lOMoARcPSD| 59747617
1. Trình bày các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
- Quốc Hội
- Ủy ban TVQH
- Chủ tịch nước
- Chính ph
- Thủ tướng chính phủ
- Bộ trưởng,Thủ trưởng cơ quan Ngang bộ
- Hội đồng Thẩm phán TANDTC
- Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC
- Giữa các CQNN có thẩm quyền
- Hội đồng nhân dân
- Ủy ban nhân dân
2 . Hình thức nhà nước là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành của hình
thức nhà nước
- Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những
phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là
một khái niệm chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
- Hình thức nhà nước là những cách thức để tổ chức quyền lực nhà
nước và những biện pháp để tổ chức và để thực hiện quyền lực của nhà
nước. Các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước gồm: hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
Hình thức chính th
Đây là cách thức để tổ chức, trình tự thành lập của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất và mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau cũng như là
thái độ của các cơ quan này với nhân dân.
lOMoARcPSD| 59747617
Hình thức chính thể bao gồm có hai dạng đó là chính thể quân chủ và
hình thức chính thể cộng hòa.
Hình thức chính thể quân chủ: Đây là hình thức chính thể mà
quyền lực cao nhất sẽ tập trung vào toàn bộ hoặc là tập trung một phần
vào người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế là chính thể quân
chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế.
Hình thức chính thể cộng hòa: Đây là hình thức mà trong đó quyền
lực cao nhất thuộc về cơ quan được bầu ra trong một khoảng thời gian cụ
thể, có hai loại chính thể là chính thể cộng hòa quý tộc và chính thể cộng
hòa dân chủ.
Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự tổ chức nhà nước thành những đơn vị hành chính lãnh thổ và
tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước với nhau, giữa cơ
quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương. Bao
gồm có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất và hình thức cấu trúc nhà
nước liên bang.
Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất: Đây là nhà nước có chủ
quyền chung và có lãnh thổ toàn vẹn thống nhất, bộ phận hợp thành n
nước là những đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền riêng.
Hình thức cấu trúc nhà nước liên bang: Được hình thành từ hai hay nhiều
quốc gia thành viên và các thành viên này có chủ quyền riêng bên cạnh
chủ quyền chung của nhà nước liên bang.
Chế độ chính trị
Đây là toàn bộ những phương pháp, những đoạn cũng như cách thức mà
nhà nước sử dụng để thực hiện quyển lực của nhà nước, thực hiện việc
quản lý xã hội theo ý chí của nhà nước.
lOMoARcPSD| 59747617
Chế độ này được chia thành hai loại là chế độ nhà nước dân chủ và chế
độ nhà nước phản dân chủ.
3. Pháp luật là gi? Phân tích ban chất và đặc điểm cơ bản của pháp
luật
- Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
học cũng như trong sách báo pháp lý tồn tại nhiều định nghĩa về pháp
luật dưới góc độ là pháp luật thực định. Tuy nhiên, có thể nói, các định
nghĩa đó cơ bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp
luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn
mực xã hội, pháp luật có những điểm khác biệt cơ bản so với các loại
chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán... Pháp luật
dưới góc độ tương tự, từ đó có thể hiểu:Pháp luật là hệ thống quy tắc xử
sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.
- Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật
không có thuộc tính riêng. Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học
gắn liền với bản chất của Người nắm quyền (người đại diện đấng siêu
nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả mọi
người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan
điểm trên, quan điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp
luật mang thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.
Theo học thuyết Mác – Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp
của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai
cấp.
- Khác với các loại quy phạm khác tồn tại trong xã hội, pháp luật có
những đặc điểm riêng biệt như sau:
lOMoARcPSD| 59747617
+ Chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật là Nhà nước Để ban
hành ra được pháp luật thì phải trải qua rất nhiều các quy trình, thủ tục
phức tạp với sự tham gia làm việc của rất nhiều các chủ thể như các t
chức, cá nhân, cơ quan nhà nước để đảm bảo được nội dung của pháp
luật luôn có tính chặt chẽ, khả năng áp dụng rộng rãi.
Ngoài việc ban hành pháp luật thì nhà nước còn có thể thừa nhận những
tập quán trong xã hội bằng cách là ghi nhận những tập quán đó trong luật
thành văn.
+ Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật được thể hiện ở việc pháp luật
được áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người trong xã hội mà không phải
chỉ áp dụng riêng cho mỗi cá nhân hay tổ chức nào. Do đó mọi người
trong xã hội cần tuân theo các quy định của pháp luật đã được ban hành.
+ Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước Do
pháp luật là quy tắc xử sự chung trong toàn xã hội nên được Nhà nước
đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ giáo dục, thuyết phục rồi
đến cưỡng chế.
Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp như đã
nêu ở trên trong đó có các biện pháp cưỡng chế của nhà nước rất nghiêm
khắc như phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù chung thân … Với sự bảo đảm
thực hiện pháp luật của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được các tổ
chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong
đời sống xã hội.
+ Ngoài nội dung thì pháp luật còn có sự chặt chẽ về mặt hình thức,
được thể hiện dưới dạng văn bản
lOMoARcPSD| 59747617
Hình thức thể hiện của pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật được
quy định rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ trong từng điều khoản để tránh việc
hiểu sai dẫn đến việc lạm dụng pháp luật.
Việc quy định cụ thể như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình
thực hiện pháp luật của người dân cũng như việc áp dụng giải quyết
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Phân tích cơ cấu của quy phạm pháp luật? Cho ví dụ minh họa. Cấu
trúc của quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định, quy định và chế
tài
Giả định là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn
cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình
huống đó xảy ra thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà
quy phạm đặt ra. Đây là phần nêu lên trường hợp sẽ áp dụng quy phạm
đó.
Quy định: là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật và không
thể thiếu. Nó nêu lên quy tắc xử sự mà mọi người phải thi hành khi xuất
hiện những điều kiện mà phần giả định đã đặt ra.
Chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước
sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy tắc xử sự đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng là
hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng nội dung tại phần quy định.
Ví Dụ về Cấu trúc của quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định, quy
định và chế tài
Giả định là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn
cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình
lOMoARcPSD| 59747617
huống đó xảy ra thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà
quy phạm đặt ra. Đây là phần nêu lên trường hợp sẽ áp dụng quy phạm
đó.
Quy định: là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật và không
thể thiếu. Nó nêu lên quy tắc xử sự mà mọi người phải thi hành khi xuất
hiện những điều kiện mà phần giả định đã đặt ra.
Chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước
sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy tắc xử sự đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng là
hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng nội dung tại phần quy định.
5. Trách nhiệm pháp lý là gì? Trình bày các căn củ để truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lý là việc mà Nhà nước áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức gây ra hậu quả vi phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức phải chịu
những chế tài theo quy phạm pháp luật.
+ Trách nhiệm pháp lý còn là việc cá nhân, tổ chức cần phải thực hiện
nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ hành vi gây
ra cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trách nhiệm hình sự, hành chính và bồi
thường dân sự.
- Cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý được căn cứ vào một số yếu
tố khác nhau:
+ Căn cứ vào yếu tố thuộc mặt khách quan:Các yếu tố thuộc mặt khách
quan bao gồm những hành vi vi phạm pháp luật để lại hậu quả tiêu cực
cho xã hội và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
gây nên cho xã hội.
lOMoARcPSD| 59747617
+ Căn cứ vào chủ thể vi phạm pháp luật:Chủ thể là cá nhân, pháp nhân
có năng lực trách nhiệm pháp lý và có hành vi vi phạm. Mỗi loại vi phạm
đều được quy định khác nhau về chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Căn cứ vào mặt chủ quan của vi phạm pháp luật :
Mặt chủ quan gồm: Lỗi, động cơ vi phạm và mục đích vi phạm. Lỗi vi
phạm có thể là lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý. Động cơ vi phạm là lý do khiến
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Mục đích vi phạm là kết quả của
hành vi vi phạm.
+ Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật:Khách thể của vi phạm
pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng bị xâm phạm do
hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân hay pháp nhân phạm tội.
6. Phân tích khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật. Cho ví dụ. -
Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà
nước, do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp
luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức
cụ thể.
- Đặc điểm của áp dụng pháp luật ở nước ta
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực
nhà nước
+ Hoạt động áp dụng chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó
chỉ có thể áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định
của pháp luật.
Ví dụ: Ở nước ta chỉ có Ủy ban nhân dân mới có thể xem xét để cấp Giấy
chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ ở địa phương khi họ yêu cầu,
lOMoARcPSD| 59747617
chỉ có Tòa án nhân dân mới có thể áp dụng pháp luật trong xét xử để định
tội và định hình phạt cho người phạm tội…
+ Hoạt động áp dụng pháp luật là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước,
thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện trong các
quy phạm pháp luật trở thành hiện thực trong thực tế, đuợc thể hiện một
cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Thông qua việc cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ
cụ thể, ý chí của Nhà nước trong các quy định của Luật hôn nhân và gia
đình mới trở thành hiện thực trong thực tế.
+ Khi áp dụng pháp luật, trên cơ sở các quy định của pháp luật, các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định
có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp
dụng. Các mệnh lệnh, quyết định này chủ yếu thể hiện ý chí đơn phương
của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ thuộc vào ý chí của
đối tượng áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các
cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Ví dụ: Khi xem xét hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
một cá nhân, tổ chức nào đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên phải căn
cứ vào các quy định của Luật Đất đai và các nghị định hướng dẫn thi
hành để ra quyết định cấp hay không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cá nhân tổ chức đó. Quyết định này thể hiện ý chí đơn phương
của Ủy ban nhân dân mà không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân, tổ chức
nộp hồ sơ xin cấp.
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là
hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do vậy,
lOMoARcPSD| 59747617
hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục
rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Ví dụ: Hoạt động xem xét để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
người sử dụng đất của Ủy ban nhân dân vừa là hình thức thực hiện pháp
luật của Ủy ban nhân dân, vừa là hình thức Ủy ban nhân dân tổ chức cho
người sử dụng đất thực hiện pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Luật Đất đai quy định. Thứ hai,
áp dụng pháp luật là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện
hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể
Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các
quan hệ xã hội.
Ví dụ: Hoạt động áp dụng pháp luật của Cảnh sát giao thông khi xử lý
một người vi phạm pháp luật giao thông cụ thể là sự cá biệt hóa các quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vào trường hợp
cụ thể của người vi phạm đó.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính sáng tạo
Các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song
các vụ việc xảy ra trong thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp.
Do vậy, muốn đưa ra được một quyết định “thấu tình, đạt lý” để giải
quyết vụ việc thì cần có sự sáng tạo, tư duy logic trên cơ sở quy định
pháp luật của người áp dụng.
7. Thực hiện pháp luật là gì? Nếu các hình thức thực hiện pháp luật. Cho
ví dụ minh hoa.
- Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp
luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy
định. Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến
lOMoARcPSD| 59747617
hành bằng một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có
tính thụ động, tức là không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
- Từ việc hiểu Thực hiện pháp luật là gì có thể khái quát hai đặc
điểm cơ bản của thực hiện pháp luật đó là:
+ Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật +
Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức
khác nhau..
- Thực hiện pháp luật bao gồm 04 hình thức. Vậy cụ thể những hình
thức được thể hiện như thế nào?
+ Hình thức đầu tiên là tuân thủ pháp luật :
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự
kiềm chế của chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp
luật.
Ví dụ 1: Việc một người không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý,
không thực hiện hành vi lừa đảo, không lái xe chở quá số người quy định,
… là người đó đã tuân thủ pháp luật
Ví dụ 2: Không vi phạm các quy định luật an toàn giao thông khi tham
gia giao thông, không trộm cắp tài sản,….
