Đề cương ôn thi Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh

Đề cương ôn thi Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh được được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 39651089
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm triết học và nguyên nhân ra đời của triết học ?
Khái niệm triết học
Ở phương Đông, theo quan niệm của người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc là chữ
“triết”, dựa theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là trí, ám chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu sắc
của con người về thế giới và về đạo lý làm người. Còn theo quan niệm của người An Độ,
triết học được gọi là Darshara, có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng với hàm ý là sự hiểu
biết dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp được gọi là
philosophia, có nghĩa là yêu mến (philo) sự thông thái (sophia). Ở đây, khi nói tới triết
học, tới philosophia, người Hy Lạp cổ đại không chỉ muốn nói tới sự hiểu biết sâu sắc về
nhiều lĩnh vực tri thức ở tầm cao nhất (tức sự thông thái) mà còn thể hiện khát vọng vươn
tới tầm cao nhận thức đó. Đối với người Hy Lạp cổ đại, triết học chính là hình thái cao
nhất của tri thức. Nhà triết học là nhà thông thái, là người có khả năng tiếp cận chân lý,
làm sáng tỏ bản chất của sự vật. Có thể thấy rằng, khái niệm “triết”, “triết học” dù ở
phương Đông hay phương Tây đều bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu
biết về vũ trụ và con người, sự giải thích thế giới bằng một khả năng tư duy lôgic nhất
định) và yếu tố nhận định (sự đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động tương
ứng).
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới.
Nguyên nhân ra đời
Nguồn gốc nhận thức: Để tồn tại và thích nghi với trong thế giới, con người cần phải có
hiểu biết về thế giới xung quanh cũng như về bản thân. Xuất phát từ yêu cầu khách quan
đó, những câu hỏi như: Thế giới xung quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc hay
không? Sức mạnh nào chi phối thế giới? Con người là gì? Nó được sinh ra như thế nào và
có quan hệ như thế nào với thế giới bên ngoài? Bản chất đích thực của cuộc sống nằm ở
đâu? v.v. đã được đặt ra ở một mức độ nhất định, dưới hình thức nhất định, và đã được
đặt ra ngay từ thời nguyên thủy. Tuy nhiên, chỉ đến thời kỳ cổ đại, khi mà tri thức của con
người về thế giới đã tích lũy tới một mức độ cho phép, khả năng tư duy của con người đã
được “mài sắc” và nâng cao tới mức cho phép đủ để diễn tả thế giới một cách trừu tượng
bằng hệ thống phạm trù, khái niệm trừu tượng, thì lúc đó, những câu hỏi trên mới được
trả lời một cách sâu sắc. Nói cách khác, khi con người đạt tới trình độ phát triển tư duy
trừu tượng, chỉ tới lúc đó, triết học với tính cách là lý luận, là hệ thống quan niệm chung
nhất về thế giới và cuộc sống con người mới ra đời.
Nguồn gốc xã hội: Thứ nhất, đó là sự phát triển của sản xuất vật chất và quá trình phân
công lao động xã hội. Để triết học ra đời cần phải có những người chuyên lao động trí óc.
Bởi vì, chỉ có họ mới có thể khái quát những tri thức mà nhân loại đã tích lũy được thành
hệ thống các quan niệm có tính chỉnh thể về thế giới - tức tri thức triết học. Sự phát triển
của sản xuất vật chất đến mức nào đó sẽ dẫn tới sự phân công lao động xã hội, phân chia
thành hai loại lao động: lao động chân tay và lao động trí óc. Chính sự xuất hiện lao động
trí óc, biểu hiện ở sự ra đời tầng lớp trí thức đã tạo điều kiện cho triết học ra đời.
lOMoARcPSD| 39651089
Thứ hai, cùng với quá trình phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội, sự phân
chia giai cấp trong xã hội thành thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột, cũng như sự xuất
hiện quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị, bị bóc lột chống giai cấp thống trị,
bóc lột cũng là nguồn gốc xã hội của sự ra đời triết học. Bởi vì, nhằm để bảo vệ quyền lợi
của giai cấp mà mình đại diện,các nhà tư tưởng đã xây dựng các học thuyết triết học khác
nhau, với những quan điểm chính trị khác nhau. Trên thực tế, từ khi ra đời, triết học luôn
mang tính giai cấp, nghĩa là nó luôn phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực
lượng xã hội nhất định. Điều đó cũng góp phần lý giải vì sao triết học không ra đời ở thời
kỳ cộng sản nguyên thuỷ mà chỉ đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ, với việc xã hội xuất hiện
phân chia giai cấp và sự ra đời bộ phận lao động trí óc thì triết học mới ra đời.
