Đề cương ôn tập pháp luật đại cương | Đại học Nội Vụ Hà Nội
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNGCâu 1: Quy phạm pháp luật là gì? Phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luậta. Quy phạm pháp luật:- Là quy tắc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện,thểhiện ý chí và lợi ích của nhân dân lao động, nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội.- Quy phạm pháp luật xã hội là một quy phạm pháp luật- Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước.- Quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống có tính chất bắtbuộc.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Môn: Pháp Luật Đại Cương (HUHA)
Trường: Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Câu 1: Quy phạm
pháp luật là gì? Phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luật a. Quy phạm pháp luật: -
Là quy tắc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân lao động, nhằm điều chỉnh quan hệ xã
hội. - Quy phạm pháp luật xã hội là một quy phạm pháp luật - Quy phạm pháp
luật luôn gắn liền với nhà nước. -
Quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống có tính chất bắt buộc.
b. Cấu trúc của quy phạm pháp luật: * Bộ phận giả định: -
Đây là bộ phận của quy phạm quy định địa điểm thời gian chủ thể, các hoàn
cảnh,tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu tồn tại chúng thì phải hành
động theo quy tắc mà quy phạm đặt ra. -
Các loại giả định đơn giản hoặc phức tạp giả định xác định và giả định xác
địnhtương đối, giả định trừu tượng…sở dĩ có nhiều loại giả định như vậy vì đời
sống thực tế rất phong phú và phức tạp. -
Nhưng để đảm bảo tính xác định chặt chẽ của pháp luật thì giả định dù phù hợp loại
nào thì cũng phải có tính xác định tới mức có thể được phù hợp với tính chất của loại giả định đó.
VD : “Người nào thấy người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng , tuy có
điều kiện mà không cứu giúp, dẫn đến hậu quả người đó chết ” ( Điều 102 – Bộ
luật hình sự năm 1999) là bộ phận giả thiết của quy phạm * Quy định: -
Là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật, vì chính đây là quy tắc xử sự
thể hiện ý chí nhà nước mà mọi người phải thi hành khi xuất hiện những điều kiện
mà phần giả định đặt ra. -
Với ví dụ trên thì bộ phận quy định “ tuy có điều kiện mà không cứu giúp”
có hàm ý là phải cứu người bị nạn. -
Có nhiều các phân loại phần quy định, mỗi các phân loại cần dựa vào một tiêu chuẩn nhất định -
Phụ thuộc vào vai trò của chúng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội chúng ta có quy
định điều chỉnh bảo vệ quy định định nghĩa, phụ thuộc vào mức độ xác định của quy lOMoAR cPSD| 45740413
tắc hanh vi ta có quy định xác định quy định tùy nghi, tùy thuộc vào tính phức tạp
của nó mà người ta quy định đơn giản và phức tạp. phụ thuộc vào phương thức thể
hiện nội dung ra có hai hệ thống phân loại, .. Vì phần quy định là bộ phận trung
tâm của quy phạm pháp luật nên cách phân loại này có thể áp dụng để phân loại
quy phạm pháp luật nói chung. * Chế tài: -
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra những biện pháp tác động
mà nhà nước sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. -
Có nhiều loại chế tài : Tùy theo mức độ xác định ta có chế tài xác định chế
tài xácđịnh tương đối, chế tài lựa chọn, theo tính chất các biện pháp được áp dụng,
ta cso thể có chế tài hình phạt, chế tài khôi phục pháp luật hoặc chế tài đơn giản, chế tài phức tạp.
Ví dụ trên bộ phận này : “bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm
hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”
Câu 2: Phân tích nguồn gốc, bản chất, vai trò của pháp luật. -
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra có tính quy
phạmphổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bắt buộc chung, thể
hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước và được nhà nước đảm bảo
thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
* Nguồn gốc của pháp luật:
- Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật nhưng lại tồn tại những
quy tắc ứng xử sự chung thống nhất. đó là những tập quán và các tín điều tôn giáo.
- Các quy tắc tập quán có đặc điểm:
+ Các tập quán này hình thành một cách tự phát qua quá trình con người sống chung,
lao động chung. Dần dần các quy tắc này được xã hội chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung.
+ Các quy tắc tập quán thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội, do đó
được mọi người tự giác tuân theo. Nếu có ai không tuân theo thì bị cả xã hội lên án,
dư luận xã hội buộc họ phải tuân theo.
-----> Chính vì thế tuy chưa có pháp luật nhưng trong xã hội cộng sản nguyên thủy,
trật tự xã hội vẫn được duy trì.
- Khi chế độ tư hữu xuất hiện xã hội phân chia thành giai cấp quy tắc tập quán không lOMoAR cPSD| 45740413
còn phù hợp nữa thì tập quán thể hiện ý chí chung của mọi người. trong điều kiện xã
hội có phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước ra
đời. để duy trì trật tự thì nhà nước cần có pháp luật để duy trì trật tự xã hội. Pháp luật
ra đời cùng với nhà nước không tách rời nhà nước và đều là sản phẩm của xã hội
có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
* Bản chất của Pháp luật: -
Bản chất của giai cấp của pháp luật : pháp luật là những quy tắc thể hiện ý
chí củagiai cấp thống trị. Giai cấp nào nắm quyền lực nhà nước thì trước hết ý chí
của giai cấp đó được phản ánh trong pháp luật. -
Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là sự phản ánh một
cách tùy tiện. Nội dung của ý chí này phải phù hợp với quan hệ kinh tế xã hội của nhà nước. -
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích của nó. Mục đích của
pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội tuân theo một cách trật tự phù hợp
với ý chí và lợi ích của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước.
