-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận : 5 hình thái kinh tế xã hội | Học viện Ngoại Giao
Tiểu luận : 5 hình thái kinh tế xã hội | Học viện Ngoại Giao. Tài liệu gồm 15 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (FC.001.03)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Tiểu luận môn học: Triết Học
5 HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI “
Tôi coi sự phát triển của các hình thái
kinh tế-xã hội là
một quá trình lịch sử-tự nhiên ” - C.Mác -
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của hình thái kinh tế xã hội
tác động qua lại với nhau tạo nên quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà hình thái kinh tế xã hội tuy là
một phạm trù xã hội nhưng lại có quy luật phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận
động phát triển từ thấp đến cao. Nguồn gốc sâu sa của việc phát triển và thay thế các
hình thái kinh tế xã hội nằm ở chỗ:
● Sự phát triển của lực lượng sản xuất gây lên sự thay đổi về quan hệ sản xuất.
● Sự thay đổi về quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) đến lượt nó sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng (là hệ thống các hình thái ý thức xã hội cùng với các
thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một sơ sở hạ tầng nhất định) thay đổi.
Theo chủ nghĩa Mác – Lenin, trong lịch sử loài người đã và sẽ tuần tự xuất hiện 5 hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao:
■ Hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy)
■ Hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ
■ Hình thái KTXH phong kiến
■ Hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa
■ Hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa
1/ Hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
Đây là hình thái KTXH đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc
trưng nổi bật của hình thái này là:
▪ Tư liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động
▪ Cơ sở kinh tế là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
▪ Là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và pháp luật
▪ Quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ.
2/ Hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ
Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có
Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành
nên hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ
công hữu (sở hữu chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã
hội không có giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế
độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng
bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã hội này
được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra kiểu nhà nước
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
3/ Hình thái KTXH phong kiến
Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là
nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay
thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và canh tác trên
thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu
nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô
thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời
nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
4/ Hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa
Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu
Âu và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ
17. Adam Smith (1723-1790) là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống
lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét
đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa:
▪ Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như
quyền thiêng liêng của con người.
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
▪ Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự
phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế.
▪ Gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao.
▪ Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo ra khi các nhà tư
bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.
5/ Hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa
Là hình thái phát triển cao nhất của xã hội, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo
thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản, có kiến
trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hóa ngày càng
cao. Những đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH này là:
▪ Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại
gắn liền với lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao: năng suất lao động cao,
tạo ra nhiều của cải vật chất đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa của người dân.
▪ Thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu: xóa bỏ những mâu thuẫn đối
kháng trong xã hội, giúp gắn bó các thành viên trong xã hội với nhau vì lợi ích căn bản.
▪ Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới: phù hợp với
địa vị làm chủ của người lao động và xóa bỏ tàn sư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
▪ Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: cơ sở cho công bằng xã hội.
▪ Chủ nghĩa xã hội có nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất
của giai cấp công nhân, mang bản chất nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, thực
hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. Nhà nước XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo xã hội trên mọi mặt và nhân dân thực hiện quyền
lực và lợi ích của mình trong mọi mặt xã hội.
▪ Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình
đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển.
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn cứ khoa học cho Cách
mạng XHCN trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Trong thực tế hiện nay, từ khi CNXH thế giới
lâm vào thoái trào nhưng nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển đất nước là xây dựng
CNXH , vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định : “Xây dựng CNXH bỏ qua
chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn
phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85). Để làm rõ luận điểm trên, chúng ta sẽ đi sâu vào
phân tích học thuyết Mác Xít về hình thái kinh tế - xã hội và quá trình vận dụng của Đảng ta trong thực tế
nhằm tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm Mác xít thì “hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là sự khái quát dùng để chỉ xã hội
trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nói cách khác nó là một nấc thang của lịch sử xã hội, là sự khái
quát dùng để phân biệt giữa giai đoạn lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành đó là: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng giữa các yếu tố cơ bản đó có quan hệ biện chứng với nhau
tạo thành các quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và trở
thành tiêu chuẩn khách quan khoa học cho việc phân loại xã hội.
