



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601492
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
PHẦN 1: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: lý luận và vận dụng -
Khái quát về vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+Định nghĩa về vật chất: Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là
một khái niệm thuộc phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (chú thích tác giả, xuất xứ của câu
nói) Nội dung cơ bản:
Định nghĩa vật chất của Lênin bao hàm các nội dung cơ bản: -
Đầu tiên , vật chất là phạm trù triết học. Trong định nghĩa vật chất của Lênin, vật
chất là sản phẩm của sự trừ tượng hoá, không có sự tồn tại cảm tính. Nên nó
phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra và không mất đi. -
Thứ hai , vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
và không lệ thuộc vào ý thức:"Tồn tại khách quan" chính là thuộc tính cơ bản của
vật chất. Con người có nhận thức được hay không thì vật chất cũng vẫn luôn tồn tại. -
Thứ ba , vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem
lại cho con người cảm giác:Vật chất chính là cái có thể gây nên cảm giác ở con
người. Khi nó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các giác quan thì ý thức chính
là sự phản ánh vật chất, còn vật chất lại là cái được ý thức phản ánh. -
Thứ tư, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó: Chỉ có
một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có
của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng -
hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần.
+Phương thức tồn tại của vật chất: *Vận động -
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu
là một phươngthức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, -
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
*Vận động và đứng im: Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà
trái lại còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và
điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện
cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
*Không gian và thời gian lOMoAR cPSD| 61601492 -
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn
tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
+ Tính thống nhất vật chất của thế giới: -
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới: Theo nghĩa chung
nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con
người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem sự tồn tại của thế giới như một chỉnh
thể mà bản chất của nó là vật chất. Do đó, cơ sở của sự thống nhất của thế giới là
ở tính vật chất của nó. Sự thống nhất của thế giới phải lấy sự tồn tại của nó làm
tiền đề. Không có sự tồn tại của thế giới thì không có sự thống nhất của thế giới. -
Thế giới thống nhất ở tính vật chất: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định
bản chất của thế giới là vật chất. Thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây: +
Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới
vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được
ý thức con người phản ánh. +
Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm
của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ
biến của thế giới vật chất. +
Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại
vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn vận động,
biến đổi không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết
quả của nhau, về thực chất đều là những quá trình vật chất. +
Tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh bởi sự phát triển triết học và các khoa học. Ý thức: Khái niệm:
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định với phạm trù
vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự
cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật chất.
Nguồn gốc của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
*Nguồn gốc tự nhiên -
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc con người. -
Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.-
Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực
khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
*Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. lOMoAR cPSD| 61601492
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý thức: “Trước hết là
lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người.”
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Bản chất của ý thức:
Theo Lênin: “Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.” -
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. -
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chạt chẽ với thực tiễn xã . Tuy nhiên, không
phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ý thức không
phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là
kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ rệt. -
Sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới
khách quan theo nhu cầu của con người.
=> Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy, ý thức là hình thức
phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
+Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận từ
các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
* Các lớp cấu trúc của ý thức
Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của
con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...; trong đó tri thức là
nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết
sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý
thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống
rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C. Mác, "phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với ý thức
là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó". Tri
thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; và có nhiều cấp độ
khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri
thức tiền khoa học và tri thức khoa học...Tích cực tìm hiểu, tích luỹ tri thức về thế giới xung quanh
là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể
đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
Cùng với quá trình nhận thức sự vật, trong ý thức còn nảy sinh thái độ của con người đối với đối
tượng phản ánh. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ
giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở lOMoAR cPSD| 61601492
thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Sự hoà quyện giữa tri thức
với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người
hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Nhận thức không phải là một quá trình dễ dàng, phẳng lặng mà là một quá trình phản ánh với
những khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường đi tới chân lý. Muốn vượt qua
khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý chí, quyết tâm cao. Ý chí chính là những
cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể
vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức
và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi
dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Các cấp độ của ý thức
Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận thức được các yếu tố:
tự ý thức, tiềm thức, vô thức...Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý
thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.
Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới
bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức.
Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt, tách mình, đối lập
mình với thế giới đó để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ. Nhờ vậy, con người tự ý thức
về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, đang tư duy; tự đánh giá năng lực và
trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới, cũng như các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nguyện
vọng, hành vi, đạo đức và lợi ích của mình. Qua đó, xác định đúng vị trí, mạnh yếu của mình, ý
thức về mình nh một cá nhân - chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động của mình; luôn làm chủ bản
thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau
(như: một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí cả xã hội) về địa vị của họ trong hệ thống
quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình. Chủ nghĩa duy tâm, phản động coi tự ý thức là
một thực thể độc lập, tự nó, sẵn có trong cá nhân, là sự tự hướng về bản thân mình, khẳng định cái
tôi, tách rời khỏi những quan hệ xã hội, trở thành cái tôi thuần tuý, trừu tượng trống rỗng. Thực
chất của những quan điểm đó là nhằm phủ địnhbản chất xã hội của ý thức, biện hộ cho chủ nghĩa
cá nhân vị kỷ, cực đoan của các thế lực phản động hiện nay.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất, tiềm
thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như thành bản năng, thành kỹ
năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có
thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một
cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn
bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ
góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính
xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí
mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về
bản năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ không điều kiện. Con người là một thực
thể xã hội có ý thức, nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý trí chỉ đạo. Trong đời lOMoAR cPSD| 61601492
sống của con người, có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp đi
lặp lại nhiều lần trở thành thói quen đến mức chúng tự động xảy ra ngay cả khi không có sự điều
khiển của lý trí. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí.
Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi
miên, lỡ lời, nói nhịu,... Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng
riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải toả những ức chế trong hoạt động thần kinh
vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy
tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần quan trọng trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt
động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, dày vò mặc
cảm, "libiđô"... Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho con người luôn làm chủ đời sống
nội tâm, có phương pháp kiềm chế đúng quy luật những trạng thái ức chế của tinh thần.
Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý - ý thức, có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động
của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó, nó giúp cho con người giảm bớt sự căng thẳng
không cần thiết của ý thức do thần kinh làm việc quá tải. Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con
người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên không có sự khiên cưỡng. Vô thức có ý nghĩa quan
trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, trong hoạt động khoa học và nghệ thuật. Tuy nhiên, không nên
cường điệu hoá, tuyệt đối hoá và thần bí hoá vô thức. Vô thức là vô thức trong con người xã hội
có ý thức, nên vô thức không thể là hiện tượng cô lập, tách rời với ý thức và thế giới bên ngoài,
càng không thể là cái quyết định ý thức cũng như hành vi của con người. Trong hoạt động của con
người, ý thức vẫn giữ vai trò chủ đạo, quyết định hành vi của cá nhân. Nhờ có ý thức điều khiển,
các hiện tượng vô thức được điều chỉnh, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một
mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người. * Vấn đề "trí tuệ nhân tạo"
Ngày nay, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh mẽ, sản xuất ra nhiều
loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho một
phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn máy tính điện tử, "người máy thông minh", "trí tuệ
nhân tạo". Song, điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Ý thức và
máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người máy thông minh" thực ra chỉ là
một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được con người lập trình phỏng theo một số thao
tác của tư duy con người. Máy móc chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn
con người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến hoá lâu
dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần
trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ý thức mới thực hiện được và qua đó lập trình
cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực chỉ có ở ý thức của con người
với tính cách là một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo thế giới khách quan. Ý thức mang bản chất
xã hội. Do vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực
tiễn xã hội - lịch sử. Sự hoàn thiện trong cấu trúc vật chất của bộ óc người và hoạt động thực tiễn
xã hội phong phú đã tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho đặc tính phản ánh - ý thức người
phát triển, ngày càng xâm nhập vào tầng sâu của thế giới hiện thực, gắn nhận thức với cải tạo thế
giới. Thực tiễn xã hội là động lực trực tiếp to lớn thúc đẩy ý thức hình thành và phát triển đáp ứng
nhu cầu của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng. Ý thức nhân đôi thế giới trong tinh thần, nhờ
đó con người sáng tạo ra "giới tự nhiên thứ hai" in đậm dấu ấn của con người. Một trong những lOMoAR cPSD| 61601492
sáng tạo đó là con người ngày càng sáng tạo ra các thế hệ "người máy thông minh" cao cấp hơn
giúp cho con người khắc phục được nhiều mặt hạn chế của mình.
Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội có ý thức, chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và
tinh thần quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của ý thức trong
đời sống hiện thực của con người về thực chất là khẳng định vai trò của con người- chủ thể mang
ý thức đó. Cần có thái độ đúng đối với con người, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn
diện cả về thể chất và tinh thần. Đặc biệt quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ có kiến thức, nắm vững
khoa học - công nghệ hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng, ý chí vươn lên xây dựng đất nước giàu mạnh.
Cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Ý thức không bao giờ có thể là cái
gì khác hơn là tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con
người” để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay. Muốn ý thức xã hội chủ nghĩa
thực sự giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần nhân dân, phát huy được tính tích cực xã hội
của mỗi người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, cần quán
triệt tốt đường lối đổi mới của Đảng, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm. Xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nền tảng vật chất vững chắc để xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần phong phú cho nhân dân, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hoá, khoa học kỹ
thuật, tri thức phát triển. Xây dựng nhân tố con người thực sự là nguồn lực phát triển đất nước bền
vững. Chăm lo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, phẩm chất nhân cách phát
triển toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, tài để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để làm
được điều đó, cần gắn nó với quá trình xây dựng mọi mặt tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng
con người, phát huy cao nhất tính tích cực xã hội, rèn luyện bản lĩnh, nâng cao trình độ khoa học,
trình độ chuyên môn cho mỗi con người.
+Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh sau:
a. Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người. Con người
do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con
người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
+ Vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính
thứ hai; vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. + Bộ óc
người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức.
b. Vật chất quyết định nội dung của ý thức:
+ Ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người
+ Hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. lOMoAR cPSD| 61601492
c. Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Phản ánh tích cực,
tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới
của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản
ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
d. Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất
+ Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của
kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
*Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng
khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc
một cách máy móc vào vật chất.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người +
Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại thông tin,
kinh tế tri thức, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
=> Phản ánh phù hợp->tích cực, phản ánh không phù hợp->tiêu cực
-Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
+ Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng tính khách quan
*Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các quy luật tự nhiên và xã hội
- Ta phải tôn trọng hiện thực khách quan bởi chúng là tiền đề tạo nên mọi giá trị của đời sống nếu
không ta sẽ gây ra những tai hại khôn lường
- Có cái nhìn chân thật và nhận thức đúng đắn khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng. Nên tránh sự
chủquan của cá nhân khi tô đen hay bôi hồng hiện thực, gán cho sự vật hiện tượng suy nghĩ một
chiều của cá nhân-cái mà nó không có
- Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện
tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó
- V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách,
không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý
muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải
bệnh duy ý chí. Đó là bệnh chủ quan, duy ý chí; tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ thấp, đánh
giá không đúng vai trò của điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt lên thực tế, lấy
ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chỉ là biểu hiện của sự kém về trình độ và sự
hạn chế trong việc áp dụng lý luận vào thực tiễn. Đó là sự “mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự lOMoAR cPSD| 61601492
phát dẫn đến tuyệt đối hóa vai trò giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa khách
quan” thái độ thụ động, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất.
+Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải phát huy
tính năng động chủ quan
- Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy
vai trò nhân tố của con người trong mọi lĩnh vực: khoa học, giáo dục, kinh tế, chính trị,…. - Con
người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả
năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng
- Mác nói: “Vũ khí phê phán không thể thay thế cho sự phê phán bằng vũ khí. Lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất. Nhưng một khi lý luận thâm nhập vào quần chúng
sẽ trở thành sức mạnh vĩ đại’’
- Chống lại tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo- Phải coi
trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Kết hợp hài hóa giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
- Tôn trọng nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan- Nhận
thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội
- Trong mọi việc ta cần có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi
trong nhận thức và hành động của mình.
-Vận dụng: Ý nghĩa phương pháp luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối
với cuộc sống, học tập của sinh viên hiện + Trong cuộc sống.
- Sinh viên khi bước vào môi trường mới, đồng nghĩa họ phải giao lưu và kết bạn. Trong quá trình
đó, các bạn sinh viên cần xem xét các yếu tố khách quan ( tính cách, cách ứng xử, hành vi, bạn
bè,..) về đối tượng để không bị dụ dỗ bởi những người xấu. Bên cạnh đó, đừng nên chỉ dùng yếu
tố chủ quan như mặt tình cảm để đồng cảm, dễ bị mủi lòng trước những kẻ trục lợi trên lòng tốt
của người khác. Cố gắng luôn tỉnh táo trong nhận thức và có cái nhìn đa diện nhiều chiều, khách
quan với những mối quan hệ trong cuộc sống.
- Chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, cụ thể là cần tiếp thu những cái
mới. Ta nhận thấy được, sinh viên trong thời đại 4.0 cần phải có sự tiếp thu rất nhanh để đi kịp
với thời đại, việc nắm bắt công nghệ số, sẽ giúp ích cho họ trong học tập và cuộc sống. Tuy vậy
cũng phải phê phán một số sinh viên có dấu hiệu chủ quan, duy ý chí, bảo thủ trì trệ, không tiếp
thu cái mới, cái tích cực của thời đại, mà luôn giữ những cái xấu, cái bảo thủ lỗi thời. - Khi giải
thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện
khách quan lẫn yếu tố khách quan. Trong cuộc sống: Có những bạn sinh viên năm nhất thường
sẽ kiếm thêm việc làm để đỡ một phần tài chính cho bản thân hoặc gia đình, đó là điều tốt. Tuy
vậy cần nhìn nhận rằng điều kiện và yếu tố khách quan đã có đủ hay chưa, nếu đi làm thêm, việc lOMoAR cPSD| 61601492
làm thêm sẽ làm choán đi một phần thời gian học tập nếu bạn nào không biết sắp xếp, hoặc thấy
việc làm thêm đem lại quá nhiều lợi nhuận nên chạy theo phần lớn thời gian để làm nhưng bỏ bê
việc học. Cho nên cần phải xem thời gian, khối lượng học tập, năng lực của mình thì mới có thể
nghĩ đến việc làm thêm.
- Chúng ta có thể vận dụng để nâng cao kĩ năng, sức của bản thân bằng cách tạo
ra những cơ sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần của chúng ta
Ví dụ: sinh viên có thể tìm kiếm cho mình một nơi lý tưởng để tham gia hoạt động thể dục thể
thao, nâng cao sức khỏe. Hoặc tham gia các câu lạc bộ, hoạt động do Đoàn - Hội - Nhà Trường tổ
chức nhằm tiếp thu, rèn luyện kĩ năng, có nhiều sự trải nghiệm trong các hoạt động nêu trên - Bên
cạnh đó còn đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo các quy luật mang tính
khách quan. Trong cuộc sống đặt ra yêu cầu cho sinh viên phải tôn trọng tính khách quan, tức là
ngoài sinh viên ra, chúng ta còn là công dân của nước CHXHCN Việt Nam cho nên cần phải có
sự thượng tôn pháp luật, biết chấp hành pháp luật và thực hiện những quyền lợi của công dân trong pháp luật +Trong học tập
- Là sinh viên năm nhất, mỗi sinh viên chúng ta cần thấy bản thân mình cần phải xác định rõ các
nhân tố vật chất, khách quan như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật khách quan. Trong
học tập, nếu được tiếp xúc với những cơ sở vật chất, phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố gắng
học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn. Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một giảng viên tâm
huyết, truyền đạt bài thú vị, dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn Triết và không sợ nó, thúc
đẩy mình tìm hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng viên môn Triết của mình thiếu tâm huyết,
truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó hiểu thì mình sẽ sinh ra tâm lý chán nản, không thích
học môn Triết. Đó chính là vật chất quyết định ý thức.
- Chúng ta có thể vận dụng để nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng cách tạo ra những cơ
sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm một phương pháp học tập phù hợp bản
thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn gàng, như thế sẽ làm cho tinh thần học tập của chúng
ta sẽ được nâng lên, năng suất làm việc của chùng ta sẽ tăng lên và có hiệu quả, ngược lại, nếu
chúng ta không có một phương pháp học rõ ràng, góc học tập bừa bộn sẽ gây nên sự tiêu cực,
làm cho chúng ta không muốn học hành, khiến năng suất học tập giảm đi, làm ảnh hưởng tới kết quả sau này
- Bên cạnh đó còn đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo các quy luật mang
tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như không cúp tiết, tham gia đầy đủ các buổi
học, làm theo giáo viên hướng dẫn,… Là sinh viên năm nhất, vừa bỡ ngỡ bước vào giảng đường
đại học, môi trường của đại học chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu, chúng ta đã phần nào được tự
do nghiên cứu học tập mà không thông qua sự quản lý của giáo viên như cấp THPT cho nên sẽ
sinh ra suy nghĩ rằng không ai quản lý thì muốn làm gì làm, tạo nên sự lười biếng nhưng chúng
ta sẽ không để điều đó làm mình lười học mà đã sáng tạo tìm tòi thêm kiến thức qua sách vở,
phương tiện truyền thông, thường xuyên dành thời gian tự học, đọc thêm sách về phần mình chưa
hiểu. Qua đó phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu, trau dồi kiến thức để phục vụ quá trình
học đại học của chúng ta
- Bên cạnh đó, sinh viên phải ý thức được rằng mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí
cũngnhư bệnh bảo thủ trì trệ, cụ thể là cần tiếp thu những cái mới nhưng tiếp thu có chọn lọc,
học hỏi và lắng nghe ý kiến của mọi người xung quanh. Ví dụ, trong làm việc nhóm để thuyết lOMoAR cPSD| 61601492
trình môn Triết chúng ta nên ngồi lại với bạn bè, bàn bạc để mỗi người đưa ra ý kiến cá nhân và