+ Hình thức thứ hai là thi hành pháp luật (hay còn gọi là chấp hành pháp
luật):
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp
luật chủ động thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế, nghĩa vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc
ông bà, cha mẹ người thân khi họ già yếu… v.v + Hình thức thứ ba là
sử dụng pháp luật :
lOMoARcPSD| 59747617
Tại hình thức này chủ thể có thể thực hiện quyền chủ thể của mình. Sử
dụng pháp luật là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai
thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành cho
mình.
Ví dụ 1: Cán bộ Ủy ban nhân dân xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn cho công dân.
Ví dụ 2: Công an phường xem xét thực hiện đăng ký thường trú cho công
dân khi đủ điều kiện.
Ví dụ 3: Pháp luật cho phép vợ, chồng được ly hôn khi mục đích hôn
nhân không thể thực hiện. Chị A đã thỏa thuận ly hôn với chồng khi
người chồng không thực hiện được các nghĩa vụ cơ bản đối với gia đình,
mục đích của hôn nhân không được đảm bảo.
Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật: Hình
thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện các quy định của pháp luật hoặc ban hành quyết định làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ:
Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
người đi vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông đường bộ.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
trường hợp khai báo gian dối trong quá trình thực hiện các biện pháp
phòng chống dịch như khai báo y tế, vi phạm về quy định cách ly y tế.
- Hình thức áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đó là :
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước + Áp
dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt chẽ được pháp
luật quy định cụ thể (ví dụ như trường hợp xử phạt vi phạm hành chính
lOMoARcPSD| 59747617
trong lĩnh vực giao thông cũng được pháp luật quy định một cách chi
tiết)
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng quan hệ xã
hội nhất định.
8. Phân tích khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. Cho
ví dụ minh họa
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước
cố thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có
chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu
cho xử sự của các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần cho nhiều
chủ thể pháp luật trong một khoảng thời gian và không gian nhất định
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà
nước muốn xác lập.
- Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau đây: + Phải
do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp
ban hành với những hình thức do pháp luật quy định. + Trình tự, thủ tục
ban hành văn bản được quy định chặt chẽ trong Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
+ Nội dung của văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung. Quy tắc xử sự
chung là những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuân
theo khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh. Nó được áp
dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có
hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.
+ Nhà nước bảo đảm việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
bằng các biện pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục,
các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế và trong trường hợp cần
lOMoARcPSD| 59747617
thiết là biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành. Ví dụ về văn bản quy
phạm của pháp luật:
Có thể thấy Hiến pháp năm 2013, Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung
2017, Bộ luật lao động 2019, Bộ luật dân sự 2015 … của nước ta là
những văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật
trên được quốc hội ban hành luật, hiến pháp để quy định:
+ Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán
nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
+ Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo
Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công
dân; tội phạm và hình phạt;
+ Chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước;
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
+ Chính sách cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ,
môi trường;
+ Quốc phòng, an ninh quốc gia;
+ Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
+ Hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao;
hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự
nhà nước;
+ Chính sách cơ bản về đối ngoại;
+ Trưng cầu ý dân;
+ Cơ chế bảo vệ Hiến pháp;
+ Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
lOMoARcPSD| 59747617
Hay vào ngày 30/12/2019, Nghị định 100/2019/NĐ-CP được Chính phủ
ban hành Nghị định 100/2019/NĐ-CP. Nghị định 100/2019/NĐ-CP là
văn bản mới nhất quy định về hành vi vi phạm hành chính; hình thức,
mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm
hành chính; thẩm quyền lập biên bản, …
9. Vi phạm pháp luật là gi? Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật.
Cho ví dụ cụ thể và chỉ ra các dấu hiệu của vi phạm pháp luật đó. - Vi
phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa
gây ra những hậu quả xấu cho xã hội. Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ
về vi phạm pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp nhận diện hiện
tượng xã hội này, phân biệt chúng với các hiện tượng lệch chuẩn khác, từ
có có biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa và giảm thiểu hiện tượng này.
Một hiện tương xã hội được coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu
hiệu cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người :
Hành vi thực tế của con người có thể được thể hiện bằng lời nói, thao tác,
cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói
nào đó.
Pháp luật đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người nhằm xác lập và
duy trì trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể
hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một
hành vi cụ thể nào đó. Do vậy phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có
cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật :
Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật b
coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành
vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt
lOMoARcPSD| 59747617
buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đúng cách thức mà pháp
luật yêu cầu.
+ Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện:
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ đạt đến độ
tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy
định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Khả năng nhận
thức ở đây được hiểu là, chủ thể hiểu rõ hành vi của mình là đúng hay sai
theo chuẩn mực xã hội. Khả năng điều khiển được hiểu là, trên cơ sở của
nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện hành vi
mà họ cho là phù hợp với chuẩn mực xã hội, kiềm chế không thực hiện
hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích xã hội. + Vi phạm pháp luật
luôn chứa đựng lỗi của chủ thể :
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó
là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể
trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một cách
xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có pháp
luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có
sự khác nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận
thức của con người về vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy
đủ và chính xác hơn. Theo đó, một hiện tượng xã hội bị coi là vi phạm
pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau: + Vi phạm pháp luật là hành
vi thực tế của con người :
Hành vi là xử sự của con người trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng
những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó.
lOMoARcPSD| 59747617
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và
duy trì trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể
hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một
hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có
cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không. Vi phạm pháp luật
không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay những sự
biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người... Vi phạm pháp luật phải là
kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan
bằng hành vi thực tế cụ thể.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật :
Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người,
thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết
mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế
nào... Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp
luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm,
hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự
bắt buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đứng cách thức mà
pháp luật yêu cầu. Sự quy định trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác
định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể. Một hành vi nào đó có
thể gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng nếu chưa được
pháp luật quy định thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong
xã hội, trái phong tục tập quán... nhung không trái pháp luật không phải
là vi phạm pháp luật.
+ Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện:
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ
tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều
lOMoARcPSD| 59747617
khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy
định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí khác nhau. Khả năng nhận
thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được hành vi của mình là
đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến
khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm... Khả năng điều khiển được hiểu
là, trên cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết
tâm thực hiện hành vi mà họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội; kiềm
chế, không thực hiện hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã
hội... Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con
người phát triển dần dần cùng với sự trưởng thành về tuổi tác của họ.
Chính vì vậy, pháp luật của các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để
phản ánh khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể. Bên
cạnh đó, sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí còn phản ánh chính
sách pháp luật của một nhà nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh lệch không lớn
về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác biệt trong khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước khác nhau có thể có
sự quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác nhau,
điều đó thể hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước.
Trên thực tế, nhiều trường hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng
vì những lí do khác nhau dẫn đến bị mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi nên cũng được coi là không có năng lực trách
nhiệm pháp lí.
+ Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể :
Trong đời sống hàng ngày, lỗi được hiểu là điều sai sót, không nên,
không phải trong cách cư xử, trong hành động. Theo đó, lỗi được đồng
nhất với hành vi, đó là những hành vi sai sót, hành vi không nên có,
không đáng có. Trong khoa học pháp lí, lỗi là trạng thái tâm lí phản ánh
thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ
hậu quả của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí không phải
lOMoARcPSD| 59747617
là bản thân hành vi mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính
mình và hậu quả của hành vi ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt
ra khi chủ thể có hành vi trái pháp luật.
Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui,
buồn, lo lắng, sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận
thức được hay không nhận thức được, mong muốn, không mong muốn...
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó
là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể
trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự
khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi
trường họp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một
hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ
thể không có sự lựa chọn nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ
có thể có sự lựa chọn như thế) hoặc trong trường hợp chủ thể bị mất tự do
ý chí thì chủ thể không bị coi là có lỗi, do vậy hành vi đó không bị coi là
vi phạm pháp luật.
Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một
hiện tượng cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật
khi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định,
mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng không phải tất
cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành
vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện trong
trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Anh A, 25 tuổi, để không bị muộn buổi phỏng vấn xin việc nên đã
phóng nhanh vượt đèn đỏ và bị Công an giao thông xử phạt.Phân tích:
Trong tình huống trên, có thể thấy anh A đã vi phạm pháp luật. Cụ thể: -
Đây là hành vi xâm phạm quy tắc quản lí nhà nước: Vượt đèn đỏ là
mộthành vi vi phạm quy tắc ứng xử khi tham gia giao thông, và theo
lOMoARcPSD| 59747617
điểm a điềukhoản 5 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, người không
chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông có thể bị xử phạt từ 3 đến
5 triệu đồng cùng các hình phạt bổ sung.
- Hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, dễ dàng gây ra tổn hại nặng
nề không chỉ cho chính chủ thể vi phạm mà còn cho người tham gia giao
thông khác, cả về vật chất lẫn sức khoẻ.
- Đây cũng là hành vi trái pháp luật mà chủ thể cố ý thực hiện: Do
để kịp tham gia buổi phỏng vấn xin việc của mình, anh A đã cố tình
phóng nhanh vượt đèn đỏ, dù nhận thức được hành vi của mình là sai và
có khả năng cao gây ra tai nạn giao thông, ảnh hưởng đến những người
tham gia giao thông khác.
- Chủ thể vi phạm pháp luật: Trong trường hợp này, có thể thấy anh
A hoàn toàn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Vi
phạm hành chính áp dụng cho độ tuổi từ 14 đến 16 với hành vi cố ý,
trên 16 tuổi đối với mọi vi phạm hành chính. Vì vậy, anh A hoàn toàn có
thể chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi của mình.
10.Nhà nước là gì ? Phân tích bàn chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước.
- Nhà nước là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực chính trị
quản lý, đóng vai trò tổ chức chính trị trung ương của một quốc gia. N
nước bao gồm các cơ quan và tổ chức có thẩm quyền để điều hành và
quản lý các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa và an ninh của quốc
gia.Nhà nước đại diện cho quyền lực chính trị và quyền lợi chung của
cộng đồng dân cư trong một quốc gia. Nhà nước thực hiện nhiệm vụ duy
trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân, định đoạt và thực hiện
các quyết định chính trị và kinh tế, quản lý tài nguyên và cung cấp các
dịch vụ công cộng.Nhà nước có quyền xác định chính sách và lập pháp,
điều hành và thực thi pháp luật, quy định và thu thuế, quản lý quan hệ
lOMoARcPSD| 59747617
quốc tế và quân sự, và tạo ra môi trường để các cá nhân, tổ chức hoạt
động trong xã hội. - Bản chất của nhà nước:Nhà nước là một tổ chức
chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự
hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
=>Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc,bản chất của một giai cấp
duy nhất,giai cấp tổ chức,SD nó.Vì:
+ Nhà nước ra đời từ XH có giai cấp,liên quan đến giai cấp.
