Đề cương ôn tập thi học kỳ môn Đại cương văn hóa Việt Nam

Đề cương ôn tập thi học kỳ môn Đại cương văn hóa Việt Nam của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|36477832
1
ÔN TẬP HỌC KỲ
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. CHƯƠNG I - KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN MINH
2. CHƯƠNG II - HỌC ĐỊNH VỊ VĂN HOÁ VIỆT NAM
3. CHƯƠNG III - HỌC VĂN HOÁ VẬT CHẤT, VĂN HOÁ TINH THẦN, VĂN
HOÁ XÃ HỘI
VĂN HOÁ VẬT CHẤT (ĂN, MẶC, Ở, ĐI LẠI)
VĂN HOÁ TINH THẦN.
- ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
- TÔN GIÁO (NHO GIÁO, PHẬT GIÁO)
- GIAO TIẾP ỨNG XỬ
VĂN HOÁ XÃ HỘI (NHÀ –NG NƯỚC)
VĂN HOÁ VIÊT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ.
Chương 1. Khái quát về văn hoá Việt Nam
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du mục và
văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
* Bảng phân biệt sự khách nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc:
Tiêu chí
Văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt
(Chủ yếu ở phương đông)
Văn hóa gốc chăn nuôi du
mục
(Chủ yếu ở phương tây)
Đặc trưng gốc
(Địa hình, nghề
chính, cách
sống)
Đồng bằng (ẩm, thấp)
Trồng trọt
Định cư
Đồng cỏ (khô, cao)
Chăn nuôi
Du cư
Ứng xử với môi
Tôn trọng, sống hòa hợp với
Coi thường, tham vọng chế
lOMoARcPSD|36477832
2
trường tự nhiên
thiên nhiên
ngự thiên nhiên
Lối nhận thức tư
duy
Thiên về tổng hợp và biện
chứng (trọng quan hệ); chủ
quan, cảm tính và kinh nghiệm
Thiên về phân tích và siêu
hình (trọng yếu tố); khách
quan, lý tính và thực nghiệm
Tổ chức cộng
đồng
Trọng tình, trọng đức, trọng
văn, trọng nữ;
Linh hoạt và dân chủ, trọng
cộng đồng
Trọng sức mạnh, trọng tài,
trọng võ, trọng nam;
Nguyên tắc và quân chủ,
trọng cá nhân.
Ứng xử với môi
trường xã hội
Dung hợp trong tiếp nhận;
mềm dẻo, hiếu hòa trong đối
phó
Độc tôn trong tiếp nhận, cứng
rắn, hiếu thắng trong đối phó
Tiêu chí
Văn hóa gốc phương Đông
Văn hóa gốc phương Tây
Cơ sở hình
thành
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều,
sông ngòi chằng chịt, đồng
bằng phì nhiêu màu mỡ, nông
nghiệp trồng trọt phát triển.
Văn hóa nông nghiệp
trồng trọt.
Khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên thích
hợp cho chăn nuôi phát triển
Văn hóa chăn nuôi du
mục.
lOMoARcPSD|36477832
3
Đặc điểm
- Sống định cư, không
thích di chuyển trọng tĩnh
- Tôn thờ sùng bái tự
nhiên, mong muốn hòa hợp với
thiên nhiên.
- Cuộc sống định cư tạo
nên tính cộng đồng cao.
=> Hình thành lối sống trọng
- Sống du cư, nên có
thói quen thích di chuyển
Trọng động.
- Tham vọng chinh
phục, chế ngự tự nhiên.
- Yếu tố cá nhân được
coi trọng.
=> Hình thành lối sống thích
tình, trọng văn, trọng phụ nữ.
- Phương thức sản xuất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự
nhiên nên hình thành kiểu tư
duy tổng hợp biện chứng
- Do tư duy tổng hợp biện
chứng nên hình thành thái độ
ứng xử linh hoạt, mềm dẻo.
ganh đua, cạnh tranh, ứng xử
độc đoán trong giao tiếp.
- Chăn nuôi du mục
hình thành kiểu tư duy phân
tích chú trọng vào từng yếu
tố.
- Do tư duy này nên
hình thành lối sống trọng lý,
ứng xử theo nguyên tắc.
=> Thói quen tôn trọng pháp
luật vì vậy mà hình thành rất
sớm ở phương tây.
* Nguyên nhân có sự khác nhau: n hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên. Vì
vậy, nguồn gốc của mọi sự khác biệt sâu xa về văn hóa là do những khác biệt về
điều kiện tự nhiên (địa lý, khí hậu) và xã hội (lịch sử kinh tế) tạo nên.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí quan trọn
để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân
tộc dù phong phú và đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong
hai loại hình văn hóa gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt. Giữa hai loại hình văn hóa gốc này có sự khác nhau mang tính
tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
- Về điều kiện tự nhiên và môi trường:
+ Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình chủ
lOMoARcPSD|36477832
4
yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền
thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi.
+ Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương
Đông gồm Châu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát
triển.
- Về đặc trưng:
+ Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục ở
phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ cừu
được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn chiên. Lịch
sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và uống sữa bò,
áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là loại hình chăn
nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó, tạo thành thói quen, lối sống
thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở
phương Đông do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát
triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra
hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân nông nghiệp phải lo
tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng
nội.
+ Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với loại hình văn
hóa gốc chăn nuôi du mục vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không
phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng
chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương
Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng và sùng
bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
+ Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính gắn kết cộng
đồng của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh
tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn trong đối phó.
Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông lại đề cao tính cộng
đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải sống định
cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
+ Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh
để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người
lOMoARcPSD|36477832
5
đàn ông có vai trò quan trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới trong khi loại
hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò của
người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong gia đình, chăm
lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc đồng án.
+ Về lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục thiên về tư
duy phân tích, coi trọng vai trò của các yếu tố khách quan, vì nghề chăn nuôi du mục
đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ny là đàn gia súc với
từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào từng yếu tố.
Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông thì thiên về tư duy tổng hợp
biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ quan cảm tính hơn là
coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
+ Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại hình văn hóa
gốc chăn nuôi du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo nguyên tắc, thói quen tôn trọng
pháp luật khác với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng đồng, gắn
kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi
bật khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Tuy nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính
chất nông nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai
loại hình văn hóa này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính
trội.
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình.
Việt Nam có vị trí nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Với điều kiện về vị trí địa
lí, khu vực địa hình chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở
góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con
sông lớn như sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và
cây lúa là một trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng
chính cây lúa cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên là điều kiện
thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, có thể
thấy rằng nền văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
điển hình. Tất cả những đặc trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách rõ nét nhất
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
lOMoARcPSD|36477832
6
- Đầu tiên là đặc trưng về lối sống, ở Việt Nam, do thuận lợi về điều kiện khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển mà nổi tiếng nhất là nền văn minh lúa
nước. Do nghề trồng trọt buộc người Việt phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra
hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân Việt Nam phải lo
tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, tình cảm
luôn gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… qua đó hình thành lối sống đặc
trưng ổn định, trọng tĩnh, tự trị, kép kín, hướng nội.
- Cư dân Việt Nam do sống bằng nghề nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc
vào tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, dẫn đến người dân Việt Nam có ý thức tôn
thờ, sùng bái và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Thực vật được tôn sùng nhất
là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa,
Cây Cau,.. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời…” Đó
chính là nguyên nhân sự ra đời của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ
biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
là hình thức thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên quan trọng
nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước; tín
ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự sinh sôi
nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc nông nghiệp, mùa màng tươi tốt và
muôn loài sinh sôi (hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống cư dân)
nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài; các lễ hội tín ngưỡng
nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mới,…
- Về mặt tổ chức cộng đồng, cuộc sống định cư tạo cho người Việt ưa sống theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc
sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Bán anh em xa mua láng giềng
gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lụt thì lút cả làng”, …
- Từ đặc trưng sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan
hệ ứngxử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh,
bạo lực. Vì sống theo tình cảm, người Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến
phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử
dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt Nam làm gì cũng
phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
- Trong truyền thống Việt Nam, vì lối sống định căn định cư ổn định cần đến vai
trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là
lOMoARcPSD|36477832
7
công việc phù hợp với người phụ nữ, do đó vai trò của người phụ nữ cũng được tôn
trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa. Chính
bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không bằng cồng
bà”…; còn theo kinh nghiệm dân gian thì “ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu
lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục
con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho
nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là “mẹ” đã mang thêm nghĩa “chính, quan
trọng”: sông cái, đường cái, đũa cái, ngón tay cái,… Không phải ngẫu nhiên mà vùng
nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ”
(le Pays du
Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên
(Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn
nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ… Cũng không phải ngẫu
nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê
phum, mê sóc (mê = mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
- Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng cái mà người nông nghiệp quan tâm không
phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là
bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa
chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại
quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”; “Được mùa lúa thì úa mùa cau,
được mùa cau thì đau mùa lúa”…
- Lối tư duy tổng hợp biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử
mềm dẻo, linh hoạt. Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của
người làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt
thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống “Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài”; “Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy”…Tuy nhiên, lối tư duy tổng
hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn
hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở
khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt hợp lối
sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
lOMoARcPSD|36477832
8
Như vậy, với những đặc trưng đã phân tích trên, loại hình văn hóa Việt Nam được
xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ
nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và
được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy nêu khái quát đặc điểm chính của các giai đoạn văn hoá và vai trò của
mỗi giai đoạn trong tiến trình văn hoá Việt Nam.
Sự hình thành các đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam là kết quả của một quá
trình lịch sử lâu dài, đồng hành cùng với tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước của dân tộc. trong cuộc hằng trình hàng nghìn năm ấy, văn hóa dân tộc đã
trải qua những bước thăng trầm cùng lịch sử. Có thể khái quát tiến trình định hình nền
văn hóa truyền thống Việt Nam qua 5 giai đoạn chính sau đây:
- Tầng văn hóa bản địa (nội sinh) hình thành từ thời tiền sử và sơ sử, nằm trong
cơ tầng văn hóa Đông Nam Á – trên nền tảng của nền văn minh lúa nước. Thời tiền sử
còn gọi là thời kỳ đồ đá, được chia ra hai giai đoạn: thời đại Đá cũ và thời đại Đá mới.
Đây là giai đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của văn hóa khu vực Đông Nam
Á. Các di chỉ khảo cổ học tìm được ở khu vực đã cho thấy, vào thời tiền sử, cũng như
các khu vực khác trên thế giới, cư dân khu vực Đông Nam Á đã trải qua một tiến trình
lịch sử từ thời đại Đá cũ (chế tác công cụ lao động bằng việc ghè, đẽo đá) sang thời
đại Đá mới (chế tác công cụ bằng cách mài đá). Trong đó, các cộng đồng cư dân bản
địa sinh sống trên những địa bàn mà ngày nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã bước vào
cuộc hành trình sáng tạo văn hóa, với sự tồn tại các nền văn hóa tiêu biểu như: văn
hóa Núi Đọ, văn hóa Sơn Vi, văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn,…Còn thời sơ sử là
thời kỳ hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên của Việt Nam nhà nước Văn Lang –
Âu Lạc, kéo dài trong khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, tương ứng với thời đại
văn minh đồ đồng. Trên nền tảng của nền văn minh lúa nước và văn minh đồ đồng,
cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước Văn Lang Âu Lạc, đã định hình
và phát triển rực rỡ một nền văn hóa dân tộc trong buổi đầu dựng nước. Như vậy, tầng
văn hóa nội sinh là giai đoạn định hình những nền tảng đầu tiên của văn hóa bản địa
Việt Nam, làm tiền đề cho sự hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam với sự kế tục, tiếp
nối ở các giai đoạn sau.
- Tầng văn hóa ngoại sinh (văn hóa tiếp thu văn hóa đầu Công Nguyên) gồm
những yếu tố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với hai nền
văn hóa lớn của phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ trong mười thế kỷ đầu Công
Nguyên. Mười thế kỷ đầu Công Nguyên là thời k quốc gia Âu Lạc bị đô hộ bởi các
triều đại phong kiến Trung Hoa nên còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Trong mười thế k
lOMoARcPSD|36477832
9
Bắc thuộc, nền văn hóa bản địa vùng châu thổ Bắc Bộ đã được làm phong phú thêm
bởi sự tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa mới từ Trung Hoa. Về văn hóa vật chất, trong
phương thức sản xuất nông nghiệp có du nhập các giống cây trồng mới và tiếp thu
một số kỹ thuật làm nông nghiệp mới. Về văn hóa tinh thần, theo bước chân quân xâm
lược là sự du nhập của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Về văn hóa xã hội, từ thế k
IV trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển sang chế độ phong kiến theo mô hình của
chế độ phong kiến Trung Hoa, chế độ gia đình mẫu quyền bị thay thế hoàn toàn bởi
chế độ gia đình phụ quyền. Tuy nhiên, dù tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn há mới như
là một qui luật tất yếu trong quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa nhưng với lòng tự
tôn dân tộc và ý thức liên kế cộng đồng bền chặt, trong suốt mười thế kỷ tiếp xúc với
văn hóa Trung Hoa, người Việt không đánh mất bản sắc văn hóa mà vẫn cố gắng để
gìn giữ và bảo tồn các đặc trưng văn hóa dân tộc. Như vậy, đặc trưng cơ bản của văn
hóa giai đoạn này là quá trình du nhập và các yếu tố văn hóa phương Đông (Trung
Hoa và Ấn Độ), dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa thời sơ sử, làm tiền đề
để hình thành cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam thời phong kiến Đại Việt.
