Đề cương ôn tập triết - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Đề cương ôn tập triết - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (FC.001.03)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice Đề cương ôn tập A. Lý thuyết Phần 1 a, Chương I
- Vai trò của triết học Mác Lenin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở VN hnay (102)
*1. Liên hệ: Liên hệ với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay (112). *2. Liên hệ bản thân b, Chương II
- Nguồn gốc của ý thức: tr.152, bản chất của ý thức: tr.160
- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: tr.174, nguyên tắc phương pháp luận (180).
- Hai nguyên lý cơ bản của PBC DV: tr. 189
+ Nguyên lí về mối liên hệ phổ biển -> nguyên tắc, quan điểm toàn diện (195)
+ Nguyên lí về sự phát triển -> nguyên tắc phát triển (203)
*1. Liên hệ thực tế trong quán triệt quan điểm : toàn diện, lịch sử cụ thể, phát triển.
- Ba quy luật cơ bản của PBCDV : QL mâu thuẫn (tr.245), ql lượng - chất (tr.237), ql
phủ định của phủ định (tr.251).
*2. Liên hệ vận dụng ql này với cách mạng VN , công cuộc đổi mơi và bản thân.
- Cặp phạm trù nhân – quả (tr.216); chung riêng (tr.208) *3. Liên hệ vận dụng
- Con đường nhận thức chân lý - các giai đoạn của quá trình nhận thức (tr. 274);
nguyên lý thống nhất giữa lý luận với thực tiễn (tr.279, 271, cuối trang 265)
*4. Liên hệ vận dụng trong đổi mới ở VN và liên hệ với bản thân sv từ nguyên lý này. Phần 2 Chương III
- QL mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX: tr.291, 302
*1. Liên hệ với VN hiện nay (từ 1986 đến nay).
- Biện chứng giữa CSHT và KTTT: tr.305
*2. Liên hệ với VN hiện nay (từ 1986 đến nay).
- Giai cấp (330), dân tộc (362, 366) 1 about:blank 1/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
- Nguồn gốc (385), bản chất của nhà nước (388), đặc trưng (390)
*3. Đặc trưng va phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở VN hiện nay.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại XH và Ythuc XH (440)
*4. Liên hệ trong xây dựng ý thức xh mới ở VN hiện nay. SV Ngoại giao cần làm gi đẻ XD ý thức Xh mới
- Bản chất con người theo quan điểm của CN Mác – LN (447)
*5. Giải pháp phát triển con người ở VN hiện nay.
***Các bước trả lời câu hỏi
Phần 1: MQH vật chất, ý thức, 2 nguyên lí, quanh hệ lượng chất, chung - riêng; thực tiễn - …
VD: Trình bày cơ sở triết học của quan điểm toàn diện, từ đó rút ra ý nghĩa cho bản thân.
Cách trả lời: Trình bày khái niệm, mới đi vào nội dung sau
- Quan điểm toàn diện là gì? Yêu cầu của qđ toàn diện? - Cơ sở của qđ toàn diện,: mối
liên hệ phổ biến (là gì, tính chất)
- Phân tích câu hỏi liên hệ: Ngoại giao VN: quan điểm coi là bạn, kh phải là thù, dựa
trên những ngtac bình đẳng, tham gia tổ chức qte, giao lưu với các nước để theo kịp thời đại hội nhập
- HỎI NGƯỢC: quan điểm ở ý nghĩa phương pháp luận, quay ngược lại là cơ sở/ nguyên lí
Phần 2: quy luật CSHT, KTTT, mqh biện chứng giữa tồn tại xh và ý thức xh, vấn đề con người
Cách trả lời: Trình bày khái niệm, mới đi vào nội dung sau Vd1:
- Trình bày khái niệm trước; mqh theo quan điểm chủ nghĩa duy tâm, duy vật, duy vật biện chứng là ntn?
- Từ mqh đó hãy liên hệ đến khắc phục những khó khăn trong quá trình học tập ntn,
tận dụng thế mạnh csvc, thời đại, phát huy tính tích cực năng động sáng tạo của bản 2 about:blank 2/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
thân (mục tiêu, ý chí, lý tưởng). Để tạo ra sự thay đổi về chất: kiên trì tích lũy về
lượng; muốn tạo ra thay đổi phải thực hiện bước nhảy thành công; thay đổi phương
thức liên kết giữa các yto tạo thành sự vật hiện tượng (sắp xếp lại timeline, phong cách, thái độ sống,...) VD2:
- Các yếu tố của llsx thì phải trình bày llsx là gì? rồi mới đến các yếu tố, có vai trò ntn?
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất, vì...
- Uu điểm, hạn chế của người lao động VN hiện nay ntn? Điều kiện tự nhiên địa lí khí
hậu có thuận lợi khó khăn gì? dân cư (phân bố) mật độ đông gây áp lực gì ... ảnh
hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của con người ntn?… 3 about:blank 3/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice B. Liên hệ Phần 1 a, Chương I *2.