Một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Quy luật này chỉ ra rằng : lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sau khi hình thành và tồn tại nó có tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể hiện qua
việc trình độ lực lượng sản xuất đang tồn tại đặt ra yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với nó mà
không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Song, quan hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp một cách
thụ động vào lực lượng sản xuất, nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng sản
xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng : phù hợp
hoặc không phù hợp. Quan hệ sản xuất tác động phù hợp với lực lượng sản xuất, nghĩa là quan hệ sản
xuất sau khi hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó
có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm
cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra năng
suất lao động cao hơn. Hai là khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn tại không phù hợp với đòi hỏi tất
yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh :
một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng sản xuất, hai là trường
hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ
lực lượng sản xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng
không có nghĩa là lực lượng sản xuất đứng im tại chổ
Quy luật thứ hai chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là quy luật về mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng (quan hệ sản xuất) và kiến trúc thượng tầng. Quy luật này khẳng định rằng cơ
sở hạ tầng là quan hệ cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở
hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng với tính cách
là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
mục đích hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải
thay đổi theo nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng. Sự
tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò định hướng chính trị
cho hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục đích của giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết chế
quan trọng nhất khi tác động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển
cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng có thể diễn ra 2
khả năng sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
thì có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và sai lầm của kiến trúc thượng tầng tác
động không phù hợp với quy luật kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế. Trong những
trường hợp đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng
nhưng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định
Đấu tranh giai cấp cũng là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển các hình thái KT-XH
khi xã hội có giai cấp đối kháng. Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật mâu
thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển. Nói cách khác, động
lực phát triển của xã hội nằm ngay trong chính phương thức SX với việc giải quyết giữa LLSX và QHSX.
Về mặt xã hội, mâu thuẫn này là mâu thuẫn giai cấp giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện
cho lực lượng SX tiến bộ, phát triển và một bên là giai cấp thống trị, phản động đại diện cho QHSX lạc
hậu đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đấu tranh với nhau. Với ý nghĩa đó, đấu tranh
giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời là cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX. Tuy nhiên, trong XH có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không
phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng. Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các
động lực khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như văn hóa, giáo dục, KHKT, tư tưởng đạo đức đều
phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất định.
Trong đấu tranh giai cấp, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước là một trong những yếu
tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ kinh tế,
từ sự phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là
do có chế dộ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Nhà nước là một tổ chức của
quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý
đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội. Trong sự vận động và phát triển của các hình thái KT-XH thì Nhà nước có tác động rất lớn trong
cuộc cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác.
Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng động lực của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội chính là
hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Quá trình phát triển đó là
một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên”. Phạm trù tự nhiên được dùng đi liền với từ “lịch sử” ở đây được đề cập ở góc
độ tính tất yếu của sự vận động phát triển lịch sử. Đó là sự phát triển vận động không ngừng của lịch sử
xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hoặc bất cứ một lực lượng
xã hội nào mà nó do các quy luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội quyết định mà
trong đó trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà
còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể nhất định
Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc
gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên một hình thái
kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch
sử. V.I.Lê-nin đã cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác
nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ
trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; còn hình thức quá độ
gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I.Lê-nin, tất cả các loại
hình khác nhau của sự phát triển xã hội - phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo
quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút ngắn đòi hỏi phải có
những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện được.
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã
vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Theo sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
đầu là CNXH là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối với đất nước ta một quốc gia chưa trãi qua
thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng ta đã chọn lựa con đường phát triển rút ngắn - hay nói
theo cách của Lênin phát triển không phải trãi qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về quá trình
“phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng với bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận
dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật khách quan khi muốn tạo
ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa cho phép. Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu
“Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối
dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết , Đại hội IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên”
Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các chủ trương chính sách lớn của
Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó là việc bỏ qua bước trung gian quá độ kinh tế hàng hóa
TBCN, phủ nhận các hình thức, bước đi mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung
mà trước đây CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy, việc phát triển lực lượng SX không được
chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng
hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan không chú ý chiều sâu. Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng
và Nhà nước ta đã bỏ qua không chú ý vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, những quy luật của
SX hàng hóa đang tồn tại khách quan vàp việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế.
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta do chủ quan, nóng vội muốn cải tạo nhanh quan hệ SX
nên đã áp đặt một mô hình quan hệ sản xuất “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Nó thể hiện qua việc
“nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN” để chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế : quốc
doanh và tập thể. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh
mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật,
trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Đồng thời việc xác lập quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội
dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng
giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ,
tiền lương, chính sách kinh tế đối ngoại khép kín ... đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực
lượng sản xuất dẫn đến sản xuất đình trệ, kinh tế không phát triển, lạm phát gia tăng. Mặt khác trong
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
kiến trúc thượng tầng, đã buông lỏng chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều
nấc, cồng kềnh kém hiệu lực.. dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm mắc phải, nhận thức lại quan
niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách đúng đắn, đầy đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội
VIII và Đại hội IX bổ sung hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng TBCN “Điều này có nghĩa là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, chúng ta không thể
để quan hệ sản xuất tư hữu thống trị, không để cho chính quyền rơi vào tay tư sản, không được để mất
vai trò lãnh đạo của Đảng, không được để Nhà nước mất vai trò quản lý kinh tế - xã hội, kinh tế Nhà
nước mất vai trò chủ đạo. Bên cạnh việc bỏ qua những nội dung trên, khi xây dựng mới cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng CNXH thì phải chủ động kế thừa biện chứng những nhân tố hợp lý của cả cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của CNTB.