- Từ giữa thế k X đến cuối thế k XIX là thời kỳ định hình các đặc trưng bản
sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam. Về bối cảnh lịch sử, đây là thời kỳ tự chủ của
quốc gia phong kiến Đại Việt kéo dài gần mười thế kỷ, bắt đầu từ năm 938, khi Ngô
Quyền chiến thắng quân Nam Hán bằng trận thủy chiến nổi tiếng trên song Bạch
Đằng, chấm dứt 1.000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đây là một giai đoạn
quan trọng trong lịch sử dân tộc với sự hình thành của nhà nước phong kiến Việt
Nam, và theo đó là sự định hình những đặc trưng bản sắc của nền văn hóa truyền
thống. Gần mười thế kỷ thời phong kiến Đại Việt là giai đoạn định hình những đặc
trưng bản sắc văn hóa truyền thống trên cơ sở sự dung hợp giữa văn hóa bản địa và
văn hóa ngoại sinh, trên nền tảng của sự cộng hưởng bởi ba yếu tố văn hóa hạt nhân:
văn hóa nông nghiệp lúa nước – Nho giáo Phật giáo.
- Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ
xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý chí tự lực tự cường và truyền thống lao
động cần cù, cha ông ta đã xây dựng được một nền văn hóa truyền thống với những
nét bản sắc riêng về cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa vật chất dựa trên
nền tảng nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Các đặc trưng văn hóa về lao động, sản
xuất, sinh hoạt – những yếu tố mang đậm dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp
trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng song nước và xứ sở thực vật. trong
nền tảng đặc trưng văn hóa tinh thần Việt Nam, các hệ tư ởng và tôn giáo có ảnh
lOMoARcPSD|36477832
10
hưởng, chi phối sâu sắc như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và đều được du nhập từ
Trung Hoa, cùng tồn tại và dung hòa với nhau trong văn hóa truyền thống Việt Nam,
trong đó “Nho trị thế”, “Phật trị tâm”, “Đạo trị thân”. Ngoài ra, về tín ngưỡng, phong
tục, lễ tết và lễ hội cũng mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam. Văn hóa
truyền thống Việt Nam là những giá trị cốt lõi định hướng, chi phối hoạt động của các
chủ thể và toàn xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh
thái, là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mô hình - con đường - thể chế phát triển
của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế chính trị thực sự, các
giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn,
nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân và là cơ sở để tạo nên “sức mạnh
mềm” trong phát triển.
- Văn hóa hiển nhiên là không thể ổn định, bất biến khi xã hội có những thay đổi
mang tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt của xã hội Việt Nam sau mấy
mươi thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nông nghiệp
lúa nước – đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp
(1858 1945), sau đó là tiếp xúc với văn hóa M ở miền Nam (1954 1975) và cuộc
giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN. Cùng với
sự thay đổi nền tảng kinh tế - xã hội của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa, các cuộc tiếp xúc giao lưu văn hóa này là những tác nhân trực tiếp dẫn
đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.
- Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu
văn hóa được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định
thái độ của Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước
Đông Nam Á (khối ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc
tế và khu vực này, nước ta đã chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực,
từng bước hội nhập thế giới. Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích
sự cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh
tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của thế giới
nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời
qua giao lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ
sung, làm giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại.
lOMoARcPSD|36477832
11
Chương 2 . Đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam
Câu 4. Hãy chỉ ra sự tận dụng , thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần
cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên
nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận
dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh
vực văn hoá vật chất.
Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã rút gọn được một hệ thống kinh
nghiệm của nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền
trong dân gian, mà vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi
cho nông dân (Vi dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật
sử dụng kinh nghiệm quyết định của Trần Ngọc Trác; Nông toàn đồ của Lê Thúc
Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho nông nghiệp, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một
hệ thống nông cụ truyền thông rất phong phú, đa dạng, gồm hàng tram kiểu loại khác
nhau.
Tất cả những kinh nghiệm được kết hợp và những thành tựu được tạo ra từ phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và ứng
phó với sự ưu tiên của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt cũng được
thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của cư dân
nông nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uông theo mùa, theo vùng miền, đó là một
biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự
thích nghi của nên kinh tế tiểu nông tư túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc
chế biến và lựa chọn thế (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi các
món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ trường để đối phó với thời
tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu có sẵn
trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như: tơ tằm,sợi bông,
sợi đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu
đất) và màu đen (màu bùn). Điều đó cũng phản ánh phong cách truyền thống của
người VN là ưa sự kín đaó, giản dị, đồng thời cũng thể hiện sự thích nghi với môi
lOMoARcPSD|36477832
12
trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là
một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN truyền thống.
Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang phục
truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu
nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần
ống sớ.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa…
thể hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Mang đậm
dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền
sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn
trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song
dấu ấn văn hóa song nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng mũi thuyền,
thậm chí cư dân sông nước còn dùng thuyền làm nhà ở hình thành nên các xóm chài.
Không gian ngôi nhà Việt là không gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà vs tự
nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất
làm nhà, hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông nam, các hướng
này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân
ít có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua
bán giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ,
cư dân chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thông đường thủy do địa hình nhiều sông ngòi, bờ biển kéo dài từ Bắc chí Nam
nên người Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đò...Vì đường thủy chiếm ưu
thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố
Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò
đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền
về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người
đi trên sông nước như lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con
người với môi trường tự nhiên. Qua đó, thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh
hoạt với môi trường sông nước và xứ sở thực vật.
lOMoARcPSD|36477832
13
Câu 5. Hãy phân tích sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể
hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần
cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên
nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử
văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất
tiêu nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng
kinh tế của hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã
được định hình từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc,
trong quá trình xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng
việc canh nông và có các chính sách khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt
thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ chuối, sợi đay, sợi
gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất
phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu câu may mặc trong nước mà còn bán nước
ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại
Việt, phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò
kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ
công phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi
phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp, các quan hệ giao
luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô
nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tâm
phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa
ăn liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang
tính cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng
đồng cùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người
Việst rất coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi
trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính:
nâu, đen, chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương
tính (đỏ, vàng…) chỉ mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp
(Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong
lOMoARcPSD|36477832
14
kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy
được bảo tồn như là một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với
trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc
áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người
Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo
cho cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang
tính cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng
biệt lập thì nhà Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành
viên trong gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh
giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một
hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít
có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán
giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư
dân chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở
giao thông đường thủy vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng
sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền
với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách
nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi
trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang,
xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con
người với môi trường xã hội.
Câu 6. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết Âm dương Ngũ hành với sự hình thành
các triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật
trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Do có sự
giao hòa giữa các mặt đối lập (âm – dương) trong vũ trụ và con người nên mới tạo ra
lOMoARcPSD|36477832
15
những sự vật mới. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về
sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương,
ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để
thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở
thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt nh thành triết lí sống cho mình và truyền bá
cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương
ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm
dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì sự vật mới
hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng
cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước… Mối quan hệ âm dương ngũ hành với
triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm
mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững,
không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái
âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài
hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự
bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê
phán thái độ sống cực đoan. Như vậy, về mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với
triết lí sống lạc quan của người Việt do nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận
hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi
sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật chuyển hóa âm
dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho
con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến
tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 7. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai trò
của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay ( ảnh
hưởng đến Pháp luật).
Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được
người Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy
của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm
nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng
sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham
gia các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều
nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo
được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
lOMoARcPSD|36477832
16
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo
dung hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần,
Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc
dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho
nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng
và văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi
chùa trên khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu
vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của
tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa
truyền thống đã có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm
của tổ tiên”. Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn
là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người
đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các
ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được
vai trò của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay
( ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý
thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha,
“khuyến thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần
dem Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục
cho cuộc sống. Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như việc khuyên con người
tự tiết chế các hành vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi
cà nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và
đầu tranh của con người khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết
"luân hoi", "quả báo" của Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng
luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im
lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp,
vậy từ đây cung không hình thành thói quen sử dụng công cu luật pháp trong đời sống
dân sự.
Câu 8. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay ( ảnh
hưởng đến Pháp luật
lOMoARcPSD|36477832
17
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức , một hệ thống quan niệm tư tưởng –
giáo lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị -
đức trị. Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa
nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời
Đại Việt, Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng
được phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị và
tư tưởng và văn hóa tinh thần, ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay .
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác
những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất
nước. Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học
tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn
người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận
dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời
Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính
và giáo dục. Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù
hợp với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách
hiểu thì đã khác nhiều”.
Về chữ Trung và Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn
giữa Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt
lên trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ
sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung
quân” gắn liền với “Ái quốc”. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới
hoàn toàn: Không phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội
dung được mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp n
khái niệm của Nho giáo xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du”
tức là: cha mẹ còn con không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Tức
là: Có ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là tội nặng nhất. Chính vì đặt đất nước
lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn
của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn
hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh
tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài
khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ Trung cũng mang
một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền
tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ
lOMoARcPSD|36477832
18
những năm sau kháng chiến chống Pháp trường k và gian khổ, đã có một tầm nhìn
rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò
của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ
năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập
4/10/1945. Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học.
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong
những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng ,
quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học,
và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, mà còn luôn
luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí
đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình
Dương xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo
nàn lạc hậu chậm phát triển. Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa
mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính là lòng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành
đạt, những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục,vật thị ư
nhân)… Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm
đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội ngày
nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi
người, mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá,
phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ông
bà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã
hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người
quân tử, người cai trị phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín,
Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình
để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ
và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là
nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân. Nhờ có Trí con người
mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét đoán được sự vịêc, phân được phải
trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt
được chữ Nhân,có trí thôi chưa đủ mà cần phải có Dũng, Dũng không phải ỷ vào sức
lOMoARcPSD|36477832
19
mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý. Người
Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một cách cao minh, có thể
hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời gặp phải hoạn
nạn…”
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã
có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân,
thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc. Như vậy chúng ta
có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn
văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào
tạo. Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức,
Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải
được rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt
gặp câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với năm
điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải
tu thân, để trở thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ
Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung
thành của nhân dân.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người
Việt đối với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về cơ bản có
những điều đặc biệt giống nhau. Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung
về pháp luật nặng về pháp luật và hành chính, nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho
giáo cần có bốn yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa âm của dân, nhạc để hòa âm
của dân, chính trị để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền
tảng của Đạo luật Không là khái niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có thể nói
về phiên bản là một bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường,
giữ cho mình và tuân thủ các quy tắc xử lý theo quan điểm đạo đức trong xã hội. Các
quy tắc dựa trên những tập quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ
và thay đổi theo mối quan hệ giữa các cá thể. Như vậy, hệ tư tưởng của Nho giáo là hệ
tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ nghĩa trong quản lý xã hội, đồng thời nhấn
mạnh rằng người làm vua muốn cai trị xã hội lâu dài thì phải dựa vào dân, lấy dân làm
gốc là nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị.
lOMoARcPSD|36477832
20
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi
làng xã Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộy
nhà mước, trong tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho
giáo. Tuy nhiên, trong phạm vi quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì
những giá trị tích cực của Nho giáo sẽ bị mai một, di sản quý báu đó trong văn hoá
dân tộc sẽ không được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng phủ dày và dần dần sẽ
vùi lấp nó. Trách nhiệm của những người nghiên cứu văn hoá nói chung và văn hoá
pháp luật nói riêng là phải bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc. Tinh thần của Nho giáo trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc,
hình, chính" trong quản lý và xây dựng xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang
tính thời sự. Nhờ có “lễ" mà con người Việt Nam thường sống điều độ biết “kính trên,
nhường dưới", biết “ăn trông nồi, ngồi trông hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ
cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười, nhày, múa, ca hát người Việt Nam
thường chừng mực mà không thái quá. Chính sự chừng mực, điều độ như uống không
quá say, ăn không quá no, nói không quá lời, áo không quá hở, váy không quá ngắn,
tóc không quá dài mà trật tự xã hội được thiết lập. Như vậy, trong xã hội hiện đại ngày
nay, vai trò của pháp luật được để cao, không những pháp luật hình sự như thời xa
xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình... Tuy nhiên, điều đó
không hề làm giảm vai trò của đạo đức và các thuần phong, mỹ tục mà người Việt
Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa, nhân hậu, lưrơng thiện của
người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản phẩm văn hóa được hun
đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp một phần
không nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục
tập quán đã tạo nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận
được bằng linh cảm hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật Việt
Nam như một tàng băng, phần nổi chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới
tầng sâu, đôi hỏi phải nghiên cứu, khám phá để có thể đưa ra những phương hướng,
giải pháp đúng đắn nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và giàu có hơn trong đời
sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là
nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều
ý thức phản biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế
việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức tr
hơn pháp trị nên Nho giáo khuyên khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc
kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng". Việc kết
hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý
lOMoARcPSD|36477832
21
là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời
phong kien Việt Nam, "Tam cương", "Ngũ thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là
pháp lý. Điều y dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã
bộc lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho
giáo ở Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống
tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường
khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác
nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân
đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và
chi phối sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và
tiêu cực.
Câu 9. Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào
cần được giữ gìn và phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao
tiếp, ứng xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây
- Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên
người Việtcoi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một
nghi thức ứng xử văn hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”,
thích thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để
thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp
niềm nở, chu đáo, tận tình).
- Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường
thích tìm hiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin
cá nhân của đôi tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia
đình...). Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cong đông và lôi sống trọng tinh
(quan tâm đến ngưoi khác). Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng
tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất
đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho
người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp, để rồi “một trăm chỗ
lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói “tình làng
lOMoARcPSD|36477832
22
nghĩa xóm” lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý” ra
làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số
trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. Vì không giải quyết
theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng
đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè,
không còn cách nào khác, người đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia
cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó
cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo
quan hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì,
cháu, con... Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng
hơn là giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng
giữa làng bằng một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi
trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam
phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó
văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt k các lời chào theo thời gian như
chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “ở đời muôn
sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước
người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một
đồng tiến thưởng”;.. Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi
vậy, dư luận trở thành một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá
nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam
quốc" để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp.
Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính
quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ
được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận
quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt
Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người
Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ
trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành
ngữ, thơ ca thường dùng hinh tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đổ một đầu tằm”;
lOMoARcPSD|36477832
23
“tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ
giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại
“lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho vừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự
lành”;… Và hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá,
thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp “người khôn ăn nói nửa chừng, để cho ngưrời dại
nửa mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói...). Chính thói quen ứng xử nặng tinh
cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp đã khiến
cho ngươi Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái chiều, cũng như không
dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với
pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt
Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm
làm nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi
nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên
một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt.
Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp
đem lại thì vạn vật tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố
này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì
không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động
tiêu cực này mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ,
bảo tồn và phát huyc đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản
sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 10. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống , qua đó chỉ ra
vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân
Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,
mối quan hệ giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài
của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự
nhiên và xã hội. Đó là những giá trị được kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt
Nam qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước và cốt lõi
quan hệ văn hoá gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối của phương thức
sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền
thống có các đặc điểm sau:
lOMoARcPSD|36477832
24
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không
chỉ trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân
muốn thành đạt và được kính trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan
niệm thăng tiến xã hôi của con người Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có
khả năng trị quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là phải tề gia. Phần quan trọng
nhất trong văn hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo là con đường
dẫn từ khởi điểm tới đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ bản và ổn định,
những bổn phận phải làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây
chính là cái khung tiêu chuẩn của đạo lý con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho
mọi thành viên trong gia đình. Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta
gọi là người có gia giáo. Một cách đơn giản, gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết ở trong
gia đình, ngoài xã hội, nơi làng nước. Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh
nghiệm sống của người trước về cách cư xử, phép tắc, thói tục; các kinh nghiệm này
đã được xã hội hóa. Người lớn trong gia đình đóng vai trò làm gương sáng, chỉ dạy
cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên
nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại
đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc,
nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót;
Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị
chi phối tuyệt đối của tập thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích
chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn
trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể
thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa
cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và
vạn vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc
đa, tàn lá, được bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm sự
nương tựa vào thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà
ngoài ngõ, nơi sông núi và ngoài đại dương luôn có những lực lượng thần thiêng chi
phối cuộc sống và an sinh của mình. Tình cảm tín ngưỡng nầy đã ăn sâu trong văn hóa
gia đình Việt Nam. Các lễ nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện trong cuộc sống
lOMoARcPSD|36477832
25
gia đình và làng nước. Tin vào lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ trời luôn thúc giục
người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo
trừng phạt “Ai ơi, chớ ở đầy vơi. Trời cao không phụ lòng người hiếu trung.” Người
thành công trong công ăn việc làm, cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông
đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam:
“trời cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi
ông bà cha mẹ nữa, “Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia
đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi
và chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt
đầu con ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng
phong kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia
đình đa thê, "trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1
chồng"...,Quan niệm gia đình đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ
thực tiễn của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con là để có người lo việc đồng áng, và lập
gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên
nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền
phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên
khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền
đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm
quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò
của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
Vai trò:
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền
vững, gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất
tiếc khóc chào đời đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn
luôn là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các
chức năng quan trọng của gia đình đó là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao
động, sản xuất ra của cải vật chất và cũng là nơi gìn giữ và phát huy giá trị tinh thần
cao qúy của dân tộc; là tổ ấm đem lại hạnh phúc, yêu thương, chia sẻ vui buồn, luôn
lOMoARcPSD|36477832
26
đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho mỗi con người. Bên cạnh vai t
đó, gia đình còn là môi trường sống, môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân
hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Vai trò giáo dục trong gia đình giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển
nhân cách con người, kết hợp giáo dục từ nhà trường và xã hội. Mỗi cá nhân, từ khi
lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng nói, từ cách ứng
xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ phép. Khi
bước chân vào cánh cửa nhà trường, môi trường giáo dục nhà trường, bên cạnh việc
dạy chúng ta kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật thì giáo dục đạo đức, lối sống vẫn
là nội dung quan trọng để mỗi cá nhân hình thành nhân cách. Trong môi trường giáo
dục, khẩu hiệu mà chúng ta thường gặp đó là: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Một cá
nhân trước tiên phải có nhân cách tốt, có đạo đức, làm điều thiện, biết chăm lo cho
bản thân, gia đình và rộng hơn phải biết thương yêu đồng loại; biết ứng xử làm sao
cho văn hóa, văn minh nơi công cộng. Nói về đức và tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó”, bởi vậy, đạo đức mỗi con người luôn được đề cao, là cái trước tiên, là
thước đi, là tiêu chí quan trọng để đánh giá một con người.
Trong gia đình Việt Nam thường tồn tại nhiều thế hệ, có mối liên hệ mật thiết với
nhau, ở đó các cá nhân không ngừng học tập, hoàn thiện chính mình. Nhiều cá nhân
tốt sẽ thành gia đình tốt. Với ý nghĩa là môi trường văn hóa đầu tiên, gia đình hay văn
hóa gia đình là giá trị cốt lõi của văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình là hệ thống những
giá trị, chuẩn mực đặc thù gắn liền với những điều kiện cụ thể của tự nhiên, xã hội.
Văn hóa gia đình được hình thành từ việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia
phong, mà ở đó là môi trường đầu tiên cho việc dạy điều hay, lẽ phải, ứng xử văn hóa,
giao tiếp lịch sự của mỗi cá nhân… Ở gia đình, mỗi thành viên vừa là người thầy, vừa
là trò. Thông qua giáo dục gia đình, các thế hệ đi trước truyền thụ cho thế hệ trẻ
những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên giá trị xã hội và nhân cách văn
hóa của mỗi con người. Ở xã hội đương đại, bình đẳng xã hội được đề cao, việc áp đặt
của người lớn với trẻ nhỏ, hay người có vai vế thấp trong gia đình không còn như
trước, bởi vậy mối quan hệ tương tác qua lại trong giáo dục gia đình ngày càng một
hoàn thiện. Bên cạnh việc giáo dục thế hệ trẻ, người lớn biết lắng nghe, học tập và
hoàn thiện chính mình. Trong chủ trương xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, tiêu chí
một gia đình văn hóa phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản, đó là: Gương mẫu chấp hành
chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các
phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú; Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ;
lOMoARcPSD|36477832
27
Tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh
doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Gia đình văn hóa biểu
hiện ở mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm quan tâm, chắm sóc
giữa các thành viên. Từ các tiêu chí đó, văn hoá gia đình chính là mấu chốt để hình
thành, gìn giữ và phát triển, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước.
Câu 11. Hãy trình bày đặc trưng của văn hoá làng và ảnh hưởng của nó đến thói
quen, lối sống, cách tư duy ứng xử của người Việt ( ảnh hưởng đến Pháp luật ),
sưu tầm những câu thành ngữ tục ngữ nói về văn hoá làng của người Việt.
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo
làm nên bản sắc của văn hóa truyển thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã cùng
gặp nhau khi khái quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tính cộng đồng
và tính tự trị.
Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng đồng
như là một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên kết, gắn bó
chặt chẽ giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau. Về cơ sở
hình thành của tính cộng đồng, tính cộng đồng được hình thành trên nền tảng của hai
mối quan hệ: láng giềng và huyết thống. Quan hệ láng giềng do phương thức sản xuất
nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải định cư, người Việt đã sống quần tụ thành cộng
đồng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng gắn bó như việc Việt Nam thúc đẩy
hợp tác giữa các nước làng giềng mê công; “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Về
quan hệ huyết thống, làng Việt được hình thành trên cơ sở của sự quần tụ các gia đình
có cùng huyết thống, gắn bó, cưu mang, đùm bọc nhau cà về vật chất lẫn tinh thần
“chị ngã em nâng”; “một người làm quan cả họ được nhờ”;… Hai mối quan hệ này đã
tạo nên chất keo gắn kết các thành viên trong làng thành một khối cộng đồng bền chặt.
Gắn kết với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn tương trợ giúp đỡ
nhau trong lao động sản xuất, chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói rét, mất mùa,
lực lượng chức năng giúp đỡ người dân miền Trung trong trận lụt. Về xã hội, những
người trong làng luôn giúp đỡ nhau khi có khó khăn, hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi
buồn. Về phong tục, tín ngưỡng, cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
cùng thờ chung một vị thần của làng (Thành Hoàng), cùng tham gia các hội hè, đình
đám… đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Về luật pháp, mỗi làng
qui ước, luât tục riêng, mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, làng xã “một
người làm quan cả họ được nhờ”; “phúc cùng hưởng, họa cùng chia”;
lOMoARcPSD|36477832
28
… Biểu tượng của tính cộng đồng là sân đinh - bến nước – cây đa. Làng nào cũng có
một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: trung tâm
hành chính, trung tâm văn hoá, trung tâm về mặt tôn giáo và trung tâm về mặt tình
cảm. Cây đa, đó là biểu tượng của sự hiền hòa, yên bình, trường thọ. y đa là địa chỉ
dừng chân cho khách thập phương viếng thăm làng xã. Cây đa là nơi nghỉ ngơi hóng
mát của thợ cày, thợ cấy, của các bô lão và con trẻ trong làng. Cây đa là nơi đưa tiễn
người đi xa và cũng là địa chỉ đón người về làng… Bến nước là nơi diễn ra các lễ hội
của cư dân nông nghiệp lúa nước như bơi chải, rối nước, bơi lội… Bến nước là địa chỉ
kết nối cộng đồng, môi trường và văn hóa…
Tuy nhiên, điều gì cũng có hai mặt tích cực va tiêu cực, ảnh hưởng tiêu cực trong đặc
trưng tính cộng đồng của văn hóa làng là do lối sống đề cao tính cộng đồng, coi nhẹ
vai trò cá nhân nên người dân trong xã hội phong kiến không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân, mà họ bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, họ mạc,
làng xã (chịu trách nhiệm liên đới: quan hệ huyết thống con dại cái mang; hôn nhân,
láng giềng tru di tam tộc, cửu tộc). Hình thanh thói quen ứng xử bao che lẫn nhau.
Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, không chịu trách nhiệm cá nhân. Là hệ quả của tính cộng đồng,
thói quen ứng xử nặng tình nhẹ lý đã có nhiều tác động tiêu cực đến văn hóa ứng xử
với pháp luật, cụ thể là do tình cảm được đặt ở vị trí được ưu tiên trong việc giải quyết
các mối quan hệ nên đã hình thành thói quen ứng xử trọng tình nhẹ lý, dẫn đến cách
hành sự chủ quan, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong việc giải quyết các mâu thuẫn, bất
đồng thường dễ dàng tha thứ cho nhau, "chín bỏ làm mười", "dĩ hòa vi quí", không
đấu tranh đến cùng mà dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, ngại va chạm, "một
đời kiện 9 đời thù", từ đó pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được
ưa chuộng đối với người Việt.
Nhưng dù cho thế nào, ta cũng không thể phủ nhận được rằng sự gắn kết cộng đồng đã
tạo nên một chất keo gắn bó các thành viên trong làng, khiến cho làng trở thành một
đơn vị cố kết chặt chẽ. Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng, được hình thành
trên nền tảng của văn háo làng cũng chính là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết
dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quí báu của dân tộc ta.
Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với
nhau thì tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác. Về
cơ sở hình thành tính tự trị, phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và
nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị,
hướng nội của văn hóa làng. Thêm nữa, do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi
làng là một đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi
lOMoARcPSD|36477832
29
làng, tạo nên tính chất tự trị, khép kín như một đặc trưng nổi bật của văn hóa làng. Về
tổ chức hành chính, mỗi làng có một bộ y hành chính tự quản độc lập, có vai trò và
chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Về tình cảm, các thành viên trong làng đều
có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong
phạm vi làng. Nếu cây đa, đình làng là biểu tượng cho tính cộng đồng thì lũy tre làng
và cổng làng là biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng; đồng thời là ranh
giới phân định cụ thể không gian sống biệt lập của mỗi làng.
Trong cách tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống, mỗi làng là một đơn vị hành chính
độc lập, quản lý xã hội chủ yếu bằng luật tục - Hương ước - Lệ làng. Vì luật tục - lệ
làng rất cụ thể và phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi làng, trong khi luật pháp của
nhà nước thì chỉ mang tính phổ quát cho nên người dân chỉ quen với việc tuân thủ lệ
làng mà không quan tâm đến luật pháp của nhà nước. Đó là lý do khiến cho luật pháp
của nhà nước không có mấy hiệu lực đối với cuộc sống của cư dân sau lũy tre làng.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến ý thức không tôn trọng pháp luật.
Rõ ràng, các truyền thống văn hóa ngàn đời của làng xã Việt Nam là rất đáng trân
quý. Nhưng bên cạnh đó, có các quy tắc, giới luật trong làng xã đôi khi đi quá giới
hạn. Đã ăn sâu vào máu thịt, trong tâm khảm của người dân. Khiến Phép Vua thua lệ
làng lại ở vế đầu tiên (vế này mang ý nghĩa tiêu cực). Đó là đặt ra những quy định tùy
tiện, những Hương ước bất chấp tất cả kỷ cương phép nước, mang tính bảo thủ. Các
hành vi trái với luân thường đạo lý, trái với đạo đức xã hội: Nạn mê tín dị đoan để trục
lợi, hũ tục ma chay, tảo hôn, trọng nam khinh nữ… Hiện nay, Phép vua thua lệ làng
cũng đang dần dần nằm trong sự kiểm soát của nhà nước. Đảng & nhà nước ta vẫn
đang ngày ngày áp dụng chính sách tuyên truyền vận động xóa bỏ các Hương ước lạc
hậu, những phong tục tập quán mang tính tiêu cực, cổ hủ. Đồng thời củng cố để cho
phát triển các bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của làng xã đã có từ xa
xưa. Để mong có một xã hội tiên tiến, công bằng và văn minh.