Câu 1: Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên,
nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào
mục đích xây dựng, sáng tạo: Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác
nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị
Thứ hai, thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con
người, là thấu kính mà qua đó con người có thể xác định mục đíc, ý nghĩa cuộc sống
và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó: Triết học đem lại cho
sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và
của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan
hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. => Vì vậy, triết học
có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
Giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời,
về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên
hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh
thần. Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người". Giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng
lý tưởng cộng sản cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp
nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra.
Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức 4 about:blank 4/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản,
tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên
tất có ý chí thực hiện lý tưởng.Giúp sinh viên có tinh thần đấu tranh với những hành vi
lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng,
lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng
mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc.Do vậy, trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện
pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu
chủ động và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách
máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính
đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất
bại.Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa
là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
Câu 2: Vai trò của triết học Mác Lê nin đối với mỗi cá nhân ?
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước xây dựng và
hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu một cách hiệu quả lý luận
mới,những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, có niềm tin vào sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu, phản
động. Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu rõ mục
đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng con người,
không sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí. Có cách
nhìn xa trông rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ nghĩa giáo điều,
máy móc, tư tưởng nôn nóng đốt cháy giai đoạn và các sai lầm khác.Học tập các
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp học sinh trung cấp chuyên nghiệp có động
cơ học tập đúng đắn, thái độ nghiêm túc trong rèn luyện đạo đức công dân, ý thức 5 about:blank 5/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
nghề nghiệp của người lao động tương lai. Để đạt được mục đích đó người học cần
chú ý liên hệ từng nguyên lý, có ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện, từng
bước vận dụng vào đời sống, xây dựng tập thể, góp phần lớn nhất vào sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. b, Chương II *1. * Liên hệ Việt Nam - Nguyên tắc toàn diện
VD1: Trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện. Trong 35 năm đổi mới
Đảng ta không những phải chú ý tới những mối quan hệ nội tại mà còn phải chú ý tới
những mối liên hệ của sự vật với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử
dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : « dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh », một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước, mặt khác phải biết
tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa lĩnh vực của đời sống
xã hội và toàn cầu hóa.
VD2: Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế,chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,...) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như đại
hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “ Một là phải giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện,đồng bộ và
triệt để nhưng phải có bớt đi hình thức và cách làm phù hợp.”Thực tiễn cho thấy đổi
mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng lĩnh
vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ,
phong cách và lề lối làm việc.Đảng Cộng sản Việt Nam không tách mình ra khỏi quỹ
đạo của sự phát triển nhân loại, đó chính là tham gia Toàn cầu hóa. Việt Nam dưới sự
dẫn dắt của Đảng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, tao mối quan hệ
thương mại với hơn220 vùng lãnh thổ, đấy chính là một trong những thành quả cho
việc phát triển đúng hướng của Việt Nam.Ở quy mô nhỏ hơn, chính là xây dựng đội
ngũ quản lý ở các địa phương, luôn biế tđặt mình trong tổng thể liên kết để tạo ra một
chính quyền đồng bộ, thống nhất. Có như vậy mới phát triển bền vững được. 6 about:blank 6/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice - Nguyên tắc phát triển:
Quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khókhăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnhchung của
các nước xã hội chủ nghĩa như bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủquan duy ý
chí,... dẫn đến sự suy thoái khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên,Đảng vẫn khẳng
định “chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành côngvà thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội.”( văn kiện Đại hội IX). Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự
phát triển và quan điểm phát triển trong triết Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới
cũng như tình hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bệnh bảo thủ trì trệ và
bệnh giáo điều cùng với những bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của
các nước xã hội chủ nghĩa và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi
sự phát triển của kinh tế xã hội,đưa chúng ta đến những sai lầm nghiêm trọng .
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với
những quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến .Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI có viết :
“...Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai.” Việc Đảng ta kiên
trì đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là căn cứ vào quan
điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng
của chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay Chủ nghĩa xã hội trên
thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của
đất nước ta cũng như các nước Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn thử thách. *Liên hệ bản thân
VD1: Liên hệ thực tiễn với bản thân (mối liên hệ phổ biến) Khi nhìn nhận một vấn đề,
cần nhìn đa chiều, đặt nó trong nhiều mối liên hệ vớicác sự vật, hiện tượng khác đồng
thời đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử phù hợp đểcho ra một kết quả hay quyết định
khách quan nhất. (sự phát triển) Mỗi ngày luôn phải làm mới bản thân, học tập thêm
nhiều thứ mới mẻ từ nhiềunguồn tài liệu khác nhau để không bị tụt hậu. Và khi học
tập thêm nhiều thứ mới,tư duy mở thì mới không bị bảo thủ, cố chấp giữ nguyên ý
nghĩ ban đầu về một thứ. 7 about:blank 7/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
VD2: Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập mang ý nghĩa rất quan trọng,đặc
biệt với sinh viên để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân Các cá nhân trong học
tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, để từ đó có thể vận
dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải phân biệt các mối
liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và có phương pháp tác
động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.Bên
cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ
chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành
theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập,
nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản
thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội *2.