+ Nhà nước là bộ máy chuyên chính,công cụ bạo lực,trấn áp của giai cấp
thống trị nhằm bảo vệ địa vị,quyền lợi của giai cấp thống trị. => Như
vậy,nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng
trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị,kinh tế văn hóa
xã hội do nhà nước tiến hành xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị.Điều này đã được Ăngghen nhấn mạnh: “Nhà nước,nói
chung chỉ là sự phản ánh,dưới hình thức tập trung của những nhu cầu
kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”
Nhà nước xuất hiện dù với bất cứ nguyên nhân nào, với bản chất gì thì
đều có những đặc trưng khác biệt so với tổ chức của xã hội thị tộc, bộ lạc
và các tổ chức chính trị xã hội khác do giai cấp thống trị thiết lập và sử
dụng để quản lý xã hội. Vì nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp
và là biểu hiện của sự không thể điều hòa được các mâu thuẫn giai cấp
đối kháng. Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, nhà nước có năm
đặc trưng cơ bản:
- Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn v
hành chính
+ Lãnh thổ và dân cư là hai yếu tố căn bản cấu thành nên nhà nước. Nếu
như xã hội thị tộc, bộ lạc quản lý các thành viên của mình theo huyết

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59747617
1. Trình bày các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay - Quốc Hội - Ủy ban TVQH - Chủ tịch nước - Chính phủ - Thủ tướng chính phủ
- Bộ trưởng,Thủ trưởng cơ quan Ngang bộ
- Hội đồng Thẩm phán TANDTC
- Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC
- Giữa các CQNN có thẩm quyền - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân
2 . Hình thức nhà nước là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành của hình thức nhà nước -
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những
phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là
một khái niệm chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị. -
Hình thức nhà nước là những cách thức để tổ chức quyền lực nhà
nước và những biện pháp để tổ chức và để thực hiện quyền lực của nhà
nước. Các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước gồm: hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
Hình thức chính thể
Đây là cách thức để tổ chức, trình tự thành lập của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất và mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau cũng như là
thái độ của các cơ quan này với nhân dân. lOMoAR cPSD| 59747617
Hình thức chính thể bao gồm có hai dạng đó là chính thể quân chủ và
hình thức chính thể cộng hòa. –
Hình thức chính thể quân chủ: Đây là hình thức chính thể mà
quyền lực cao nhất sẽ tập trung vào toàn bộ hoặc là tập trung một phần
vào người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế là chính thể quân
chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế. –
Hình thức chính thể cộng hòa: Đây là hình thức mà trong đó quyền
lực cao nhất thuộc về cơ quan được bầu ra trong một khoảng thời gian cụ
thể, có hai loại chính thể là chính thể cộng hòa quý tộc và chính thể cộng hòa dân chủ.
Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự tổ chức nhà nước thành những đơn vị hành chính lãnh thổ và
tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước với nhau, giữa cơ
quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương. Bao
gồm có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất và hình thức cấu trúc nhà nước liên bang. –
Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất: Đây là nhà nước có chủ
quyền chung và có lãnh thổ toàn vẹn thống nhất, bộ phận hợp thành nhà
nước là những đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền riêng. –
Hình thức cấu trúc nhà nước liên bang: Được hình thành từ hai hay nhiều
quốc gia thành viên và các thành viên này có chủ quyền riêng bên cạnh
chủ quyền chung của nhà nước liên bang.
Chế độ chính trị
Đây là toàn bộ những phương pháp, những đoạn cũng như cách thức mà
nhà nước sử dụng để thực hiện quyển lực của nhà nước, thực hiện việc
quản lý xã hội theo ý chí của nhà nước. lOMoAR cPSD| 59747617
Chế độ này được chia thành hai loại là chế độ nhà nước dân chủ và chế
độ nhà nước phản dân chủ.
3. Pháp luật là gi? Phân tích ban chất và đặc điểm cơ bản của pháp luật -
Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
học cũng như trong sách báo pháp lý tồn tại nhiều định nghĩa về pháp
luật dưới góc độ là pháp luật thực định. Tuy nhiên, có thể nói, các định
nghĩa đó cơ bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp
luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn
mực xã hội, pháp luật có những điểm khác biệt cơ bản so với các loại
chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán... Pháp luật
dưới góc độ tương tự, từ đó có thể hiểu:Pháp luật là hệ thống quy tắc xử
sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước. -
Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật
không có thuộc tính riêng. Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học
gắn liền với bản chất của Người nắm quyền (người đại diện đấng siêu
nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả mọi
người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan
điểm trên, quan điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp
luật mang thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.
Theo học thuyết Mác – Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp
của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp. -
Khác với các loại quy phạm khác tồn tại trong xã hội, pháp luật có
những đặc điểm riêng biệt như sau: lOMoAR cPSD| 59747617
+ Chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật là Nhà nước Để ban
hành ra được pháp luật thì phải trải qua rất nhiều các quy trình, thủ tục
phức tạp với sự tham gia làm việc của rất nhiều các chủ thể như các tổ
chức, cá nhân, cơ quan nhà nước để đảm bảo được nội dung của pháp
luật luôn có tính chặt chẽ, khả năng áp dụng rộng rãi.
Ngoài việc ban hành pháp luật thì nhà nước còn có thể thừa nhận những
tập quán trong xã hội bằng cách là ghi nhận những tập quán đó trong luật thành văn.
+ Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật được thể hiện ở việc pháp luật
được áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người trong xã hội mà không phải
chỉ áp dụng riêng cho mỗi cá nhân hay tổ chức nào. Do đó mọi người
trong xã hội cần tuân theo các quy định của pháp luật đã được ban hành.
+ Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước Do
pháp luật là quy tắc xử sự chung trong toàn xã hội nên được Nhà nước
đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ giáo dục, thuyết phục rồi đến cưỡng chế.
Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp như đã
nêu ở trên trong đó có các biện pháp cưỡng chế của nhà nước rất nghiêm
khắc như phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù chung thân … Với sự bảo đảm
thực hiện pháp luật của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được các tổ
chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong đời sống xã hội.
+ Ngoài nội dung thì pháp luật còn có sự chặt chẽ về mặt hình thức,
được thể hiện dưới dạng văn bản lOMoAR cPSD| 59747617
Hình thức thể hiện của pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật được
quy định rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ trong từng điều khoản để tránh việc
hiểu sai dẫn đến việc lạm dụng pháp luật.
Việc quy định cụ thể như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình
thực hiện pháp luật của người dân cũng như việc áp dụng và giải quyết
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Phân tích cơ cấu của quy phạm pháp luật? Cho ví dụ minh họa. Cấu
trúc của quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài –
Giả định là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn
cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình
huống đó xảy ra thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà
quy phạm đặt ra. Đây là phần nêu lên trường hợp sẽ áp dụng quy phạm đó. –
Quy định: là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật và không
thể thiếu. Nó nêu lên quy tắc xử sự mà mọi người phải thi hành khi xuất
hiện những điều kiện mà phần giả định đã đặt ra. –
Chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước
sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy tắc xử sự đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng là
hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng nội dung tại phần quy định.