Chương 3. Văn hóa truyền thống đến hiện đại
Câu 12. Hãy phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn
hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại
Văn hóa Việt Nam (cũng như bất cứ nền văn hóa của một dân tộc nào) đều là sản
phẩm của tính quá trình, như một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại. Nền văn
hóa truyền thống Việt Nam là sản phẩm của ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước,
trên nền tảng của phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông. Những đặc
lOMoARcPSD|36477832
30
trưng của văn hóa truyền thống đã thẩm thấu đến những tầng sâu nhất của đời sống xã
hội, kết đọng trong lôi sông, cách tư duy và mô thức ứng xử của con người, làm nên
cái gọi là bản sắc văn hóa Việt.
Tuy nhiên, là một phạm trù xã hội, văn hóa hiển nhiên la không thế ổn định, bất biến
khi xã hội có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt
của xã hội Việt Nam sau mấy mươi thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng
của văn minh nông nghiệp lúa nước đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây,
được khởi đầu chính thức từ cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858).
Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại thực ra đã
được manh nha từ thế XVII, bắt đầu từ cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây thông
qua vai trò của các nhà buôn (đến từ Bổ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, buôn bán
ở Kẻ Chợ Thăng Long và các phố cảng như Hội An, Phố Hiến), và sau đó là các giáo
sĩ Cơ-đốc giáo đến để truyền đạo. Tuy nhiên, chỉ từ khi người Pháp đặt được sự thống
trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thì ảnh hưởng của văn minh công nghiệp phương
Tây mới thực sự tác động một cách toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực đời sống vật
chất và tinh thần của người Việt, từng bước làm thay đổi văn hóa Việt. Dấu ấn của
văn hoá Pháp ở Việt Nam là những điều tốt đẹp, tích cực, làm phong phú thêm chính
văn hoá dân tộc chúng ta. Có những di sản phi vật thể như chữ Quốc ngữ mà chúng ta
đang dùng ngày nay có một phần văn hoá của phương Tây nói chung và người Pháp.
Hiện nay, Tiếng Việt cũng có 1 số lượng không nhỏ từ mượn Tiếng Pháp: Nhà ga,
xúc-xích,trứng ốp-lết, áo vét, găng tay... Nhu cầu xây dựng các công trình công cộng
và nhà ở cho người Pháp đã khai sinh ngành công nghiệp xây dựng ở Việt Nam và để
lại những công trình kiến trúc độc đáo, một di sản chung cho cả hai quốc gia. Chúng
ta có thể thấy Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Phủ Chủ
Tịch, Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Ngoài ra còn có các công trình như trụ sở Bộ Ngoại giao,
đường Trần Phú, bệnh viện Xanh Pôn, thư viện quốc gia, chợ Đồng Xuân… Đây đều
là những công trình đẹp, tiêu biểu cho phong cách Pháp ở Việt Nam. Các thể chế nghệ
thuật khác như nhà hát Opera Hà Nội, Opera Saigon, Opera Hải Phòng, rạp chiếu
phim Cinema Palace (nay là rạp Công Nhân),… và tiếp tục tồn tại tới ngày nay. Văn
hóa ẩm thực Pháp còn thẩm thấu mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam để những thói quen
mới được hình thành như uống cà phê, rượu vang, bánh mì, pa tê, các món trứng và
thói quen dùng dao, nĩa. Có thể nói kể từ khi du nhập vào Việt Nam, văn hóa Pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Việt xưa và nay.
Cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Mỹ và phương Tây diễn ra từ 1954 đến 1975
diễn ra ở miền Nam là hệ quả tất yếu của cuộc chiến tranh xâm lược của để quốc Mỹ;
lOMoARcPSD|36477832
31
theo đó, nền kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Nam phát triển theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Người M rất coi trọng tính tự lập và cá tính bản thân. Chính vì vậy nét
văn hóa này có ảnh hưởng rất lớn tới Việt Nam. Người Việt vốn là nước phong kiến
trước đây giá trị con người giữa nam và nữ có sự khác biệt vô cùng lớn. Tuy nhiên,
cùng với sự hòa nhập phát triển văn hóa người Việt hiện nay có sự thay đổi vô cùng
lớn. Đó là đề cao giá trị con người, sự bình đẳng không phân biệt, giới tính, dân tộc
vùng miền… Sự xuất hiện rất nhiều món ăn ngon từ Mỹ tại Việt Nam không còn xa lạ
hiện nay. Đây chính là ảnh hưởng lớn văn hóa ẩm thực của Mỹ tới Việt Nam rõ nhất.
Ngoài món ăn truyền thống người Việt có cơ hội thưởng thức món ăn khoái khẩu của
Mỹ tại Việt Nam như bánh pizza, hotdog, sườn nướng, thịt xông khói, các món tráng
miệng và các loại súp… Tuy vậy, có thể nói, 30 năm có mặt của chủ nghĩa thực dân
mới (Mỹ) ở miền Nam Việt Nam, mặt trực tiếp của đông đảo binh lính Mỹ với văn
hóa Mỹ, lối sống Mỹ nhưng riêng về văn học Mỹ ở miền Nam không có vị trí to lớn
như các nền văn học Pháp và văn học Trung Quốc (cũng là điều hơi lạ). Ngoại trừ
sách bán chạy (Best Seller Books) sách giải trí, sách tình dục và vụ án, văn học M
chỉ có thể lọt được vào địa bàn này vài tên tuổi như W. Faulkner, E. Hemingway, J.
Dos, Passos… nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sơ lược. Ảnh hưởng của văn
hoá Mỹ ở miền Nam Việt Nam chủ yếu là âm nhạc, điện ảnh, lối sống, trang phục của
các phong trào Hippies với những mặt tiêu cực là sa đọa, hưởng lạc và ma túy, mại
dâm…
Cuộc giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN, đây
là cuộc giao lưu văn hóa với tính chất chủ động, thông qua con đường hợp tác, giúp
đỡ, trao đổi kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học (gửi sinh viên và cán bộ đi học ở
nước ngoài; chuyên gia nước ngoài sang giúp Việt Nam). Văn hóa Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn hóa Nga khá mạnh mẽ, tuy mỗi giai đoạn lịch sử có sự tiếp nhận theo
những xu hướng khác nhau. Sự giao lưu này diễn ra ở nhiều lĩnh vực với các hình
thức và nội dung đa dạng: văn học, điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, giáo dục, đào tạo,
xuất bản,… Sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Nga đã có ảnh hưởng không
nhỏ đến thế giới tinh thần và phong cách sáng tác của các văn nghệ sĩ Việt Nam.
Nhiều nhà lý luận văn học, văn hoá học, nghệ thuật học của Việt Nam cũng tiếp nhận
được những bài học quý báu từ các nhà khoa học lớn của Nga và Liên Xô cũ. Bên
cạnh những ảnh hưởng tích cực là chủ yếu, cuộc tiếp xúc y cũng không tránh khỏi
để lại một số dấu ấn tiêu cực. Mô hình quan liêu bao cấp đã đưa đến những hậu quả
không chỉ trong kinh tế, mà cả trong khoa học, giáo dục, đào tạo và văn hoá nghệ
thuật của Liên Xô. Sự đề cao vai trò độc tôn của hệ tư tưởng, những hạn chế của
phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng lối mòn của những
lOMoARcPSD|36477832
32
môtip, đề tài chiến tranh, xu hướng minh họa đường lối, tô hồng hiện thực, xu hướng
chính trị hoá văn hoá - nghệ thuật, sự vi phạm nguyên tắc dân chủ trong hoạt động
sáng tạo,... cũng đã làm giới hạn tự do tư tưởng và tự do sáng tác của giới văn nghệ sĩ.
Và điều đó cũng đã tác động không nhỏ đến văn hóa Việt Nam.
Theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến
thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ". Tác động của sự kiện này
đã khiến cho “Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay". Chính “cuộc biến
thiên lớn nhất" của lịch sử này đã tất yếu dẫn đến sự thay đổi có tính bước ngoặt của
văn hóa Việt Nam, khi nó vượt ra khỏi giới hạn của phạm trù văn hóa truyền thống
phương Đông nông nghiệp, để bắt đầu cuộc hội nhập với nền văn hóa và văn minh
công nghiệp phương Tây.
Câu 13. Anh chị hãy phân tích văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hai và
ảnh hang của nó đến ứng xử của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu văn
hóa được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái
độ của Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước Đông
Nam Á (khối ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC),
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế và khu
vực này, nước ta đã chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực, từng bước
hội nhập thế giới. Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh
tranh thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh tế, tăng
mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc
áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời qua giao
lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, làm
giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. Về văn hóa vật chất, toàn
cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật,
làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để
theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công
nghệ hiện đại của thế giới. Về văn hóa tinh thần, trong giao lưu toàn cầu hóa, cư dân
văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam đưoc tiếp xúc với các nền văn hóa phong
phú, có điều kiện để hưởng thụ các sản phẩm văn hóa da dạng của nhân loại. Tạo ra
môi trường để co xát giữa văn hóa truyền thông với những giá trị văn hóa mới của
nhân loại, đó là con đường để đào thải những đặc trung văn hóa dân tộc đã trở nên lỗi
thời, không còn phù hợp với thời hiện đại. Tuy nhiên, toàn cầu hóa với nền kinh tế thị
trường cạnh tranh lạnh lung vì lợi nhuận đang dẫn tới nguy cơ làm xói mòn những gia
lOMoARcPSD|36477832
33
trị truyền thống của dân tộc (lối sống trọng tình, sự bên vững của gia đình và tính ổn
dịnh của xã hội...). Toàn cầu hóa kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thu các gia trị vật chất,
theo đó là văn hóa tiêu dùng, văn hóa hưởng thụ, là khát vọng làm giàu, lối sống ăn
chơi sa đọa, bạo lực, thực dụng, tác động đến lối sống giản dị, cần kiệm của người
Việt Nam truyền thống. Tính cộng đồng như một giá trị tốt đẹp của văn hóa làng xã
đang chịu thử thách mạnh mẽ trước làn sóng đô thị hóa. Các quan hệ gia đình lỏng lẻo
dân, có sự phân hóa trong tư duy, lối sống, cách ứng xử giữa các vùng miền, các tầng
lớp dân cư, các thế hệ. Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa Việt Nam đang ở buổi giao
thời, khi các giá trị truyền thống đang bị khủng hoàng, nhiều cái cũ đã tỏ ra lỗi thời,
trong khi cái mới đuoc du nhập ồ ạt mà chưa được thẩm định bởi thời gian nên chua
định hình những chuẩn mực mới. Do đó sẽ không tránh khỏi những hiện tượng xô bo,
đan xen về văn hóa, trong đó tốt - xấu lẫn lộn, tệ nạn xã hội lan tràn, kiểm soát, thậm
chí có lúc, có nơi, cái xấu nổi trôi. lấn át cải tốt. Đặc biệt, đối với tầng lớp thanh niên
luôn vồ vập với cái mới thì càng khó định vị một chuẩn mực sống cho phủ hợp, cũng
những nguyên nhân trực tiếp đë ra các loại tội phạm trong thanh niên - một thực trạng
đáng báo động hiện nay.
Trong giao lưu hội nhập toàn cầu hóa, giới trẻ có ý thức hơn về quyền và nghĩa vụ học
tập sẽ vào học trong các ngành nghề đáp ứng dần với thị trường lao động trong nước
và quốc tế. Giới trẻ có quan điểm thực tế hơn đối với việc chọn bậc đại học. Từ đó
dẫn tới tỷ lệ thanh niên đăng ký theo học các trường nghề và các trường trung học
chuyên nghiệp tăng lên đáng kể. Giới trẻ ý thức đầy đủ hơn và tích cực tham gia vào
xây dựng xã hội học tập; nhiều người sẽ thực hiện phương châm: ở đâu, làm gì, thời
gian nào, cũng học tập và học tập thường xuyên, suốt đời. Số giới trẻ đi du học nước
ngoài tăng nhanh, nhất là thanh niên đi du học tự túc; số thanh niên tự tìm kiếm học
bổng đi du học nước ngoài tăng lên đáng kể. Giới trẻ mong muốn Nhà nước có các
chính sách khuyến khích thanh niên học tập nâng cao trình độ chuyên môn và tay
nghề; mong muốn được đào tạo trong môi trường học tập thân thiện và chất lượng đào
tạo cao. Khả năng trí tuệ của giới trẻ, năng lực tự chủ và tính năng động của giới trẻ
có bước phát triển đáng kể. Bộ phận thanh thiếu niên tiên tiến có quyết tâm cao, hoài
bão lớn và luôn phấn đấu cống hiến cho đất nước sẽ ngày càng đông đảo. Nhận thức
chính trị của giới trẻ được tăng cường là động lực tinh thần quan trọng để phát huy
tính xung kích, tinh thần tình nguyện của đa số thanh niên Việt Nam trong thời gian
tới. Tỷ lệ giới trẻ tích cực phấn đấu gia nhập tổ chức Đoàn, Đảng có xu hướng tăng.
Ngòai ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia - dân
tộc, trong thời đại tòan cầu hóa, giới trẻ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa,
tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nn khác trên thế
lOMoARcPSD|36477832
34
giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên thường có xu hướng thử nghiệm nhiều
khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những
thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm
lại. Và vì vậy, phần đông giới trẻ thường có xu hướng hoài nghi, kiểm chứng lại
những lựa chọn, chế định và quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận,
làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình.
Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong ứng xử văn hóa của giới
trẻ. Khi những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên án thì thanh niên sẽ
rơi vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội. Trong một
i thập k gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã
xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn. Một bộ
phận lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống buông thả, quay lưng lại với văn hóa, giá trị đạo
đức truyền thống. Họ không thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng,
không quan tâm đến các hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống; trái lại,
tán dương và cổ vũ cho những bài hát có nhịp điệu mạnh, như Rock, Rap hoặc những
bài hát có nội dung phản cảm. Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin
đại chúng, trên các mạng thông tin toàn cầu liên tục tuyên truyền các hình ảnh, tin tức,
ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Điều này đã làm
gia tăng tình trạng phạm tội ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Vì lẽ đó, việc giữ gìn và
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa hiện
nay là yêu cầu tất yếu, là một trách nhiệm nặng nề, cấp bách và có ý nghĩa to lớn đối
với toàn Đảng, toàn dân ta.
| 1/34

Preview text:

lOMoARcPSD| 36477832 ÔN TẬP HỌC KỲ
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. CHƯƠNG I - KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN MINH
2. CHƯƠNG II - HỌC ĐỊNH VỊ VĂN HOÁ VIỆT NAM
3. CHƯƠNG III - HỌC VĂN HOÁ VẬT CHẤT, VĂN HOÁ TINH THẦN, VĂN HOÁ XÃ HỘI
VĂN HOÁ VẬT CHẤT (ĂN, MẶC, Ở, ĐI LẠI) VĂN HOÁ TINH THẦN. - ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
- TÔN GIÁO (NHO GIÁO, PHẬT GIÁO) - GIAO TIẾP ỨNG XỬ
VĂN HOÁ XÃ HỘI (NHÀ – LÀNG – NƯỚC)
VĂN HOÁ VIÊT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ.