1. Vận dụng quy luật lượng chất vào trong học tập
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua
bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó
liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Cho nên, khi nghiên cứu, học tập
và biết cách vận dụng quy luật Lượng – Chất vào quá trình học tập cũng là một trong
những phương thức thúc đẩy, thay đổi quá trình học tập của sinh viên. Từ đó có thể
đưa ra những giải pháp học tập một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp sinh viên nâng
cao khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào các hoạt động thực tiễn của bản
thân. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng quy luật từ sự thay đổi về lượng
dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay:
Thứnhất,sinhviêncầnnhậnthứcđượcsựkhácnhaucơbảngiữaviệchọctập
ởphổthôngvà đạihọc.So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ đại
học tăng lên một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn
học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học
sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở đại học một môn chỉ kéo dài khoảng 10 đến
15 buổi học (từ 2 đến 3 tháng). Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ
khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh viên cần phải chủ động tìm
hiểu và sẵn sàng để thích nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối lượng
kiến thức, học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp
đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp
còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,... Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách
thức cho sinh viên. Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về 8 about:blank 8/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
hình thức, bở i vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông lên đại học cũng giống như
quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà sinh viên cần phải thay đổi
nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành
giáo dục đối với đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy sinh viên mới đạt được những
thành tích, kết quả tốt trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
Thứ hai, trong quá trình học tập, sinh viên cần từng bước tích lũy kiến thức
một cách chính xác,đầy đủ. Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật
bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định,
thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm
ngoài điều đó. Để có một tầm bằng đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng các
tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến
thức đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức,
học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi về
chất (kết quả học tập) theo quy luật. Cần học tập đều đặn hàng ngày để lượng được
thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh việc gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là
thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong quá trình học tập.
Thứ ba, trong học tập và nghiên cứu sinh viên cần tiến hành từ dễ đến khó,
tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn. Trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên
cần tránh tư tưởng tả khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực
hiện bước nhảy. Sinh viên khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất
mới có thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến
khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết nhưng trong
thực tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh viên trong quá trình học
tập do không tập trung, còn mải mê vui chơi, dẫn đến sự chậm chễ trong học tập, rồi
“nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập trung cao độ vào việc học. Giai đoạn
ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên học tập
chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được kỳ thi.
Ngược lại có nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu, nhưng họ lại nóng vội, muốn
học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng cao, chưa học xong
đại cương đã muốn học chuyên ngành luôn. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức
ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập,
học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.
Thứ tư, sinh viên phải liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng
chủ quan. Khi bước chân vào đại học, có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên tự
mãn với những gì đã đạt được, không tiếp tục nỗ lực và phấn đấu vươn lên, sống
không có lý tưởng, hoài bão. Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác
động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm thay
đổi kết cấu quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành
sinh viên chúng ta được tiếp cận những tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của mỗi
sinh viên là phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những kiến thức (tích lũy về lượng), 9 about:blank 9/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
trở thành những giáo viên, kỹ sư, nhà quản lý văn hóa, họa sỹ có trình độ...đóng góp
cho xã hội. Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả
tốt của các kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang
một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều
hơn, chính vì vậy, mỗi sinh viên cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận
những tri thức mới ở trình độ cao hơn. Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ,
trì trệ trong học tập rèn luyện.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và
rèn luyện của sinh viên Đại học hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện
chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay
đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải
tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. Những việc làm vĩ đại của
con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường, vì vậy mỗi sinh viên phải
luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện của mình cả đức
và tài, để trở thành một con người phát triển toàn diện. Nắm rõ và vận dụng đúng quy
luật lượng và chất vào quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên có được kết quả học tập tốt hơn.
2. Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền đề
cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược nhau với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất,
sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục
đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng.
Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra cho đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải là đối tượng nói chung mà là đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm
môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của người tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho người tiêu dùng và tạo ra
nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều ày có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản
phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phảm đó. 10 about:blank 10/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng là sự thống nhất của hai mặt đối
lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ
đó dạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
3. Vận dụng quy luật phủ định của phủ định nhằm làm rõ luận điểm “Bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” của cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, phủ định chủ nghĩa tư bản bằng tư duy biện chứng. Trước đây, đã có thời kỳ
các nước xã hội chủ nghĩa phủ định “sạch trơn” chủ nghĩa tư bản. Điều này không chỉ
cản trở việc kế thừa chủ nghĩa tư bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn hình
thành tư duy siêu hình, cản trở sự phát triển của chính các nước xã hội chủ nghĩa.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng: chúng ta không thể thủ tiêu một lực lượng sản
xuất nếu điều kiện cho sự tồn tại của nó chưa mất đi, nên chúng ta không thể phủ định
chủ nghĩa tư bản bằng khát vọng, bằng ý muốn. Cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò,
địa vị lịch sử của giai cấp tư sản đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có
một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại. Ở thời kỳ hình thành, phát triển và
thống trị của chủ nghĩa tư bản thì giai cấp tư sản chính là giai cấp ấy. Khi còn là giai
cấp cách mạng, giai cấp tư sản đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
trong chủ nghĩa tư bản góp phần phá bỏ thành lũy phong kiến; thúc đẩy giải phóng
con người, giải phóng tư tưởng với sự thống trị chuyên quyền, độc đoán của chủ nghĩa
phong kiến. Giai cấp tư sản hết vai trò lịch sử khi nó bộc lộ tính chất lỗi thời, phản
động, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó giai cấp vô sản xuất hiện và
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng xã hội loài ngoài khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công.