* Vai trò của pháp luật:
- Pháp luật là phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Duy trì
thiết lập củng cố tăng cường quyền lực nhà nước.
- Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công
dân. Pháp luật góp phần tạo dựng mối quan hệ mới tăng cường mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia.
- Bảo vệ và quyền lợi ích hợp pháp của mọi người dân trong xã hội
- Pháp luật được xây dựng dựa trên hoàn cảnh lịch sử địa lý của dân tộc
- Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ các quyền của công
dân,ngăn ngừa những biểu hiện lộng quyền, thiếu trách nhiệm đối với công dân.
Đồng thời đảm bảo cho mỗi công dân thực hiện đầy đủ quyền và các nghĩa vụ đối
với nhà nước và các công dân khác.
-----> Như vậy, bằng việc quy định trong pháp luật các quyền và nghĩa vụ của công
dân mà pháp luật trở thành phương tiện để:
Công dân thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm
hại của người khác, kể cả từ phía nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước
Câu 3: Quan hệ pháp luật là gì? Phân tích thành phần của quan hệ pháp luật lOMoAR cPSD| 45740413
VD: trong quan hệ pháp luật hôn nhân là cá nhân nhưng với nam thì yêu cầu từ đủ
20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên * Quan hệ pháp luật:
- Là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội. Hình thức pháp lý này xuất hiện
trêncơ sở điều chỉnh của quy phạm pháp luật đối với quan hệ xã hội tương ứng và
các bên tham gia quan hệ pháp luật đó đều mang những quyền và nghĩa vụ pháp
lý được quy phạm pháp luật nói trên quy định. * Thành phần của quan hệ pháp luật:
- Chủ thể của quan hệ pháp luật
- Nội dung của quan hệ pháp luật
- Khách thể của quan hệ pháp luật
- Người là cá nhân có thể là công dân nước ta hoặc cũng có thể là người nước
ngoài đang cư trú ở nước ta muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật. Trong
một số quan hệ pháp luật, còn đòi hỏi một người trở thành chủ thể phải là người có trình độ
văn hóa, chuyên môn nhất định,…
VD: Muốn trở thành chủ thể của quan hệ lao động trong việc sản xuất, dịch vụ về
thực phẩm đòi hỏi người đó không mắc bệnh truyền nhiễm.
- Đối với tổ chức, muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật về kinh tế đòi hỏi
tổ chức đó phải được thành lập một cách hợp pháp và có tài sản riêng để hưởng
quyền và làm nghĩa vụ về tài sản trong quan hệ pháp luật về kinh tế.
- Bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể :
+ Quyền của chủ thể là khả năng được hành động trong khuôn khổ do quy phạm
pháp luật xác định trước.
+ Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ
VD: quyền của chủ thể bên kia trả tiền đúng ngày giờ theo quy định của hợp đồng cho vay.
+ Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp
quyền của mình bị chủ thể bên kia vi phạm.
VD: như ví dụ trên, nếu bên vay không trả tiền đúng hạn, người cho vay có thể yêu
cầu tòa án giải quyết. -
Nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy
phạm phápluật quy định. -
Sự bắt buộc phải có xử sự bắt buộc nhằm thục hiện quyền cua chủ thể bên
kia- Trong trường hợp này chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp lý,nhà nước
đảm bảo bằng sự cưỡng chế. lOMoAR cPSD| 45740413
VD : một công dân nào đó đến ngã tư gặp đèn đỏ mà vẫn qua đường thì bị công an
phạt – nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp này là phải dừng lại không sang ngang
nếu vẫn sang ngang thì sẽ bị xử lý hành chính. -
Khách thể của quan hệ pháp luật là cái mà các chủ thể của quan hệ đó
hướng tới để tác động. -
Các chủ thể trong quan hệ pháp luật thông qua hành vi của mình hướng tới
các đối tượng vật chất, tinh thần, hoặc thục hiện các chính trị như ứng cử bầu
cử,… - Đối tượng mà hình vi các chủ thể trong quan hệ pháp luật thường hướng
tới để tác động có thé là lợi ích vật chất, giá trị tinh thần hoặc lợi ích chính trị.
Câu 4: Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước. a. Nguồn gốc: -
Theo quan điểm thần học: Thượng đế là người sáng tạo ra nhà nước quyền
lực của nhà nước là vĩnh cửu và bất biến. -
Thuyết gia trưởng: Nhà nước là kết quả của sự phát triển của gia đình,
quyền lực của nhà nước như quyền gia trưởng của gia đình. -
Thuyết bạo lực: Nhà nước ra đời là kết quả của việc bạo lực này với thị tộc
khác- Thuyết tâm lý : họ dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm để
giải thíchcủa sự ra đời nhà nước
--------> Họ giải thích không đúng về sự ra đời của nhà nước.
* Theo học thuyết Mác –Lênin:
- Nhà nước ra đời khi có sự phân hóa và đấu tranh giai cấp.