Chương 1. Khái quát về văn hoá Việt Nam
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du mục và
văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
* Bảng phân biệt sự khách nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc: Tiêu chí
Văn hóa gốc nông nghiệp
Văn hóa gốc chăn nuôi du trồng trọt mục
(Chủ yếu ở phương đông)
(Chủ yếu ở phương tây) Đặc trưng gốc Đồng bằng (ẩm, thấp) Đồng cỏ (khô, cao) (Địa hình, nghề Trồng trọt Chăn nuôi chính, cách Định cư Du cư sống)
Ứng xử với môi Tôn trọng, sống hòa hợp với
Coi thường, tham vọng chế 1 lOMoARcPSD| 36477832 trường tự nhiên thiên nhiên ngự thiên nhiên
Lối nhận thức tư Thiên về tổng hợp và biện
Thiên về phân tích và siêu duy
chứng (trọng quan hệ); chủ
hình (trọng yếu tố); khách
quan, cảm tính và kinh nghiệm quan, lý tính và thực nghiệm Tổ chức cộng
Trọng tình, trọng đức, trọng
Trọng sức mạnh, trọng tài, đồng văn, trọng nữ; trọng võ, trọng nam;
Linh hoạt và dân chủ, trọng
Nguyên tắc và quân chủ, cộng đồng trọng cá nhân. Ứng xử với môi
Dung hợp trong tiếp nhận;
Độc tôn trong tiếp nhận, cứng trường xã hội
mềm dẻo, hiếu hòa trong đối
rắn, hiếu thắng trong đối phó phó Tiêu chí
Văn hóa gốc phương Đông Văn hóa gốc phương Tây Cơ sở hình
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều,
Khí hậu lạnh khô, địa hình thành
sông ngòi chằng chịt, đồng
chủ yếu là thảo nguyên thích
bằng phì nhiêu màu mỡ, nông
hợp cho chăn nuôi phát triển
nghiệp trồng trọt phát triển. Văn hóa chăn nuôi du Văn hóa nông nghiệp mục. trồng trọt. 2 lOMoARcPSD| 36477832 Đặc điểm - Sống định cư, không - Sống du cư, nên có
thích di chuyển trọng tĩnh thói quen thích di chuyển Trọng động. - Tôn thờ sùng bái tự
nhiên, mong muốn hòa hợp với - Tham vọng chinh thiên nhiên.
phục, chế ngự tự nhiên. -
Cuộc sống định cư tạo - Yếu tố cá nhân được
nên tính cộng đồng cao. coi trọng.
=> Hình thành lối sống trọng
=> Hình thành lối sống thích
tình, trọng văn, trọng phụ nữ.
ganh đua, cạnh tranh, ứng xử
độc đoán trong giao tiếp. - Phương thức sản xuất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự - Chăn nuôi du mục
nhiên nên hình thành kiểu tư
hình thành kiểu tư duy phân
duy tổng hợp biện chứng
tích chú trọng vào từng yếu tố. -
Do tư duy tổng hợp biện
chứng nên hình thành thái độ - Do tư duy này nên
ứng xử linh hoạt, mềm dẻo.
hình thành lối sống trọng lý,
ứng xử theo nguyên tắc.
=> Thói quen tôn trọng pháp
luật vì vậy mà hình thành rất sớm ở phương tây.
* Nguyên nhân có sự khác nhau: Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên. Vì
vậy, nguồn gốc của mọi sự khác biệt sâu xa về văn hóa là do những khác biệt về
điều kiện tự nhiên (địa lý, khí hậu) và xã hội (lịch sử kinh tế) tạo nên.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí quan trọn
để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân
tộc dù phong phú và đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong
hai loại hình văn hóa gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt. Giữa hai loại hình văn hóa gốc này có sự khác nhau mang tính
tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
- Về điều kiện tự nhiên và môi trường:
+ Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình chủ 3 lOMoARcPSD| 36477832
yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền
thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi.
+ Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương
Đông gồm Châu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. - Về đặc trưng:
+ Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục ở
phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ cừu
được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn chiên. Lịch
sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và uống sữa bò,
áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là loại hình chăn
nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó, tạo thành thói quen, lối sống
thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở
phương Đông do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát
triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra
hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân nông nghiệp phải lo
tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
+ Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với loại hình văn
hóa gốc chăn nuôi du mục vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không
phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng
chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương
Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng và sùng
bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
+ Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính gắn kết cộng
đồng của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh
tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn trong đối phó.
Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông lại đề cao tính cộng
đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải sống định
cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
+ Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh
để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người 4 lOMoARcPSD| 36477832
đàn ông có vai trò quan trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới trong khi loại
hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò của
người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong gia đình, chăm
lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc đồng án.
+ Về lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục thiên về tư
duy phân tích, coi trọng vai trò của các yếu tố khách quan, vì nghề chăn nuôi du mục
đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày là đàn gia súc với
từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào từng yếu tố.
Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông thì thiên về tư duy tổng hợp –
biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ quan cảm tính hơn là
coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
+ Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại hình văn hóa
gốc chăn nuôi du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo nguyên tắc, thói quen tôn trọng
pháp luật khác với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng đồng, gắn
kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi
bật khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Tuy nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính
chất nông nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai
loại hình văn hóa này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội.
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình.
Việt Nam có vị trí nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Với điều kiện về vị trí địa
lí, khu vực địa hình chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở
góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con
sông lớn như sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và
cây lúa là một trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng
chính cây lúa cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên là điều kiện
thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, có thể
thấy rằng nền văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
điển hình. Tất cả những đặc trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách rõ nét nhất
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt ở Việt Nam: 5 lOMoARcPSD| 36477832 -
Đầu tiên là đặc trưng về lối sống, ở Việt Nam, do thuận lợi về điều kiện khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển mà nổi tiếng nhất là nền văn minh lúa
nước. Do nghề trồng trọt buộc người Việt phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra
hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân Việt Nam phải lo
tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, tình cảm
luôn gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… qua đó hình thành lối sống đặc
trưng ổn định, trọng tĩnh, tự trị, kép kín, hướng nội. -
Cư dân Việt Nam do sống bằng nghề nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc
vào tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, dẫn đến người dân Việt Nam có ý thức tôn
thờ, sùng bái và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Thực vật được tôn sùng nhất
là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa,
Cây Cau,.. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời…” Đó
chính là nguyên nhân sự ra đời của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên phổ
biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
là hình thức thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên quan trọng
nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước; tín
ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc của sự sinh sôi
nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc nông nghiệp, mùa màng tươi tốt và
muôn loài sinh sôi (hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống cư dân)
nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài; các lễ hội tín ngưỡng
nông nghiệp gồm hội Cầu mưa , hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mới,… -
Về mặt tổ chức cộng đồng, cuộc sống định cư tạo cho người Việt ưa sống theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc
sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Bán anh em xa mua láng giềng
gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lụt thì lút cả làng”, … -
Từ đặc trưng sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan
hệ ứngxử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh,
bạo lực. Vì sống theo tình cảm, người Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến
phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử
dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt Nam làm gì cũng
phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau. -
Trong truyền thống Việt Nam, vì lối sống định căn định cư ổn định cần đến vai
trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là 6 lOMoARcPSD| 36477832
công việc phù hợp với người phụ nữ, do đó vai trò của người phụ nữ cũng được tôn
trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa. Chính
bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không bằng cồng
bà”…; còn theo kinh nghiệm dân gian thì “ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu
lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục
con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho
nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là “mẹ” đã mang thêm nghĩa “chính, quan
trọng”: sông cái, đường cái, đũa cái, ngón tay cái,… Không phải ngẫu nhiên mà vùng
nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du
Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên
(Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn
nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ… Cũng không phải ngẫu
nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê
phum, mê sóc (mê = mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà. -
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng – cái mà người nông nghiệp quan tâm không
phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là
bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa
chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại
quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”; “Được mùa lúa thì úa mùa cau,
được mùa cau thì đau mùa lúa”… -
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử
mềm dẻo, linh hoạt. Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của
người làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt
thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống “Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài”; “Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy”…Tuy nhiên, lối tư duy tổng
hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn
hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở
khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt hợp lối
sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện. 7 lOMoARcPSD| 36477832
Như vậy, với những đặc trưng đã phân tích trên, loại hình văn hóa Việt Nam được
xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ
nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và
được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy nêu khái quát đặc điểm chính của các giai đoạn văn hoá và vai trò của
mỗi giai đoạn trong tiến trình văn hoá Việt Nam.
Sự hình thành các đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam là kết quả của một quá
trình lịch sử lâu dài, đồng hành cùng với tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước của dân tộc. trong cuộc hằng trình hàng nghìn năm ấy, văn hóa dân tộc đã
trải qua những bước thăng trầm cùng lịch sử. Có thể khái quát tiến trình định hình nền
văn hóa truyền thống Việt Nam qua 5 giai đoạn chính sau đây: -
Tầng văn hóa bản địa (nội sinh) hình thành từ thời tiền sử và sơ sử, nằm trong
cơ tầng văn hóa Đông Nam Á – trên nền tảng của nền văn minh lúa nước. Thời tiền sử
còn gọi là thời kỳ đồ đá, được chia ra hai giai đoạn: thời đại Đá cũ và thời đại Đá mới.
Đây là giai đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của văn hóa khu vực Đông Nam
Á. Các di chỉ khảo cổ học tìm được ở khu vực đã cho thấy, vào thời tiền sử, cũng như
các khu vực khác trên thế giới, cư dân khu vực Đông Nam Á đã trải qua một tiến trình
lịch sử từ thời đại Đá cũ (chế tác công cụ lao động bằng việc ghè, đẽo đá) sang thời
đại Đá mới (chế tác công cụ bằng cách mài đá). Trong đó, các cộng đồng cư dân bản
địa sinh sống trên những địa bàn mà ngày nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã bước vào
cuộc hành trình sáng tạo văn hóa, với sự tồn tại các nền văn hóa tiêu biểu như: văn
hóa Núi Đọ, văn hóa Sơn Vi, văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn,…Còn thời sơ sử là
thời kỳ hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên của Việt Nam – nhà nước Văn Lang –
Âu Lạc, kéo dài trong khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, tương ứng với thời đại
văn minh đồ đồng. Trên nền tảng của nền văn minh lúa nước và văn minh đồ đồng,
cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, đã định hình
và phát triển rực rỡ một nền văn hóa dân tộc trong buổi đầu dựng nước. Như vậy, tầng
văn hóa nội sinh là giai đoạn định hình những nền tảng đầu tiên của văn hóa bản địa
Việt Nam, làm tiền đề cho sự hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam với sự kế tục, tiếp
nối ở các giai đoạn sau. -
Tầng văn hóa ngoại sinh (văn hóa tiếp thu văn hóa đầu Công Nguyên) gồm
những yếu tố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với hai nền
văn hóa lớn của phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ trong mười thế kỷ đầu Công
Nguyên. Mười thế kỷ đầu Công Nguyên là thời kỳ quốc gia Âu Lạc bị đô hộ bởi các
triều đại phong kiến Trung Hoa nên còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Trong mười thế kỷ 8 lOMoARcPSD| 36477832
Bắc thuộc, nền văn hóa bản địa vùng châu thổ Bắc Bộ đã được làm phong phú thêm
bởi sự tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa mới từ Trung Hoa. Về văn hóa vật chất, trong
phương thức sản xuất nông nghiệp có du nhập các giống cây trồng mới và tiếp thu
một số kỹ thuật làm nông nghiệp mới. Về văn hóa tinh thần, theo bước chân quân xâm
lược là sự du nhập của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Về văn hóa xã hội, từ thế kỷ
IV trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển sang chế độ phong kiến theo mô hình của
chế độ phong kiến Trung Hoa, chế độ gia đình mẫu quyền bị thay thế hoàn toàn bởi
chế độ gia đình phụ quyền. Tuy nhiên, dù tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn há mới như
là một qui luật tất yếu trong quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa nhưng với lòng tự
tôn dân tộc và ý thức liên kế cộng đồng bền chặt, trong suốt mười thế kỷ tiếp xúc với
văn hóa Trung Hoa, người Việt không đánh mất bản sắc văn hóa mà vẫn cố gắng để
gìn giữ và bảo tồn các đặc trưng văn hóa dân tộc. Như vậy, đặc trưng cơ bản của văn
hóa giai đoạn này là quá trình du nhập và các yếu tố văn hóa phương Đông (Trung
Hoa và Ấn Độ), dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa thời sơ sử, làm tiền đề
để hình thành cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam thời phong kiến Đại Việt. -
Từ giữa thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ định hình các đặc trưng bản
sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam. Về bối cảnh lịch sử, đây là thời kỳ tự chủ của
quốc gia phong kiến Đại Việt kéo dài gần mười thế kỷ, bắt đầu từ năm 938, khi Ngô
Quyền chiến thắng quân Nam Hán bằng trận thủy chiến nổi tiếng trên song Bạch
Đằng, chấm dứt 1.000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đây là một giai đoạn
quan trọng trong lịch sử dân tộc với sự hình thành của nhà nước phong kiến Việt
Nam, và theo đó là sự định hình những đặc trưng bản sắc của nền văn hóa truyền
thống. Gần mười thế kỷ thời phong kiến Đại Việt là giai đoạn định hình những đặc
trưng bản sắc văn hóa truyền thống trên cơ sở sự dung hợp giữa văn hóa bản địa và
văn hóa ngoại sinh, trên nền tảng của sự cộng hưởng bởi ba yếu tố văn hóa hạt nhân:
văn hóa nông nghiệp lúa nước – Nho giáo – Phật giáo. -
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ
xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý chí tự lực tự cường và truyền thống lao
động cần cù, cha ông ta đã xây dựng được một nền văn hóa truyền thống với những
nét bản sắc riêng về cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa vật chất dựa trên
nền tảng nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Các đặc trưng văn hóa về lao động, sản
xuất, sinh hoạt – những yếu tố mang đậm dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp
trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt
của người Việt đối với môi trường tự nhiên vùng song nước và xứ sở thực vật. trong
nền tảng đặc trưng văn hóa tinh thần Việt Nam, các hệ tư tưởng và tôn giáo có ảnh 9 lOMoARcPSD| 36477832
hưởng, chi phối sâu sắc như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và đều được du nhập từ
Trung Hoa, cùng tồn tại và dung hòa với nhau trong văn hóa truyền thống Việt Nam,
trong đó “Nho trị thế”, “Phật trị tâm”, “Đạo trị thân”. Ngoài ra, về tín ngưỡng, phong
tục, lễ tết và lễ hội cũng mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam. Văn hóa
truyền thống Việt Nam là những giá trị cốt lõi định hướng, chi phối hoạt động của các
chủ thể và toàn xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh
thái, là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mô hình - con đường - thể chế phát triển
của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế chính trị thực sự, các
giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn,
nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân và là cơ sở để tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển. -
Văn hóa hiển nhiên là không thể ổn định, bất biến khi xã hội có những thay đổi
mang tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt của xã hội Việt Nam sau mấy
mươi thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nông nghiệp
lúa nước – đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp
(1858 – 1945), sau đó là tiếp xúc với văn hóa Mỹ ở miền Nam (1954 – 1975) và cuộc
giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN. Cùng với
sự thay đổi nền tảng kinh tế - xã hội của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, các cuộc tiếp xúc giao lưu văn hóa này là những tác nhân trực tiếp dẫn
đến quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại. -
Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu
văn hóa được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định
thái độ của Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước
Đông Nam Á (khối ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc
tế và khu vực này, nước ta đã chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực,
từng bước hội nhập thế giới. Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích
sự cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh
tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của thế giới
nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời
qua giao lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ
sung, làm giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. 10 lOMoARcPSD| 36477832
Chương 2 . Đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam
Câu 4. Hãy chỉ ra sự tận dụng , thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần
cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên
nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận
dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã rút gọn được một hệ thống kinh
nghiệm của nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền
trong dân gian, mà vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi
cho nông dân (Vi dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật
sử dụng kinh nghiệm quyết định của Trần Ngọc Trác; Nông toàn đồ của Lê Thúc
Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho nông nghiệp, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một
hệ thống nông cụ truyền thông rất phong phú, đa dạng, gồm hàng tram kiểu loại khác nhau.