Với vị trí, vai trò lịch sử như vậy của giai cấp tư sản chúng ta cần tranh thủ giai cấp
này trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, khẳng định tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội loài người.
Toàn bộ sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen thông qua học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội đã đi đến khẳng định: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
quá trình lịch sử - tự nhiên, có nghĩa là sự phát triển này theo quy luật tất yếu khách
quan, không chịu sự chi phối chủ quan của bất kỳ giai cấp nào trong lịch sử. Tuy
nhiên, trong lời tựa của bộ tư bản xuất bản lần thứ nhất, C.Mác vạch rõ: “một xã hội,
ngay cả khi phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó,…cũng không
thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những
giai đoạn đó. Nhưng nó có thể, rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Khi
nghiên cứu về tình hình nước Nga Ph.Ăngghen đã đưa ra tư tưởng về sự phát triển rút
ngắn lên Chủ nghĩa Cộng sản. Khi C.Mác tìm hiểu sâu hơn về nước Nga, ông đã đồng
ý với Ph.Ăngghen về quan điểm đó. Quan điểm của V.I.Lênin sau này cũng thống
nhất với những ý kiến đó. Ông khẳng định quan điểm về khả năng phát triển rút ngắn
ngay ở những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên. 11 about:blank 11/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Thứ ba, tránh tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh về vấn đề phủ định chủ nghĩa tư bản.
Bởi vì, tư tưởng tả khuynh nóng vội khi phủ định chủ nghĩa tư bản, sẽ dẫn đến những
sai lầm nguy hại to lớn. Bên cạnh đó tư tưởng hữu khuynh, mơ hồ khi cho rằng không
cần phải đấu tranh giai cấp, thực hiện “dung hợp giai cấp” để xây dựng “xã hội siêu
giai cấp”…thì cũng phá hoại thành quả của chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, xác định đúng những nội dung cốt yếu để phủ định chủ nghĩa tư bản. Trong
điều kiện hiện nay, Đảng ta đã khẳng định, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản, còn chúng ta vẫn kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản.
Việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật phủ định của phủ định để lý giải về công
cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” ở Việt Nam cho thấy rằng đó là một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù
hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử - cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. *3. 1. Cái chung - cái riêng
Trong phép biện chứng duy vật:
- Cái riêng dùng để chỉ mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình,... xác định, tồn tại
tương đối độc lập so với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác.
- Cái chung dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... lặp lại ở nhiều cái riêng.
- Cái đơn nhất dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... chỉ tồn tại ở một cái riêng nhất định.
Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã hội khiến cho
con người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả mọi người với tư cách
người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những thuộc tính không lặp lại ở nhau
như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,... cụ thể khác nhau.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất
+ Cái chung không tồn tại trừu tượng bên ngoài những cái riêng; trái lại, cái chung chỉ
tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thông qua mỗi cái riêng. Vì vậy, để nhận thức cái
chung có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc nghiên cứu nhiều cái riêng.
Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể
rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc
lập tuyệt đối tách rời cái chung. Vì vậy, để giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể bất
chấp cái chung, đặc biệt là cái chung là cái thuộc bản chất, quy luật phổ biến... 12 about:blank 12/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà lại không tuân
theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...). Nếu doanh nghiệp
nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Vì vậy, chẳng những việc giải quyết mỗi
vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung mà còn phải xét đến cái phong phú, lịch sử khi vận dụng cái chung.
Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi vấn
đề riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất (đặc thù)
của nó. Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.
+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điểu kiện xác
định của quá trình vận động, phát triển của sự vật. Vì vậy, tuỳ từng mục đích có thể
tạo ra những điểu kiện để thực hiện sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung hay ngược lại.
Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng
kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các tổ
chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó
cái đơn nhất đã trở thành cái chung... 2. Nguyên nhân - kết quả
Đối với những mối liên hệ nhân - quả trong tự nhiên, con người càng nghiên cứu được
càng nhiều càng tốt. Nhờ biết được những hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng trong tự nhiên, con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng
lượng lớn đề phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu con người.
Ví dụ: Biết được về hiện tượng của thủy triều là sức hút của mặt trăng tạo nên làm cho
nước biển bị cuốn theo gây nên những đợt thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể
lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện.
