái vỏ chứa nội dung, cái vở phải phù hợp với nội dung. Đọc đề tài là ta nắm bắt được
ngay nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Đề tài cần diễn đạt bằng một câu ngữ pháp trọn vẹn, rõ ràng, một nghĩa, chứa đựng
vấn đề cần nghiên cứu. Tên đề tài có thể đặt thẳng vào đối tượng nghiên cứu. Bắt đắc dĩ mới
đặt tên có thêm ngoặc đơn để giải thích chủ đề.
Không đặt tên đề tài quá dài, thiếu xác định quá xa với nội dung, có thể hiểu theo
nhiều cách hoặc dùng mỹ từ bóng bẩy. Thí dụ.
- Một số vấn đề về… - Thử tìm hiểu… lOMoAR cPSD| 58478860
- Góp phần làm sáng tỏ. Tóm lại
=> Đề tài NCKH thực chất là một câu hỏi - một bài toán đối diện với những khó khăn
trong lý luận và trong thực tiễn mà chưa ai trả lời được (hoặc trả lời nhưng chưa đầy đủ,
chưa chính xác hoặc chưa tường minh), đòi hỏi người nghiên cứu phải giải đáp những điều
chưa rõ đem lại cái hoàn thiện hơn, tường minh hơn hay phát hiện ra cái mới phù hợp với
quy luật khách quan, phù hợp với xu thế đi lên của sự phát triển .
* Tính chất của đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài NCKH hướng vào những vấn đề chưa hoặc chưa được giải quyết một cách triệt
để trong lĩnh vực khoa học nào đó... Vì vậy một đề tài NCKH cần có những tính chất sau:
- Tính thực tiễn: phù hợp với thực tế và đem lại hiệu quả.
- Tính tiên tiến: cập nhật, mới mẻ, phù hợp với xu thế đi lên của sự phát triểnkinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ .
- Tính xác định: mức độ, giới hạn và phạm vi đề tài .
Câu 5: trình bày và phân tích về phân loại đề tài nghiên cứu khoa học?
Đề tài khoa học rất đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung và nhiều cấp quản
lý. Người ta dựa vào các dấu hiện khác nhau để phân loại đề tài khoa học.
Đề tài NCKH nói chung có thể phân thành:
+ Đề tài thuần tuý lý thuyết.
+ Đề tài thuần tuý thực nghiệm.
+ Đề tài kết hợp cả lý thuyết và thực nghiệm.
Theo loại hình NCKH thì có thể chia thành bốn loại:
+ Các đề tài NCKH cơ bản.
+ Các đề tài nghiên cứu ứng dụng. + Các
đề tài nghiên cứu triển khai.
+ Các đề tài nghiên cứu thăm dò
Ngoài ra, còn do tính chất, yêu cầu, mức độ khác nhau, các đề tài NCKH
giáo dục còn được phân loại cụ thể hơn gồm:
- Đề tài điều tra, phát hiện tình hình (loại đề tài thực nghiệm)
- Đề tài nhằm giải quyết nguyên nhân, rút ra kết luận mới, cơ chế mới
(loại đề tài cả lí thuyết và thực nghiệm)
- Đề tài tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm tiên tiến lOMoAR cPSD| 58478860
Đề tài cải tiến kinh nghiệm hay lí luận cũ và sáng tạo cái mới trong lĩnh vực giáo dục
(ví dụ: nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo ...). Cụ thể một số hình thức đề tài như
1. Dựa theo trình độ đào tạo ta có.
+ Luận văn Cử nhân khoa học. Đó là một văn bản trình bày các kết quả tập dượt
nghiên cứu của sinh viên trong quá trình đào tạo ở trường đại học để trở thành nhà khoa học.
Kết quả đánh giá luận văn là cơ sở để nhà trường công nhận tốt nghiệp. Tuy vậy, cũng có
những sinh viên tài năng, luận văn của họ có giá trị thực tiễn và khoa học cao, có thể lên
thành luận văn Thạc sĩ hoặc luận án Tiến sĩ khoa học.
+ Luận văn Thạc sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị thực
tiễn. Luận văn thường hướng vào việc tìm tòi các giải pháp cho một vấn đề nào đó của thực
tiễn chuyên nghành. Hoàn thành luận văn Thạc sĩ là bước trưởng thành về mặt khoa học của
nhà chuyên môn trẻ và là bước chuẩn bị để tiếp tục học ở bậc nghiên cứu sinh.