sau đó tổng hợp lại để hoàn thiện bài thuyết trình đúng theo ý của tất cả các thành viên. Hay trong
các buổi thuyết trình, có thể chúng ta nên theo dõi quá trình thuyết trình của nhóm bạn một cách
cụ thể, tiếp thu những nội dung hay của nhóm bạn, phản biện đặt câu hỏi cho nhóm, lắng nghe
những lời nhận xét phản biện của các cá nhân khác, từ đó rút ra bài học cho bản thân
- Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Một vấn đề khá phổ biến ở những sinh viên
hiện nay đó chính là chọn sai ngành, vào học rồi mới thấy ngành đó không phù hợp, hay thích
ngành đó nhưng lại không đủ năng lực để học. Điều này vừa ảnh hưởng đến quá trình học, ảnh
hưởng đến kinh tế tài chính của gia đình bạn cho nên khi đăng kí nguyện vọng vào các trường
đại học thì việc quan trọng nhất là xét đến chính là năng lực của bản thân và điều kiện tài chính
của gia đình để sắp xếp nguyện vọng một cách thông minh và hợp lí nhất. Nếu làm tốt được điều
này, chúng ta sẽ tự tin phát huy năng lực của mình đúng với ngành học, vừa không uổng phí tài
chính của chúng ta và gia đình bỏ ra.
2. HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT: LÝ LUẬN VÀ VẬN DỤNG
Giới thiệu khái quát phép biện chứng duy vật
Khái niệm: Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy”
Các nội dung cơ bản: 2 nguyên lí gồm nguyên lí mối quan hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát
triển. 3 quy luật gồm Trong phép biện chứng duy vật, quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên
nhân, động lực của sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính chất và cách thức
của sự phát triển; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả
của sự phát triển đó. Các cặp phạm trù:
2.1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
2.2 Nguyên nhân và kết quả
- Các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nguyên nhân và kết quả.
2.3 Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. lOMoAR cPSD| 61601492
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
2.4 Nội dung và hình thức
- Các phạm trù nội dung và hình thức.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nội dung và hình thức.
2.5 Bản chất và hiện tượng
- Các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù bản chất và hiện tượng.
2.6 Khả năng và hiện thực
- Các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù khả năng và hiện thực.
1. Nguyên lí mối quan hệ phổ biến 1.1. Khái niệm:
Mối liên hệ là “khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.”
Nếu sự thay đổi nhất định của một trong số chúng làm thay đổi đối tượng kia thì mối
quan hệ giữa các đối tượng đó gọi là liên hệ. Trong khi cùng tồn tại luôn xuất hiện các
tương tác qua lại với nhau giữa các đối tượng. Qua đó chúng thể hiện được các thuộc tính
cũng như bộc lộ bản chất bên trong, nhằm khẳng định mình là ”đối tượng thực tồn”. Khi
các tương tác có sự thay đổi sẽ đồng thời mang đến sự thay đổi các thuộc tính hay chính
đối tượng tham gia (trong một vài điều kiện thậm chí có thể khiến chúng biến mất, hay
chuyển hóa thành một đối tượng khác). Chính điều này đã chứng tỏ giữa các đối tượng
có tồn tại mối liên hệ với nhau. HÀ N I – THÁNG 7/2021Ộ 3
Tuy nhiên, sau này, trong quá trình phát triển, phép biện chứng duy vật đã đi từ chỗ cho rằng “mọi
tồn tại trong thế giới đều là những mắt khâu của một thực thể vật chất duy nhất, là những trại thái lOMoAR cPSD| 61601492
và hình thức tồn tại khác nhau của nó”; đến thừa nhận rằng có mối liên hệ phổ biến giữa các đối
tượng. Mối liên hệ phổ biến “chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới, trong đó phổ biến nhất là các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới,
trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liênhệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới. Chúng thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật”.Vấn đề đặt ra là, khi
nhắc đến mối liên hệ, sự ràng buộc, tác động lẫn nhau giữa các đối tượng vật chất, hữu hình được
chủ yếu chủ ý đến. Trong khi đó không thể phủ nhận sự tồn tại của thế giới tinh thần cùng các sự
vật vô hình như các phạm trù của khoa học hay các hình thức của tư duy. Vì vậy, nhằm đưa ra một
quan niệm đầy đủ, bao quát hơn, quan niệm về sự liên hệ đã được mở rộng bao gồm cả các đối
tượng tinh thần và đối tượng khách quan cũng như các mối liên hệ giữa chúng vốn thuộc chủ thể
với các đối tượng khách quan. Từ đó xuất hiện quan niệm về mối liên hệ phổ biến. Mỗi liên hệ này
trở thành đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.Có thể nói, qua sự phát triển của quan niệm
về mối liên hệ phổ biến, thế giới không phải thể hỗn loạn các đối tượng mà tồn tại một hệ thống
các liên hệ đối tượng chặt chẽ. Tính thống nhất vật chất này đã làm nên cơ sở cho mọi liên hệ khác.