Đồng thời người ta sử dụng mối quan hệ nhân - quả của các hiện tượng tự nhiên để
thấy được những tác hại mà các hiện tượng đó gây ra.
Mối liên hệ nhân - quả ở trong lĩnh vực xã hội, tức là lĩnh vực hoạt động của con
người phức tạp hơn rất nhiều. Mối quan hệ nhân - quả này có đặc điểm trước hết là nó
chỉ xuất hiện khi có hoạt động của con người. Đặc điểm này có thể đúng, không đúng
ở trong những lĩnh vực khác nhau. Có những hoạt động được coi là hoạt động có ý
thức của cá nhân, nhưng lại là hoạt động vô ý thức đối với cộng đồng. Chủ thể hoạt
động bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính bản thân mình, nhưng tác động của
nó tới đời sống xã hội còn tùy thuộc vào những mối liên hệ và những hậu quả xã hội mà nó gây ra. 13 about:blank 13/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Ví dụ, lợi nhuận buôn bán ma túy là rất cao, cho nên những người buôn bán ma túy
không từ bỏ một hành vi nào thúc giục việc buôn bán ma túy để kiếm lợi. Xét từ phía
cộng đồng, đó là hành động rất có hại, hành động đó có thể nói là một hành động tự
sát. Tuy nhiên, những tác động đó người ta không thể ngăn chặn một sớm một chiều,
nếu không nghiên cứu những quan hệ lợi ích tác động vào quan hệ nhân - quả.
Do đó nghiên cứu mối quan hệ nhân - quả ở trong đời sống xã hội cũng chính là
nghiên cứu mối quan hệ tác động về mặt lợi ích. Những lợi ích nào được sinh ra từ
những tác động nào, nó đưa lại những hậu quả nào, đó chính là mục tiêu để nghiên
cứu mối quan hệ nhân - quả trong đời sống cộng đồng.
Tóm lại, mối quan hệ nhân - quả dược thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực. Nhưng dù ở lĩnh
vực nào thì con người cũng phải luôn tìm hiểu, nghiên cứu khắc phục, tránh những
hậu quả xấu do các tác động gây ra. Ngược lại, cũng có thể lợi dụng mối quan hệ nhân
- quả này để phục vụ cho cuộc sống của mình.
*4. VẬN DỤNG NHẬN THỨC LUẬN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO
THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trên cơ sở nội dung nhận thức luận của Hồ Chí Minh vận dụng vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã giải quyết một số mối quan hệ sau đây:
Thứ nhất, nhận thức con đường cứu dân, cứu nước, mục đích mà Người hướng
đến: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Xác định mục tiêu không phải
là việc dễ ràng mà phải trải qua một quá trình dày công nghiên cứu, tìm tòi, nhận thức
từ nông đến sâu, từ biết ít đến biết nhiều, từ một mặt đến toàn diện. Đi ra nước ngoài
với mục đích gì, để làm gì, khi nào thì trở về, trở về như thế nào, làm thế nào thực
hiện được mục tiêu đã định? Đây là nhận thức được Hồ Chí Minh suy nghĩ và bắt tay
hành động. Trong những năm tháng tìm đường và thực hiện mục tiêu, xác định đường
lối hành động và trở thành người dẫn đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam. Với bản
lĩnh nhận thức năng động, linh hoạt trong tiến hành cách mạng từ việc nhỏ đến việc
lớn, trong bất kỳ lĩnh vực nào tình huống nào, kẻ thù nào, dù đi đường vòng hay đi
đường thẳng, lúc tiến lúc lùi Người đều có cách vượt qua thiên biến vạn biến, lúc
mềm lúc rắn tạo ra bước đột phá về nhận thức cũng như hành động. Nhận thức luận
Hồ Chí Minh được thể hiện qua luận điểm nổi tiếng sau đây: “Đối với bất cứ vần đề gì
đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế
không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều” (11).
Thứ hai, nhận thức đúng vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Hồ Chí Minh chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin
mới soi hướng, chỉ đường lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng đắn thì làm
việc mới đúng. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tinh thần của chủ nghĩa Mác – 14 about:blank 14/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Lênin, học lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn
đề thực tế. Học chủ nghĩa Mác – Lênin là học cách xử trí mọi việc đối với mọi người
và đối với bản thân mình, học chân lý phổ biến để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Người phê phán một số người mới học
thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin đã vội cho mình là giỏi hơn ai
hết. Nhưng khi gặp việc, thì hoặc là máy móc, rập khuôn, hoặc là lúng túng không có
cách giải quyết. Lời nói và việc làm không nhất trí. Người cho rằng, họ học sách vở
Mác - Lênin, nhưng không học tinh thần Mác - Lênin. Học để trang sức chứ không
phải để vận dụng vào công việc.