+ Luận án Tiến sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học của nghiên cứu
sinh. Đề tài luận án có tính cấp thiết, kết quả nghiên cứu có những đóng góp mới, những
phát hiện mới và kiến giải có giá trị trong lĩnh vực khoa học và thực tiễn chuyên ngành.
2. Dựa theo quy trình tổ chức nghiên cứu khoa học ta có:
+ Đè tài khoa học do cấp trên giao: Loại đề tài này thường là đề tài cấp nhà nước, cấp
Bộ hay một phần của các loai đề tài đó có phạm vi rộng, nghiên cứu các chiếm lược phát
triển kinh tế và xã hội của quốc gia hay chiếm lược phát triển của các nghành. Các cơ sở tiếp
nhận một phần theo khẳ năng của chuyên nghành mình để nghiên cứu.
+ Đề tài phát hiện từ cơ sở thực tiễn. Đây là loại đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với
các hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Đề tài này do các nhà khoa học đăng ký với cấp trên cơ sở
phát hiện được những vấn đề cụ thể trong phạm vi hoạt động chuyên môn của mình. Loại đề
tài này có ý nghĩa thực tiễn lớn và khả năng ứng dụng rất cao.
3. Dựa theo cấp quản lý đề tài ta có
+ Chương trình khoa học quốc gia nghiên cứu cac chiếm lược phát triển kinh tế,văn
hoa, khoa học công nghệ quốc gia. Chương trình này chia thành nhiều nhánh với nhiều đề
tài cấp nhà nước, giao cho cac cơ sở, các nhà khoa học từng chuyên ngành thực hiện.
+ Đề tài cấp Bộ là đề tài nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên nghành nhằm
thúc đẩy sự tiến bộ chuyên môn của các ngành phục vụ cho sự tiến bộ chung. lOMoAR cPSD| 58478860
+ Đề tài cấp cơ sở là đề tài do các cơ sở đăng ký và cấp trên phê duyệt. Đề tài cấp cơ
sở giải quyết những vấn đề trực tiếp trong chuyên môn của cơ sở hoặc của ngành.
Ba loại đề tài này không chỉ khác nhau về cấp quản lý mà khác nhau về phạm vị
nghiên cứu và ứng dụng. Trong ba loại dó thì chương trình khoa học với các đề tài cấp nhà
nước có phạm vi ứng dụng. Trong ba loại đó thì chương trình khoa học với các đề tài cấp
nhà nước có phạm rộng bao hàm những vấn đề quan trọng ở tầm cỡ chiếm lược quốc gia
và chỉ dẫn các đề tài cấp dưới theo một định hướng chung..
4. Dựa theo các loại hình nghiên cứu khoa học ta có
+ Đề tài nghiên cứu cơ bản là đề tài nghiên cứu có mục tiêu phát hiện ra các sự kiện
hiện tượng khoa học mới, tìm ra bản chất và các quy luật phát triển của chúng hoặc tìm ra
các phương pháp nhận thức mới.
+ Đề tài nghiên cứu ứng dụng là đề tài tìm ra giải pháp áp dụng các thành tựu khoa
học vào thực tế sản xuất hay quản lý xã hội nhằm tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần,
cũng như nhằm cải tiến nội dung và phương pháp hoạt động…
+ Đề tài nghiên cứu dự báo là loại đề tài hướng vào tìm tòi các xu hướng phát triển
của khoa học và thực tiễn trong tương lai.
Đề tài khoa học dù là ở dạng nào cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn mà mục đích
thật sự của nó hoặc là phát hiện ra các tri thức mới, các quy luật phát triển của thế giới hoặc
là các phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực.
Câu 3. trình bày trình tự của một đề tài nghiên cứu khoa học
1. Lựa chọn đề tài
Đối với người đã có kinh nghiệm nghiên cứu thì việc lựa chọn đề tài không gặp
những khó khăn lớn. Nhưng đối với những người mới tham gia nghiên cứu lần đầu thì việc
lựa chọn đề tài có một ý nghĩa rất quan trọng. Đề tài được lựa chọn bắt đầu từ sự kiện khoa
học; từ sự kiện khoa học dẫn đến nhiệm vụ nghiên cứu.