Tất cả những kinh nghiệm được kết hợp và những thành tựu được tạo ra từ phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và ứng
phó với sự ưu tiên của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt cũng được
thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của cư dân
nông nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uông theo mùa, theo vùng miền, đó là một
biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự
thích nghi của nên kinh tế tiểu nông tư túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc
chế biến và lựa chọn thế (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi các
món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ trường để đối phó với thời tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu có sẵn
trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như: tơ tằm,sợi bông,
sợi đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu
đất) và màu đen (màu bùn). Điều đó cũng phản ánh phong cách truyền thống của
người VN là ưa sự kín đaó, giản dị, đồng thời cũng thể hiện sự thích nghi với môi 11 lOMoARcPSD| 36477832
trường sống và sinh hoạt của nghề nông trồng lúa nước. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là
một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN truyền thống.
Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang phục
truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu
nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa…
thể hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Mang đậm
dấu ấn của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền
sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn
trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song
dấu ấn văn hóa song nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng mũi thuyền,
thậm chí cư dân sông nước còn dùng thuyền làm nhà ở hình thành nên các xóm chài.
Không gian ngôi nhà Việt là không gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà vs tự
nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất
làm nhà, hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông nam, các hướng
này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân
ít có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua
bán giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ,
cư dân chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thông đường thủy do địa hình nhiều sông ngòi, bờ biển kéo dài từ Bắc chí Nam
nên người Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đò...Vì đường thủy chiếm ưu
thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố
Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò
đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền
về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người
đi trên sông nước như lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con
người với môi trường tự nhiên. Qua đó, thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông
nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh
hoạt với môi trường sông nước và xứ sở thực vật. 12 lOMoARcPSD| 36477832
Câu 5. Hãy phân tích sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể
hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựng quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần
cù, cha ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên
nền tảng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử
văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất
tiêu nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng
kinh tế của hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã
được định hình từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc,
trong quá trình xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng
việc canh nông và có các chính sách khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt
thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ chuối, sợi đay, sợi
gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất
phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu câu may mặc trong nước mà còn bán nước
ngoài. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại
Việt, phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò
kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ
công phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi
phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp, các quan hệ giao
luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô
nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tâm
phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa
ăn liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang
tính cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng
đồng cùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người
Việst rất coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính:
nâu, đen, chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương
tính (đỏ, vàng…) chỉ mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp
(Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong 13 lOMoARcPSD| 36477832
kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy
được bảo tồn như là một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp
với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc
áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người
Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo
cho cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang
tính cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng
biệt lập thì nhà Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành
viên trong gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh
giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một
hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít
có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán
giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư
dân chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở
giao thông đường thủy vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng
sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền
với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách
nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi
trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các
nhu cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con
người với môi trường xã hội.
Câu 6. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết Âm dương Ngũ hành với sự hình thành
các triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật
trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Do có sự
giao hòa giữa các mặt đối lập (âm – dương) trong vũ trụ và con người nên mới tạo ra 14 lOMoARcPSD| 36477832
những sự vật mới. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về
sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương,
ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để
thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở
thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá
cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương
ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm
dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì sự vật mới
hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng
cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước… Mối quan hệ âm dương ngũ hành với
triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm
mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững,
không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái
âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài
hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự
bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê
phán thái độ sống cực đoan. Như vậy, về mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với
triết lí sống lạc quan của người Việt do nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận
hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi
sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật chuyển hóa âm
dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho
con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến
tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 7. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai trò
của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay ( ảnh
hưởng đến Pháp luật).

Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được
người Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy
của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng
sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham
gia các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều
nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo
được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường. 15 lOMoARcPSD| 36477832
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo
dung hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần,
Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc
dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho
nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng
và văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi
chùa trên khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu
vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của
tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa
truyền thống đã có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm
của tổ tiên”. Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn
là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người
đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các
ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được
vai trò của Phật giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay
( ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý
thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha,
“khuyến thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần
dem Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục
cho cuộc sống. Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như việc khuyên con người
tự tiết chế các hành vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi
cà nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và
đầu tranh của con người khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết
"luân hoi", "quả báo" của Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng
luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im
lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì
vậy từ đây cung không hình thành thói quen sử dụng công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 8. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay ( ảnh
hưởng đến Pháp luật
16 lOMoARcPSD| 36477832
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức , một hệ thống quan niệm tư tưởng –
giáo lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị -
đức trị. Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa
nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời
Đại Việt, Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng
được phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị và
tư tưởng và văn hóa tinh thần, ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay .
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác
những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất
nước. Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học
tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn
người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận
dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời
Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính
và giáo dục. Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù
hợp với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách
hiểu thì đã khác nhiều”.
Về chữ Trung và Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn
giữa Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt
lên trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ
sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung
quân” gắn liền với “Ái quốc”. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới
hoàn toàn: Không phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội
dung được mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp như
khái niệm của Nho giáo xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du”
tức là: cha mẹ còn con không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Tức
là: Có ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là tội nặng nhất. Chính vì đặt đất nước
lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn
của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn
hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh
tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài
khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ Trung cũng mang
một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền
tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ 17 lOMoARcPSD| 36477832
những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đã có một tầm nhìn
rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò
của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ
năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập
4/10/1945. Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học.
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong
những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng ,
quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học,
và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, mà còn luôn
luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí
đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình
Dương xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo
nàn lạc hậu chậm phát triển. Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa
mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính là lòng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành
đạt, những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục,vật thị ư
nhân)… Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm
đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội ngày
nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi
người, mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá,
phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ông
bà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã
hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người
quân tử, người cai trị phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín,
Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình
để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ
và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là
nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân. Nhờ có Trí con người
mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét đoán được sự vịêc, phân được phải
trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt
được chữ Nhân,có trí thôi chưa đủ mà cần phải có Dũng, Dũng không phải ỷ vào sức 18 lOMoARcPSD| 36477832
mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý. Người
Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một cách cao minh, có thể
hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời gặp phải hoạn nạn…”
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã
có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân,
thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc. Như vậy chúng ta
có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào
tạo. Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức,
Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải
được rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt
gặp câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với năm
điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải
tu thân, để trở thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ
Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người
Việt đối với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về cơ bản có
những điều đặc biệt giống nhau. Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung
về pháp luật nặng về pháp luật và hành chính, nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho
giáo cần có bốn yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa âm của dân, nhạc để hòa âm
của dân, chính trị để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền
tảng của Đạo luật Không là khái niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có thể nói
về phiên bản là một bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường,
giữ cho mình và tuân thủ các quy tắc xử lý theo quan điểm đạo đức trong xã hội. Các
quy tắc dựa trên những tập quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ
và thay đổi theo mối quan hệ giữa các cá thể. Như vậy, hệ tư tưởng của Nho giáo là hệ
tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ nghĩa trong quản lý xã hội, đồng thời nhấn
mạnh rằng người làm vua muốn cai trị xã hội lâu dài thì phải dựa vào dân, lấy dân làm
gốc là nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị. 19 lOMoARcPSD| 36477832
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi
làng xã Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộ máy
nhà mước, trong tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho
giáo. Tuy nhiên, trong phạm vi quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì
những giá trị tích cực của Nho giáo sẽ bị mai một, di sản quý báu đó trong văn hoá
dân tộc sẽ không được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng phủ dày và dần dần sẽ
vùi lấp nó. Trách nhiệm của những người nghiên cứu văn hoá nói chung và văn hoá
pháp luật nói riêng là phải bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc. Tinh thần của Nho giáo trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc,
hình, chính" trong quản lý và xây dựng xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang
tính thời sự. Nhờ có “lễ" mà con người Việt Nam thường sống điều độ biết “kính trên,
nhường dưới", biết “ăn trông nồi, ngồi trông hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ
cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười, nhày, múa, ca hát người Việt Nam
thường chừng mực mà không thái quá. Chính sự chừng mực, điều độ như uống không
quá say, ăn không quá no, nói không quá lời, áo không quá hở, váy không quá ngắn,
tóc không quá dài mà trật tự xã hội được thiết lập. Như vậy, trong xã hội hiện đại ngày
nay, vai trò của pháp luật được để cao, không những pháp luật hình sự như thời xa
xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình... Tuy nhiên, điều đó
không hề làm giảm vai trò của đạo đức và các thuần phong, mỹ tục mà người Việt
Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa, nhân hậu, lưrơng thiện của
người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản phẩm văn hóa được hun
đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp một phần
không nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục
tập quán đã tạo nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận
được bằng linh cảm hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật Việt
Nam như một tàng băng, phần nổi chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới
tầng sâu, đôi hỏi phải nghiên cứu, khám phá để có thể đưa ra những phương hướng,
giải pháp đúng đắn nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là
nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều
ý thức phản biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế
việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức trị
hơn pháp trị nên Nho giáo khuyên khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc
kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng". Việc kết
hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý 20 lOMoARcPSD| 36477832
là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời
phong kien Việt Nam, "Tam cương", "Ngũ thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là
pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã
bộc lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho
giáo ở Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống
tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường
khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác
nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và
chi phối sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Câu 9. Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt , theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào
cần được giữ gìn và phát huy.

Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao
tiếp, ứng xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây -
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên
người Việtcoi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một
nghi thức ứng xử văn hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”,
thích thăm viếng nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để
thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp
niềm nở, chu đáo, tận tình). -
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường
thích tìm hiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin
cá nhân của đôi tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia
đình...). Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cong đông và lôi sống trọng tinh
(quan tâm đến ngưoi khác). Tuy nhiên, việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng
tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất
đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những mâu thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho
người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp, để rồi “một trăm chỗ
lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói “tình làng 21 lOMoARcPSD| 36477832
nghĩa xóm” lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý” ra
làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số
trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. Vì không giải quyết
theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng
đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè,
không còn cách nào khác, người đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia
cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó
cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo
quan hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì,
cháu, con... Ngoài ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng
hơn là giá trị vật chất (Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng
giữa làng bằng một sàng xó bếp; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi
trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam
phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó
văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như
chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “ở đời muôn
sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước
người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một
đồng tiến thưởng”;.. Vì trọng danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi
vậy, dư luận trở thành một thứ vũ khí lợi hại, một sợi dây vô hình để ràng buộc cá
nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam
quốc" để đưa đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp.
Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính
quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ
được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận
quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt
Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp, người
Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ
trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành
ngữ, thơ ca thường dùng hinh tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đổ một đầu tằm”; 22 lOMoARcPSD| 36477832
“tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ
giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại
“lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho vừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự
lành”;… Và hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá,
thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp “người khôn ăn nói nửa chừng, để cho ngưrời dại
nửa mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói...). Chính thói quen ứng xử nặng tinh
cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp đã khiến
cho ngươi Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái chiều, cũng như không
dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt
Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm
làm nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi
nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên
một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú thấm đẫm tình người của người Việt.
Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp
đem lại thì vạn vật tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai yếu tố
này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì
không thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động
tiêu cực này mà có thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ,
bảo tồn và phát huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản
sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 10. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống , qua đó chỉ ra
vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân
Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,
mối quan hệ giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài
của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự
nhiên và xã hội. Đó là những giá trị được kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt
Nam qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước và cốt lõi
quan hệ văn hoá gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối của phương thức
sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền
thống có các đặc điểm sau: 23 lOMoARcPSD| 36477832
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không
chỉ trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân
muốn thành đạt và được kính trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan
niệm thăng tiến xã hôi của con người Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có
khả năng trị quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là phải tề gia. Phần quan trọng
nhất trong văn hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo là con đường
dẫn từ khởi điểm tới đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ bản và ổn định,
những bổn phận phải làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây
chính là cái khung tiêu chuẩn của đạo lý con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho
mọi thành viên trong gia đình. Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta
gọi là người có gia giáo. Một cách đơn giản, gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết ở trong
gia đình, ngoài xã hội, nơi làng nước. Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh
nghiệm sống của người trước về cách cư xử, phép tắc, thói tục; các kinh nghiệm này
đã được xã hội hóa. Người lớn trong gia đình đóng vai trò làm gương sáng, chỉ dạy
cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình.
Mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại
đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc,
nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót;
Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị
chi phối tuyệt đối của tập thể gia đình đối với mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích
chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình; vừa tôn
trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể
thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và
vạn vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc
đa, tàn lá, được bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm sự
nương tựa vào thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà
ngoài ngõ, nơi sông núi và ngoài đại dương luôn có những lực lượng thần thiêng chi
phối cuộc sống và an sinh của mình. Tình cảm tín ngưỡng nầy đã ăn sâu trong văn hóa
gia đình Việt Nam. Các lễ nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện trong cuộc sống 24 lOMoARcPSD| 36477832
gia đình và làng nước. Tin vào lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ trời luôn thúc giục
người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo
trừng phạt “Ai ơi, chớ ở đầy vơi. Trời cao không phụ lòng người hiếu trung.” Người
thành công trong công ăn việc làm, cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông
đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam:
“trời cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi
ông bà cha mẹ nữa, “Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia
đình Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi
và chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt
đầu con ngồi đấy); con trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng
phong kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia
đình đa thê, "trai chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1
chồng"...,Quan niệm gia đình đông con là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ
thực tiễn của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con là để có người lo việc đồng áng, và lập
gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên
nhân gây ra nhiều thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền
phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên
khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền
đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm
quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò
của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội. Vai trò:
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền
vững, gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất
tiếc khóc chào đời đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn
luôn là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các
chức năng quan trọng của gia đình đó là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao
động, sản xuất ra của cải vật chất và cũng là nơi gìn giữ và phát huy giá trị tinh thần
cao qúy của dân tộc; là tổ ấm đem lại hạnh phúc, yêu thương, chia sẻ vui buồn, luôn 25 lOMoARcPSD| 36477832
đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho mỗi con người. Bên cạnh vai trò
đó, gia đình còn là môi trường sống, môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân
hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Vai trò giáo dục trong gia đình giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển
nhân cách con người, kết hợp giáo dục từ nhà trường và xã hội. Mỗi cá nhân, từ khi
lọt lòng mẹ đến khi trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng nói, từ cách ứng
xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ phép. Khi
bước chân vào cánh cửa nhà trường, môi trường giáo dục nhà trường, bên cạnh việc
dạy chúng ta kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật thì giáo dục đạo đức, lối sống vẫn
là nội dung quan trọng để mỗi cá nhân hình thành nhân cách. Trong môi trường giáo
dục, khẩu hiệu mà chúng ta thường gặp đó là: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Một cá
nhân trước tiên phải có nhân cách tốt, có đạo đức, làm điều thiện, biết chăm lo cho
bản thân, gia đình và rộng hơn phải biết thương yêu đồng loại; biết ứng xử làm sao
cho văn hóa, văn minh nơi công cộng. Nói về đức và tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó”, bởi vậy, đạo đức mỗi con người luôn được đề cao, là cái trước tiên, là
thước đi, là tiêu chí quan trọng để đánh giá một con người.
Trong gia đình Việt Nam thường tồn tại nhiều thế hệ, có mối liên hệ mật thiết với
nhau, ở đó các cá nhân không ngừng học tập, hoàn thiện chính mình. Nhiều cá nhân
tốt sẽ thành gia đình tốt. Với ý nghĩa là môi trường văn hóa đầu tiên, gia đình hay văn
hóa gia đình là giá trị cốt lõi của văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình là hệ thống những
giá trị, chuẩn mực đặc thù gắn liền với những điều kiện cụ thể của tự nhiên, xã hội.
Văn hóa gia đình được hình thành từ việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia
phong, mà ở đó là môi trường đầu tiên cho việc dạy điều hay, lẽ phải, ứng xử văn hóa,
giao tiếp lịch sự của mỗi cá nhân… Ở gia đình, mỗi thành viên vừa là người thầy, vừa
là trò. Thông qua giáo dục gia đình, các thế hệ đi trước truyền thụ cho thế hệ trẻ
những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên giá trị xã hội và nhân cách văn
hóa của mỗi con người. Ở xã hội đương đại, bình đẳng xã hội được đề cao, việc áp đặt
của người lớn với trẻ nhỏ, hay người có vai vế thấp trong gia đình không còn như
trước, bởi vậy mối quan hệ tương tác qua lại trong giáo dục gia đình ngày càng một
hoàn thiện. Bên cạnh việc giáo dục thế hệ trẻ, người lớn biết lắng nghe, học tập và
hoàn thiện chính mình. Trong chủ trương xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, tiêu chí
một gia đình văn hóa phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản, đó là: Gương mẫu chấp hành
chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các
phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú; Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; 26 lOMoARcPSD| 36477832
Tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh
doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Gia đình văn hóa biểu
hiện ở mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm quan tâm, chắm sóc
giữa các thành viên. Từ các tiêu chí đó, văn hoá gia đình chính là mấu chốt để hình
thành, gìn giữ và phát triển, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước.
Câu 11. Hãy trình bày đặc trưng của văn hoá làng và ảnh hưởng của nó đến thói
quen, lối sống, cách tư duy ứng xử của người Việt ( ảnh hưởng đến Pháp luật ),
sưu tầm những câu thành ngữ tục ngữ nói về văn hoá làng của người Việt.

Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo
làm nên bản sắc của văn hóa truyển thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã cùng
gặp nhau khi khái quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tính cộng đồng và tính tự trị.
Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng đồng
như là một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên kết, gắn bó
chặt chẽ giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau. Về cơ sở
hình thành của tính cộng đồng, tính cộng đồng được hình thành trên nền tảng của hai
mối quan hệ: láng giềng và huyết thống. Quan hệ láng giềng do phương thức sản xuất
nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải định cư, người Việt đã sống quần tụ thành cộng
đồng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng gắn bó như việc Việt Nam thúc đẩy
hợp tác giữa các nước làng giềng mê công; “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Về
quan hệ huyết thống, làng Việt được hình thành trên cơ sở của sự quần tụ các gia đình
có cùng huyết thống, gắn bó, cưu mang, đùm bọc nhau cà về vật chất lẫn tinh thần
“chị ngã em nâng”; “một người làm quan cả họ được nhờ”;… Hai mối quan hệ này đã
tạo nên chất keo gắn kết các thành viên trong làng thành một khối cộng đồng bền chặt.
Gắn kết với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn tương trợ giúp đỡ
nhau trong lao động sản xuất, chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói rét, mất mùa,
lực lượng chức năng giúp đỡ người dân miền Trung trong trận lụt. Về xã hội, những
người trong làng luôn giúp đỡ nhau khi có khó khăn, hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi
buồn. Về phong tục, tín ngưỡng, cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
cùng thờ chung một vị thần của làng (Thành Hoàng), cùng tham gia các hội hè, đình
đám… đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Về luật pháp, mỗi làng có
qui ước, luât tục riêng, mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, làng xã “một
người làm quan cả họ được nhờ”; “phúc cùng hưởng, họa cùng chia”; 27 lOMoARcPSD| 36477832
… Biểu tượng của tính cộng đồng là sân đinh - bến nước – cây đa. Làng nào cũng có
một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: trung tâm
hành chính, trung tâm văn hoá, trung tâm về mặt tôn giáo và trung tâm về mặt tình
cảm. Cây đa, đó là biểu tượng của sự hiền hòa, yên bình, trường thọ. Cây đa là địa chỉ
dừng chân cho khách thập phương viếng thăm làng xã. Cây đa là nơi nghỉ ngơi hóng
mát của thợ cày, thợ cấy, của các bô lão và con trẻ trong làng. Cây đa là nơi đưa tiễn
người đi xa và cũng là địa chỉ đón người về làng… Bến nước là nơi diễn ra các lễ hội
của cư dân nông nghiệp lúa nước như bơi chải, rối nước, bơi lội… Bến nước là địa chỉ
kết nối cộng đồng, môi trường và văn hóa…
Tuy nhiên, điều gì cũng có hai mặt tích cực va tiêu cực, ảnh hưởng tiêu cực trong đặc
trưng tính cộng đồng của văn hóa làng là do lối sống đề cao tính cộng đồng, coi nhẹ
vai trò cá nhân nên người dân trong xã hội phong kiến không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân, mà họ bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, họ mạc,
làng xã (chịu trách nhiệm liên đới: quan hệ huyết thống – con dại cái mang; hôn nhân,
láng giềng – tru di tam tộc, cửu tộc). Hình thanh thói quen ứng xử bao che lẫn nhau.
Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, không chịu trách nhiệm cá nhân. Là hệ quả của tính cộng đồng,
thói quen ứng xử nặng tình nhẹ lý đã có nhiều tác động tiêu cực đến văn hóa ứng xử
với pháp luật, cụ thể là do tình cảm được đặt ở vị trí được ưu tiên trong việc giải quyết
các mối quan hệ nên đã hình thành thói quen ứng xử trọng tình nhẹ lý, dẫn đến cách
hành sự chủ quan, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong việc giải quyết các mâu thuẫn, bất
đồng thường dễ dàng tha thứ cho nhau, "chín bỏ làm mười", "dĩ hòa vi quí", không
đấu tranh đến cùng mà dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, ngại va chạm, "một
đời kiện 9 đời thù", từ đó pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được
ưa chuộng đối với người Việt.
Nhưng dù cho thế nào, ta cũng không thể phủ nhận được rằng sự gắn kết cộng đồng đã
tạo nên một chất keo gắn bó các thành viên trong làng, khiến cho làng trở thành một
đơn vị cố kết chặt chẽ. Tính cộng đồng được bảo tồn, nuôi dưỡng, được hình thành
trên nền tảng của văn háo làng cũng chính là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết
dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quí báu của dân tộc ta.
Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với
nhau thì tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác. Về
cơ sở hình thành tính tự trị, phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và
nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị,
hướng nội của văn hóa làng. Thêm nữa, do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi
làng là một đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi 28 lOMoARcPSD| 36477832
làng, tạo nên tính chất tự trị, khép kín như một đặc trưng nổi bật của văn hóa làng. Về
tổ chức hành chính, mỗi làng có một bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò và
chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Về tình cảm, các thành viên trong làng đều
có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong
phạm vi làng. Nếu cây đa, đình làng là biểu tượng cho tính cộng đồng thì lũy tre làng
và cổng làng là biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng; đồng thời là ranh
giới phân định cụ thể không gian sống biệt lập của mỗi làng.
Trong cách tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống, mỗi làng là một đơn vị hành chính
độc lập, quản lý xã hội chủ yếu bằng luật tục - Hương ước - Lệ làng. Vì luật tục - lệ
làng rất cụ thể và phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi làng, trong khi luật pháp của
nhà nước thì chỉ mang tính phổ quát cho nên người dân chỉ quen với việc tuân thủ lệ
làng mà không quan tâm đến luật pháp của nhà nước. Đó là lý do khiến cho luật pháp
của nhà nước không có mấy hiệu lực đối với cuộc sống của cư dân sau lũy tre làng.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến ý thức không tôn trọng pháp luật.
Rõ ràng, các truyền thống văn hóa ngàn đời của làng xã Việt Nam là rất đáng trân
quý. Nhưng bên cạnh đó, có các quy tắc, giới luật trong làng xã đôi khi đi quá giới
hạn. Đã ăn sâu vào máu thịt, trong tâm khảm của người dân. Khiến Phép Vua thua lệ
làng lại ở vế đầu tiên (vế này mang ý nghĩa tiêu cực). Đó là đặt ra những quy định tùy
tiện, những Hương ước bất chấp tất cả kỷ cương phép nước, mang tính bảo thủ. Các
hành vi trái với luân thường đạo lý, trái với đạo đức xã hội: Nạn mê tín dị đoan để trục
lợi, hũ tục ma chay, tảo hôn, trọng nam khinh nữ… Hiện nay, Phép vua thua lệ làng
cũng đang dần dần nằm trong sự kiểm soát của nhà nước. Đảng & nhà nước ta vẫn
đang ngày ngày áp dụng chính sách tuyên truyền vận động xóa bỏ các Hương ước lạc
hậu, những phong tục tập quán mang tính tiêu cực, cổ hủ. Đồng thời củng cố để cho
phát triển các bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của làng xã đã có từ xa
xưa. Để mong có một xã hội tiên tiến, công bằng và văn minh.
