Đề cương ôn tập "Triết học"
Bộ 3 câu hỏi ôn tập bao gồm câu hỏi tự luận(có đáp án) giúp sinh viên củng cố kiến thức và đạt điểm cao trong bài thi kết thúc học phần.
Môn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trường: Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|36451986 TRIẾT HỌC
Câu 1: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn tại sao là nguyên tắc của Triết học Mác? Trên cương vị
công tác của mình, vận dụng nguyên tắc đó như thế nào? Trả lời:
Thực tiễn là phạm trù TH chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử XH của con người
làm biến đổi tự nhiên và XH
- Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể
- Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ bản: hoạt động SX vật chất,
hoạt động biến đổi CT XH, hoạt động thực nghiệm KH, trong đó hoạt động SX vật chất là hoạt động
có ý nghĩa quyết định các hình thức khác hoạt động biến đổi CT-XH hình thức cao nhất và hoạt động
thực nghiệm KH là hình thức đặc biệt nhằm thu nhận những tri thức về hiện thực khách quan.
Lý luận với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn là tổng hợp các tri
thức về tự nhiên, XH đã được tích lũy trong quá trình lịch sử của con người.
- Như vậy lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, là những tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực.
- Là sản phẩm của quá trình nhận thực nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
* Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
Trong quan hệ với lý luận thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn
lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ :
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức (lý luận). Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của lý luận .
- Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hoá, hiện thực hoá, mới có sức
mạnh cải tạo hiện thực.
Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận song theo CNDV biện chứng, lý luận có sự tác
động trở lại đối với thực tiễn.
- Lý luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn, vì
thế, có thể nói, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
- Lý luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn là cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hợn.
- Lý luận CM có vai trò to lớn trong thực tiễn CM. Lênin viết : “Không có lý luận CM thì
không thể có phong trào CM”.
Giữa lý luận và thực tiễn cò sự liên hệ, tác động qua lại tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Bởi vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của TH Mác-Lênin.
* Quan điểm thực tiễn
- Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo
xát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực tiễn,
phải lấy thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những
luận điểm của lý luận.
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
- Quan điểm thực tiễn còn đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải được hình
thành , bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ klhông phải bằng con
đường suy diển thuần túy, không phải bằng con đường tư biện.
Do đó nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn , phải bổ
sung phát triển lý luận (do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết xem
nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp). Nắm vững quan điểm này có ý nghĩa trong
việc góp phần hạn chế bệnh giáo điều và bệnh chủ quan duy ý chí (trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn).
Câu 2: Phân tích & chứng minh tại sao phép biện chứng duy vật mang tính cách mạng khoa học và sáng tạo. Trả lời:
a) Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: "Phép biện chứng...
là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy".
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn có một số định nghĩa khác về phép biện
chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định
nghĩa: "Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến"; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên
lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện
chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng định: "Trong số những thành
quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con
người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng"',...
b) Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác lập
trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật không
chỉ có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng
của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm), mà còn có sự
khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ
thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây thơ và chất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác—Lênin có sự thống nhất giữa nội
dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận hiện chứng duy vật, do đó nó không
dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi
nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ là sự giải thích
đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và
cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến
của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc
phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể,
phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận
động, phát triển,... Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai
cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc
biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
tính khoa học và cách mạng của chú nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan vả phương
pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. -----
Phép biện chứng duy vật xuất phát từ hai nguyên lý cơ bản đó là nguyên lý về mối quan hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới không tồn tại một cách cô lập mà chúng luôn có mối liên hệ với
nhau, tác động qua lại, chuyển hoá cho nhau. Cơ sở quy định mối liên hệ đó nằm ngay trong chính
bản thân các sự vật hiện tượng, do sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập ở bên trong sự vật, do sự
tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật. Ví dụ: tự nhiên và xã hội, điện năng và quang
năng, các thiên thể trong vũ trụ…
Mối liên hệ phổ biến có ba đặc tính cơ bản là: tính khách quan; tính phổ biến – mối liên hệ phổ biến
và tính đa dạng, phong phú.
Thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, mối liên hệ giữa các sự vật và trong bản thân một sự vật là vô
cùng phong phú và đa dạng. Hơn nữa, chúng lại luôn ở trạng thái vận động, biến đổi hình thành
những mối liên hệ mới.