* Lựa chọn sự kiện khoa học
Sự kiện khoa học là điểm xuất phát của chủ đề tài nghiên cứu. Lựa sự kiện khoa học
là cơ sở để tìm kiếm chủ đề nghiên cứu. Sự kiện khoa học là một sự vật hoặc hiện tượng có
chứa đựng những vấn đề đòi hỏi giải thích bằng tri thức khoa học và bằng phương pháp quan
sát hoặc thực nghiệm. Sự kiện khoa học có thể là một sự kiện tự nhiên hoặc sự kiện xã hội.
* Xác định nhiệm vụ nghiên cứu lOMoAR cPSD| 58478860
Người nghiên cứu có thể được chỉ định thực hiện một đề tài mà tổ chức của mình cần
thực hiện theo yêu cầu của cấp trên hoặc theo một hợp đồng với đối tác. Đối với đề tài được
chỉ định, thường có nhiều thuận lợi về phương tiện nghiên cứu, nhưng có thể không thực sự
phù hợp với sở thích cá nhân. Đề tài có thể được nhận từ hợp đồng với các đối tác (doanh
nghiệp hoặc tổ chức xã hội hoặc cơ quan Chính phủ).
Việc lựa chọn đề tài có thể dựa trên những căn cứ được xem xét theo các cấp độ sau: -
Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không. Ý nghĩa khoa học thể hiện trên những
khía cạnh như bổ sung những nội dung lý thuyết của khoa học hoặc làm rõ một số
vấn đề lý thuyết vốn tồn tại hoặc xây dựng cơ sở lý thuyết mới. -
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn hay không. Trong khoa học không phải đề tài nào
cũng mang ý nghĩa thực tiễn, nhất là trong nghiên cứu cơ bản thuần túy. Tuy nhiên,
tiêu chuẩn này phải luôn được xem xét, nhất là trong điều kiện kinh phí còn eo hẹp,
nghĩa thực tiễn thể hiện trong việc xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển
kinh tế và xã hội, nhu cầu kỹ thuật của sản xuất, nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường, v. v... -
Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không. Tính cấp thiết thể hiện ở mức
độ ưu tiên giải đáp những nhu cầu lý thuyết và thực tiễn đã được xem xét. Tính cấp
thiết là một yêu cầu bổ sung đối với tính khoa học và tính thực tiễn. Nếu chưa cấp
thiết thì dành kinh phí và quỹ thời gian cho những hướng nghiên cứu cấp thiết hơn.
Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài hay không. Đề tài dù có nhiều ý
nghĩa khoa học, thực tiễn, cấp thiết, nhưng không có phương tiện thì cũng khó lòng thực
hiện. Điều kiện nghiên cứu bao gồm những nội dung như cơ sở thông tin, tư liệu, phương
tiện, thiết bị thí nghiệm (nếu cần phải tiến hành thí nghiệm), quỹ thời gian và thiên hướng
khoa học của người hướng dẫn (nếu đề tài cần có người hướng dẫn). -
Đề tài có phù hợp sở thích không. Trong khoa học thì câu hỏi này luôn mang
một ý nghĩa quan trọng. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng luôn đứng
trước sự lựa chọn giữa nguyện vọng cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội.
2. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, mẫu khảo sát và phạm vi nghiên cứu *
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cụm từ dùng chỉ những nội dung cần được xem xét và làm
rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Mỗi nhiệm vụ nghiên cứu có thể chứa đựng một hoặc một số
đối tượng nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 58478860
Tóm lại đối tượng nghiên cứu là cụm từ dùng chỉ những nội dung cần được xem xét
và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Mỗi nhiệm vụ nghiên cứu có chứa đựng một hoặc một
số đối tượng nghiên cứu. *
Mục tiêu nghiên cứu là cụm từ chỉ những nội dung cần được xem xét và
làm rõ trong khuôn khổ đối tượng nghiên cứu đã xác định. Người nghiên cứu cần xem xét
một cách hệ thống các mục tiêu đặt ra trong cây mục tiêu. Phải xem xét một cách toàn diện
mọi khía cạnh của các mục tiêu có quan hệ tương tác trong khuôn khổ một hệ thống. Để từ
đó xác định được quy mô của đề tài và giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đồng thời hình thành
tập thể nghiên cứu. Quan hệ giữa mục tiêu gốc và các mục tiêu nhánh là quan hệ giữa hệ
thống và các phân hệ, cũng là quan hệ giữa luận đề và luận cứ.