Về lộ trình đi lên CNXH, Đại hội IX cũng đã khẳng định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải
trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có
tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên CNXH đã xác định đây là một
quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối với quan hệ SX, lực lượng SX, kiến trúc thượng tầng),
nó phải trải qua nhiều chặng đường, bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức kinh tế - xã hội.
Như chúng ta biết, trong quan niệm triết học Mác - Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được
qui định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích
cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về
thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển
liên tục của lực lượng sản xuất. Nước ta còn nghèo, lực lượng SX kém phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế là rất lớn cho nên phải tập trung sức phát triển LLSX. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình
độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng lên đáng
kể. Điều đó cho phép chúng ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự
phát triển lực lượng sản xuất
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất qua con đường CNH-HĐH, Đảng
cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn quá độ là một tất yếu khách
quan, đây là bước đi tuần tự trong việc phát triển Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta
từ sau Đại hội VI đến nay đã khẳng định : các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành phần kinh
tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận
động chung, thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. .
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã xác định : “Phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”
Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta phải thiết lập từng bước
quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Như vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu SX và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do lịch
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế. Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát
triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của
các thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã
hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc đổi mới về
chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt
giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một
số hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn quá độ
lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan;
khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình
phát triển của lực lượng sản xuất... đây chính là những điều kiện khách quan vừa là thách thức nhưng
cũng vừa là cơ hội đối với con đường phát triển CNH-HĐH và xây dựng CNXH ở nước ta. Mặt khác với
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhận thức và hành động đúng quy luật, chúng ta sẽ có những bước đi
nhanh và vững chắc trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. LỜI MỞ ĐẦU
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân còn được gọi là giai cấp vô sản, là giai cấp hoàn toàn không có tư
liệu sản xuát, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Là giai cấp gắn liền với sản xuất đại công nghiệp
và được nền công nghiệp rèn luyện, giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật cao và có điều kiện thuận lợi tập hợp
lực lượng, biểu thị sức mạnh của mình. Là giai cấp bị áp bức, bóc lột, có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản,
giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư sản, có khả năng đoàn kết với quần chúng lao động bị áp
bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chung. Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp
công nhân không ngừng lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công
nhân không ngừng đấu tranh chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính
đảng của giai cấp công nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu
tranh giành chính quyền tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai cấp công
nhân tự xoá bỏ với tư cách là một giai cấp. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ăngghen có
viết: “Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân giai cấp tư sản chính ngay cái nền tảng trên đó
giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất và chiếm hữu nó Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai
cấp vô sản là tất yếu như nhau ” I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn
là một hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử đều do tác
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Marx viết "Tôi coi sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên". Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội:
lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tách rời nhau, mà liên hệ biện chứng với nhau hình
thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Do tác động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế - xã
hội vận động và phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ
thuộc và ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc
sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo
đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội qui định khuynh hướng phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là
mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản
xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã
hội mới cao hơn ra đời. Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ hình thái
đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự
phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được quy
định bởi quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới. Thực
tế lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa. Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích
xã hội tư bản, vạch rõ các quy luật vận động, phát triển của xã hội và đã đi đến dự báo sự ra đời cùa hình thái kinh tế
xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Vạch ra con đường tổng quát của
lịch sử, điều đó có nghĩa là giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. Lịch
sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi,
không thể xem xét quá trình lịch sử như một đường thẳng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố
quyết định quá trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống thực hiện. Nhưng nhân tố kinh tế không phải là
nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch
sử. Nếu không tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố đó thì không thấy hàng loạt những sự ngẫu nhiên mà
tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính
đến tất cả các nhân tố bản chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó. Có nhiều nguyên nhân làm cho quá
trình chung của lịch sử thế giới có tính đa dạng, điều kiện của môi trường địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thì điều kiện của môi trường địa lý là một trong những
nguyên nhân quy định quá trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trí tuệ lạc hậu.
Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu tố như Nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của
truyền thống của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội vv đối với tiến trình lịch sử. Điều quan trọng trong lịch sử là sự ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra dưới những hình thức rất khác nhau từ chiến
tránh và cướp đoạt đến việc trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá. Nó có thể được thực hiện trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội từ kinh tế, khao học - kỹ thuật đến hệ tư tưởng. Trong điều kiện của thời đại ngày nay, có
những nước phát triển kỹ thuật rất nhanh chóng, nhờ nắm vững và sử dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật của
các nước khác. Ảnh hưởng của ý thức đã có một ý nghĩa lớn lao trong lịch sử. Không thể hiểu được tính độc đáo của
các riêng biệt nếu không tính đến sự phát triển không đồng đều của sự phát triển lịch sử thế giới một dân tộc này tiến
lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngừng trệ, một số nước do hàng loạt những nguyên nhân cụ thể lại bỏ qua
một hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Điều đó chứng tỏ là sự kế tục thay thế các hình thái kinh tế - xã hội không giống
nhau ở tất cả các dân tộc. Tuy nhiên, trong toàn bộ tính đa dạng của lịch sử của các dân tộc khác nhau thì trong mỗi
thời kỳ lịch sử cụ thể vẫn có khuynh hướng chủ đọ nhất định của sự phát triển xã hội. Để xác định đặc trưng của giai
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
đoạn này hay giai đoạn khác của lịch sử thế giới phù hợp với khuynh hướng lịch sử chủ đạo đó là khái niệm thời đại lịch sử.
2. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có các giai cấp đối kháng Nghiên cứu phép biện chứng nói
chung, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập nói riêng, chúng ta thấy rằng, mâu thuẫn nói chung và
đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự
phát triển của sản xuất, là sự thay thế các phương thức sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức mâu
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, do lợi ích của mình, giai cấp thống trị
đã duy trì, bảo vệ quan hệ sản xuất cũ bằng tất cả sức mạnh hiện có, đặc biệt dùng bộ máy nhà nước thống trị để
chống lại lực lượng của các giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Vì vậy muốn thay đổi quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển phải gạt bỏ sự cản trở của
giai cấp thống trị, phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp. Rõ ràng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới
và giai cấp thống trị muốn duy trì quan hệ sản xuất cũ, để bảo vệ lợi ích của chúng. Song, vì giai cấp thống trị có cả
bộ máy quyền lực nhà nước để chống lại các lực lượng tiến bộ, cho nên cuộc đấu tranh giai cấp ấy dẫn tới cách
mạng xã hội. Cách mạng xã hội – “cái đầu tiên của lịch sử ấy” dẫn đến xoá bỏ chế độ xã hội chũ, xoá bỏ giai cấp
thống trị và quan hệ sản xuất thống trị, thiết lập chế độ mới, tạo điều kiện để quan hệ sản xuất mới ra đời phát triển,
trở thành quan hệ sản xuất chi phối, thống trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Bởi vậy, đấu tranh giai
cấp có ý nghĩa là động lực lớn của sự phát triển xã hội, nó là một phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xác lập phương thức sản xuất mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói rằng,
đấu tranh giai cấp trong mỗi thời kỳ lịch sử có các giai cấp đối kháng đều xuất phát từ kinh tế và nhằm giải quyết vấn
đề kinh tế, từ đó kéo theo những vấn đề khác và thông qua đó thúc đẩy xã hội phát triển. Đấu tranh giai cấp là
phương tiện, điều kiện chứ không phải là mục đích, mục đích của đấu tranh giai cấp là làm cho sản xuất phát triển,
kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ, xác lập một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến bộ, thay thế cho hình thái kinh tế xã hội
cũ đã lỗi thời. Đối với người cộng sản, lý tưởng của họ là đấu tranh nhằm tiến tới xoá bỏ giai cấp bóc lột cuối cùng
trong lịch sử, thực hiện tự do, bình đẳng, bác ái trên thực tế. Song đó là một quá trình lịch sử lâu dài, trải qua các
bước gập ghềnh, quanh co, chứ không phải là con đường thẳng tắp, dễ dàng. Đấu tranh giai cấp là một trong những
động lực phát triển quan trọng của xã hội có giai cấp, như C.Mác và Ăngghen nói, nó là một đòn bẩy vĩ đại của cuộc
cách mạng xã hội hiện đại . Nhu cầu ngày càng tăng của con người, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, cả những nhân tố, về tư tưởng, đạo đức . đều là những động lực của sự phát triển xã hội. Đấu tranh giai cấp là
một động lực cơ bản của sự phát triển của xã hội có các giai cấp đối kháng
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Chủ nghĩa Mác Lênin không coi giai cấp công nhân chỉ là giai cấp chịu
nhiều đau khổ, “đáng được cứu vớt” mà chính là giai cấp có sự mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột
tư bản chủ nghĩa – chế độ bóc lột cuối cùng trong xã hội loài người, thực hiện sự chuyển hoá từ xã hội tư bản lên xã
hội xã hội chủ nghĩa. Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử ấy không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp công
nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng, mà do những điều kiện khách quan quy định. Hai ông viết: “Vấn đề
không phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ giai cấp vô sản, coi cái gì là mục đích của mình.
Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải
làm gì về mặt lịch sử” Giai cấp công nhân là giai cấp được nền đại công nghiệp “tuyển lựa” tà tất cả các giai cấp và
tầng lớp lao động trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Sự ra đời của giai cấp công nhân gắn liền với nền sản xuất
đại công nghiệp và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản
xuất thủ công. Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không ngừng đấu
tranh chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính đảng của giai cấp công
nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai cấp công nhân tự xoá bỏ với tư cách
là một giai cấp. Khi nghiên cứu quá trình hình thành ý thức giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đầu tiên nảy sinh một cách tự phát theo bản năng. Điều đó cần thiết như Lênin nói:
“Nếu công nhân không tự giải phóng mình thì chẳng ai giải phóng cho họ cả. Nhưng chỉ có bản năng thôi thì chẳng đi
được xa. Cho nên phải nâng bản năng đó thành ý thức”. Vì vậy, việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính của giai
cấp công nhân là quá trình đấu tranh thường xuyên và quyết liệt giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản. Muốn thắng
lợi được trong sự nghiệp này, phải làm cho giai cấp công nhân và phong trào công nhân thấm nhuần lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ này phải do đảng của giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm hệ tư
tưởng của mình đảm nhận. Chỉ có một đảng như vậy mới có khả năng “đưa vào trong phong trào công nhân tự phát
những ý tưởng xã hội chủ nghĩa thật rõ rệt, gắn phong trào đó với những tư tưởng xã hội xã hôi chủ nghĩa những tư
tưởng này phải đạt tới trình độ hiện đại. Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền và lãnh đạo xãy dựng xã hội
mới, giai cấp công nhân không có vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp
công nhân là đảng cộng sản.Khi không có một đảng theo học thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác
Lênin thì không những giai cấp công nhân không vươn tới cuộc đấu tranh giai cấp có ý thức, mà cũng không thể trở
thành giai cấp lãnh đạo quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột lật đổ giai cấp tư sản, cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội.
.4. Sự phát triển biện chứng của lịch sử Lịch sử thế giới đã trải qua những bước tiến lớn, vĩ đại và cả những bước lùi
lớn là một sự thật, là biện chứng, đúng với quan điểm của chủ nghĩa duy vật. Không chỉ có chủ nghĩa xã hội trải qua
bước lùi lớn mà chủ nghĩa tư bản cũng có những bước lùi tưởng như không thể tiến lên được. Sau thắng lợi của
cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, sau những thắng lợi nhằm phát triển chủ nghĩa tư bản ra toàn châu Âu, cách
mạng tư sản thoái trào, triều đại Buốcđông đã phục tích. Năm 1830, rồi năm 1848 laịo tiếp tục cuộc cách mạng tư
sản. Rồi lại đến Lui Bônapáctơ lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Nhưng rồi chế độ phong kiến cũng không thể kéo lùi
được lịch sử. Đến 1870, rốt cuộc cách mạng tư sản Pháp đã thắng lợi hoàn toàn. Những quan hệ tư bản chủ nghĩa
đã chiến thắng quan hệ sản xuất phong kiến. Ngày nay cũng vậy, những thành tựu của chủ nghĩa xã hội mở đầu từ
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1971, sẽ mãi mãi mở đầu một thời đại mới, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, của những tư tưởng tự do – bình đẳng – bác ái thực sự chứ không còn trên danh nghĩa như dưới thời của