- Quyền lực của nhà nước không phải là vĩnh cửu.
- Nhà nước tồn tại và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự phát triển của nó không còn nữa.
+ Lần 1: ngành chăn nuôi tách ra khỏi ngành trồng trọt thành một ngành kinh tế độc lập.
+ Lần 2: cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi và trồng trọt thủ
công nghiệp cũng ra đời và phát triển dẫn đến lần phân công lao động thứ 2 là thủ
công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp.
+ Lần 3: sự ra đời của sản xuất hàng hóa làm cho thương nghiệp phát triển đã dẫn đến lOMoAR cPSD| 45740413
sự phân công lao động xã hội lần thứ 3 đây là lần phân công lao động giữ vai trò
quan trọng và có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự tan dã của chế động cộng sản nguyên thủy.
b. Bản chất của nhà nước: Nhà nước là sản phẩm của giai cấp xã hội
- Quyền lực về kinh tế: Có vai trò rất quan trọng nó cho phép người nắm giữ kinh
tế thuộc mình phải chịu sự chi phối của họ về mọi mặt.
- Quyền lực về chính trị: Là bạo lực của các tổ chức này đối với giai cấp khác.-
Quyền lực về tư tưởng: Giai cấp thống trị trong xã hội đã lấy tư tưởng của mình
thành hệ tư tưởng trong xã hội * Bản chất của xã hội :
- Nhà nước còn bảo vệ lợi ích của người dân trong xã hội.
- Nhà nước là một tổ chức duy nhất có quyền lực chính trị một bộ máy chuyên
làmcưỡng chế và chức năng quản lý đặc biệt để duy trì trật tự xã hội. - Thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. c. Chức năng của nhà nước:
- Là các phương diện và những mặt hoạt động của nhà nước để thực hiện
nhữngnhiệm vụ của nhà nước.
- Chức năng đối nội: Là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước diễn ra ở trong nước .
- Chức năng đối ngoại: Là những mặt hoạt động chủ yếu thể hiện với các nhà nướcvà dân tộc khác .
--------> Hai chức năng của nhà nước là đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với
nhau. Việc xác định từ tình hình thực hiện các chức nẳng đối ngoại phải xuất phát từ
tình hình thực hiện các chức năng đối nội và phải phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng đối nội. đồng thời việc thực hiện các chức năng đối nội lại có tác dụng trở lại với
việc thực hiện các chức năng đối ngoại. So với các chức năng đối ngoại thì các chức
năng đối nội giữ vai trò quyết định. Bởi vì việc thực hiện các chức năng đối nội là
việc giải quyết mối quan hệ bên trong. Thực hiện các chức năng đối ngoại là việc giải
quyết mối quan hệ bên ngoài. Giải quyết mối quan hệ bên trong bao giờ cũng giữ
vai trò quan trọng quyết định đối với việc giải quyết các mối quan hệ bên ngoài.
Câu 5: Văn bản quy phạm pháp luật là gì? Trình bày hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta hiện nay.
1. Văn bản quy phạm pháp luật: lOMoAR cPSD| 45740413
- Là một loại văn bản pháp luật.
- Văn bản pháp luật được hiểu là một loại văn bản pháp luật.
- Văn bản pháp luật được hiểu là quyết định do cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền ban hành được thể hiện dưới hình thức văn bản nhằm thay đổi cơ chế
điều chỉnh pháp luật và có hiệu lực bắt buộc.
2. Hệ thống các quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay: * Hiến pháp:
- Là một văn bản quy phạm pháp luật cao nhất của nhà nước.
- Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
- Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản của đất nước như chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Hiến pháp do Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi với ít nhất hai phần ba tổng số
đạibiểu tán thành. * Các đạo luật:
- Là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp.
- Đạo luật và bộ luật đều là những văn bản có giá trị pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp
* Nghị quyết: Nghị quyết là quyết định làm một việc gì đó của một hội nghị. -
Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ thể. -
Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý
thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. -
Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước : Theo hiến pháp năm 1992, Chủ tịch
nước ban hành Lẹnh để công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh ban hành quyết định
để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình như cho nhập quốc tịch
Việt Nam,… - Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định chỉ thị của Thủ tướng Chính Phủ:
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ do tập thể Chính Phủ ban hành theo đa số một
nửa thực hiện chức năng nhiệm vụ của Chính phủ nhằm cụ thể hóa Hiến pháp, Luật,
-Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, quyết định, chỉ thị,
thông tư của Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao. lOMoAR cPSD| 45740413
Nghị quyết, Thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị xã hội. -
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương có quyền ra các nghi quyết để điều chỉnh các các quan hệ
xã hội các lĩnh vực thẩm quyền. -
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc
mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương,
nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp trên. -
Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là những văn bản do Thủ
tướng banhành để điều hành công việc của Chính phủ thuộc thẩm quyền của
Chính phủ. - Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan
ngang Bộ có giá trị pháp lý thấp hơn các băn bản của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ - Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp:
Trong phạm vi thẩm quyền do luật quy định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp
ban hành quyết định và chỉ thị văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên Câu
6: Vi phạm pháp luật là gì? Phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật
VD: Sinh viên sử dụng tài liệu làm bài thi khi đề thi không cho phép.