Thứ ba, nhận thức luận Hồ Chí Minh là chìa khóa để tìm thấy con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng từ dân tộc dân chủ nhân dân quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Nắm vững chìa khóa ấy, nhận rõ sợi chỉ đỏ
xuyên suốt ấy, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công một loạt vấn đề lý luận và thực
tiễn cách mạng nước ta. Đó là mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa giải phóng
giai cấp và giải phóng dân tộc, giữa Đảng với giai cấp, với dân tộc, với nhân dân, giữa
Đảng với Nhà nước... Nhờ đó, nhận thức luận Hồ Chí Minh đã trang bị cơ sở lý luận
cho ba cuộc giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
đồng thời hướng dẫn Đảng ta làm đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại. Nhận
thức luận ấy tạo cho ta bản lĩnh, nghị lực và trí tuệ để giải quyết các công việc của
cách mạng. Người nói: “Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước hết ai ai
cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai
ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người
khác. Có như thế mục đích mới đồng, mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng,
tâm mới đồng, tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng?” (12) Theo
Người, việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi,
nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau
nối theo làm thì phải xong. Đây chính là cơ sở phương pháp luận của nhận thức luận Hồ Chí Minh.
Thứ tư, nhận thức luận Hồ Chí Minh là nhận thức luận của đổi mới và phát
triển, luôn gắn kết đời sống văn hóa vật chất với đời sống văn hóa tinh thần, gắn kết
sự phát triển kinh tế - xã hội với sự phát triển văn hóa xã hội. Nhận thức luận Hồ Chí
Minh đòi hỏi mỗi chiến lược phát triển phải tính đến mục tiêu phát triển của chính nền
văn hóa, phải làm giàu, đi sâu và biến đổi nội dung văn hóa xã hội. Ở đâu có nhu cầu
phát triển thì ở đó có nhu cầu văn hóa. Là mục tiêu, văn hóa bao giờ cũng là cái đích
nhằm hướng tới của phát triển, hướng tới con người, trung tâm của phát triển; là động
lực, văn hóa luôn thâm nhập vào mọi lĩnh vực của phát triển, không có văn hóa thì
không có phát triển. Trên phạm vi thế giới, chúng ta đang chứng kiến một bước phát
triển giao thời của lịch sử về văn hóa thì đó là bước quá độ từ một nền văn hóa công
nghiệp sang một nền văn hóa trí tuệ, một nền văn hóa phát triển bền vững mà ở đây 15 about:blank 15/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
con người luôn ở vị trí trung tâm. Nhận thức cho đúng và phát huy hết có nguồn lực
con người, tạo ra nguồn lực văn hóa nội sinh để đưa đến một bước nhảy mới có thể
thích nghi với những chuyển động tăng tốc, dồn dập đang và sẽ diễn ra trong những thập niên tới.
Thứ năm, nhận thức luận Hồ Chí Minh còn là nhận thức đúng về xu thế của
thời đại ngày nay. Đó là một xu thế mà yêu cầu phát triển trở thành dòng vận động
chính của lịch sử, trong đó sự hợp tác ngày càng sâu rộng, tính tùy thuộc lẫn nhau
ngày một gia tăng. Hòa bình cho các dân tộc và hợp tác giữa các quốc gia vì sự phát
triển trở thành đòi hỏi hết sức cấp bách. Song, mỗi quốc gia vẫn là một thực thể độc
lập, mỗi dân tộc vẫn phải tự cường, và chỉ trên cơ sở độc lập, tự cường mới giải quyết
vấn đề hợp tác và phát triển một cách hữu hiệu. Chúng ta nhận thức rõ, lúc này đây,
hơn bao giờ hết, Việt Nam cần và có thể củng cố hòa bình, tạo môi trường quốc tế ổn
định để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, giữ
gìn chủ quyền, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Còn phải nhận rõ việc kết hợp
sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
trong đó sức mạnh bên trong, sức mạnh dân tộc là nhân tố quyết định tiến trình phát
triển đất nước. Đồng thời, cũng phải nhận rõ tầm quan trọng của sức mạnh quốc tế,
sức mạnh thời đại, ra sức tranh thủ sự đồng tình sâu sắc, sự giúp đỡ quý báu của bạn
bè gần xa, hình thành một mặt trận rộng khắp ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước ta.
Thứ sáu, “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản
của nhận thức luận Hồ Chí Minh. Hòa bình, hợp tác và phát triển là một xu thế tất yếu
của thời đại, nhưng thế giới còn biết bao nhiêu mẫu thuẫn và đối lập, mỗi quốc gia đều
có lợi ích riêng của mình, có lúc cọ xát, giằng co nhau về lợi ích, thậm chí tranh chấp
nhau về quyền lợi. Cho nên “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh chính là vận
dụng quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh vào trong quan hệ quốc tế ngày nay. Nhận
thức luận Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong quan hệ quốc tế, nếu không biết kết hợp một cách
đúng đắn giữa tính cứng rắn về nguyên tắc với tính mềm dẻo về sách lược thì dễ phạm
sai lầm trong nhận thức và trong chỉ đạo thực tiễn. Bởi vì, một sách lược mềm dẻo quá
đến mức quên cả nguyên tắc, thì cũng sai lầm không kém gì việc cứng rắn quá về
nguyên tắc mà quên mất sự linh hoạt về sách lược. Cứng rắn quá thì không đủ mềm
dẻo để biết quanh co, lựa chiều trong quan hệ đối ngoại để tìm ra những giải pháp phù
hợp giải quyết các vấn đề dĩ bất biến. Vì linh hoạt quá thường dẫn đến vô nguyên
tắc. Hiện nay, tình hình thế giới còn nhiều biến động sâu sắc và phức tạp hơn, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại càng đẩy nhanh hơn quá trình chuyển từ
nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ trên phạm vi rộng lớn hơn nữa.