chủ nghĩa tư bản. Du quanh co, phức tạp, những tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười và của Lênin về quyền tự
quyết của các dân tộc và sự giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản sẽ nhất định chiến
thắng. Nhân loại sẽ tự nguyện lựa chọn nhiều con đường đi tới tự do – bình đẳng – bác ái thật sự. Có nhìn nhận lịch
sử như vậy thì dù thấy Exin hạ lá cờ đỏ búa liềm thay bằng lá cờ ba sắc thời Nga hoàng, phủ định Cách mạng Tháng
Mười, du thấy trước này 7-11-1991, con cháu dòng họ vua Nga có trở về chúng ta cũng không bàng hoàng. Phải
chăng đó là những diễn biến lịch sử, nhưng rồi trước sau lịch sử vần tìm thấy con đường đi của nó. Phải chăng lịch
sử vẫn lắp lại quy luật phủ định của phủ định lại diễn ra. Lôgích của sự phát triển là như vậy. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở thực tiễn Thực tiễn chủ nghĩa tư bản vẫn không giải quyết được các tệ nạn cỗ hữu của nó, nhát là nạn thất
nghiệpp và nếu tệ phân biệt chủng tộc vốn là ung nhọt của xã hội hiện đại, chủ nghãi tư bản không tìm cách tiêu diệt
nó, mà trái lại trong nhiều lúc nó vẫn dùng để phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của giai cấp tư sản. Ngay cả quyền bình
đẳng của phụ nữ vẫn đang lâm vào tình trạng tồi tệ nhất đặc biệt là ở các lĩnh vực tiền công, việc làm và các quan hệ
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
xã hội và các điều kiện sinh hoạt. Một tình trạng nữa là sự phát triển của khoa học kỹ thuật là các phương tiện thông
tin đại chúng hiện đaị vốn là sản phẩm của văn minh - văn hoá thì không hiếm nơi đã được sử dụng để chống lại văn
hoá văn minh vì mục đích thương mại. Người ta cũng làm tưởng về lòng từ thiện của các chính quyền tư sản và giới
chủ khi thấy đâu đó ở họ có những cải cách về mặt phúc lợi, nhưng kỳ thực đó là kết quả của những cuộc đấu tranh
ngày càng có ý thức của giai cấp công nhân, thường là do các chính đảng cánh tả làm nòng cốt và hơn nữa đó chính
là điều mà giai cấp tư sản bắt buộc phải làm để bảo vệ lợi ích lâu dài của họ. Nếu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội
chủ nghĩa tư bản hiện đại luôn tìm đủ cách để điều chỉnh và thích nghi với những điều kiện mới nhằm vượt qua
những cuộc khủng hoảng, tìm con đường phát triển, thì trong lĩnh vực chính trị cũng vậy. Bài học lịch sử cho thấy,
vấn đề lớn nhất đối với các Nhà nước tư sản là ngăn chặn được các cơn bão táp cách mạng thường phát sinh do sự
bất mãn cao độ của giai câp công nhân, hoặc tiếp theo những thời kỳ hỗn loạn của xã hội, mà trong đó giai cấp tư
sản xâu xé lẫn nhau để bòn rút xương tuỷ của nhân dân lao động. Giai cấp tư sản và đang cố gắng xoa dịu mâu
thuẫn cơ bản này bằng mọi thủ đoạn. Một khi quyền lợi vị kỷ của giai cấp tư sản bị đụng chạm thì kể cả chủ nghĩa tư
bản Nhà nước hay các mặt trận liên minh dưới các tên gọi khác, cuối cùng đều tan vỡ. Rõ ràng vấn đề không thể
được giải quyết nếu như mẫu thuẫn cơ bản ấy không được giải quyết. Trong tình hình đó chủ nghĩa tư bản cỉa lương
lại xuất đầu lộ diện. Nhiều chính trị gia, học giả tư sản thường nêu ra chiêu bài xã hội sẽ biến đổi về cơ bản không
phải bàng đấu tranh cách mạng mà bằng sự chuyển biến dần nhận thức và lòng chắc ẩn của giai cấp tư sản, số khác
thì rêu rao về các khả năng giải quyết những mâu thuẫn giữa tư bản và lao động nằm ngay trong quá trình thực hiện
những nhiệm vụ sản xuất. Nghĩa là, theo họ cần phải tiến hành "cuộc cải cách trí tuệ và đạo đức" ngay trước khi
giành được chính quyền từ giai cấp tư sản. Tất cả chỉ là mị dân bởi trong tình hình hiện nay mà giai cấp tư sản đang