Vi phạm kỷ luật là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ cơ
quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ đuợc đề ra
trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó Vi phạm pháp luật: -
Là hình vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
dó cácchủ thể có năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại cho xã hội.
VD : Một em bé 6 tuổi hoặc một người điên đốt cháy nhà người khác thì đó là hành
vi trái pháp luật, nhưng không phải là vi phạm pháp luật vì thiếu yếu tố năng lực trách nhiệm pháp lý. lOMoAR cPSD| 45740413
* Cấu thành của vi phạm pháp luật: -
Yếu tố thứ nhất: là mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Yếu tố này bao
gồm các dấu hiệu : hành vi trái pháp luật hậu quả, quan hệ nhân quả, thời gian, địa
điểm, phương tiện vi phạm -
Yếu tố thứ 2 : là khách thể của vi phạm pháp luật. Khách thể của vi phạm là quan hệ
xã hội bị xâm hại, tính chất của khách thể là một tiêu chí quan trọng đẻ xác định mức
độ nguy hiểm của hành vi. VD hành vi xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tính mạng
con người nguy hiểm nhiều hơn hành vi gây rối trật tự công cộng. -
Yếu tố thứ 3 là mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan gồm các dấu hiệu
thể hiện trạng thái tâm lý của chủ thể, khía cạnh bên trong của vi phạm đó là các dấu
hiệu lỗi của vi phạm thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, động cơ, mục đích vi
phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng để định tội danh trong luật hình sự nhưng đối
với nhiều loại hành vi hành chính thì nó không quan trọng lắm -
Yếu tố thứ 4 là chủ thể của vi phạm pháp luật. Chủ thể của vi phạm pháp
luật phải có năng lực hành vi. Đó có thể là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Đã là cơ
quan tổ chức thì luôn có năng lực hành vi nhưng chủ thể cá nhân thì điều quan
trọng là phải xác định họ có năng lực hành vi hay không. Nếu là trẻ em dưới 14
tuổi thì không được coi là chủ thể vi phạm hành chính và tội phạm. Dưới 16 tuổi
nói chúng không được coi là chủ thể vi phạm kỷ luật lao động bởi vì họ được pháp luật coi là chưa có
năng lực hành vi trong lĩnh vực pháp luật tương ứng… người điên , tâm thần,… Cũng
được coi là không có năng lực hành vi.
Câu 7: Trình bày khái niệm, đặc điểm và các loại trách nhiệm pháp lý. * Khái niệm:
- Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thông qua
các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó bên vi phạm
pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định ở chế tài các quy định pháp luật. * Đặc điểm: lOMoAR cPSD| 45740413 -
Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý và vi phạm pháp luật. Chỉ khi có vi
phạmpháp luật mới áp dụng trách nhiệm pháp lý. -
Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định do cơ
quan nhànước hoặc người có thẩm quyền ban hành trên cơ sở xem xét, giải quyết
vụ việc vi phạm đã có hiệu lực pháp luật. -
Các biện pháp trách nhiệm pháp lý là một loại biện pháp cưỡng chế nhà
nước đặcthù : mang tính chất trừng phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích
bị xâm hại và đồng thời được áp dụng chỉ trên cơ sở những quyết định của cơ quan
hoặc người có thẩm quyền
* Phân loại: Có 4 loại trách nhiệm pháp lý:
- Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do Tòaán
nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được quy
định trong Bộ luật hình sự.
- Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan quản lý
nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành chính.
- Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối
vớimọi chủ thế khi họ vi phạm pháp luật dân sự.
- Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng các cơ quan,
xí nghiệp,… áp dụng đối với cán bộ, công nhân viên của cơ quan xí nghiệp mình
khi họ vi phạm nội quy, quy chế của nội bộ cơ quan.
Phân biệt cơ quan nhà nước với các cơ quan tổ chức xã hội khác Cơ quan nhà nước
Cơ quan của tổ chức khác - Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu
- Cơ quan của tổ chức khác là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước và đó chỉ là những bộ phận
thành nên tổ chức và đó chỉ là những bộ phận then
then chốt, thiết yếu của nhà nước.
chốt, thiết yếu của tổ chức.
- Cơ quan nhà nước do nhà nước và nhân dân - Cơ quan của tổ chức khác do tổ chức và hội viên thành lập. của nó thành lập.
Ví dụ: Nhà nước tổ chức bầu cử Quốc hội để Ví dụ: Tổ chức Đoàn tổ chức bầu cử để đoàn viên
Cơ quan nhà nước Cơ quan của tổ chức khác
nhân dân bầu ra Quốc hội khóa mới.
thanh niên toàn quốc bầu ra Đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn. lOMoAR cPSD| 45740413
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước - Tổ chức và hoạt động của cơ quan của tổ chức do
pháp luật quy định. Pháp luật quy định cụ khác do điều lệ của tổ chức đó quy định. Điều lệ thế
về vị trí, tính chất, vai trò, con đường hình quy định cụ thế về vị trí, tính chất, vai trò, con
thành, cơ cấu tổ chức, nội dung, hình thức, đường hình thành, cơ cấu tổ chức, nội dung, hình
phương pháp hoạt động... của mỗi cơ quan thức, phương pháp hoạt động... của mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước. trong tổ chức.