**Câu 2:**Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan, vì sao nói triết học là
hạt nhân lý luận của thế giới quan ?
Các thành phần cơ bản của thế giới quan
Thế giới quan hình thành gồm nhiều yếu tố phụ thuộc và tất cả thuộc về ý thức xã hội, đó là:
Quan điểm triết học
Quan điểm khoa học, chính trị, đạo đức và thẩm mỹ
Quan điểm tôn giáo: sản phẩm của thâm thức mô tả kiến thức qua trực giác cảm nhận.
Kiến thức khoa học nhắm đến mục tiêu và phương hướng thực tiễn, trực tiếp cho người
trong tự nhân, xã hội dựa theo quan sát và dữ kiện từ thực tiễn, phân tích tổng hợp chặt
chẽ và có kiểm nghiệm đối với sự khách quan với thực tiễn.
Nguyên tắc về tiêu chuẩn đạo đức đóng vai trò điều chỉnh các quan hệ qua lại và hành vi
của con người.
Những quan điểm thẩm mỹ quy định những quan hệ với môi trường xung quanh với hình
thức, mục tiêu và kết quả của hoạt động.
Vì sao nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan?
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người
không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến
đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Con người phải hiểu thế giới
xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Đó là thế giới quan.
Theo quan điểm Mác Lê-nin đưa ra cách hiểu về thế giới quan như sau: “Thế giới quan là
toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống
và vị trí của con người trong thế giới đó”. Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho
toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như
tự nhận thức bản thân để từ đó xác định lý tưởng, hệ giá lối sống, nếp sống của mình.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp
cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành
niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản:
lOMoARcPSD| 39651089
o Thế giới quan huyền thoại: Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận
thế giới của người nguyên thủy. Ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý
trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái
người, v.v. của con người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. o
Thế giới quan tôn giáo: Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò
chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái
người.
o Thế giới quan triết học: Triết học diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ
thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình
nhận thức thế giới. Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình
thành và phát triển của thế giới quan. Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn
bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người trong đó tri thức của các khoa học
cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng
mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương thức tư duy đặc thù đã
tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư
cách là một chỉnh thể.
o Triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới
đó. Triết học là thế giới quan và nhân sinh quan của con người khi xem xét thế
giới và loài người trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa con người với
con người trong tự nhiên và xã hội.
Như vậy, triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
và tri thức do các khoa học đưa lại; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố
và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Câu 3:
Phân tích Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Khái niệm: Theo Ăngghen , vấn đề cơ bản của triết học ,đặc biệt là triết học hiện đại ,là
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại (hay còn được biết tới là mối quan hệ giữa ý thức và
vật chất).
Nội dung vấn đề cơ bản của triết học: vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
o Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi ‘’vật chất và ý thức ,cái nào có trước, cái nào có
sáu,cái nào quyết định cái nào?’’Để trả lời cho câu hỏi này có 3 cách .Chủ nghĩa
duy vật cho rằng vật chất là cái có trước và quyết định ý thức. Ngược lại,chủ
nghĩa duy tâm lại cho rằng, ý thức có trước, ý thức quyết định vật chất. Các nhà
triết học theo trường phái nhị nguyên lại cho rằng vật chất và ý thức là tồn tại độc
lập , không nằm trong mối quan hệ quyết định lẫn nhau.
o Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi ‘’con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không ?’ .Câu hỏi này có 2 cách trả lời .Các nhà triết học cho rằng khả tri cho
rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới, trong khi các nhà
triết học bất khả tri lại cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế
lOMoARcPSD| 39651089
giới, hoặc chỉ có thể nhận biết được hiện tượng bên ngoài mà không thể nắm
được bản chất bên trong.
Tại Sao:
Đây là vấn đề rộng nhất, chung nhất. Đóng vai trò là nền tảng, định hướng để giải quyết
các vấn đề khác. Các trường phái triết học đều trực tiếp/ gián tiếp đi vào giả thích về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đi vào quyết định của
mình. Việc quết định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở xuất phát cho các quyế
định triết học nảy sinh. Việc quyết định vấn đề cơ bản của triết học là tính chất khách
quan khoa học để phá định lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch
sử.
Câu 4: Nội dung Chủ nghĩa duy vật các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử
triết học ?
Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay,chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ
bản: chủ nghĩa duy vật chất phác,chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
o Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời Cổ đại.Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất
nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra
những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan,ngây thơ,chất
phác.Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật
chất,nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới,không viện đến Thần linh,Thượng đế
hay các lực lượng siêu nhiên.
o Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật,thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và
điển hình là ở thế kỷ thứ XVII,XVIII.Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được
những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy
vật thời Cổ đại,chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình,cơ giới-phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy
khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản làởtrong trạng thái biệt lập
và tĩnh tại.Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm
và tôn giáo,đặc biệt làở thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trưởng Trung cổ sang thời
Phục hưng.
o Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duyvật,do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX,sau đóđược
V.I. Lênin phát triển.Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trướcđó
và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời,chủ nghĩa duy vật
biệnchứng,ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chấtphác thời Cổ đại,chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát
triển củachủ nghĩa duy vật.Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh
hiện thực đúngnhư chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp
những lực lượngtiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
lOMoARcPSD| 39651089
Chủ nghĩa duy tâm:Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái:chủ nghĩa duy tâmchủ quan và
chủ nghĩa duy tâm khách quan.
o Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực,chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật,hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
o Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất củaýthức nhưng coi
đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.Thực
thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như
ý niệm,tinh thần tuyệt đối,lý tính thế giới,v.v ..
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức,tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới
tự nhiên. Bằng cách đó,chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng
siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới.Vì vậy,tôn giáo thường sử dụng các học thuyết
duy tâm làm cơ sở lý luận,luận chứng cho các quan điểm của mình,tuy có sự khác nhau
đáng kể giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới
quan tôn giáo,lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động. Còn
chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và
năng lực mạnh mẽ của tư duy.
Câu 5: Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học?
*Nội dung:
Chủ nghĩa duy tâm là toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy tâm
trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, cho rằng bản chất thế giới là ý thức, tinh thần; ý
thức, tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết
định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên.
Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào đó
đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý
luận, luận chứng cho các quan điểm của mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa duy
tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.
Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động.
Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng
lực mạnh mẽ của tư duy. Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt
nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó
của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Bên cạnh nguồn gốc nhận thức,
chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân
tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã
tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và
nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
lOMoARcPSD| 39651089
*Các hình thức:
Chủ nghĩa duy tâm gồm hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm chủ quan chủ nghĩa duy tâm khách
quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật,
hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan
này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế
giới, v.v..
Câu 6: Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận?
Thuyết khả tri và Thuyết bất khả tri là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của
triết học. Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số
các nhà triết học (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) trả lời một cách khẳng định: Thừa nhận
khả năng nhận thức được thế giới của con người.
Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi là Thuyết khả tri
(Gnosticism, Thuyết có thể biết). Thuyết khả tri khẳng định về nguyên tắc con người có thể hiểu
được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức
mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là Thuyết bất khả tri
(Agnosticism, Thuyết không thể biết). Theo thuyết này, về nguyên tắc, con người không thể hiểu
được bản chất của đối tượng. Kết quả nhận thức mà loài người có được chỉ là hình thức bề ngoài,
hạn hẹp và cắt xén về đối tượng. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm... của đối tượng mà các giác
quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng
không cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin
cậy.
Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm giác của
con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực
tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế
giới. Thuyết bất khả tri cũng không đặt vấn đề về niềm tin, mà chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của
nhận thức.
Thuật ngữ “Thuyết bất khả tri” được đưa ra năm 1869 bởi T.H. Huxley (Hắcxli) (1825 - 1895),
nhà triết học tự nhiên người Anh, người đã khái quát thực chất của lập trường này từ các tư
tưởng triết học của D. Hume (Hium) và Kant. Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả
tri cũng chính là Hume và Kant.
lOMoARcPSD| 39651089
Ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ triết học Hy
Lạp cổ đại. Những người theo hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc
xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan. Tuy
cực đoan về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời phục hưng đã giữ vai trò quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội thời trung cổ. Hoài nghi luận thừa
nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay từ thời Epicurus khi ông đưa ra những luận
thuyết chống lại quan niệm đương thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải đến Kant, bất khả tri
mới trở thành học thuyết triết học có ảnh hưởng sâu rộng đến triết học, khoa học và thần học
châu Âu. Trước Kant, Hume quan niệm tri thức con người chỉ dừng ở trình độ kinh nghiệm, chân
lý phải phù hợp với kinh nghiệm. Hume phủ nhận những sự trừu tượng hóa vượt quá kinh
nghiệm, dù là những khái quát có giá trị. Nguyên tắc kinh nghiệm của Hume có ý nghĩa đáng kể
cho sự xuất hiện của các khoa học thực nghiệm, tuy nhiên, việc tuyệt đối hóa kinh nghiệm đến
mức phủ nhận các thực tại siêu nhiên đã khiến Hume trở thành nhà bất khả tri luận.
Mặc dù quan điểm bất khả tri của Kant không phủ nhận các thực tại siêu nhiên như Hume, nhưng
với thuyết về vật tự nó (Ding an sich, còn được dịch là vật tự thân), Kant đã tuyệt đối hóa sự bí
ẩn của đối tượng được nhận thức. Kant cho rằng con người không thể có được những tri thức
đúng đắn, chân thực, bản chất về những thực tại nằm ngoài kinh nghiệm có thể cảm giác được.
Việc khẳng định về sự bất lực của trí tuệ trước thế giới thực tại đã làm nên quan điểm bất khả tri
vô cùng độc đáo của Kant.
Trong lịch sử triết học, Thuyết bất khả tri và quan niệm vật tự nó của Kant đã bị Feuerbach
(Phoiơbắc) và Hegel phê phán gay gắt. Trên quan điểm duy vật biện chứng, Ph. Ăngghen tiếp tục
phê phán Kant, khi khẳng định khả năng nhận thức vô tận của con người. Theo Ph. Ăngghen,
con người có thể nhận thức được và nhận thức được một cách đúng đắn bản chất của mọi sự vật
và hiện tượng. Không có một ranh giới nào của vật tự nó mà nhận thức của con người không thể
vượt qua được. Ph. Ăngghen khẳng định: “Nếu chúng có thể chứng minh được tính chính xác
của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra
hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục
vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ
nữa”.
Những người theo khả tri luận tin rằng, nhận thức là một quá trình không ngừng đi sâu khám phá
bản chất sự vật. Với quá trình đó, vật tự nó sẽ buộc phải biến thành “Vật cho ta”.
Chủ nghĩa hoài nghi (scepticism) là một hướng tiếp cận của triết học, mà trong đó, những mọi tri
thức nền tảng hay bất cứ một khẳng định nào cũng đều được người theo thuyết này hồ nghi, xem
xét.
Chủ nghĩa hoài nghi triết học (philosophical skepticism) là trường phái tư tưởng triết học xem xét
một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là
thể, nghĩa câu hỏi liệu các tri thức nhận thức đúng hay không liệu người ta thể
tri thức thực sự hay không.
lOMoARcPSD| 39651089
Chủ nghĩa hoài nghi trong triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học - trường phái cho rằng
có một tập hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân thực.
Chủ nghĩa hoài nghi xuất hiện từ rất sớm và dưới nhiều hình thức trong lịch sử triết học. Một trong
những yếu tố phổ biến để phân biệt các hình thức hoài nghi dựa vào độ rộng của quan điểm
được hoài nghi.
dụ: Copernicus nghi ngờ về thuyết địa tâm (một quan điểm cho rằng trái đất đứng yên
trung tâm trụ). Tuy nhiên, ông lại không nghi ngờ chuyện có tồn tại một trụ bên ngoài trái
đất. Nên dù vấn đề ông đặt ra mang tầm trái đất và các tinh tú, thì độ rộng trong sự hoài nghi của
Copernicus chỉ được xếp vào hàng hoài nghi cục bộ (local scepticism).
Một dạng hoài nghi khác khi tầm bao phủ của nó có độ rộng lớn hơn, phủ trùm thế giới bên ngoài
(external world). Nói một cách cụ thể thì theo chủ nghĩa này: liệu những giác quan hay trí của
chúng ta thể giúp chúng ta được những phán đoán đúng đắn về thế giới hay không, hoặc
thậm chí là thế giới khách quan có tồn tại hay không? Đây chính là tư tưởng cốt lõi trong thời kỳ
Hellen cổ đại. Còn đối với những ai hoài nghi cả ng lực của lý trí trong việc cung cấp cho chúng
ta tri thức (trong trường hợp các giác quan của chúng ta không thể) thì lúc này mức độ hoài nghi
đã đạt đến ngưỡng cao nhất, phổ quát (global in its scope). Tức lúc này con người sẽ hoài nghi tất
thảy, không chừa một quan niệm nào hết và thậm chí hoài nghi ngay cả những thứ như khái niệm
toán học hay chính bản thân ý nghĩa của sự hoài nghi.
Câu 7: Nội dung Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng? (phương pháp
biện chứng) *Nội dung:
Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối
tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc và quy định
lẫn nhau.
Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong
khuynh hướng phổ quát là phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và chất của
các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập của mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự vật.