Theo cách phân chia này, một cây mục tiêu sẽ bao gồm các "cấp mục tiêu" với các
mục tiêu cấp I, mục tiêu cấp II và mục tiêu các cấp thấp hơn. Số lượng các cấp mục tiêu
được quyết định bởi một số yếu tố sau:
+ Nhu cầu nghiên cứu (mức độ sâu rộng của nghiên cứu)
+ Khả năng tổ chức nghiên cứu *
Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là vật mang đối tượng nghiên cứu. là nơi chứa đựng những câu
hỏi nghiên cứu mà người nghiên cứu cần tìm ra câu trả lời. Khách thể nghiên cứu có thể là:
Một không gian: VD: với đề tài có đối tượng NC là “Xanh hoa các dải cồn cát ven
biển miền trung” thì khách thể nghiên cứu là “Miền Trung”
Một khu vực hành chính. VD: với đề tài “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
HN” thì khách thể nghiên cứu là các doanh nghiệp nhà nước thuộc khu vực hành chính HN.
Một quá trình. VD, với đề tài có đối tượng nghiên cứu là”Áp dụng phương pháp học
tập theo kiểu NCKH ở bậc đại học” thì khách thể NC là “quá trình học tập của sinh viên.
Một hoạt động: VD, với đề tài có đối tượng nghiên cứu là “khắc phục rào cản giữa
cha mẹ và con cái trong truyền thông về chủ đề giáo dục sức khỏe sinh sản thì khách thể
nghiên cứu là “Hoạt động truyền thông”.
* Mẫu khảo sát
Mẫu khảo sát còn gọi là “đối tượng khảo sát” là một bộ phận đủ đại diện của khách
thể nghiên cứu được người nghiên cứu lựa chọn để xem xét.
Xác định mẫu khảo sát tức đối tượng khảo sát là lựa chọn một số sự vật được lựa chọn
trong lớp sự vật đang cần được người nghiên cứu làm rõ bản chất. lOMoAR cPSD| 58478860
VD: Trong đề tài “Xây dựng biện pháp hạn chế rủi rỏ tín dụng ở ngân hàng thương mại quốc
doanh” thì mẫu khảo sát là hoạt động tín dụng ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh
được chọn để nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu không phải là đối tượng nghiên cứu và đối tượng khảo sát được
xem xét một cách toàn diện trong mọi thời gian mà nó được giới hạn trong một số phạm vi nhất định.
Phạm vi quy mô của mẫu khảo sát. VD, với đề tài cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
ở HN, người nghiên cứu khảo sát hiện trạng doanh nghiệp nhà nước, nhưng không thể đi hết
hàng trăm doanh nghiệp nhà nước, mà chỉ có thể đi một số doanh nghiệp. Số doanh nghiệp
đó là một phạm vi về quy mô cccủa mẫu khảo sát.
Phạm vi không gia của sự vật. Chẳng hạn, trong hàng ngàn heta cồn cát trên dải đất
miền Trung dài hàng mấy trăm kilomet người ta có thể chọn chừng vài chục hecta để khảo
sát. Đó là phạm vi giới hạn về không gian mẫu khảo sát.
Phạm vi thời gian tiến hành nghiên cứu của sự vật. Người nghiên cứu giới hạn phạm
vi khảo sát trong một khoảng thời gian nhất định.
Phạm vi về nội dung nghiên cứu. Có thể một đối tượng nghiên cứu có hàng chục nội dung
nghiên cứu, nhưng người có thể giơí hạn về nội dung nghiến cứu phụ thuộc vào quỹ thời gian, kinh phí.