- Mỗi cơ quan nhà nước có những chức năng, - Mỗi cơ quan của tổ chức khác có những chức
nhiệm vụ, quyền hạn riêng do pháp luật quy
năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng do Điều lệ quy định. định.
Ví dụ: pháp luật quy định chức năng của Quốc Ví dụ: Điều lệ Đoàn quy định chức năng, nhiệm
hội là lập pháp, quyết định những vấn đề quan vụ của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn là
trọng của đất nước...
thảo luận và biểu quyết thông qua các báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương Đoàn; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn...
- Cơ quan nhà nước nhân danh và sử dụng - Cơ quan của tổ chức khác nhân danh và sử dụng
quyền lực nhà nước để thực hiện thẩm quyền quyền lực của tổ chức đó để thực hiện các hoạt của mình. động của mình.
- Cơ quan nhà nước có các quyền: + Ban
Ban hành những quyết định nhất định dưới dạng
hành những quyết định nhất định dưới dạng
quy tắc xử sự chung (ví dụ, Điều lệ, nghị quyết)
quy tắc xử sự chung (ví dụ, luật của Quốc
hoặc quyết định cá biệt (ví dụ, quyết định kỷ
hội) hoặc quyết định cá biệt (ví dụ, bản án
luật hội viên) là những quyết định có giá trị bắt
của Tòa án) là những quyết định có giá trị - buộc
Cơ quan của tổ chức khác có các quyền: + lOMoAR cPSD| 45740413 Cơ quan nhà nước
Cơ quan của tổ chức khác
bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các cơ quan
các tổ chức và cá nhân có liên quan; và hội viên có liên quan trong tổ chức; + Yêu cầu các tổ
chức và cá nhân có liên quan + Yêu cầu các cơ quan và hội viên có liên quan phải thực hiện
nghiêm chỉnh những quyết định phải thực hiện nghiêm chỉnh những quyết định do do nó hoặc
các chủ thể khác có thẩm quyền
nó hoặc cơ quan khác của tổ chức ban hành; ban hành;
+ Sử dụng các biện pháp cần thiết, trong đó có cả
+ Sử dụng các biện pháp cần thiết, trong đó có các hình thức kỷ luật của tổ chức để bảo đảm thực
cả các biện pháp cưỡng chế nhà nước để bảo
hiện các quyết định đó;
đảm thực hiện các quyết định đó;
- Kinh phí hoạt động do nhà nước cấp.
- Kinh phí hoạt động do tổ chức đó cấp.
Phân tích các đặc điểm của bộ máy nhà nước CHXHCNVN hiện nay:
Một là, bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản
cẩu thành nhà nước, bao gồm sổ lượng người nhất định, được tổ chức và hoạt động theo quy
định của pháp luật, nhãn danh nhà nước thực hiện quyển lực nhà nước.
Cơ quan nhà nước có một số đặc điểm sau:
- Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, nghĩa là cơ quannhà nước chỉ là
những bộ phận then chốt, thiết yếu của nhà nước. Các bộ phận khác cấu thành nhà nước nhưng
chỉ giữ vai trò thứ yếu không được quan niệm là cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước có biên
chế xác định, mỗi cơ quan nhà nước gồm một số lượng người nhất định, có thể có cơ quan chỉ
bao gồm một người (chẳng hạn, nguyên thủ quốc gia ở nhiều nước), có thể có cơ quan nhà
nước bao gồm một nhóm người (quốc hội, chính phủ...). - Cơ quan nhà nước được thành lập
theo các cách thức hay trình tự khác nhau, có thể là cha truyền con nối hoặc bầu cử hoặc bổ nhiệm...
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước do pháp luật quy định. Thôngthường, pháp luật có
quy định cụ thể về vị trí, tính chất, vai trò, con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, nội dung, hình
thức, phương pháp hoạt động... của mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước. lOMoAR cPSD| 45740413
- Mỗi cơ quan nhà nước có những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn riêng dopháp luật quy định.
Chẳng hạn, chức năng của nghị viện (quốc hội) là lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước...; chức năng của toà án là xét xử các vụ án.
- Mỗi cơ quan nhà nước được trao cho những quyền năng nhất định để thựchiện chức năng,
nhiệm vụ được giao. Toàn bộ những nhiệm vụ và quyền hạn mà một cơ quan nhà nước được
thực hiện và phải thực hiện tạo nên thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó. Cơ quan nhà nước
nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện thẩm quyền của mình, nó có quyền ban
hành những quyết định nhất định (Những quyết định này có thể là những quyết định cá biệt,
cũng có thể là quyết định chứa đụng quy tắc xử sự chung, có thể thể hiện dưới hình thức văn
bản hoặc bằng lời nói.); yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan phải tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh những quyết định do nó hoặc các chủ thể khác có thẩm quyền ban hành; kiểm
tra, giám sát việc thực hiện những quyết định đó, khi cần thiết, nó có thể sử dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước để đảm bảo thực hiện những quyết định đó.
Phân tích sự ra đời của pháp luật theo quan điểm của CMVN
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước
cho nên nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng là nguyên nhân và điều
kiện dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Đó là các nguyên nhân và điều kiện kinh tế – xã hội.
