Đề cương ôn tập thi học kì - Triết học Mac - Lenin | Học viện phục nữa Việt Nam

Đề cương ôn tập thi học kì - Triết học Mac - Lenin | Học viện phục nữa Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP THI HỌC KÌ KTCT MÁC – LÊNIN
Câu 1:
Mục đích nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:
- Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất
và trao đổi. Từ đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy, tạo
động lực để không ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát triển
toàn diện của xã hội thông qua việc giải quyết các quan hệ lợi ích.
- Mục đích xuyên suốt của Kinh tế chính trị Mác - Lênin không chỉ hướng đến việc
thúc đẩy sự giàu có mà hơn thế, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn hướng tới cung
cấp cơ sở khoa học góp phần thúc đấy trình độ văn minh và phát triền toàn diện
của xã hội. Kinh tế chính trị Mác - Lênin không phải là khoa học về kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa.
Chức năng của KTCT Mác – Lênin:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin có những chức năng sau đây:
o Thứ nhất: Chức năng nhận thức:
Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng giống các ngành khoa học khác, đưa đến những vấn
đề về nhận thức, khám phá. Chức năng này của kinh tế chính trị được thể hiện ở chỗ nó
cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra
quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế
một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
o Thứ hai: Chức năng thực tiễn:
Giống như các môn khoa học khác, chức năng nhận thức của kinh tế chính trị không
có mục đích tự thân. Nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận thức còn để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Hai chức năng trên của kinh tế chính trị Mác Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ khoa học đúng đắn
của các chính sách, biện pháp kinh tế và kiểm nghiệm những kết luận mà kinh tế chính trị
đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm nghiệm tính đúng
đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận kinh tế là sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, tính đúng đắn của lý luận kinh tế là ở sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
o Thứ ba: Chức năng tư tưởng:
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ
các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của các giai cấp hoặc
các tầng lớp xã hội nhất định. Lý luận kinh tế Chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ
cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
o Thứ tư: Chức năng phương pháp luận:
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết luận
của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung là
sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các môn kinh tế chức năng. Đồng thời,
kinh tế chính trị cũng là cơ sở lý luận cho một số các môn học khác như: địa lý kinh tế,
dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết quản lý,…
Câu 2:
Thế nào là hàng hóa:
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá,
đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên
thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai
thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người. Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều
thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác
nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong
ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm như sau:
o Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định
o Hàng hóa không nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học kỹ
thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa
và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau.
o Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc
mọi kiểu tổ chức sản xuất.
o Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho người
tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa
theo mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của
xã hội.
=> Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí rất cần cho
cuộc sống con người. nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị
sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa
thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa
vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị
trao đổi.
Giá trị hàng hóa:
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác viết: “Giá trị
trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những
giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác”.
Trước tiên, để bạn đọc có thể hình dung rõ hơn về khái niệm này, chúng ta sẽ cùng
xét một ví dụ đơn giản như sau:
Giả sử một con gà có thể được đổi lấy 10kg táo. Có nghĩa là gà và táo là vật mang
giá trị trao đổi. Trong trường hợp này, có hai câu hỏi đặt ra:
Thứ nhất: Tại sao gà và táo là hai loại hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau
lại có thể trao đổi với nhau?
Thứ hai: Tại sao chúng ta lại trao đổi theo tỷ lệ nhất định 1:10
Cụ thể trong ví dụ này, hao phí lao động của người nuôi gà sẽ bằng với hao phí lao động
của người trồng táo. Hay nói cách khác thời gian lao động xã hội cần thiết để nuôi một
con gà sẽ bằng với thời gian lao động xã hội cần thiết để trồng được 10kg táo => 1 con gà
có giá trị bằng 10kg táo.
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại
có thể trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất
định?
Khi hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phải
có một cơ sở chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau
về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó
phải nằm ở cả hai hàng hóa. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa
chúng chỉ có một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và
thóc, nguời thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra
chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng
với nhau.
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), vì người ta cho
rằng lao động hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc.
Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng
hóa. Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
=> Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên trong
hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài
bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những đặc
trưng cơ bản như sau:
Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau.
- Thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị
sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá
trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì
sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội)
cũng không trở thành hàng hoá.