Đó là cơ hội để nước ta đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, biến nước
ta thành một nước phồn vinh và phát triển. Đặc biệt, trong gần 2 năm qua, quan điểm
“dĩ bất biến, ứng vạn biến” lại được Đảng và Nhà nước ta vận dụng để chống chọi với
đại dịch COVID-19 chưa từng có tiền lệ. Trên tinh thần “chống dịch như chống giặc”, 16 about:blank 16/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, trước hết, chúng ta đã huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị cùng tham gia phòng, chống dịch dựa vào 5 nguyên tắc
cơ bản là ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng dập dịch, điều trị.
=> Nhận thức luận của Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển và vận dụng lý luận của
Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách phù hợp.
Nhận thức luận Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn, trang bị cho chúng ta cơ sở lý luận và
thực tiễn để nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra. Để học tập,
vận dụng nhận thức luận Hồ Chí Minh đúng đòi hỏi chúng ta phải luôn chủ động, tích
cực hiểu đúng tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hành, làm cho phù hợp. Phần II Chương III
*1. Liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa llsx và qhsx trong thực tiễn VN từ 1986 đến nay
Thời kỳ trước đổi mới, do nhận thức và hành động giản đơn, chủ quan, duy ý chí,
không xuất phát từ thực tiễn khách quan nên nhiều quy luật của thời kỳ quá độ, trong
đó có quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lực
lượng sản xuất chưa được Đảng ta nhận thức và vận dụng đúng đắn trong thực tiễn
dẫn đến khủng hoảng kinh tế- xã hội. Từ 1986 đến nay, Đảng ta đã có nhận thức mới
về các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ; từng bước làm rõ các đặc trưng, đặc
điểm các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó có quan
hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN”.
Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH (1954), Đại hội
III của Đảng (9-1960) đã đề ra đường lối cách mạng XHCN mà nội dung chủ yếu là
tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng
khoa học, kỹ thuật; cách mạng tư tưởng, văn hóa; trong đó cách mạng khoa học, kỹ
thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học
tiên tiến. Ra đời các khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì, Thượng Đình, Nhà máy
Thủy điện Thác Bà. Khi đất nước thống nhất (30-4-1975), Đại hội IV của Đảng (12-
1976), trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đã tiếp tục phát triển
quan điểm đó, nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa XHCN và cách mạng
khoa học, kỹ thuật để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Chú trọng phát triển
nguồn năng lượng, điện lực phải đi trước một bước (xây dựng Nhà máy Thủy điện
Hòa Bình, Trị An và các nhà máy nhiệt điện). Phát triển công nghiệp cơ khí, luyện
kim, công nghiệp hóa chất, vật liệu xây dựng. Rất coi trọng các ngành công nghiệp nặng. 17 about:blank 17/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Việt Nam và các nước XHCN trước đây khi bắt đầu nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên
CNXH đều tập trung vào xây dựng quan hệ sản xuất XHCN mà vấn đề hàng đầu là
xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu dưới hai hình thức
quốc doanh (nhà nước) và tập thể. Tiếp đó là xác lập cơ chế kế hoạch hóa nền kinh tế
quốc dân, quản lý tập trung trong tay Nhà nước, hạn chế yếu tố thị trường tự do; thực
hiện chế độ phân phối theo lao động mà thực chất là phân phối bình quân, bao cấp.
Các yếu tố (nội dung) đó của quan hệ sản xuất dần dần bộc lộ sự hạn chế, nhất là
không tạo ra động lực cho sự phát triển, không có sự sáng tạo. Có thể thấy rõ điểm
nghẽn của sự phát triển ở chính quan hệ sản xuất với nhiều yếu tố không hợp lý.
Vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã không được nhận thức đúng. Các
nước XHCN đều xóa bỏ ngay lập tức chế độ sở hữu tư nhân và coi công hữu về tư liệu
sản xuất là thước đo trình độ và là bản chất của CNXH. Trong tác phẩm Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (10-1847), Ph.Ăngghen trả lời câu hỏi thứ 17: Liệu
có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?, đã nêu rõ:
“Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có
tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu. Cho nên,
cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ
chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được
một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu
được chế độ tư hữu”(6).
Chỉ dẫn trên đây của Ph.Ăngghen là dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực và có giá
trị sâu sắc. Sau này, V.I.Lênin nêu ra những đặc trưng của thời kỳ quá độ trong đó có
đặc trưng về sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế và sở hữu tư nhân. Rất tiếc,
nguyên lý và những đặc trưng đó đã không được nhận thức và vận dụng đúng đắn ở
các nước XHCN trước đây. Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, trì trệ về phát triển kinh tế dẫn tới sự bất ổn
chính trị ở một số nước.