Về điều kiện kinh tế, pháp luật chỉ ra đời khi trong xã hội đã xuất hiện nền kinh tế sản xuất và trao
đổi (nền sản xuất hàng hóa) để thay thế cho nền kinh tế tự nhiên và xuất hiện chế độ tư hữu để
thay thế cho chế độ công hữu nguyên thủy, về điều kiện xã hội, pháp luật chỉ ra đời khi trong xã
hội có sự phân hóa con người thành kẻ giàu, người nghèo, thành người tự do và người nô lệ,
thành quý tộc và bình dân, thành người bóc lột và người bị bóc lột; tức là các giai cấp, tầng lóp,
lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với
nhau; đồng thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào trong tay một số ít người, một
lực lượng xã hội nào đó.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có pháp luật nhưng đã có các quy phạm xã hội tồn tại
dưới dạng phong tục, tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người.
Khi nhà nước xuất hiện, trong xã hội đã xuất hiện thêm một loại quy phạm xã hội mới chỉ do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Đó là pháp luật.
Pháp luật ra đời bằng các con đường sau: lOMoAR cPSD| 45740413 –
Nhả nước thừa nhận các quy tắc xử sự chung đã tồn tại trong xã hội dướidạng phong tục,
tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà nước thành pháp luật, tức
là thành các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ, Nhà nước Việt Nam
thừa nhận phong tục ăn Tết cổ truyền, Giỗ Tổ Hùng Vương, chọn họ cho con… –
Nhà nưởc thừa nhận các phán quyết hoặc các lập luận hoặc các nguyên tắchoặc sự giải
thích pháp luật do các cơ quan xét xử (chủ yếu là Tòa án) đưa ra khi giải quyết các vụ việc thực
tế, cụ thể, làm mẫu hoặc làm cơ sở cho toà án dựa vào đó đưa ra quyết định hoặc lập luận để
giải quyết vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự như vậy. Ví dụ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao của nước ta công bố án lệ mẫu do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao lựa chọn để các Tòa án áp dụng trong quá trình xét xử các vụ án tương tự. –
Nhà nước đặt ra các quy tắc mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới xuất hiện hoặc để
thay thế các quy tắc xử sự cũ khi chúng không phù hợp với ý chí của nhà nước, đồng thời bảo đảm
cho các quy phạm đó được thực hiện. Ví dụ, Nhà nước Việt Nam đặt ra các quy tắc mới thông qua
các quy phạm pháp luật thể hiện trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ…
So sánh pháp luật với đạo đức Điểm giống nhau
– Pháp luật và đạo đức đều có những quy tắc xử sự chung hay quy phạm xã hội để hướng dẫn
cách xử sự cho mọi người trong xã hội cho nên chúng đều có các đặc điếm của các quy phạm xã hội, đó là:
+ Pháp luật và đạo đức đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự cho mọi
người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự liệu thì đều phải xử
sự theo những cách thức mà chúng đã nêu ra – Căn cứ vào pháp luật, đạo đức, các chủ thể sẽ biết
mình đuợc làm gì, không đuợc làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
+ Pháp luật và đạo đức đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác định được hành vi nào là
hợp pháp, hành vi nào là hợp đạo đức; hành vi nào là trái pháp luật, hành vi nào là trái đạo đức.
+ Pháp luật và đạo đức đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá
nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh.
+ Pháp luật và đạo đức đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống, bởi vì chúng được
ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thế, một trường hợp cụ thế mà để
điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra. lOMoAR cPSD| 45740413 -
Cả pháp luật và đạo đức đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằmthiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. -
Cả pháp luật và đạo đức đều vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội và tínhdân tộc. Điểm khác nhau Pháp luật Đạo đức
- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, bởi vì
- Đạo đức lúc đầu được hình thành một cách tự
pháp luật được hình thành bằng con đường nhà phát trong cộng đồng xã hội, sau đó có thể là tự
nước, do nhà nước đặt ra (ví dụ như các quy giác khi được bổ sung bằng những quan điểm,
định về tổ chức bộ máy nhà nước), hoặc do nhà quan niệm và phong cách sống của các vĩ nhân;
nước thừa nhận (các phong tục, tập quán, các được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo
quan niệm, quy tắc đạo đức...) nên pháp luật phương thức truyền miệng; được bảo đảm thực
luôn thể hiện ý chí của nhà nước - Pháp luật hiện bằng thói quen, bằng dư luận xã hội, bằng
được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều lương tâm, niềm tin của mỗi người và bằng các
biện pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, biện pháp cưỡng chế phi nhà nước - Đạo đức
thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thường thể hiện ý chí của một cộng đồng dân
thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng cư. chế nhà nước.
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó có - Đạo đức chủ yếu có tính chất khuyên răn đối giá
trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với mọi người, chỉ cho mọi người biết nên làm với
mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong gì, không nên làm gì, phải làm gì và chỉ tác Pháp luật Đạo đức
phạm vi lãnh thổ quốc gia - Pháp luật có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi
tổ chức và cá nhân có liên quan trong xã hội; đồng thời động tới các cá nhân trong xã hội.
có tác động thường xuyên, liên tục trên toàn lãnh
thổ và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.