Hình thái các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng cũng đa dạng. Có mối liên hệ bên trong – có mối
liên hệ bên ngoà. Có mối liên hệ bản chất – có mối liên hệ không bản chất. Có mối liên hệ cơ bản – có
mối liên hệ không cơ bản. Có mối liên hệ trực tiếp – có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên
– có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ chủ yếu – có mối liên hệ thứ yếu…
Phép biện chứng duy vật khẳng định sự vật luôn vận động và phát triển. Quan điểm biện chứng xem
sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những bước nhảy vọt về chất, sự vật cũ mất
đi, sự vật mới ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập ở bên trong bản thân sự vật.
Sự phát triển có các tính chất cơ bản là: tính khách quan; tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. * Tính khách quan.
+/ Nguyên nhân của sự vận động và phát triển của sự vật là do sự tác động (sự đấu tranh) giữa các mặt
đối lập trong bản thân sự vật.
+/ Phát triển là quá trình thay đổi dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng.
+/ Phát triển là quá trình cái mới ra đời từ cái cũ theo quy luật phủ định của phủ định, là quá trình đi
lên theo vòng xoáy ốc (Tính kế thừa). * Tính phổ biến
Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của
thế giới khách quan. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
* Tính đa dạng, phong phú
Mỗi sự vật, mỗi hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau vì mỗi sự vật tồn tại ở không
gian, thời gian khác nhau đồng thời chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác…
Vận dụng sự hiểu biết hai nguyên lý trên khi xem xét một sự vật cụ thể, ta phải có quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử và quan điểm cụ thể thì mới phản ánh đúng được sự vật.
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật bao gồm:
- Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất. Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái
riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong
hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn thấy sự
chuyển hoá nào có lợi ta cần chủ động tác động vào đó để nó nhanh chóng trở thành hiện thực.
- Nguyên nhân và kết quả.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên. - Nội dung và hình thức
- Bản chất và hiện tượng.
- Khả năng và hiện thực
Các quy luật cơ bản của phép biên chứng bao gồm:
Căn cứ vào tính phổ biến (phạm vi): + Quy luật riêng. + Quy luật chung. + Quy luật phổ biến.
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
Căn cứ vào lĩnh vực tác động (đối tượng): + Quy luật tự nhiên. + Quy luật xã hội.
+ Quy luật của tư duy: là những quy luật chỉ ra các mối liên hệ nội tại giữa các khái niệm, phạm trù,
phán đoán hình thành nên hệ thống tri thức về sự vật, hiện tượng.
Triết học nghiên cứu tất cả các lĩnh vực nói trên, cho nên các quy luật triết học là phổ biến. Quy luật
triết học trong phép biện chứng bao gồm:
- Quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và nược lại.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
- Quy luật phủ định của phủ định.
Trong hoạt động thực tiễn, thông qua phép biện chứng duy vật, chúng ta sẽ có được một cách nhìn
đúng đăn và toàn diện về các sự vật và hiện tượng quanh ta.
Câu 3: Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, ở Việt Nam đi lên
CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN có trái với quá trình lịch sử tự nhiên không? Để xây dựng
CNXH ở Việt Nam thì phải làm gì? Trả lời:
Câu 11: Hình thái kinh tế xã hội là gì? Vạch ra ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội? phân tích tư tưởng của Mac “sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử
- tự nhiên” Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng học thuyết hình thai KT-XH như thế nào vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay.
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội là nội dung cơ bản của CNDVLS của triết học
Mác – Lênin; nó chẳng những chỉ rõ kết cấu của các xã hội cụ thể, mà còn vạch rõ những quy luật nội
tại, cơ bản chi phối sự vận động phát triển của đời sống xã hội nói chung, cũng như xã hội trong
những giai đoạn lịch sử cụ thể. Như vậy học thuyết Mác xít về HTKT-XH là cơ sơ lý luận và phương
pháp luận của các khoa học xã hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là 1 trong
những nền tảng lý luận của CNXH khoa học. Vậy, hình thái kinh tế xã hội là gì ?
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu Quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất (LLSX) và với một kiến trúc thượng tầng (KTTT) tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất (QHSX) ấy.
Cấu trúc của Hình thái KT - XH bao gồm ba yếu tố cơ bản là: lực lượng sản xuất, QHSX và
KTTT. Ba yếu tố cơ bản này có quan hệ biện chứng với nhau và trở thành tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các xã hội cụ thể. Đây là căn cứ khoa học để xem xét bản chất của một chế độ xã hội và
phân biệt nó với một chế độ xã hội khác.
Ý nghĩa của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội :
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một cuộc Cách mạng trong toàn bộ quan
niệm về lịch sử xã hội. Nó chỉ ra rằng động lực của lịch sử chính là hoạt động thực tiễn của con người
dưới tác động của quy luật khách quan. Học thuyết Mác cũng nhấn mạnh vai trò quyết định xét đến
cũng của nhân tố cơ sở hạ tầng của kinh tế, song không giờ coi nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất
quyết định trong lịch sử.
Trong các quy luật khách quan, học thuyết Mác khẳng định quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong
mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. -
Tóm lại, học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội công cụ lý luận giúp chúng ta
nhận thức được những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội, là phương
pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và là cơ sở lý luận cho việc hoạch định con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các Hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử được
qui định bởi mối quan hệ biện chứng giữa chính các yếu tố cấu thành Hình thái kinh tế –xã hội, hình
thành nêu những quy luật phổ biến của xã hội đó là: quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ
phát triển của LLSX; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và KTTT; những quy
luật tác động trong xã hội có đối kháng giai cấp, đặc biệt là quy luật đấu tranh giai cấp.
Trước hết học thuyết hình thái kinh tế xã hội, chỉ rõ rằng : sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn
tại và phát phát triển của xã hội; xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải có quá trình sản xuất và tái
sản xuất, cũng như vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên .
Thực tế cho chúng ta thấy, lịch sử xã hội loài người vận động phát triển liên tục không
ngừng từ thấp đến cao và sẽ trải qua 5 hình thái KT - XH kế tiếp nhau. Đó là các hình thái KT -
XH: Công sản nguyên thuỷ; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa; cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH. Quá trình này không phụ thuộc vào ý thức yếu tố chủ quan
của bất cứ cá nhân hay lực lượng sản xuất nào, mà nó tuân theo các quy luật kinh tế khách
quan vốn có của đời sống xã hội, mà trước hết và cơ bản là quy luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt khi có điều kiện khách
quan, chủ quan ở thời đại cho phép, thì một quốc gia nào đó có thể diễn ra sự phát triển đặc
thù. Tức là bỏ qua một giai đoạn nào đó trong tiến trình lịch sử để bước vào một giai đoạn cao
hơn mà không nhất thiết phải từng tự qua năm hình thái KT - XH, nhưng vẫn đảm bảo từ thấp
đến cao tuân theo các quy luật đặc thù của xã hội.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh, hàng loạt quốc gia trên thế do những điều kiện thuận lợi nhất
định, đã bỏ qua một vài hình thái KT - XH nào đó để vượt lên một hình thái KT - XH cao hơn. Mác
gọi đây là khả năng ‘rút ngắn”, là quá trình lịch sử đặc thù. Quy luật kế thừa của lịch sử loài người
luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong những điều kiện nhất định, do tác động của nhân tố bên trong
và bên ngoài có thể bỏ qua giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại.
Lịch sử đã chứng minh , sự giao lưu, hợp tác với các trung tâm phát triển cao về sản xuất vật chất kỹ
thuật, văn hoá, chính trị. . . cho phép một số nước kém phát triển hơn ‘đi tắt” Tuy nhiên, nếu “rút
ngắn” một cách nóng vội, bất chấp quy luật khách quan sẽ rơi vào “bệnh” chủ quan, duy ý chí.
Học thuyết hình thái KT – XH là cơ sở lý luận để chúng ta nghiên cứu mô hình xây
dựng CNXH ở Việt Nam. Nhận thức và vận dụng đúng nguyên tắc này giúp ta tăng cường hệ
thống chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và hoàn thiện Nhà
nước kiểu mới thích ứng với sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế định hướng đi lên
XHCN, tạo điều kiện giải phóng sức lao động, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX, sản xuất kết
hợp với tăng cường dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mô hình mà chúng ta xây
dựng kết hợp đồng thời kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng mới, phù hợp với đặc điểm
riêng có và những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Hiện nay, nước ta đang quá độ lên CNXH
trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ, vấn đề quốc tế hóa, toàn cầu hóa có ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc xây
dựng, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy là một quốc gia chưa qua giai
đoạn phát triển TBCN, song với những điều kiện lịch sử trong nước và quốc tế hiện tại việc quá
độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN hoàn toàn có thế thực hiện được. Điều đó, hoàn
toàn phù hợp với quy luật lịch sử - tự nhiên của học thuyết Mác về sự vận động phát triển của các hình thái KT –XH.
Nếu quay ngược lại dòng thời gian chúng ta sẽ nhìn thấy sự sụp đổ của hệ thống các nước
XHCN ở Đông Au và Liên Xô trước đây, chủ yếu là do trong công cuộc cải tạo và xây dựng đất nước
đã mắc phải một số sai lầm về chủ quan, không vận dụng đúng các quy luật khách quan về hình thái
KT - XH cụ thể là : tuyệt đối hoá trong nhận thức, vận dụng và điều chỉnh cơ chế không phù hợp với
sự vận động và biến đổi của thế giới. Trong lĩnh vực kinh tế, duy trì quá lâu tình trạng sản xuất nhỏ,
xây dựng QHSX mới không phù hợp với trình độ của LLSX dẫn đến kìm hảm sự phát triển kinh tế,
gây khủng hoảng kinh tế...dẫn đến hệ thống XHCN trên thế giới phải lâm vào tình trạng thoái trào. Đó
là cái giá đắt mà những người cộng sản đã phải trả, và cũng là bài học xương máu mà Đảng cộng sản
Việt Nam đã rút ra để tiến hành hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới từ đại hội lần Đảng thứ VI đến nay.
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, đầy khó
khăn thậm chí đã rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng về kinh tế do việc vận dụng chưa đúng
các quy luật khách quan, nhất là về phạm trù hình thái KT - XH.
Thật vậy, trước thời kỳ đổi mới quan điểm con đường đi lên CNXH của nước ta là quá độ thẳng
trực tiếp từ sản xuất nhỏ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tức là không có trung gian,
không chấp nhận kinh tế hàng hoá, phủ nhận kinh tế thị trường, bỏ qua kinh tế nhiều thành phần, phủ
nhận những bước đi mà CNTB khi chiến thắng chế độ phong kiến đã từng thực hiện, trong khi đó
LLSX chúng ta còn yếu kém, lạc hậu… Kết quả trong thời gian dài đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Bài học kinh nghiệm xương máu ấy đã được Đảng ta đánh giá
trong đại hội VII một trong những sai lầm là bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan
và đã phân tích những biểu hiện cụ thể của căn bệnh trong một số lĩnh vực : Nóng vội trong cải tạo
XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần ; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp năng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong
việc cải cách giá cả tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Nguyên nhân cơ bản mà Đảng ta đã chỉ ra đó là về mặt nhận thức, sự yếu kém lạc hậu về tư duy
lý luận dẫn đến việc nhận thức và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ, từ đó
cho ra đời những chủ trương chính sách thiếu căn cứ khoa học, xa rời với thực tế. Sai lầm về chủ quan duy ý chí.
Những sai phạm nêu trên đã đưa XH Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Thực tế, người lao động
không còn động lực trực tiếp về lợi ích để phấn đấu, không phát huy, tạo môi trường thuận lợi để khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế nên sức sản xuất vật chất bị đình trệ, kìm
hảm làm cho đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, xã hội rối ren, phức tạp, người dân mất niềm tin nơi
nhà nước. Nhìn nhận vấn đề trên, có thể kết luận chủ yếu do khả năng yếu kém trong nhận thức thực
tiển, yếu kém trong nghiên cứu CN Mác – Lênin nên mô hình XD CNXH đã bị chệch hướng so với
mô hình được Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng.
Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đảng ta thực hiện đường lới đổi mới đất nước, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội cũng được đổi mới và xác định ngày càng rõ nét và đúng đắn phù với quá trình
lịch sử-tự nhiên đặc thù của nước ta. Đại hội VIII của Đảng ta chỉ ra rằng “ Con đường đi lên CNXH
ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn” đến đại hội đảng lần thứ IX của Đảng thì cho rằng “ Chúng ta
nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta”, và khẳng định “ con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa…”. Như vậy, chúng
ta không bỏ qua những thành tựu về khoa học công nghệ và cơ sở vật chất, tiếp tục chọn lọc kế thừa
và điều chỉnh để phát triển thành quả đó ngày càng tốt hơn; không được bỏ qua kinh tế hàng hoá thị
trường, không được bỏ qua những thành tựu kinh nghiệm mà chủ nghĩa tư bản đạt được; đặc biệt
không để mất vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý điều hành của nhà nước vô sản.
đại hội IX của Đảng còn nêu rõ những nội dung, nhiệm vụ cụ thể mà con đường đi lên CNXH ở nước
ta phải thực hiện đó là :Phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường, tiếp tục
đẩy mạnh CNH-HĐH; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Tiếp tục thực hiện
đường lối kinh tế đối ngoại mở cửa. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện thắng lợi nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của đảng cộng
sản, xem đó là nhân tố quyết định giữ vững định hướng XHCN; phát triển lực lượng sản xuất,
phải gắn với việc đồng thời xây dựng và hoàn thiện cả quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng theo định hướng XHCN; Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển văn hoá giáo dục, đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Kết hợp phát triển KT -
XH với quốc phòng an ninh và phải đảm bảo cho được kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng kinh tế quốc dân…
Có như vậy chúng ta mới có thể tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các lĩnh vực dù
biết rằng đó là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặn đường để thực hiện bằng được mục tiêu cuối cùng là ước nguyện của cả dân tộc : xây dựng
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com) lOMoARcPSD|36451986
thành công CNXH theo mô hình đã được xác định trong Cương lĩnh Đảng lần thứ VII. Đó là một xã
hội “Do nhân dân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức bốc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động. Có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Cương lĩnh ấy đại hội IX Đảng xác định mục tiêu chung cụ
thể trước mắt cần đạt tới của thời kỳ quá độ là “ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc” và
chỉ rõ “ Đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Qua tổng kết thực tiển phong phú với không ít những thành công rực rỡ và những mặt còn hạn
chế trong những năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra chủ trương :”
XD CNXH bỏ qua chế độ TBN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp
rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế XH có tính chất quá độ”(VKIX-T85) là hoàn toàn đúng với quy luật khách
quan và theo đường lối đó chúng ta hoàn toàn có khả năng để thực hiện thành công CNXH bởi vì:
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và
theo quy luật tiến hoá của lịch sử : loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Thế kỷ 21 là thế kỷ khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày
càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất của các
quốc gia; toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham
gia, trong đó có nước ta; cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta ngày càng được tăng cường, kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội phát triển nhanh, tích luỹ nội bộ kinh tế tăng trưởng qua từng năm và cơ cấu kinh tế
nước ta có bước chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại, vấn đề lương thực cơ bản đã được giải
quyết và đã có xuất khẩu cao, nhiều năm liền chúng ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; đất
nước còn nhiều tiềm năng to lớn về tài nguyên và lao động.
Tình hình chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; đặc biệt giữ
vững được sự lãnh đạo của Đảng, đảng luôn thể hiện chính trị vững vàng và có đường lối lãnh đạo
đúng đắn; Nhà nước đã có nhiều cố gắng lớn trong việc điều hành quản lý; quan hệ đối ngoại luôn
được mỡ rộng hội nhập kinh tế quốc tế được chủ động và đạt hiệu quả tốt. Nhờ vậy chúng ta tranh thủ
được ngoại lực, nguồn vốn công nghệ, kinh nghiệm quản lý , mỡ rộng thị trường để phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Mặt khác nhân dân ta có phẩm chất tốt. Toàn dân, toàn quân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng; phát huy được lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù năng
động sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa.
Với kết quả đạt được qua gần 20 năm đổi mới và những tiền đề khách quan chủ quan
như trên, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta nhất định sẽ thành công như mong đợi./.
Downloaded by Linh Chi ??ng (chithcsttst101@gmail.com)
Document Outline
- * Quan điểm thực tiễn