Các đối tượng cũng nhờ đó mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, không cô lập. 1.2. Tính chất:
Mối liên hệ phổ biến có 3 tính chất cần được chú ý: Phép biện chứng duy vật khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ và tác động trên thế giới. Tức là, các sự vật, hiện tượng trên thế
giới đều tồn tại kháchquan, độc lập, không phụ thuộc và ý thức của con người. Các mối liên hệ,
tác động giữa chúng suy cho cùng đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụthuộc
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, không chịu tác động của ý thức con người.
Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến khẳng định rằng không có bất cứ sự vật,hiện tượng nào tồn
tại tuyệt đối biệt lập với những sự vật, hiện tượng khác. Bất kì sự vật, hiện tượng nào trong tự
nhiên, xã hội, tư duy hay ý thức của con người, cũng như các mặt trong các sự vật, hiện tượng đó
đều có liên hệ với nhau.
Mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng, phong phú. Bất kì ở đâu, trong tư duy, trong xã hội, trong ý
thức hay trong tự nhiên đều tồn tại những mối liên hệ đa dạng, trong mỗi lĩnh vực khác nhau lại
nắm giữ vai trò, vị trí, đặc điểm khác nhau. Có nhiều mối liên hệ khác nhau, và để phân loại chúng
phải tùy thuộc vào tính chấT cũng như vai trò của từng mối liên hệ. Tuy nhiên sự phân loại này
cũng chỉ mang tính tương đối, bởi mối liên hệ giữa các đối tượng rất phức tạp, mỗi đối tượng như
một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, không thể tách rời HÀ N I – THÁNG 7/
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận:
Các tính chất trên của mối liên hệ phổ biến có liên hệ với nhau, trong đó tính khách
quan và tính đa dạng được bao hàm trong tính phổ biến. Vì vậy, ta gọi nguyên lý này
là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Từ nội dung của nguyên lý này, phép biện chứng
khái quát thành nguyên tắc toàn diện. Vì mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại tong nhiều mối
liên hệ khác nhau, tác động qua lại lẫn nhau, cho nên khi nghiên cứu đối tượng cụ thể
cần tuân thủ các nguyên tắc toàn diện được chia thành 2 quan niệm như sau: a. Quan niệm toàn diện:
Thứ nhất, khi nhận thức sự vật, cần phải đặt nó vào chỉnh thể thống nhất tất cả các
mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cũng như các mối liên hệ của chỉnh
thể đó. Tức là, sự vật phải được xem xét trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa lOMoAR cPSD| 61601492
các bộ phận, các yếu tố, các mặt chính của sự vật và trong sự tác động qua lại giữa
sự vật đó với sự vật khác.
Thứ hai, từng mối liên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật phải được
phân loại, đánh giá vị trí, vai trò; trong đó, đặc biệt chú trọng đến những mối liên
hệ phổ biến, tất yếu của sự vật, hiện tượng. b. Quan niệm lịch sử - cụ thể:
Quan niệm này đòi hỏi chúng ta khi xem xét sự vật, hiện tượng phải xác định được
vai trò, vị trí của từng mối liên hệ trong không gian và thời gian nhất định. Nói cách
khác, cần nghiên cứu chúng trong mối liên hệ với các đối tượng khác và với môi
trường xung quanh trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai.