3. Đặt tên đề tài
Tên đề tài phải phản ánh cô động nhất nội dung nghiên cứu của đề tài. Tên một đề tài
khoa học khác với tên của tác phẩm văn học hoặc những bài luận chiến. Tên một tác phẩm
văn học hoặc một bài luận chiến có thể mang một ý ẩn dụ sâu xa. Còn tên của một đề tài
khoa học chỉ được mang một ý nghĩa hết sức khúc chiết, một nghĩa, không dẫn đến những
sự hiểu lầm, hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hay hiểu mập mờ. Để làm được điều này, người
nghiên cứu cần lưu ý hai nhược điểm cần tránh khi đặt tên đề tài:
Thứ nhất, tên đề tài không nên đặt bằng những cụm từ có độ bất định cao về thông
tin. Ví dụ: "Thử bàn về ..." hoặc "Bước đầu tìm hiểu về ..."
Thứ hai, Cũng cần hạn chế lạm dụng những cụm từ chỉ mục đích để đặt tên đề tài. Ví
dụ: "... nhằm nâng cao chất lượng..." hoặc "...góp phần vào..."
Thứ ba, không nên đặt tên đề tài thể hiện tính quá dễ dãi, không đòi hỏi tư duy sâu
sắc như kiểu: “Chống lạm phát – Hiện trạng, Nguyên nhân, giải pháp. Đương nhiên khi
nghiên cứu đề tài “Chống lạm phát”, tác giả nào chẳng phải tìm hiểu hiện trạng, phân tích
nguyên nhân và đề xuất giải pháp. lOMoAR cPSD| 58478860
Có một số điểm cần lưu ý hạn chế khi đặt tên cho đề tài như sau: -
Dùng những cụm từ có độ bất định thông tin cao: như "Về...", "Thử bànvề...",
"Một số biện pháp...", "Một số vấn đề...", "Tìm hiểu về...", v.v. vì càng bất định thì nội dung
phản ánh được càng không rõ ràng, chính xác; -
Lạm dụng những từ chỉ mục đích: những từ như "nhằm", "để", "góp phần",...
nếu bị lạm dụng dễ làm cho tên đề tài trở nên rối rắm, không nêu bật được nội dung trọng tâm; -
Lạm dụng mĩ từ hoặc cách nói bóng bẩy: tiêu chí quan trọng trong văn
phongkhoa học là đơn giản, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa; -
Thể hiện tình cảm, thiên kiến, quan điểm: một tiêu chí quan trọng khác
trongkhoa học, đó là tính khách quan, không phụ thuộc vào tình cảm, chính kiến, quan
điểm,... vì chúng thường có tính nhất thời, tính lịch sử trong một thời điểm nhất định.
4. Lựa chọn và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
Các bước thực hiện đề tài không quá chặt chẽ như việc điều hành một công việc sản
xuất. Mỗi người nghiên cứu cần căn cứ vào đặc điểm lĩnh vực nghiên cứu của mình, căn cứ
những điều kiện đảm bảo cho nghiên cứu, v.v...và tham khảo ý kiến các tác giả khác mà
quyết định một trình tự thích hợp. Câu 2:
Đề tài khoa học (Subject) là một vấn đề khoa học (Problem) có chứa một
nội dung thông tin chua biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Có thể nói đơn giản đề tài
khoa học là một câu hỏi, một vấn đề của khoa học cần phải giải đáp và khi giải đáp được thì
làm cho khoa học tiến thêm một bước.
Một vấn đề trở thành đề tài khoa học phải có các điều kiện sau -
Một là, đó là sự kiện hay hiện tượng mới chưa từng ai biêt, một mâu thuẫn
hayvướng mắc cả trở bước tiến cũ khoa học hay thực tiễn. -
Hai là, bằng kiến thức cũ không thể giải quyết được, đòi hỏi các nhà khoa
họcphải nghiên cứu giải quyết. -
Ba là, vấn đề nếu được giải quyết sẽ cho một thông tin mới có giá trị cho
khoahọc hay làm khai thông các hoạt động của thực tiễn.
Ngược lại nếu một sự kiện, một mâu thuẫn của thực tế đã quen biết, bằng kiến thức
và kinh nghiệm cũ có thể giải quyết được thì vấn đề này không có giá trị thông tin không thể
lấy làm đề tài khoa học.
Đề tài hay đề tài NCKH lại có những quan điểm khác nhau lOMoAR cPSD| 58478860 -
Vũ Cao Đàm (2007; Phương pháp luận NCKH), quan niệm đề tài là một
hìnhthức tổ chức NCKH, trong đó có một nhóm người cùng thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu. -
Nguyễn Duy Bảo (2007; Phương pháp luận NCKH và thực hiện đề tài NCKH)
quan niệm đề tài NCKH là một hình thức tổ chức NCKH được đặc trưng bởi một nhiệm vụ
và tập thể người thực hiện. Tập thể người thực hiện trong trường hợp cá biệt chỉ có một người.