Chương 3. Văn hóa truyền thống đến hiện đại
Câu 12. Hãy phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn
hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại
Văn hóa Việt Nam (cũng như bất cứ nền văn hóa của một dân tộc nào) đều là sản
phẩm của tính quá trình, như một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại. Nền văn
hóa truyền thống Việt Nam là sản phẩm của ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước,
trên nền tảng của phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông. Những đặc 29 lOMoARcPSD| 36477832
trưng của văn hóa truyền thống đã thẩm thấu đến những tầng sâu nhất của đời sống xã
hội, kết đọng trong lôi sông, cách tư duy và mô thức ứng xử của con người, làm nên
cái gọi là bản sắc văn hóa Việt.
Tuy nhiên, là một phạm trù xã hội, văn hóa hiển nhiên la không thế ổn định, bất biến
khi xã hội có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt
của xã hội Việt Nam sau mấy mươi thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng
của văn minh nông nghiệp lúa nước đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây,
được khởi đầu chính thức từ cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858).
Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại thực ra đã
được manh nha từ thế XVII, bắt đầu từ cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây thông
qua vai trò của các nhà buôn (đến từ Bổ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, buôn bán
ở Kẻ Chợ Thăng Long và các phố cảng như Hội An, Phố Hiến), và sau đó là các giáo
sĩ Cơ-đốc giáo đến để truyền đạo. Tuy nhiên, chỉ từ khi người Pháp đặt được sự thống
trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thì ảnh hưởng của văn minh công nghiệp phương
Tây mới thực sự tác động một cách toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực đời sống vật
chất và tinh thần của người Việt, từng bước làm thay đổi văn hóa Việt. Dấu ấn của
văn hoá Pháp ở Việt Nam là những điều tốt đẹp, tích cực, làm phong phú thêm chính
văn hoá dân tộc chúng ta. Có những di sản phi vật thể như chữ Quốc ngữ mà chúng ta
đang dùng ngày nay có một phần văn hoá của phương Tây nói chung và người Pháp.
Hiện nay, Tiếng Việt cũng có 1 số lượng không nhỏ từ mượn Tiếng Pháp: Nhà ga,
xúc-xích,trứng ốp-lết, áo vét, găng tay... Nhu cầu xây dựng các công trình công cộng
và nhà ở cho người Pháp đã khai sinh ngành công nghiệp xây dựng ở Việt Nam và để
lại những công trình kiến trúc độc đáo, một di sản chung cho cả hai quốc gia. Chúng
ta có thể thấy Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Phủ Chủ
Tịch, Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Ngoài ra còn có các công trình như trụ sở Bộ Ngoại giao,
đường Trần Phú, bệnh viện Xanh Pôn, thư viện quốc gia, chợ Đồng Xuân… Đây đều
là những công trình đẹp, tiêu biểu cho phong cách Pháp ở Việt Nam. Các thể chế nghệ
thuật khác như nhà hát Opera Hà Nội, Opera Saigon, Opera Hải Phòng, rạp chiếu
phim Cinema Palace (nay là rạp Công Nhân),… và tiếp tục tồn tại tới ngày nay. Văn
hóa ẩm thực Pháp còn thẩm thấu mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam để những thói quen
mới được hình thành như uống cà phê, rượu vang, bánh mì, pa tê, các món trứng và
thói quen dùng dao, nĩa. Có thể nói kể từ khi du nhập vào Việt Nam, văn hóa Pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Việt xưa và nay.
Cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Mỹ và phương Tây diễn ra từ 1954 đến 1975
diễn ra ở miền Nam là hệ quả tất yếu của cuộc chiến tranh xâm lược của để quốc Mỹ; 30 lOMoARcPSD| 36477832
theo đó, nền kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Nam phát triển theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Người Mỹ rất coi trọng tính tự lập và cá tính bản thân. Chính vì vậy nét
văn hóa này có ảnh hưởng rất lớn tới Việt Nam. Người Việt vốn là nước phong kiến
trước đây giá trị con người giữa nam và nữ có sự khác biệt vô cùng lớn. Tuy nhiên,
cùng với sự hòa nhập phát triển văn hóa người Việt hiện nay có sự thay đổi vô cùng
lớn. Đó là đề cao giá trị con người, sự bình đẳng không phân biệt, giới tính, dân tộc
vùng miền… Sự xuất hiện rất nhiều món ăn ngon từ Mỹ tại Việt Nam không còn xa lạ
hiện nay. Đây chính là ảnh hưởng lớn văn hóa ẩm thực của Mỹ tới Việt Nam rõ nhất.
Ngoài món ăn truyền thống người Việt có cơ hội thưởng thức món ăn khoái khẩu của
Mỹ tại Việt Nam như bánh pizza, hotdog, sườn nướng, thịt xông khói, các món tráng
miệng và các loại súp… Tuy vậy, có thể nói, 30 năm có mặt của chủ nghĩa thực dân
mới (Mỹ) ở miền Nam Việt Nam, có mặt trực tiếp của đông đảo binh lính Mỹ với văn
hóa Mỹ, lối sống Mỹ nhưng riêng về văn học Mỹ ở miền Nam không có vị trí to lớn
như các nền văn học Pháp và văn học Trung Quốc (cũng là điều hơi lạ). Ngoại trừ
sách bán chạy (Best Seller Books) sách giải trí, sách tình dục và vụ án, văn học Mỹ
chỉ có thể lọt được vào địa bàn này vài tên tuổi như W. Faulkner, E. Hemingway, J.
Dos, Passos… nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sơ lược. Ảnh hưởng của văn
hoá Mỹ ở miền Nam Việt Nam chủ yếu là âm nhạc, điện ảnh, lối sống, trang phục của
các phong trào Hippies với những mặt tiêu cực là sa đọa, hưởng lạc và ma túy, mại dâm…
Cuộc giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN, đây
là cuộc giao lưu văn hóa với tính chất chủ động, thông qua con đường hợp tác, giúp
đỡ, trao đổi kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học (gửi sinh viên và cán bộ đi học ở
nước ngoài; chuyên gia nước ngoài sang giúp Việt Nam). Văn hóa Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn hóa Nga khá mạnh mẽ, tuy mỗi giai đoạn lịch sử có sự tiếp nhận theo
những xu hướng khác nhau. Sự giao lưu này diễn ra ở nhiều lĩnh vực với các hình
thức và nội dung đa dạng: văn học, điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, giáo dục, đào tạo,
xuất bản,… Sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Nga đã có ảnh hưởng không
nhỏ đến thế giới tinh thần và phong cách sáng tác của các văn nghệ sĩ Việt Nam.
Nhiều nhà lý luận văn học, văn hoá học, nghệ thuật học của Việt Nam cũng tiếp nhận
được những bài học quý báu từ các nhà khoa học lớn của Nga và Liên Xô cũ. Bên
cạnh những ảnh hưởng tích cực là chủ yếu, cuộc tiếp xúc này cũng không tránh khỏi
để lại một số dấu ấn tiêu cực. Mô hình quan liêu bao cấp đã đưa đến những hậu quả
không chỉ trong kinh tế, mà cả trong khoa học, giáo dục, đào tạo và văn hoá nghệ
thuật của Liên Xô. Sự đề cao vai trò độc tôn của hệ tư tưởng, những hạn chế của
phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng lối mòn của những 31 lOMoARcPSD| 36477832
môtip, đề tài chiến tranh, xu hướng minh họa đường lối, tô hồng hiện thực, xu hướng
chính trị hoá văn hoá - nghệ thuật, sự vi phạm nguyên tắc dân chủ trong hoạt động
sáng tạo,... cũng đã làm giới hạn tự do tư tưởng và tự do sáng tác của giới văn nghệ sĩ.
Và điều đó cũng đã tác động không nhỏ đến văn hóa Việt Nam.
Theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến
thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ". Tác động của sự kiện này
đã khiến cho “Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay". Chính “cuộc biến
thiên lớn nhất" của lịch sử này đã tất yếu dẫn đến sự thay đổi có tính bước ngoặt của
văn hóa Việt Nam, khi nó vượt ra khỏi giới hạn của phạm trù văn hóa truyền thống
phương Đông nông nghiệp, để bắt đầu cuộc hội nhập với nền văn hóa và văn minh công nghiệp phương Tây.
Câu 13. Anh chị hãy phân tích văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hai và
ảnh hang của nó đến ứng xử của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu văn
hóa được mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái
độ của Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước Đông
Nam Á (khối ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC),
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế và khu
vực này, nước ta đã chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực, từng bước
hội nhập thế giới. Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh
tranh thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh tế, tăng
mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc
áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời qua giao
lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, làm
giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. Về văn hóa vật chất, toàn
cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật,
làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để
theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công
nghệ hiện đại của thế giới. Về văn hóa tinh thần, trong giao lưu toàn cầu hóa, cư dân
văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam đưoc tiếp xúc với các nền văn hóa phong
phú, có điều kiện để hưởng thụ các sản phẩm văn hóa da dạng của nhân loại. Tạo ra
môi trường để co xát giữa văn hóa truyền thông với những giá trị văn hóa mới của
nhân loại, đó là con đường để đào thải những đặc trung văn hóa dân tộc đã trở nên lỗi
thời, không còn phù hợp với thời hiện đại. Tuy nhiên, toàn cầu hóa với nền kinh tế thị
trường cạnh tranh lạnh lung vì lợi nhuận đang dẫn tới nguy cơ làm xói mòn những gia 32 lOMoARcPSD| 36477832
trị truyền thống của dân tộc (lối sống trọng tình, sự bên vững của gia đình và tính ổn
dịnh của xã hội...). Toàn cầu hóa kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thu các gia trị vật chất,
theo đó là văn hóa tiêu dùng, văn hóa hưởng thụ, là khát vọng làm giàu, lối sống ăn
chơi sa đọa, bạo lực, thực dụng, tác động đến lối sống giản dị, cần kiệm của người
Việt Nam truyền thống. Tính cộng đồng như một giá trị tốt đẹp của văn hóa làng xã
đang chịu thử thách mạnh mẽ trước làn sóng đô thị hóa. Các quan hệ gia đình lỏng lẻo
dân, có sự phân hóa trong tư duy, lối sống, cách ứng xử giữa các vùng miền, các tầng
lớp dân cư, các thế hệ. Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa Việt Nam đang ở buổi giao
thời, khi các giá trị truyền thống đang bị khủng hoàng, nhiều cái cũ đã tỏ ra lỗi thời,
trong khi cái mới đuoc du nhập ồ ạt mà chưa được thẩm định bởi thời gian nên chua
định hình những chuẩn mực mới. Do đó sẽ không tránh khỏi những hiện tượng xô bo,
đan xen về văn hóa, trong đó tốt - xấu lẫn lộn, tệ nạn xã hội lan tràn, kiểm soát, thậm
chí có lúc, có nơi, cái xấu nổi trôi. lấn át cải tốt. Đặc biệt, đối với tầng lớp thanh niên
luôn vồ vập với cái mới thì càng khó định vị một chuẩn mực sống cho phủ hợp, cũng
những nguyên nhân trực tiếp đë ra các loại tội phạm trong thanh niên - một thực trạng
đáng báo động hiện nay.
Trong giao lưu hội nhập toàn cầu hóa, giới trẻ có ý thức hơn về quyền và nghĩa vụ học
tập sẽ vào học trong các ngành nghề đáp ứng dần với thị trường lao động trong nước
và quốc tế. Giới trẻ có quan điểm thực tế hơn đối với việc chọn bậc đại học. Từ đó
dẫn tới tỷ lệ thanh niên đăng ký theo học các trường nghề và các trường trung học
chuyên nghiệp tăng lên đáng kể. Giới trẻ ý thức đầy đủ hơn và tích cực tham gia vào
xây dựng xã hội học tập; nhiều người sẽ thực hiện phương châm: ở đâu, làm gì, thời
gian nào, cũng học tập và học tập thường xuyên, suốt đời. Số giới trẻ đi du học nước
ngoài tăng nhanh, nhất là thanh niên đi du học tự túc; số thanh niên tự tìm kiếm học
bổng đi du học nước ngoài tăng lên đáng kể. Giới trẻ mong muốn Nhà nước có các
chính sách khuyến khích thanh niên học tập nâng cao trình độ chuyên môn và tay
nghề; mong muốn được đào tạo trong môi trường học tập thân thiện và chất lượng đào
tạo cao. Khả năng trí tuệ của giới trẻ, năng lực tự chủ và tính năng động của giới trẻ
có bước phát triển đáng kể. Bộ phận thanh thiếu niên tiên tiến có quyết tâm cao, hoài
bão lớn và luôn phấn đấu cống hiến cho đất nước sẽ ngày càng đông đảo. Nhận thức
chính trị của giới trẻ được tăng cường là động lực tinh thần quan trọng để phát huy
tính xung kích, tinh thần tình nguyện của đa số thanh niên Việt Nam trong thời gian
tới. Tỷ lệ giới trẻ tích cực phấn đấu gia nhập tổ chức Đoàn, Đảng có xu hướng tăng.
Ngòai ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia - dân
tộc, trong thời đại tòan cầu hóa, giới trẻ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa,
tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế 33 lOMoARcPSD| 36477832
giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên thường có xu hướng thử nghiệm nhiều
khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những
thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm
lại. Và vì vậy, phần đông giới trẻ thường có xu hướng hoài nghi, kiểm chứng lại
những lựa chọn, chế định và quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận,
làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình.
Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong ứng xử văn hóa của giới
trẻ. Khi những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên án thì thanh niên sẽ
rơi vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội. Trong một
vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã
xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn. Một bộ
phận lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống buông thả, quay lưng lại với văn hóa, giá trị đạo
đức truyền thống. Họ không thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng,
không quan tâm đến các hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống; trái lại,
tán dương và cổ vũ cho những bài hát có nhịp điệu mạnh, như Rock, Rap hoặc những
bài hát có nội dung phản cảm. Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin
đại chúng, trên các mạng thông tin toàn cầu liên tục tuyên truyền các hình ảnh, tin tức,
ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Điều này đã làm
gia tăng tình trạng phạm tội ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Vì lẽ đó, việc giữ gìn và
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa hiện
nay là yêu cầu tất yếu, là một trách nhiệm nặng nề, cấp bách và có ý nghĩa to lớn đối
với toàn Đảng, toàn dân ta. 34