Việt Nam cũng rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979. Yêu cầu khách
quan là phải tìm con đường đổi mới. Trải qua khảo nghiệm thực tiễn kết hợp với nhận
thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, Đại hội VI Đảng (12-1986) đã đề
ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới các chính sách kinh tế. Đường lối
đổi mới dựa trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây
dựng CNXH ở Việt Nam, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật, tự phê bình nghiêm túc về căn bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, nhận
thức và hành động một cách giản đơn và cả căn bệnh bảo thủ, trì trệ, giáo điều. Đại
hội VI đã nêu ra những bài học cần thiết, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(7). 18 about:blank 18/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Có nhiều quy luật của thời kỳ quá độ chưa được nhận thức và vận dụng đúng đắn,
không thúc đẩy mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển, trong đó có quy luật về
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong
khi lực lượng sản xuất còn rất kém phát triển do điểm xuất phát của Việt Nam ở trình
độ rất thấp, lại tập trung xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất ở trình độ cao, muốn
dùng quan hệ sản xuất tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là
nhận thức và hành động không đúng, nếu không nói là làm trái quy luật. Đại hội VI của Đảng đã nêu rõ:
“Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có bước đi và hình
thức thích hợp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển
không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(8).
Đại hội VI chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài, chính sách phát triển nhiều thành
phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, tiểu chủ, thừa nhận sự tồn
tại của sở hữu tư nhân. Đó là sự điều chỉnh rất quan trọng về quan hệ sản xuất. Yếu tố
đi quá xa chính là tuyệt đối hóa và chỉ thừa nhận chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
không thừa nhận sở hữu tư nhân trước đó.
Trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế
làm trung tâm. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Có rất nhiều quy
luật, đặc trưng, đặc điểm các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tiếp tục được nhận thức và xử lý trong thực tế dựa trên cơ sở nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn. Quy luật và cũng là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất vẫn là vấn đề cơ bản chỉ đạo trong khi đề ra các chính sách kinh tế.
Đảng và Nhà nước tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất theo đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đề ra từ Nghị quyết Trung ương 7 khóa VII
(1994), và từ 1996, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặt chiến lược
phát triển khoa học và công nghệ, chiến lược giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu tại Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996). Lực lượng sản xuất đã phát triển
đáng kể và đang phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Việc phát triển công nghệ thông tin và nhất là ứng dụng
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, cho phép
phát triển lực lượng sản xuất với quy mô lớn, chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Khi phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, điều tất yếu đặt ra là xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất như thế nào cho phù hợp cả về sở hữu, quản lý và phân phối. 19 about:blank 19/26 22:32 3/8/24
Đề cương ôn tập triết - nice
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua tại Đại hội VII (6-1991) đã nêu ra mô hình CNXH ở Việt Nam với 6 đặc trưng.
Đặc trưng thứ hai là: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”(9). Ở đây chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất vẫn được đặc biệt chú trọng.
Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới với vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, Cương lĩnh của Đảng (bổ sung và
phát triển năm 2011) đã nêu ra mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với 8 đặc trưng.
Đặc trưng thứ ba là: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”(10). Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh việc nắm
vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội XII của Đảng (1-2016) tiếp tục nhấn mạnh các mối quan hệ lớn, làm rõ quan
hệ “giữa nhà nước và thị trường”, tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất. Khẳng định các
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn đầu
tư nước ngoài (FDI). Trong các thành phần kinh tế đó, kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Khi đề cập đến vai trò của kinh tế nhà nước là gắn liền với chế độ sở hữu nhà nước là
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà các doanh nghiệp nhà nước là đại diện, trong
phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (5-
2017) nêu rõ: “Từ chỗ cả nước có hơn 12.000 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, đến
năm 2001 giảm xuống còn 5.655 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, và đến thời điểm
tháng 10 năm 2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Tuy nhiên, đến
nay doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của
kinh tế nhà nước; chưa thực hiện được nhiệm vụ dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối
với nền kinh tế. Nhìn chung, hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh
nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư. Không ít
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự
án đầu tư hàng nghìn tỷ đồng “đắp chiếu”, làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và
nợ công quốc gia, gây bức xúc trong nhân dân”(11). Thực trạng đó đặt ra nhiệm vụ
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN như thế nào cả về chế độ sở hữu, chế
độ và cách thức quản lý sao cho có kết quả, hiệu quả cao nhất và phân phối trong khu vực kinh tế nhà nước.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Năm 2019,
kinh tế tư nhân đóng góp trên 42% tổng GDP của cả nước và sẽ ngày càng tăng lên
(kinh tế nhà nước khoảng 28 GDP). Vai trò quản lý của Nhà nước với kinh tế tư nhân
như thế nào để bảo đảm đúng định hướng XHCN. Về lý luận và thực tiễn cần thiết 20 about:blank 20/26