Ví Dụ về Cấu trúc của quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài –
Giả định là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn
cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình lOMoAR cPSD| 59747617
huống đó xảy ra thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà
quy phạm đặt ra. Đây là phần nêu lên trường hợp sẽ áp dụng quy phạm đó. –
Quy định: là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật và không
thể thiếu. Nó nêu lên quy tắc xử sự mà mọi người phải thi hành khi xuất
hiện những điều kiện mà phần giả định đã đặt ra. –
Chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước
sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy tắc xử sự đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng là
hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng nội dung tại phần quy định.
5. Trách nhiệm pháp lý là gì? Trình bày các căn củ để truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật. -
Trách nhiệm pháp lý là việc mà Nhà nước áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức gây ra hậu quả vi phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức phải chịu
những chế tài theo quy phạm pháp luật.
+ Trách nhiệm pháp lý còn là việc cá nhân, tổ chức cần phải thực hiện
nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ hành vi gây
ra cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trách nhiệm hình sự, hành chính và bồi thường dân sự. -
Cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý được căn cứ vào một số yếu tố khác nhau:
+ Căn cứ vào yếu tố thuộc mặt khách quan:Các yếu tố thuộc mặt khách
quan bao gồm những hành vi vi phạm pháp luật để lại hậu quả tiêu cực
cho xã hội và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại gây nên cho xã hội. lOMoAR cPSD| 59747617
+ Căn cứ vào chủ thể vi phạm pháp luật:Chủ thể là cá nhân, pháp nhân
có năng lực trách nhiệm pháp lý và có hành vi vi phạm. Mỗi loại vi phạm
đều được quy định khác nhau về chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Căn cứ vào mặt chủ quan của vi phạm pháp luật :
Mặt chủ quan gồm: Lỗi, động cơ vi phạm và mục đích vi phạm. Lỗi vi
phạm có thể là lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý. Động cơ vi phạm là lý do khiến
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Mục đích vi phạm là kết quả của hành vi vi phạm.
+ Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật:Khách thể của vi phạm
pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nhưng bị xâm phạm do
hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân hay pháp nhân phạm tội.
6. Phân tích khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật. Cho ví dụ. -
Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà
nước, do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp
luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
- Đặc điểm của áp dụng pháp luật ở nước ta
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước
+ Hoạt động áp dụng chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó
chỉ có thể áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Ở nước ta chỉ có Ủy ban nhân dân mới có thể xem xét để cấp Giấy
chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ ở địa phương khi họ yêu cầu, lOMoAR cPSD| 59747617
chỉ có Tòa án nhân dân mới có thể áp dụng pháp luật trong xét xử để định
tội và định hình phạt cho người phạm tội…
+ Hoạt động áp dụng pháp luật là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước,
thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện trong các
quy phạm pháp luật trở thành hiện thực trong thực tế, đuợc thể hiện một
cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Thông qua việc cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ
cụ thể, ý chí của Nhà nước trong các quy định của Luật hôn nhân và gia
đình mới trở thành hiện thực trong thực tế.
+ Khi áp dụng pháp luật, trên cơ sở các quy định của pháp luật, các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định
có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp
dụng. Các mệnh lệnh, quyết định này chủ yếu thể hiện ý chí đơn phương
của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ thuộc vào ý chí của
đối tượng áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các
cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Ví dụ: Khi xem xét hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
một cá nhân, tổ chức nào đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên phải căn
cứ vào các quy định của Luật Đất đai và các nghị định hướng dẫn thi
hành để ra quyết định cấp hay không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cá nhân tổ chức đó. Quyết định này thể hiện ý chí đơn phương
của Ủy ban nhân dân mà không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân, tổ chức nộp hồ sơ xin cấp.
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là
hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do vậy, lOMoAR cPSD| 59747617
hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục
rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Ví dụ: Hoạt động xem xét để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
người sử dụng đất của Ủy ban nhân dân vừa là hình thức thực hiện pháp
luật của Ủy ban nhân dân, vừa là hình thức Ủy ban nhân dân tổ chức cho
người sử dụng đất thực hiện pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Luật Đất đai quy định. Thứ hai,
áp dụng pháp luật là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện
hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể
Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội.
Ví dụ: Hoạt động áp dụng pháp luật của Cảnh sát giao thông khi xử lý
một người vi phạm pháp luật giao thông cụ thể là sự cá biệt hóa các quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vào trường hợp
cụ thể của người vi phạm đó.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính sáng tạo
Các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song
các vụ việc xảy ra trong thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp.
Do vậy, muốn đưa ra được một quyết định “thấu tình, đạt lý” để giải
quyết vụ việc thì cần có sự sáng tạo, tư duy logic trên cơ sở quy định
pháp luật của người áp dụng.
7. Thực hiện pháp luật là gì? Nếu các hình thức thực hiện pháp luật. Cho ví dụ minh hoa. -
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp
luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy
định. Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến lOMoAR cPSD| 59747617
hành bằng một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có
tính thụ động, tức là không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm. -
Từ việc hiểu Thực hiện pháp luật là gì có thể khái quát hai đặc
điểm cơ bản của thực hiện pháp luật đó là:
+ Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật +
Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác nhau.. -
Thực hiện pháp luật bao gồm 04 hình thức. Vậy cụ thể những hình
thức được thể hiện như thế nào?
+ Hình thức đầu tiên là tuân thủ pháp luật :
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự
kiềm chế của chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật.
Ví dụ 1: Việc một người không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý,
không thực hiện hành vi lừa đảo, không lái xe chở quá số người quy định,
… là người đó đã tuân thủ pháp luật
Ví dụ 2: Không vi phạm các quy định luật an toàn giao thông khi tham
gia giao thông, không trộm cắp tài sản,….