-Liên hệ, vận dụng cũng phải dựa trên các nội dung đã rút ra từ ý nghĩa phương pháp luận
2. Nguyên lí về sự phát triển
Giới thiệu khái quát phép biện chứng duy vật
Khái niệm: Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy”
Các nội dung cơ bản: 2 nguyên lí gồm nguyên lí mối quan hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát
triển. 3 quy luật gồm Trong phép biện chứng duy vật, quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên
nhân, động lực của sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính chất và cách thức
của sự phát triển; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả
của sự phát triển đó. Các cặp phạm trù: +Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
+Nguyên nhân và kết quả
- Các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nguyên nhân và kết quả.
+Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. lOMoAR cPSD| 61601492 + Nội dung và hình thức
- Các phạm trù nội dung và hình thức.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nội dung và hình thức.
+Bản chất và hiện tượng
- Các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù bản chất và hiện tượng.
+ Khả năng và hiện thực
- Các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù khả năng và hiện thực. 2.1. Khái niệm:
Phát triển là “quá trình vận động có quy luật của sự vật từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, từ đơn giản đến phức tạp, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.”
Có thể thấy, phát triển là vận động, nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển.
Nếu vận động chỉ mọi sự biến đổi nói chung, thì phát triển gồm những vận động có
khuynh hướng đi lên diễn ra trong không gian và thời gian. Có 2 khái niệm gắn với
khái niệm phát triển là tiến bộ và tiến hóa:
Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ. Tiến hóa thường là sự biến
đổi về hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp.
Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội: từ chỗ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu.
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình đều thừa nhận sự phát triển, tuy nhiên:
Quan điểm siêu hình cho rằng sự phát triển chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt
lượng của sự vật hiện tượng; chỉ là sự tuần hoàn lặp lại mà không có sự thay đổi
về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
Quan điểm biện chứng coi sự phát triển là sự vận động đi lên về mặt chất của
sự vật, hiện tượng; sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời
thay thế. 2.2. Tính chất:
Phát triển có tính khách quan. Nó chỉ ra rằng nguồn gốc sự phát triển của sự vât, hiện
tượng nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, không chịu sự tác động từ yếu tố
bên ngoài, và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thức con người. lOMoAR cPSD| 61601492
Phát triển có tính phổ biến. Sự phát triển tồn tại trong cả thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự phát triển cũng có tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là phủ định
tuyệt đối, phủ định sạch trơn của sự vật, hiện tượng cũ; mà chúng còn giữ lại, chọn lọc
và cải tạo các yếu tố còn có tác dụng, còn thích hợp để phát huy, loại bỏ những mặt tiêu cực.
Phát triển có tính đa dạng, phong phú. Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực,
nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển khác nhau. Chúng có tốc độ và
đặc điểm phát triển phụ thuộc vào yếu tố và điều kiện tác động cụ thể, vì vậy không
giống nhau. Đồng thời, phát triển không đơn giản là một đường đi lên thẳng tắp mà có
sự quanh co, phức tạp, có những bước thụt lùi tạm thời.
2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận:
Quan điểm phát triển được xem là rất cần thiết khi nghiên cứu, xem xét các sự vật hiện tượng.
Thứ nhất, quan điểm phát triển đòi hỏi các sự vật, hiện tượng được xem xét phát
được đặt trong khuynh hướng tiến lên, có sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ.
Tuy nhiên, do sự phát triển của sự vật không diễn ra theo đường thằng mà quanh
co, phức tạp, nên chúng ta phải dự báo khuynh hướng vận động và phát triển của
chúng trong tương lai nhằm chủ động đề phòng, tránh các rủi ro. Thứ hai, quan
điểm phát triển là cơ sở khoa học giúp con người khắc phục tư tưởng bảo thụ, trì
trệ trong cả nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Vì vậy cần tránh thái độ bảo thủ,
định kiến, ngại thay đổi hay ngại đổi mới. Bởi phát triển là quá trình trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức
riêng, nên khi nghiên cứu hay xem xét cần tìm ra những phương pháp thích hợp,
cũng như phải phân kỳ lịch sử phát triển của chúng. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đổi mới, chúng ta không hoàn
toàn gạt bỏ cái cũ mà phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát
triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. Thứ ba, trong thực tiễn, khi gặp khó
khăn, thất bại tạm thời, cần vững tin
-Liên hệ, vận dụng phải dựa trên các nội dung đã rút ra từ ý nghĩa phương pháp luận
3.QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT:LÝ LUẬN VÀ VẬN DUNG
Giới thiệu khái quát phép biện chứng duy vật
Khái niệm: Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy”
Các nội dung cơ bản: 2 nguyên lí gồm nguyên lí mối quan hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát
triển. 3 quy luật gồm Trong phép biện chứng duy vật, quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên
nhân, động lực của sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính chất và cách thức
của sự phát triển; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả
của sự phát triển đó. Các cặp phạm trù:
2.1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất. lOMoAR cPSD| 61601492
- Mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
2.2 Nguyên nhân và kết quả
- Các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nguyên nhân và kết quả.