- Đối lập:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc,
sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất
về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết
tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do
lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt
không gian và thời gian.
Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ
cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử
dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu
không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá
trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất
thừa.
Câu 3:
Tiền tệ là gì?
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa,
sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị, đồng thời cũng là sản phẩm của sự
phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng
hóa.
Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hóa.
Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực
tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất
hàng hóa.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp
nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Chức năng của tiền tệ
Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ,
phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:
o Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của
các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một
lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống
xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
Ví dụ về thước do giá trị tiền tệ: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và
được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5
xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1
đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10
xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh
hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.
o Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một
phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức
H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng
này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối
cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc
XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật
liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình
mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời
nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
VD: Ngày xưa Nước Ta lưu hành những đồng xu tiền làm bằng nhôm. Để
thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng xu tiền để tiện tàng trữ và đếm.
Những đồng xu tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày
đó .Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có
thực trạng này vì tiền làm phương tiện đi lại lưu thông chỉ đóng vai trò
trong chốc lát.
o Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền
bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng
lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là
dự trữ tiền cho lưu thông.
VD: Người giàu thời xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong
rương. Bạn thuận tiện nhìn thấy trong những phim truyền hình xưa, cổ tích.
Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng
nhà nước. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị
như tiền vàng, bạc .
o Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của
người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ
tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá
trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất
hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
VD: Hiện nay ngân hàng nhà nước điều cho vay tín dụng thanh toán. Bạn
thuận tiện trở thành con nợ của ngân hàng nhà nước nếu tiêu xài không
đúng cách .
o Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện
khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán
giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị,
phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải
từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc
trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối
đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của
nước khác.
VD: Hiện nay ngành du lịch tăng trưởng, mọi người thuận tiện du lịch quốc
tế. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá
hối đoái dự vào nền kinh tế tài chính của những nước nên có giá trị khác
nhau. Hiện tại 1 USD = 23.000 VNĐ
Câu 4:
1. Người sản xuất:
- Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm
các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ...
- Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội, mà còn
tạora và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối
đa trong điều kiện nguồn lực có hạn.
- Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại
tớisức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
2. Người tiêu dùng
- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêudùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới
sản xuất.
3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường..-Hoạt động của các
trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị củahàng hóa cũng như
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. -Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không phải chỉ có các trung
gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung gian phong phú trên tất cả
| 1/40

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP THI HỌC KÌ KTCT MÁC – LÊNIN Câu 1:
Mục đích nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:
- Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất
và trao đổi. Từ đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy, tạo
động lực để không ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát triển
toàn diện của xã hội thông qua việc giải quyết các quan hệ lợi ích.
- Mục đích xuyên suốt của Kinh tế chính trị Mác - Lênin không chỉ hướng đến việc
thúc đẩy sự giàu có mà hơn thế, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn hướng tới cung
cấp cơ sở khoa học góp phần thúc đấy trình độ văn minh và phát triền toàn diện
của xã hội. Kinh tế chính trị Mác - Lênin không phải là khoa học về kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Chức năng của KTCT Mác – Lênin:
 Kinh tế chính trị Mác – Lênin có những chức năng sau đây: o
Thứ nhất: Chức năng nhận thức:
Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng giống các ngành khoa học khác, đưa đến những vấn
đề về nhận thức, khám phá. Chức năng này của kinh tế chính trị được thể hiện ở chỗ nó
cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra
quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế
một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao. o
Thứ hai: Chức năng thực tiễn:
Giống như các môn khoa học khác, chức năng nhận thức của kinh tế chính trị không
có mục đích tự thân. Nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận thức còn để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Hai chức năng trên của kinh tế chính trị Mác Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ khoa học đúng đắn
của các chính sách, biện pháp kinh tế và kiểm nghiệm những kết luận mà kinh tế chính trị
đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm nghiệm tính đúng
đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận kinh tế là sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, tính đúng đắn của lý luận kinh tế là ở sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế. o
Thứ ba: Chức năng tư tưởng:
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ
các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của các giai cấp hoặc
các tầng lớp xã hội nhất định. Lý luận kinh tế Chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ
cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. o
Thứ tư: Chức năng phương pháp luận:
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết luận
của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung là cơ
sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các môn kinh tế chức năng. Đồng thời,
kinh tế chính trị cũng là cơ sở lý luận cho một số các môn học khác như: địa lý kinh tế,
dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết quản lý,… Câu 2:
Thế nào là hàng hóa:
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá,
đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên
thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai
thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người. Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều
thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác
nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong
ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm như sau: o
Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định o
Hàng hóa không nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học kỹ
thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa
và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau. o
Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc
mọi kiểu tổ chức sản xuất. o
Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho người
tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa
theo mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội.
=> Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí rất cần cho
cuộc sống con người. nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị
sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa
thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là
vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. ⮚
Giá trị hàng hóa:
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác viết: “Giá trị
trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những
giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác”.
Trước tiên, để bạn đọc có thể hình dung rõ hơn về khái niệm này, chúng ta sẽ cùng
xét một ví dụ đơn giản như sau:
Giả sử một con gà có thể được đổi lấy 10kg táo. Có nghĩa là gà và táo là vật mang
giá trị trao đổi. Trong trường hợp này, có hai câu hỏi đặt ra:
Thứ nhất: Tại sao gà và táo là hai loại hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau
lại có thể trao đổi với nhau?
Thứ hai: Tại sao chúng ta lại trao đổi theo tỷ lệ nhất định 1:10
Cụ thể trong ví dụ này, hao phí lao động của người nuôi gà sẽ bằng với hao phí lao động
của người trồng táo. Hay nói cách khác thời gian lao động xã hội cần thiết để nuôi một
con gà sẽ bằng với thời gian lao động xã hội cần thiết để trồng được 10kg táo => 1 con gà
có giá trị bằng 10kg táo.
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại
có thể trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phải
có một cơ sở chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau
về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó
phải nằm ở cả hai hàng hóa. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa
chúng chỉ có một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và
thóc, nguời thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra
chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), vì người ta cho
rằng lao động hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc.
Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng
hóa. Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
=> Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên trong
hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài
bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những đặc trưng cơ bản như sau:
 Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
 Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau. - Thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị
sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá
trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì
sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội)
cũng không trở thành hàng hoá. - Đối lập:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc,
sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất
về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết
tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do
lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian.
 Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
 Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ
cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử
dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu
không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá
trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Câu 3:
Tiền tệ là gì?
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa,
sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị, đồng thời cũng là sản phẩm của sự
phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa.
Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực
tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp
nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Chức năng của tiền tệ
Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ,
phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:
o Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của
các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một
lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống
xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
Ví dụ về thước do giá trị tiền tệ: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và
được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5
xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1
đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10
xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh
hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.
o Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một
phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức
H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng
này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối
cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc
XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật
liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình
mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời
nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
VD: Ngày xưa Nước Ta lưu hành những đồng xu tiền làm bằng nhôm. Để
thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng xu tiền để tiện tàng trữ và đếm.
Những đồng xu tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày
đó .Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có
thực trạng này vì tiền làm phương tiện đi lại lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát.
o Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền
bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng
lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là
dự trữ tiền cho lưu thông.
VD: Người giàu thời xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong
rương. Bạn thuận tiện nhìn thấy trong những phim truyền hình xưa, cổ tích.
Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng
nhà nước. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc .
o Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của
người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ
tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá
trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất
hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
VD: Hiện nay ngân hàng nhà nước điều cho vay tín dụng thanh toán. Bạn
thuận tiện trở thành con nợ của ngân hàng nhà nước nếu tiêu xài không đúng cách .
o Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện
khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị,
phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải
từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc
trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối
đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
VD: Hiện nay ngành du lịch tăng trưởng, mọi người thuận tiện du lịch quốc
tế. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá
hối đoái dự vào nền kinh tế tài chính của những nước nên có giá trị khác
nhau. Hiện tại 1 USD = 23.000 VNĐ Câu 4:
1. Người sản xuất:
- Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm
các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ...
- Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội, mà còn
tạora và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối
đa trong điều kiện nguồn lực có hạn.
- Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại
tớisức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội. 2. Người tiêu dùng
- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêudùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
 Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường..-Hoạt động của các
trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị củahàng hóa cũng như
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. -Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không phải chỉ có các trung
gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung gian phong phú trên tất cả