làm ra sức củng cố lực lượng và sẵn sàng tiêu diệt bất cứ một sự phản kháng nào hay một ý đồ nào đụng tới sự tồn
vong cuả chính quyền tư sản. Gần đây, người ta cũng luôn bàn luận nhiều về một yếu tố trong nền chính trị của các
nước chủ nghĩa tư bản phát triển là chế độ xã hội dân chủ ở một số nước từng được coi là kiểu mẫu chính trị cho các
nước tư bản. Đúng là không ai phủ nhận được một số thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội mà các nước ày đạt
được và một thời tạo ra cái ảo tưởng về một lối thoát cho chủ nghĩa tư bản là có thể thay đổi được hoàn toàn thực
trạng mà không thay đổi thực chất nhưng hiện nay tình hình đã không như người ta mong muốn. Nhưng vấn đề cố
hữu của chủ nghĩa tư bản một thời được khoả lấp nay lại nổi lên. Cuối cùng nếu quan sát một các cách khách quan
trên bình diện các mối quan hệ quốc tế, người ta không thể thấy rõ số phận của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
nói riêng và vận mệnh của chủ nghĩa tư bản nói chung. Chủ nghĩa tư bản không thể sử dụng mãi những biện pháp
đàn áp, khai thác hay lợi dụng như trước đây đối với các nước thuộc thế giới thứ ba. Vị trí và quyền lợi cua rhọ ở các
nước thứ ba luôn bị đe doạ. Những món nợ cũ liệu có mãi là xích xiềng đối với các nước thế giới thứ ba, khi ngày
càng nhiều nước đói xoá nợ giảm nợ hoặc hoãn trả nợ vô thời hạn? và các Nhà nước thế giới thứ ba liệu có cam
chịu mãi những cuộc trao đổi bất bình đẳng với các nước tư bản trong khi họ không thiếu cơ hội trong trao đổi với
các nước khác và giữa họ với nhau? điều này đã trực tiếp làm lung lay địa vị và chi phối số phận của chủ nghĩa tư
bản. Thậm chí, ngay sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, liệu sự ổn định của chủ nghĩa tư bản
có đủ sức chứng tỏ chủ nghĩa tư bản là con đường phát triển tối ưu của nhân loại ? không bởi vì chủ nghĩa tư bản
vẫn không thoát khỏi những căn bệnh "thâm căn cố đế" của nó, dù "mối đe doạ cộng sản" tưởng như nhẹ đi. Chủ
nghĩa tư bản vẫn không khát vọng xâm phạm nền độc lập của các quốc gia, trà đạp quyền lợi tự do của các dân tộc
bằng đủ hình thức can thiệp vũ trang thô bạo cuộc chiến Kôsôvô - hay âm mưu diễn biến hoà mình với những cuộc
chiến trah nhung lụa kích động và xô đầy các nước và chém giết đẫm mấu ở khắp các châu lục. Và người ta cũng
đang chức thực khối mâu thuẫn ngày càng lớn và căng thằng giữa các nước tư bản phát triển trong cuộc xấu xé
giành vị trí hàng đầu trong trật tự thế giới hiện nay, mâu thuẫn đó đang trở thành nguy cơ đe doạ không những chính
số phận họ mà còn cả nhân loại. Đó là bằng chứng không gì chối bỏ được. Sự đổ vỡ của Đông Âu xã hội chủ nghĩa
và của Liên Xô là sự đổ vỡ của mọt mô hình xã hội chủ nghĩa có một số mặt thích hợp ở một thời kỳ thích hợp nhưng
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
chậm đổi mới cho phù hợp với sự tiến hoá. Đây không phải là sự phá sản của chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta cho
rằng đây là sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội nói chung, là sự phá sản của học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phải chăng
chúng ta cho rằng lịch sử đã đi tới sự kết thúc vận động. Thực ra, lịch sử luôn vận động, không tuỳ thuộc vào ý muốn
của ai. Một số chính khách, học giả tư sản muốn kéo lùi lịch sử, muốn chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn nhưng lịch
sử vẫn tìm ra con đường phát triển của nó để tiến tới một xã hội công bằng, bác ái thực sự thay thế chủ nghĩa tư bản.