2.3 Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
2.4 Nội dung và hình thức
- Các phạm trù nội dung và hình thức.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù nội dung và hình thức.
2.5 Bản chất và hiện tượng
- Các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù bản chất và hiện tượng.
2.6 Khả năng và hiện thực
- Các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
- Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữacác
phạm trù khả năng và hiện thực.
KHÁI QUÁT VỀ LƯỢNG-CHẤT lOMoAR cPSD| 61601492
Định nghĩa về chất
Chất là phạm trù trong Triết học dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản, vốn có của sự
vật, hiện tượng, tiêu biểu cho sự vật và hiện tượng đó; là sự tổng hợp của các thuộc
tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng, nói lên khái niệm của sự vật và hiện tượng đó,
phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
Ví dụ: Thuộc tính của kim cương là cứng.
Thuộc tính của nước biển là mặn.
Thuộc tính của lửa là nóng.
Toàn bộ những thuộc tính của hình chữ nhật tạo nên hình chữ nhật và phân
biệt nó với hình tròn hoặc hình vuông Định nghĩa về lượng
Là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển cũng như các thuộc tính của sự vật. -
Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. 2
+Vd: Ngọn núi Everest cao 8848,86 m, diện tích đất nước Việt Nam là 331,212 km ,… Mối
quan hệ biện chứng giữa lượng và chất -
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Chúngtác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không
có tính quy định về chất và ngược lại. -
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, sự thay đổi về chất
chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đến một ngưỡng nhất định. -
Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy sự thay đổi về lượng
của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự
vật hiện tượng vừa có những bước tiến tuần tự, vừa cónhững bước tiến đột phá. a)Chất và lượng
có mối quan hệ thống nhất với nhau -
Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng bởi vì mỗi
sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại vừa có tính quy định về lượng, nên
không có chất thiếu lượng và ngược lại. -
Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi về chất. Ở
một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay
đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là Độ. Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất
giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật,hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có
tuổi thọ là 118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của
con người xét về mặt tuổi.
b)Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất -
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
lượngthay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn
đó chính là Điểm nút.Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất lOMoAR cPSD| 61601492
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới (sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước
nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng . -
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau,
được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Bước nhảy là sự kết thúc
một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
+Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước nhảy này
là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C. Các hình thức của bước nhảy: •
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả
các bộ phận cấu thành sự vật. •
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các
mặt các bộ phận các yếu tố cấuthành nên sự vật. •
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật
c)sự tác động trở lại của chất đối với lượng
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của
sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: khi nhân viên đạt chất lượng của công việc là ngưỡng KPI được giao tức là vượt
qua ngưỡng đó nhân viên sẽ nhận được một khoản thù lao tương ứng. Họ sẽ được sếp
tin tưởng trọng dụng nhiều hơn trong các công việc sắp tới.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải coi trọng cả chất và lượng
Cần chú ý khâu tích lũy về lượng
Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí
Cần chống lại bệnh bảo thù trì trệ
Cần phải xác định bước nhảy có thái độ ủng hộ bước nhảy
Trong đời sống xã hội cần vận dụng phù hợp giải quyết mối quan hệ chất tự nhiên và chất xã hội
Cần có biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng Liên hệ
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng
cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu
cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi
học tập là quá trình tích lũy về lượng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó,
trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (
tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều lOMoAR cPSD| 61601492
phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích
luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay các kì thực tập(
lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về
chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người
cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện
bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống
và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc
tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời
sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về
lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như
trong thi cử, sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa
sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập
và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên
phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải
tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra
là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết
quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn
luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên
phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy
luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa
là sau khi hoàn thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới
có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học sinh
viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.
Hay trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện
ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn
thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới.
Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng không thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để
vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các lOMoAR cPSD| 61601492
kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến
đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ
những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức
to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua
hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không
những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong
quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức.
Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông
tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn,
tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài
các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận
văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai
sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn
đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin
bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không
ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ
tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai
phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng
con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình
đã làm hết sức có thể.
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải
được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức
cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực
hiện bước nhảy sẽ không thành công và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn
hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được
học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một
cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật
lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi
lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh,