Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ?Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc người và có sự cải biến vàsáng tạo. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Nội dung vấn đề cơ bản của triết (tr.33)
CNDV và CNDT (tr.35)
KN biện chứng và siêu hình (tr.43)
Các hình thức của phép biện chứng (tr.46)
Sự ra đời của Triết MLN (tr.48)
Khái niệm (tr.95), đối tượng (tr.96) Triết MLN
Chức năng của Triết MLN (tr.99)
Vai trò của Triết MLN trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở VN hiện nay
(tr.102)
Định nghĩa vật chất (tr.128)
Định nghĩa ngôn ngữ (tr.157)
Định nghĩa ý thức (tr.162)
MQH giữa vật chất và ý thức (tr.172)
Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ?
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc người và có sự cải biến và
sáng tạo.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người
có khả năng phản ánh hiện thực khách quan.
Bộ óc người (não bộ): là vật chất có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp gồm
14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với
các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành
những phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ tác
động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Có các dạng phản ánh: vật lý, sinh học, ý
thức…
VD: Khi ngắm nhìn một bức tranh thì các hình ảnh trong bức tranh sẽ được phản ánh vào
não thông qua giác quan. Não bộ sẽ thu nhận và phân tích (màu sắc, đường nét, nội dung…)
để con người đưa ra đánh giá về bức tranh đó
Nguồn gốc xã hội của ý thức cũng có 2 yếu tố đó là: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công cụ sản xuất tác
động vào các đối tượng của tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại
và phát triển xã hội.
+ Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất
định và các hiện tượng ấy tác động vào óc người hình thành dần những tri thức về tự nhiên
và xã hội.
+ Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con người được
hoàn thiện trong quá trình phản ánh thế giới xung quanh.
+ Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần kinh phát triển.
VD: khi chúng ta làm việc chúng vận động, suy nghĩ giúp cho cơ thể khỏe mạnh và nâng
cao tư duy của bản thân.
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con
người làm biến đổi thế giới đó. Nên nguồn gốc cơ bản của ý thức, tư tưởng là sự phản ánh
thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động. Nhưng bản thân quá
trình lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể, tính xã hội. Vì vậy xuất hiện nhu cầu trao
đổi kinh nghiệm lao động và trao đổi tư tưởng tình cảm. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện
ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói và chữ viết tồn tại dưới dạng các khái niệm, ngôn ngữ do nhu
cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức, là “cái vỏ vật chất của tư duy”. Nếu không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội,
đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn
ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin và tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Tóm lại: Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Câu 11: Phân tích Bản chất của ý thức ?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau:
Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh:
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh
(tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất
hoặc tách rời ý thức với vật chất.
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có
tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.
Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy
móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại,
chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới quan, con người tác động vào sự vật một cách
có định hướng, chọn lọc tùy theo nhu cầu của mình. Chính vì thế ý thức của con người là sự
phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra
cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một cách tương đối chính
xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người còn có khả
năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị,...
VD: Vào thời kỳ đồ đá, con người muốn sưởi ấm là làm chín thức ăn nên đã tạo ra lửa,...
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của nó là sáng tạo
của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh. Ý thức ra đời trong quá
trình con người hoạt động cải tạo thế giới. Cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sông,
mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thông tin cần
thiết.
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư
tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng
phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con
người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
VD: Con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở
bước 2 ở trên.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan
theo mục đích của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện
tượng tự nhiên thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan
hệ xã hội khách quan.
Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội.
Ở những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức về cùng một sự vật,
hiện tượng có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau.
Câu 1. “Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây
ra những hậu quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-181)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để làm rõ nguyên tắc
phương pháp luận trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ,
trì trệ, thiếu tính sáng tạo?
Trả lời
“Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu
đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại
khôn lường”. Đây là một quan điểm đúng đắn thể hiện rõ được mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức.
Con người ta luôn phải áp dụng vào thực tiễn, tìm ra nguyên tắc khách quan xuất phát từ
quan điểm duy vật triệt để của triết học Mác - Lênin về thế giới. Đây là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc khách quan yêu cầu con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản ánh trung thực sự vật với tất cả
những bản chất vốn
có của nó, tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực mới tạo nên hiệu quả.
Vậy vật chất và ý thức là gì? chúng ta cần hiểu rõ mối quan hệ của chúng để vận dụng vào
cuộc sống, hiểu rõ hơn các hành động, suy nghĩ tránh làm những việc gây hại cho người
khác, để lại hậu quả nghiêm trọng.
Vật chất và Ý thức: Khái niệm: Vật chất là phạm trù triết học đem lại cho con người cảm
giác được cảm giác con người chụp lại, chép lại và phản ánh. Nhưng không lệ thuộc vào
cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng
tạo. Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ
động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người. Theo Lênin thì vật
chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc
vào cảm giác. Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch
sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự
phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua
hoạt động thực tiễn. Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có
trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và
mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ
không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất, chịu sự chi phối, quyết
định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có
cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất. Vật chất quy định nội dung và
hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối
tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện
khác nhau đều do mức độ tác động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại vật chất
thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất
gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách quan. Qua
hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu
phát triển của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý
chí, điều kiện, môi trường... và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến
vật chất. Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng
tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu
ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên
vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu nhận thức không dùng, ý thức
sẽ kìm hãm lịch sử.
Ý nghĩa phương pháp luận
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động tri thức mà con người
thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân
tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện những
thuộc tính, quy luật. Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người
phải căn cứ vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện
pháp, kế hoạch mới có thể thành công. Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ
căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vật chất.
Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. Con người muốn
ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả năng
của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng. Con người tuyệt đối
không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười suy nghĩ, lười lao
động.
Như vậy vật chất quyết định ý thức là quyết định nội dung bản chất và khuynh hướng vận
động và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất , cơ sở vật chất là môi trường kiểm chứng
nhận thức của con người. Xác định nhận thức đúng bác bỏ nhận thức sai. Và là nơi hình
thành các công cụ phương tiện để con người nhận thức thế giới ngày càng tốt hơn.
B, Để sinh viên có thể phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng tạo: Trước hết, bản thân từng cá nhân sinh viên phải biết được trình độ, vị trí hiện
tại của mình đang ở mức nào, phải hiểu bản thân đang mong muốn điều gì trong tương lai,
có ước mơ, có hoài bão, có khát vọng, có đam mê. Sau đó mới nhìn lại bản thân đang có
những gì và thiếu những gì. Rồi mới tập trung vào việc tìm kiếm phương tiện, phương pháp
học tập hiệu quả nhất, phù hợp nhất cho bản thân, khi đã có đích đến, có cảm xúc với mục
tiêu của mình, sinh viên sẽ có niềm cảm hứng và chủ động trong việc học tập và rèn luyện
kiến thức,kỹ năng, có thái độ sống phù hợp.
Đầu tiên, để tìm được đam mê, ước mơ và định hướng rõ ràng cũng như biết được ưu,
khuyết điểm của bản thân, thì sinh viên nên xem đại học như là một môi trường mở, một
sân chơi lớn với nhiều giá trị, phải thật sự hiểu mục đích của việc học đại học : Đại học là
khoảng thời gian để mọi sinh viên chuẩn bị hành trang cần thiết và đầy đủ nền tảng cho
cuộc sống thật sự, với rất nhiều áp lực : tự lo tài chính cho bản thân, báo hiếu cho ba mẹ,
phát triển những mối quan hệ, xây dựng sự nghiệp, lập gia đình, con cái cho tương lai. Các
trường đại học có thể đảm bảo về quy trình đào tạo chuyên môn, kiến thức chuyên ngành. ,
nhưng về phát triển kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, sắp
xếp công việc, quản lý thời gian, quản lý tài chính, đầu tư, tư duy làm chủ, thì bản thân sinh
viên phải biết tận dụng triệt để thời gian học đại học của mình để phát triển, học hỏi, rèn
luyện bên ngoài giờ học nhiều hơn, sinh viên đại học đã đủ tuổi để tự ý thức và kỉ luật bản
thân, tự có khả năng tìm tòi nghiên cứu, sáng tạo. Đó cũng là lý do Đại học có rất nhiều các
câu lạc bộ về nhiều lĩnh vực khác nhau như học thuật, kỹ năng, nghệ thuật,... cũng như có
nhiều những môi trường phát triển về tư duy, năng khiếu. Các sinh viên nên tham gia ít nhất
một môi trường song song với môi trường trên giảng đường đại học, môi trường kí túc xá,
có nhiều sinh viên lựa chọn vừa học vừa đi làm, vừa học vừa tham gia câu lạc bộ trong
trường hoặc ngoài trường, vừa học vừa xây dựng và phát triển những dự án,
đam mê của bản thân,...
Bản thân em sẽ luôn cố gắng trau dồi học hỏi điều mới lạ cho mình, học ngoại ngữ, các kỹ
năng mềm, tận dụng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, zalo,... để có thể tìm kiếm và
xây dựng cho mình các mối quan hệ, kiến thức chất lượng ngay từ năm nhất.
Tóm lại sinh viên cần tìm cho mình một người thầy hay người mentor cố vấn trong việc học
tập và trong cuộc sống, bên cạnh đó xây dựng cho mình nhiều mối quan hệ chất lượng, tích
cực và lâu dài, cuối cùng là tìm cho mình một môi trường để có thể gắn bó và rèn luyện
thêm những kỹ năng, kiến thức, thái độ sống đúng đắn. Làm việc nhóm bạn cùng tiến sẽ hỗ
trợ lẫn nhau để mỗi cá nhân được hoàn thiện nhiều hơn, một môi trường để có thể bứt phá
tiềm năng của bản thân, áp dụng những kiến thức, kỹ năng hiện có để gia tăng kinh nghiệm,
việc làm nền tảng cho tương lai.
| 1/6

Preview text:

Nội dung vấn đề cơ bản của triết (tr.33) CNDV và CNDT (tr.35)
KN biện chứng và siêu hình (tr.43)
Các hình thức của phép biện chứng (tr.46)
Sự ra đời của Triết MLN (tr.48)
Khái niệm (tr.95), đối tượng (tr.96) Triết MLN
Chức năng của Triết MLN (tr.99)
Vai trò của Triết MLN trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở VN hiện nay (tr.102)
Định nghĩa vật chất (tr.128)
Định nghĩa ngôn ngữ (tr.157)
Định nghĩa ý thức (tr.162)
MQH giữa vật chất và ý thức (tr.172)
Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ?
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc người và có sự cải biến và sáng tạo.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người
có khả năng phản ánh hiện thực khách quan.
Bộ óc người (não bộ): là vật chất có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp gồm
14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với
các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành
những phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ tác
động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Có các dạng phản ánh: vật lý, sinh học, ý thức…
VD: Khi ngắm nhìn một bức tranh thì các hình ảnh trong bức tranh sẽ được phản ánh vào
não thông qua giác quan. Não bộ sẽ thu nhận và phân tích (màu sắc, đường nét, nội dung…)
để con người đưa ra đánh giá về bức tranh đó
Nguồn gốc xã hội của ý thức cũng có 2 yếu tố đó là: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công cụ sản xuất tác
động vào các đối tượng của tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
+ Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất
định và các hiện tượng ấy tác động vào óc người hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội.
+ Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con người được
hoàn thiện trong quá trình phản ánh thế giới xung quanh.
+ Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần kinh phát triển.
VD: khi chúng ta làm việc chúng vận động, suy nghĩ giúp cho cơ thể khỏe mạnh và nâng cao tư duy của bản thân.
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con
người làm biến đổi thế giới đó. Nên nguồn gốc cơ bản của ý thức, tư tưởng là sự phản ánh
thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động. Nhưng bản thân quá
trình lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể, tính xã hội. Vì vậy xuất hiện nhu cầu trao
đổi kinh nghiệm lao động và trao đổi tư tưởng tình cảm. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói và chữ viết tồn tại dưới dạng các khái niệm, ngôn ngữ do nhu
cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức, là “cái vỏ vật chất của tư duy”. Nếu không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội,
đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn
ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin và tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tóm lại: Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Câu 11: Phân tích Bản chất của ý thức ?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau:
Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh:
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh
(tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất
hoặc tách rời ý thức với vật chất.
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có
tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.
Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy
móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại,
chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới quan, con người tác động vào sự vật một cách
có định hướng, chọn lọc tùy theo nhu cầu của mình. Chính vì thế ý thức của con người là sự
phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra
cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một cách tương đối chính
xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người còn có khả
năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị,...
VD: Vào thời kỳ đồ đá, con người muốn sưởi ấm là làm chín thức ăn nên đã tạo ra lửa,...
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của nó là sáng tạo
của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh. Ý thức ra đời trong quá
trình con người hoạt động cải tạo thế giới. Cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sông,
mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư
tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng
phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con
người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
VD: Con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan
theo mục đích của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện
tượng tự nhiên thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội.
Ở những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức về cùng một sự vật,
hiện tượng có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau.
Câu 1. “Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây
ra những hậu quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-181)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để làm rõ nguyên tắc phương pháp luận trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ,
trì trệ, thiếu tính sáng tạo? Trả lời
“Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu
đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại
khôn lường”. Đây là một quan điểm đúng đắn thể hiện rõ được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Con người ta luôn phải áp dụng vào thực tiễn, tìm ra nguyên tắc khách quan xuất phát từ
quan điểm duy vật triệt để của triết học Mác - Lênin về thế giới. Đây là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc khách quan yêu cầu con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản ánh trung thực sự vật với tất cả những bản chất vốn
có của nó, tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực mới tạo nên hiệu quả.
Vậy vật chất và ý thức là gì? chúng ta cần hiểu rõ mối quan hệ của chúng để vận dụng vào
cuộc sống, hiểu rõ hơn các hành động, suy nghĩ tránh làm những việc gây hại cho người
khác, để lại hậu quả nghiêm trọng.
Vật chất và Ý thức: Khái niệm: Vật chất là phạm trù triết học đem lại cho con người cảm
giác được cảm giác con người chụp lại, chép lại và phản ánh. Nhưng không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng
tạo. Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ
động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người. Theo Lênin thì vật
chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc
vào cảm giác. Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch
sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự
phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua
hoạt động thực tiễn. Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có
trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và
mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ
không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất, chịu sự chi phối, quyết
định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có
cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất. Vật chất quy định nội dung và
hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối
tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện
khác nhau đều do mức độ tác động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại vật chất
thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất
gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách quan. Qua
hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu
phát triển của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý
chí, điều kiện, môi trường... và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến
vật chất. Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng
tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu
ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên
vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu nhận thức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
Ý nghĩa phương pháp luận
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động tri thức mà con người
thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân
tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện những
thuộc tính, quy luật. Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người
phải căn cứ vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện
pháp, kế hoạch mới có thể thành công. Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ
căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vật chất.
Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. Con người muốn
ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả năng
của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng. Con người tuyệt đối
không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
Như vậy vật chất quyết định ý thức là quyết định nội dung bản chất và khuynh hướng vận
động và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất , cơ sở vật chất là môi trường kiểm chứng
nhận thức của con người. Xác định nhận thức đúng bác bỏ nhận thức sai. Và là nơi hình
thành các công cụ phương tiện để con người nhận thức thế giới ngày càng tốt hơn.
B, Để sinh viên có thể phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng tạo: Trước hết, bản thân từng cá nhân sinh viên phải biết được trình độ, vị trí hiện
tại của mình đang ở mức nào, phải hiểu bản thân đang mong muốn điều gì trong tương lai,
có ước mơ, có hoài bão, có khát vọng, có đam mê. Sau đó mới nhìn lại bản thân đang có
những gì và thiếu những gì. Rồi mới tập trung vào việc tìm kiếm phương tiện, phương pháp
học tập hiệu quả nhất, phù hợp nhất cho bản thân, khi đã có đích đến, có cảm xúc với mục
tiêu của mình, sinh viên sẽ có niềm cảm hứng và chủ động trong việc học tập và rèn luyện
kiến thức,kỹ năng, có thái độ sống phù hợp.
Đầu tiên, để tìm được đam mê, ước mơ và định hướng rõ ràng cũng như biết được ưu,
khuyết điểm của bản thân, thì sinh viên nên xem đại học như là một môi trường mở, một
sân chơi lớn với nhiều giá trị, phải thật sự hiểu mục đích của việc học đại học : Đại học là
khoảng thời gian để mọi sinh viên chuẩn bị hành trang cần thiết và đầy đủ nền tảng cho
cuộc sống thật sự, với rất nhiều áp lực : tự lo tài chính cho bản thân, báo hiếu cho ba mẹ,
phát triển những mối quan hệ, xây dựng sự nghiệp, lập gia đình, con cái cho tương lai. Các
trường đại học có thể đảm bảo về quy trình đào tạo chuyên môn, kiến thức chuyên ngành. ,
nhưng về phát triển kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, sắp
xếp công việc, quản lý thời gian, quản lý tài chính, đầu tư, tư duy làm chủ, thì bản thân sinh
viên phải biết tận dụng triệt để thời gian học đại học của mình để phát triển, học hỏi, rèn
luyện bên ngoài giờ học nhiều hơn, sinh viên đại học đã đủ tuổi để tự ý thức và kỉ luật bản
thân, tự có khả năng tìm tòi nghiên cứu, sáng tạo. Đó cũng là lý do Đại học có rất nhiều các
câu lạc bộ về nhiều lĩnh vực khác nhau như học thuật, kỹ năng, nghệ thuật,... cũng như có
nhiều những môi trường phát triển về tư duy, năng khiếu. Các sinh viên nên tham gia ít nhất
một môi trường song song với môi trường trên giảng đường đại học, môi trường kí túc xá,
có nhiều sinh viên lựa chọn vừa học vừa đi làm, vừa học vừa tham gia câu lạc bộ trong
trường hoặc ngoài trường, vừa học vừa xây dựng và phát triển những dự án, đam mê của bản thân,...
Bản thân em sẽ luôn cố gắng trau dồi học hỏi điều mới lạ cho mình, học ngoại ngữ, các kỹ
năng mềm, tận dụng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, zalo,... để có thể tìm kiếm và
xây dựng cho mình các mối quan hệ, kiến thức chất lượng ngay từ năm nhất.
Tóm lại sinh viên cần tìm cho mình một người thầy hay người mentor cố vấn trong việc học
tập và trong cuộc sống, bên cạnh đó xây dựng cho mình nhiều mối quan hệ chất lượng, tích
cực và lâu dài, cuối cùng là tìm cho mình một môi trường để có thể gắn bó và rèn luyện
thêm những kỹ năng, kiến thức, thái độ sống đúng đắn. Làm việc nhóm bạn cùng tiến sẽ hỗ
trợ lẫn nhau để mỗi cá nhân được hoàn thiện nhiều hơn, một môi trường để có thể bứt phá
tiềm năng của bản thân, áp dụng những kiến thức, kỹ năng hiện có để gia tăng kinh nghiệm,
việc làm nền tảng cho tương lai.