-> Điểm chung của các quan niệm trên về đề tài hay đề tài NCKH đều là một hình
thức tổ chức NCKH; thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu; do một hoặc một nhóm người thực
hiện khi đề cập đến khái niệm đề tài hay đề tài NCKH.
Như vậy: Đề tài NCKH thường được đặt ra theo yêu cầu của lý luận hay thực tiễn và
thỏa mãn hai điều kiện.
+ Vấn đề đang chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết + Đã
xuất hiện khả năng giải quyết mâu thuẫn đó.
=> Để nhận dạng đề tài NCKH, người nghiên cứu trước hết phải xem xét những vấn
đề khoa học (vấn đề nghiên cứu) đặt ra. Có thể có ba trường hợp: -
Có vấn đề nghiên cứu, nghĩa là có nhu cầu giải đáp vấn đề nghiên cứu
và như vậy hoạt động nghiên cứu được thực hiện. -
Không có vấn đề hoặc không còn vấn đề. Trường hợp này không xuất
hiện nhu cầu giải đáp, nghĩa là không có hoạt động nghiên cứu. -
Giả - vấn đề: tưởng là có vấn đề, nhưng sau khi xem xét thì lại không
có vấn đề hoặc có vấn đề khác. Phát hiện “giả -vấn đề” vừa dẫn đến tiết kiệm chi phí, vừa
tránh dược những hậu quả nặng nề cho hoạt động thực tiễn.
Sự xuất hiện của đề tài là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống hay nhu cầu phát triển
khoa học. Giải quyết những yêu cầu đó đòi hỏi phải huy động lực lượng các nhà khoa học nghiên cứu.
Do vậy đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với lý luận hay đối với
thực tiễn. Đề tài phải có tính mới mẻ, giải quyết được vấn đề sẽ làm cho khoa học phát triển,
sẽ bổ sung cho kho tàng tri thức nhân loại những thông tin mới.
Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài. Tên đề tài là tên gọi của vấn đề khoa
học mà ta cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bên ngoài còn vấn đề khoa học là nội dung bên
trong. Cái vỏ chứa nội dung, cái vở phải phù hợp với nội dung. Đọc đề tài là ta nắm bắt được
ngay nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài. lOMoAR cPSD| 58478860
Đề tài cần diễn đạt bằng một câu ngữ pháp trọn vẹn, rõ ràng, một nghĩa, chứa đựng
vấn đề cần nghiên cứu. Tên đề tài có thể đặt thẳng vào đối tượng nghiên cứu. Bắt đắc dĩ mới
đặt tên có thêm ngoặc đơn để giải thích chủ đề.
Không đặt tên đề tài quá dài, thiếu xác định quá xa với nội dung, có thể hiểu theo
nhiều cách hoặc dùng mỹ từ bóng bẩy. Thí dụ.
- Một số vấn đề về… - Thử tìm hiểu…
- Góp phần làm sáng tỏ.Tóm lại
=> Đề tài NCKH thực chất là một câu hỏi - một bài toán đối diện với những khó khăn
trong lý luận và trong thực tiễn mà chưa ai trả lời được (hoặc trả lời nhưng chưa đầy đủ,
chưa chính xác hoặc chưa tường minh), đòi hỏi người nghiên cứu phải giải đáp những điều
chưa rõ đem lại cái hoàn thiện hơn, tường minh hơn hay phát hiện ra cái mới phù hợp với
quy luật khách quan, phù hợp với xu thế đi lên của sự phát triển .
* Tính chất của đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài NCKH hướng vào những vấn đề chưa hoặc chưa được giải quyết một cách triệt
để trong lĩnh vực khoa học nào đó... Vì vậy một đề tài NCKH cần có những tính chất sau:
- Tính thực tiễn: phù hợp với thực tế và đem lại hiệu quả.
- Tính tiên tiến: cập nhật, mới mẻ, phù hợp với xu thế đi lên của sự phát triểnkinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ .
- Tính xác định: mức độ, giới hạn và phạm vi đề tài .