+ Hình thức thứ hai là thi hành pháp luật (hay còn gọi là chấp hành pháp luật):
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp
luật chủ động thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế, nghĩa vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc
ông bà, cha mẹ người thân khi họ già yếu… v.v + Hình thức thứ ba là sử dụng pháp luật : lOMoAR cPSD| 59747617
Tại hình thức này chủ thể có thể thực hiện quyền chủ thể của mình. Sử
dụng pháp luật là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai
thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành cho mình.
Ví dụ 1: Cán bộ Ủy ban nhân dân xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho công dân.
Ví dụ 2: Công an phường xem xét thực hiện đăng ký thường trú cho công
dân khi đủ điều kiện.
Ví dụ 3: Pháp luật cho phép vợ, chồng được ly hôn khi mục đích hôn
nhân không thể thực hiện. Chị A đã thỏa thuận ly hôn với chồng khi
người chồng không thực hiện được các nghĩa vụ cơ bản đối với gia đình,
mục đích của hôn nhân không được đảm bảo.
– Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật: Hình
thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện các quy định của pháp luật hoặc ban hành quyết định làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ:
Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
người đi vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông đường bộ.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
trường hợp khai báo gian dối trong quá trình thực hiện các biện pháp
phòng chống dịch như khai báo y tế, vi phạm về quy định cách ly y tế.
- Hình thức áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đó là :
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước + Áp
dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt chẽ được pháp
luật quy định cụ thể (ví dụ như trường hợp xử phạt vi phạm hành chính lOMoAR cPSD| 59747617
trong lĩnh vực giao thông cũng được pháp luật quy định một cách chi tiết)
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng quan hệ xã hội nhất định.
8. Phân tích khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. Cho ví dụ minh họa -
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước
cố thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có
chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu
cho xử sự của các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần cho nhiều
chủ thể pháp luật trong một khoảng thời gian và không gian nhất định
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn xác lập. -
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau đây: + Phải
do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp
ban hành với những hình thức do pháp luật quy định. + Trình tự, thủ tục
ban hành văn bản được quy định chặt chẽ trong Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
+ Nội dung của văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung. Quy tắc xử sự
chung là những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuân
theo khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh. Nó được áp
dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có
hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.
+ Nhà nước bảo đảm việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
bằng các biện pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục,
các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế và trong trường hợp cần lOMoAR cPSD| 59747617
thiết là biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành. Ví dụ về văn bản quy phạm của pháp luật:
– Có thể thấy Hiến pháp năm 2013, Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung
2017, Bộ luật lao động 2019, Bộ luật dân sự 2015 … của nước ta là
những văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật
trên được quốc hội ban hành luật, hiến pháp để quy định:
+ Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán
nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
+ Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo
Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công
dân; tội phạm và hình phạt;
+ Chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước;
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
+ Chính sách cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường;
+ Quốc phòng, an ninh quốc gia;
+ Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
+ Hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao;
hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
+ Chính sách cơ bản về đối ngoại; + Trưng cầu ý dân;
+ Cơ chế bảo vệ Hiến pháp;
+ Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội. lOMoAR cPSD| 59747617
– Hay vào ngày 30/12/2019, Nghị định 100/2019/NĐ-CP được Chính phủ
ban hành Nghị định 100/2019/NĐ-CP. Nghị định 100/2019/NĐ-CP là
văn bản mới nhất quy định về hành vi vi phạm hành chính; hình thức,
mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm
hành chính; thẩm quyền lập biên bản, …
9. Vi phạm pháp luật là gi? Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật.
Cho ví dụ cụ thể và chỉ ra các dấu hiệu của vi phạm pháp luật đó. - Vi
phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa
gây ra những hậu quả xấu cho xã hội. Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ
về vi phạm pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp nhận diện hiện
tượng xã hội này, phân biệt chúng với các hiện tượng lệch chuẩn khác, từ
có có biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa và giảm thiểu hiện tượng này.
Một hiện tương xã hội được coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người :
Hành vi thực tế của con người có thể được thể hiện bằng lời nói, thao tác,
cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó.
Pháp luật đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người nhằm xác lập và
duy trì trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể
hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một
hành vi cụ thể nào đó. Do vậy phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có
cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật :
Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị
coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành
vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt lOMoAR cPSD| 59747617
buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đúng cách thức mà pháp luật yêu cầu.
+ Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện:
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ đạt đến độ
tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy
định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Khả năng nhận
thức ở đây được hiểu là, chủ thể hiểu rõ hành vi của mình là đúng hay sai
theo chuẩn mực xã hội. Khả năng điều khiển được hiểu là, trên cơ sở của
nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện hành vi
mà họ cho là phù hợp với chuẩn mực xã hội, kiềm chế không thực hiện
hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích xã hội. + Vi phạm pháp luật
luôn chứa đựng lỗi của chủ thể :
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó
là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể
trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một cách
xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có pháp
luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có
sự khác nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận
thức của con người về vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy
đủ và chính xác hơn. Theo đó, một hiện tượng xã hội bị coi là vi phạm
pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau: + Vi phạm pháp luật là hành
vi thực tế của con người :
Hành vi là xử sự của con người trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng
những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó. lOMoAR cPSD| 59747617
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và
duy trì trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể
hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một
hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có
cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không. Vi phạm pháp luật
không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay những sự
biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người... Vi phạm pháp luật phải là
kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan
bằng hành vi thực tế cụ thể.
+ Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật :
Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người,
thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết
mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế
nào... Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp
luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm,
hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự
bắt buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đứng cách thức mà
pháp luật yêu cầu. Sự quy định trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác
định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể. Một hành vi nào đó có
thể gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng nếu chưa được
pháp luật quy định thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong
xã hội, trái phong tục tập quán... nhung không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp luật.
+ Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện:
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ
tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều lOMoAR cPSD| 59747617
khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy
định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí khác nhau. Khả năng nhận
thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được hành vi của mình là
đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến
khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm... Khả năng điều khiển được hiểu
là, trên cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết
tâm thực hiện hành vi mà họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội; kiềm
chế, không thực hiện hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã
hội... Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con
người phát triển dần dần cùng với sự trưởng thành về tuổi tác của họ.
Chính vì vậy, pháp luật của các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để
phản ánh khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể. Bên
cạnh đó, sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí còn phản ánh chính
sách pháp luật của một nhà nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh lệch không lớn
về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác biệt trong khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước khác nhau có thể có
sự quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác nhau,
điều đó thể hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước.
Trên thực tế, nhiều trường hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng
vì những lí do khác nhau dẫn đến bị mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi nên cũng được coi là không có năng lực trách nhiệm pháp lí.
+ Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể :
Trong đời sống hàng ngày, lỗi được hiểu là điều sai sót, không nên,
không phải trong cách cư xử, trong hành động. Theo đó, lỗi được đồng
nhất với hành vi, đó là những hành vi sai sót, hành vi không nên có,
không đáng có. Trong khoa học pháp lí, lỗi là trạng thái tâm lí phản ánh
thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ và
hậu quả của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí không phải lOMoAR cPSD| 59747617
là bản thân hành vi mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính
mình và hậu quả của hành vi ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt
ra khi chủ thể có hành vi trái pháp luật.
Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui,
buồn, lo lắng, sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận
thức được hay không nhận thức được, mong muốn, không mong muốn...
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó
là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể
trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự
khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi
trường họp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một
hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ
thể không có sự lựa chọn nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ
có thể có sự lựa chọn như thế) hoặc trong trường hợp chủ thể bị mất tự do
ý chí thì chủ thể không bị coi là có lỗi, do vậy hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật.
Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một
hiện tượng cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật
khi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định,
mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng không phải tất
cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành
vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện trong
trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Anh A, 25 tuổi, để không bị muộn buổi phỏng vấn xin việc nên đã
phóng nhanh vượt đèn đỏ và bị Công an giao thông xử phạt.Phân tích:
Trong tình huống trên, có thể thấy anh A đã vi phạm pháp luật. Cụ thể: -
Đây là hành vi xâm phạm quy tắc quản lí nhà nước: Vượt đèn đỏ là
mộthành vi vi phạm quy tắc ứng xử khi tham gia giao thông, và theo lOMoAR cPSD| 59747617
điểm a điềukhoản 5 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, người không
chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông có thể bị xử phạt từ 3 đến
5 triệu đồng cùng các hình phạt bổ sung. -
Hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, dễ dàng gây ra tổn hại nặng
nề không chỉ cho chính chủ thể vi phạm mà còn cho người tham gia giao
thông khác, cả về vật chất lẫn sức khoẻ. -
Đây cũng là hành vi trái pháp luật mà chủ thể cố ý thực hiện: Do
để kịp tham gia buổi phỏng vấn xin việc của mình, anh A đã cố tình
phóng nhanh vượt đèn đỏ, dù nhận thức được hành vi của mình là sai và
có khả năng cao gây ra tai nạn giao thông, ảnh hưởng đến những người tham gia giao thông khác. -
Chủ thể vi phạm pháp luật: Trong trường hợp này, có thể thấy anh
A hoàn toàn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Vi
phạm hành chính áp dụng cho độ tuổi từ 14 đến 16 với hành vi cố ý, và
trên 16 tuổi đối với mọi vi phạm hành chính. Vì vậy, anh A hoàn toàn có
thể chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi của mình.
10.Nhà nước là gì ? Phân tích bàn chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước. -
Nhà nước là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực chính trị và
quản lý, đóng vai trò tổ chức chính trị trung ương của một quốc gia. Nhà
nước bao gồm các cơ quan và tổ chức có thẩm quyền để điều hành và
quản lý các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa và an ninh của quốc
gia.Nhà nước đại diện cho quyền lực chính trị và quyền lợi chung của
cộng đồng dân cư trong một quốc gia. Nhà nước thực hiện nhiệm vụ duy
trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân, định đoạt và thực hiện
các quyết định chính trị và kinh tế, quản lý tài nguyên và cung cấp các
dịch vụ công cộng.Nhà nước có quyền xác định chính sách và lập pháp,
điều hành và thực thi pháp luật, quy định và thu thuế, quản lý quan hệ lOMoAR cPSD| 59747617
quốc tế và quân sự, và tạo ra môi trường để các cá nhân, tổ chức hoạt
động trong xã hội. - Bản chất của nhà nước:Nhà nước là một tổ chức
chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự
hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
=>Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc,bản chất của một giai cấp
duy nhất,giai cấp tổ chức,SD nó.Vì:
+ Nhà nước ra đời từ XH có giai cấp,liên quan đến giai cấp.
+ Nhà nước là bộ máy chuyên chính,công cụ bạo lực,trấn áp của giai cấp
thống trị nhằm bảo vệ địa vị,quyền lợi của giai cấp thống trị. => Như
vậy,nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng
trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị,kinh tế văn hóa
xã hội do nhà nước tiến hành xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị.Điều này đã được Ăngghen nhấn mạnh: “Nhà nước,nói
chung chỉ là sự phản ánh,dưới hình thức tập trung của những nhu cầu
kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”
Nhà nước xuất hiện dù với bất cứ nguyên nhân nào, với bản chất gì thì
đều có những đặc trưng khác biệt so với tổ chức của xã hội thị tộc, bộ lạc
và các tổ chức chính trị xã hội khác do giai cấp thống trị thiết lập và sử
dụng để quản lý xã hội. Vì nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp
và là biểu hiện của sự không thể điều hòa được các mâu thuẫn giai cấp
đối kháng. Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, nhà nước có năm đặc trưng cơ bản:
- Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính
+ Lãnh thổ và dân cư là hai yếu tố căn bản cấu thành nên nhà nước. Nếu
như xã hội thị tộc, bộ lạc quản lý các thành viên của mình theo huyết