Đó là chủ nghĩa xã hội. Mộ hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trước đây là một mô hình được thể nghiệm, không
đồng nhất với chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ khi Liên Xô sụp đổ đến nay, phong trào xã hội chủ nghĩa với những mô
hình mới như mô hình của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam đang
phát triển. Những tìm tòi sáng tạo mới đang thúc đẩy phong trào xã hội chủ nghĩa đi lên, không bị gò bó bởi những
công thức có sẵn. Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế sự phát triển cao của lực lượng sản xuất suy cho cùng là
nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Song nhân tố chính trị xét về mặt chủ thể (chủ quan ) của lịch sử
lại trở thành nhân tố quyết định trong bước đường phát triển của dân tộc. Vào giữa những năm 80, kinh tế xã hội
nước ta lầm vào cuộc khùng hoảng trầm trọng, chế độ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo. Nhưng cũng
chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và
mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực
tiễn xác nhận là đúng đắn. Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiện sự năng động về tư duy
lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của
sự đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng khùng hoảng, để vượt
qua những kìm hãm của mô hình cũ - mô hình hành chính bao cấp, để giải phóng và khia thác mọi tiềm năng phát
triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đổi mới không phải là từ
bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội công bừng văn minh, đúng với quy luật khách quan hơn phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của
đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn làm cho
chủ nghĩa xã hội hộc lộ và khẳng định bản chất ưu việt của nó, từng bước định hình và phát triển trong thực tế, làm,
cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ", để cho
nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc được học hành tiến bộ và phát triển mọi khả năng sáng tạo của mình"
để cho "dân thực sự là chủ và làm chủ lẫy và cuộc xống của mình? Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. Mặc dù xuất
phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ ở nước ta còn rất thấp, nhiều yếu tố còn ở mức tiền thời kỳ quá độ. Song,
trong những năm qua, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu rất quan trọng (tuy còn
non yếu). Hơn nữa, bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, chúng ta có thể đưa ra đường
lối đúng và có kế hoạch, biện pháp thích hợp để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng về sức sản xuất hiện có; động
viên tối đa mọi nguồn lực vật chất, trí tuệ của dân tộc; kết hợp tối ưu sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tranh
thủ ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại do quá trình quốc tế hoá tạo ra.
Đó là cách đi tốt nhất để pháp triển lực lượng sản xuất nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế và xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, để rút ngắn quá trình lịch sử tự nhiên, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các
nước. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các tổ chức quốc tế, kể cả tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ
vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài: thành tựu khoa học -
kỹ thuật và công nghệ, vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý v.v Như vậy, đi lên xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan, và nó được thể hiện trong cuộc sống đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định mới nhằm làm
cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đa xây dựng sẽ là chế độ phát
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..
Tiểu luận môn học: Triết Học
triển và sử dụng tốt nhất những nguồn lực của chính mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là là nguồn lực con
người. Đó là mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội.
2. Liên hệ bản thân Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp, kẻ địch đang
tấn công quyết liệt bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội hàng
ngày hàng giờ đang tác động nhưng tôi vẫn giữ niềm tin, phấn đấu không mệt mỏi để góp một phần nhỏ trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đảng ta đã vạch ra, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới đất
nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiệp chỉnh Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước, có một cuộc sống lành mạnh vui tươi không chịu ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội.
Đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng phát triển kinh tế. Vì vậy tôi
luôn cố gắng phấn đấu học tập, nghiên cứu khoa học, ngoài ra tôi vẫn tham gia tiếp tục các khoá học như tin học,
ngoại ngữ đế có điều kiện tiếp cận với những tri thức của thế giới, ngoài ra tôi còn thường xuyên đọc thêm các tài
liệu sách báo, theo dõi các sự kiện trong nước và quốc tế để trau dồi kiến thức góp phần, phục vụ công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Luôn luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao KẾT LUẬN Đi lên chủ nghĩa xã
hội là con đường tất yếu đối với tất cả nhân loại. Chúng ta phải nhận thấy rằng con đường mà chúng ta đang đi tới là
một con đường gian lao, thử thách, đòi hỏi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân ta phải cùng đồng lòng, chung sức và
cùng cố gắng, thì mới có thể thành công. Chúng ta bước được tới đỉnh vinh quang hay không, có bước được đến
CNXH-CNCS hay không, điều đó còn phải tuỳ thuộc vào tất cả mọi người có cố gắng, nỗ lực hay không. Tất cả
chúng ta sẽ cùng cố gắng để có thể thực hiện được ước mơ và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân,
bởi quá độ được đến CNXH, chúng ta sẽ tìm được thấy hạnh phúc, ấm no và công bằng, chúng ta sẽ thấy được ánh
sáng của văn minh nhân loại, cái mà bấy lâu nay chúng ta tìm kiếm nó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Triết học
2. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
3. Giáo trình Kinh tế chính trị
4. Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB CTQG.
5. "Về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam " Tác giả :GS.Nguyễn Đức Bình . NXB CTQG . 6. Tạp chí Cộng sản
7. Tạp chí Lý luận chính trị
Học viên: Hoàng Văn Đức Lớp: Ky t. xây dựng B–K21.1 Trang…..