- Có những quan hệ xã hội pháp luật điều chỉnh
- Có những quan hệ xã hội đạo đức điều chỉnh
nhưng đạo đức không điều chỉnh, ví dụ như nhưng pháp luật không điều chỉnh, ví dụ như
những quan hệ liên quan tới việc tổ chức bộ quan hệ tình bạn, tình yêu... máy nhà nước.
- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp luật làmột hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều
-Đạo đức không có tính hệ thống, ví dụ như
loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực quan niệm và quy tắc đạo đức trong lĩnh vực
khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao ma chay hầu như không có liên quan với quan
động..., song các quy phạm đó không tồn tại niệm và quy tắc đạo đức trong lĩnh vực cưới
một cách biệt lập mà giữa chúng có mối hên hệ hỏi và trong các lĩnh vực khác.
nội tại và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh
thể là hệ thống pháp luật. lOMoAR cPSD| 45740413 -
Pháp luật có tính xác định về hình thức, tức làpháp luật thường được thể hiện trong những
hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, - Đạo đức không có tính xác định về hình thức, tiền
lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. bởi vì nó tồn tại dưới dạng bất thành văn, được Trong
các văn bản quy phạm pháp luật, các quy lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng hình định của
pháp luật thường rõ ràng, cụ thể, bảo thức truyền miệng.
đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trong một phạm vi rộng. -
Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong nhữnggiai đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn có sự -
Đạo đức ra đời và tồn tại trong tất cả các giai phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai đoạn
phát triển của lịch sử. cấp.
So sánh pháp luật với tập quán Điểm giống nhau -
Pháp luật và tập quán đều là những quy tắc xử sự chung hay quy phạm xãhội để hướng
dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội cho nên chúng đều có các đặc điếm của các quy phạm xã hội, đó là: -
Pháp luật và tập quán đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫncách xử sự cho
mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự liệu thì đều phải
xử sự theo những cách thức mà chúng đã nêu ra – Căn cứ vào pháp luật, tập quán, các chủ thể
sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều
kiện, hoàn cảnh nhất định
+ Pháp luật và tập quán đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, của tập quán, có thể xác định được hành vi nào là hợp
pháp, hành vi nào là hợp tập quán; hành vi nào là trái pháp luật, hành vi nào là trái tập quán.
+ Pháp luật và tập quán đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá
nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh.
+ Pháp luật và tập quán đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống, bởi vì chúng được
ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể, một trường hợp cụ thể mà để
điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra. -
Cả pháp luật và tập quán đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413 Điểm khác nhau Pháp luật Tập quán
- Pháp luật có tính quyển lực nhà nước, bởi vì - Tập quán được hình thành một cách tự phát pháp
luật được hình thành bằng con đường nhà trong một cộng đồng dân cư nhất định, là thói nước,
do nhà nước đặt ra (ví dụ như các quy quen ứng xử có tính chất lặp đi lặp lại hằng định về tổ
chức bộ máy nhà nước), hoặc do nhà ngày; được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, nước thừa
nhận (các phong tực, tập quán, các bằng dư luận xã hội, bằng sức thuyết phục của quan niệm,
quy tắc đạo đức...) nên pháp luật chúng và bằng các biện pháp cưỡng chế phi nhà luôn thể hiện
ý chí của nhà nước - Pháp luật nước, của cộng đồng. Vì thế, tập quán thường được nhà nước bảo
đảm thực hiện bằng nhiều thể hiện ý chí cửa một cộng đồng dân cư trong Pháp luật Tập quán
biện pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen
thưởng, tổ chức những địa phương nhất định.
thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó cógiá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với
mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia - Pháp luật có tác
- Tập quán thường chỉ có tác động trong một
động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức cộng đồng dân cư ở một địa phương nhất định.
và cá nhân có liên quan trong xã hội; đồng thời
có tác động thường xuyên, liên tục trên toàn lãnh
thổ và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.
- Có những quan hệ xã hội pháp luật điều chỉnh
- Có những quan hệ xã hội tập quán điều chỉnh
nhưng tập quán không điều chỉnh, ví dụ như nhưng pháp luật không điều chỉnh, ví dụ như
những quan hệ liên quan tới việc tổ chức bộ tập quán ma chay, cưới hỏi... máy nhà nước.
- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp luật làmột hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều
loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực -Tập quán không có tính hệ thống. Ví dụ: tập
khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao quán về ma chay và tập quán về cưới hỏi là
động..., song các quy phạm đó không tồn tại hoàn toàn khác biệt nhau và không có liên quan
một cách biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ tới nhau.
nội tại và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh
thể là hệ thống pháp luật. lOMoAR cPSD| 45740413
- Pháp luật có tính xác định về hình thức, tức là -Tập quán không có tính xác định về hình thức,
pháp luật thường được thể hiện trong những bởi vì nó tồn tại dưới dạng bất thành văn, được hình
thức nhất định, có thể là tập quán pháp, lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng hình tiền lệ
pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. thức truyền miệng. Trong các văn bản quy phạm pháp
luật, các quy định của pháp luật thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất Pháp luật Tập quán trong một phạm vi rộng.
- Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong những - Tập quán ra đời và tồn tại trong tất cả các giai giai
đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn có sự đoạn phát triến của lịch sử.
phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.
Phân tích tính xã hội của pháp luật
heo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước nên
xét về bản chất, pháp luật cũng là một hiện tượng xã hội luôn thể hiện hai tính chất: tính xã hội và tính giai cấp.
Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật là sự thể hiện ý chí chung của cả xã hội, là
công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung
của cả cộng đồng, vì sự phát triển chung của xã hội. –
Trong đời sống xã hội, do đòi hỏi của các quan hệ giao tiếp giữa mọi ngườinên đã hình
thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể hiện ý chí chung
của cả cộng đồng, được cả cộng đồng chấp thuận và tuân thủ. Ví dụ: cách ứng xử giữa cha mẹ và
các con, ông bà và các cháu, giữa người mua và người bán… Khi nhà nước thừa nhận các quy tắc
này thì tạo nên tính xã hội của pháp luật. –
Pháp luật là phương tiện để giải quyết khía cạnh “xã hội” của đời sống nhưphòng, chống
và khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ người lang thang, cơ
nhỡ… Nói cách khác, pháp luật luôn hàm chứa các giá trị xã hội phổ biến, thuộc về con người.
Pháp luật luôn phản ánh điều kiện kinh tế – xã hội, những quan niệm đạo đức truyền thống tốt
đẹp, thuần phong, mỹ tục… của dân tộc – Vì thế, trong pháp luật có nhiều quy định thể hiện tính
xã hội của nó: Quy định về chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc cho công dân, bảo vệ trật tự an ninh,
an toàn giao thông, bảo đảm thông tin, liên lạc, bảo vệ môi trường sống… lOMoAR cPSD| 45740413 –
Pháp luật là biểu tượng của nền công lý, công bằng xã hội, nó bảo đảm chocác chủ thể
ngang quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong những mối quan hệ xã hội nhất định. Pháp
luật là một trong những công cụ để bảo vệ những công trình và những giá trị văn hoá, tinh thần
chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và một số phong tục, tập quán của dân tộc. –
Mặc dù tính xã hội là thuộc tính chung của tất cả các kiểu pháp luật, songsự thể hiện tính
xã hội có sự khác nhau giữa các kiểu pháp luật. Cùng với sự phát triển của xã hội, tính xã hội của
pháp luật ngày càng trở nên sâu sắc và rộng rãi hon.
+ Biểu hiện tính xã hội của pháp luật chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn chế, chủ yếu thể
hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trừng trị tội phạm, bảo vệ các công trình công cộng…
+ Biểu hiện tính xã hội của pháp luật tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các giai đoạn phát triển của
nhà nước tư sản. Pháp luật tư sản ra đời đã thể hiện sự tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến.
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật được mở rộng dần, tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ các
quan hệ trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội trong đời sống cộng đồng. Pháp
luật trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lý bình đẳng giữa các cá nhân trong xã
hội, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Đến giai đoạn để quốc chủ nghĩa, do bị lũng đoạn bởi các tập đoàn tư bản độc quyền, lại bị lún
sâu vào các cuộc chiến tranh xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, hoạt động của nhà nước tư sản chủ
yếu xoay quanh việc bảo vệ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lớn nên vai trò và ý nghĩa
xã hội của pháp luật tư sản thời kỳ này có nhiều hạn chế.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, pháp luật tư sản có xu hướng dân chủ, nhân đạo,
hướng tới việc đảm bảo công bằng, bình đẳng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn
định, chống khủng hoảng xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Hiện nay, pháp luật
được xem là công cụ quan trọng để chống lại sự tha hóa của quyền lực nhà nước, bảo vệ con
người, bảo vệ công lý.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện tính xã hội rộng rãi và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu
pháp luật trước đó. Pháp lưật là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó
các giá trị con người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là
pháp luật vì con người, nhằm phục vụ con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát huy
tài năng, phát triển toàn diện.
Vai trò của pháp luật đối với xã hội lOMoAR cPSD| 45740413
a – Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội –
Pháp luật không sinh ra quan hệ xã hội nhưng là phương tiệnkhông thể thiếu
và hiện nay là công cụ có hiệu quả nhất để điều tiết và định hướng cho sự phát triển
của các quan hệ xã hội, thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho chủ
thể tham gia quan hệ xã hội, các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền đó. Pháp
luật tạo ra hành lang pháp lý, khuôn khổ cho các quan hệ xã hội vận hành. Nhờ có
pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp
pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ
đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể. –
Pháp luật củng cô và tăng cường các xu hướng phát triên tíchcực của các
quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo
sự phát triển của xã hội phù hợp với quy luật khách quan (ví dụ, quan hệ sở hữu,
sự tích tụ, tập trung ruộng đất).
+ Pháp luật ghi nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định
hướng của nhà nước, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển và bảo
vệ sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó.
+ Pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát triển
của đời sống, trái với mục đích, định hướng của nhà nước. –
Vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ khi có sự thay đổilớn trong đời
sống xã hội. Sau mỗi cuộc cách mạng, cải cách xã hội, những yểu tố mới được xác
lập thường gặp phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những
yếu tố lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hắn. Trong
những điều kiện đó, “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu đê điều
tiết các trạng thải xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chính các biên đối xã hội quan
trọng đó”. Bằng pháp luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định,
nhờ đó sự tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chắn, không thể đảo ngược
(việc thiết lập chính quyền mới, cải cách thủ tục hành chính…).