Quan điểm biện chứng cho phép chủ thể nhận thức không chỉ thấy những sự vật riêng biệt mà
còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh
thành, phát triển và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái
động của sự vật. Ph. Ăngghen nhận xét, tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề
tuyệt đối không thể dung nhau được, đối với họ một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một
lOMoARcPSD| 39651089
sự vật không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài
trừ lẫn nhau. Ngược lại, tư duy biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt, không tuyệt đối hóa
nghiêm ngặt những ranh giới, “trong những trường hợp cần thiết, là bên cạnh cái “hoặc là... hoặc
là” thì còn có cả “cái này lẫn cái kia” nữa, và thực hiện sự môi giới giữa các mặt đối lập” . Tư
duy biện chứng thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận
cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới, là phương
pháp luận tối ưu của mọi khoa học.
*Các hình thức:
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã trải qua ba giai đoạn
phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử: phép biện chứng tự phát, phép
biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
- Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương
Đông và phương Tây thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng của vũ trụ vận động trong
sự sinh thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, những gì mà các nhà biện chứng thời đó thấy
được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
- Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện
trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Kant và người hoàn thiện là Hegel. Có thể khẳng
định, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày
một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Theo các
nhà triết học Đức, biện chứng bắt đầu từ tinh thần và kết thúc cũng ở tinh thần. Thế giới hiện
thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển
Đức là biện chứng duy tâm.
- Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện
trong triếthọc do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin và các nhà triết học
hậu thế phát triển. C. Mác và Ph. Ăngghen đã gạt bỏ tính thần bí, tư biện của triết học cổ điển
Đức, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện
chứng duy vật với tư cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình
thức hoàn bị nhất. Công lao của C. Mác và Ph. Ăngghen còn ở chỗ tạo được sự thống nhất giữa
chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại, làm cho phép
biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Câu 8: Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác – Lênin?
*Điều kiện:
Sự xuất hiện triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Đó là kết quả tất
yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, trong sự phụ thuộc vào
những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
lOMoARcPSD| 39651089
với giai cấp tư sản. Đó cũng là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan của C. Mác và Ph. Ăngghen.
-Điều kiện kinh tế - xã hội:
+Sự củng cố phát triển của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng
công nghiệp.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước
chủ yếu của châu Âu. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường
quốc công nghiệp lớn nhất. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn
thành. Cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho nền sản xuất xã hội ở Đức được phát triển
mạnh ngay trong lòng xã hội phong kiến. Nhận định về sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất 25 cả các thế hệ trước kia gộp lại” .
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được
củng cố, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong
kiến.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt
và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng những lý tưởng về bình đẳng xã
hội mà cuộc cách mạng tư tưởng nêu ra đã không thực hiện được mà lại làm cho bất công xã hội
tăng thêm, đối kháng xã hội sâu sắc hơn, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
+Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trênđài lịch sử với cách một lực lượng chính trị - hội
độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự ra đời triết học Mác.
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp vô sản cũng đã đi theo
giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội và
giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính chất đối
kháng càng phát triển, trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở
Lyon (Pháp) năm 1831 bị đàn áp và sau đó lại nổ ra vào năm 1834, đã chỉ ra một điều quan trọng
- như một tờ báo chính thức của chính phủ hồi đó đã nhận định - đócuộc đấu tranh bên trong,
diễn ra trong hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không hết... Ở
Anh, phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX “phong trào cách mạng
vô sản to lớn đầu tiên, thật sự tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”2 . Nước Đức còn
đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song sự phát triển công nghiệp trong điều kiện
cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp sản lớn nhanh, nên cuộc đấu tranh của thợ dệt
lOMoARcPSD| 39651089
Xilêdi cũng đã mang nh chất giai cấp tự phát và đã đưa đến sự ra đời một tổ chức sản cách
mạng là “Đồng minh những người chính nghĩa”.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh
và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản nên không còn là lực lượng cách mạng trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Giai cấp
tư sản Đức đang lớn lên trong lòng chế độ phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi
nhìn vào cách mạng tư sản Pháp năm 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong
trào công nhân Đức. Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến Đức thành nền dân chủ tư
sản một cách hòa bình. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ có sứ mệnh
là “kẻ phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền
dân chủ và tiến bộ xã hội.
+Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
Triết học, theo cách nói của Hegel, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì vậy, thực tiễn xã hội
nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vô sản, đòi hỏi phải được soi sáng bởi lý luận nói chung
và triết học nói riêng. Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã
được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, từ đó hình thành
những học thuyết với tư cách là một hệ thống những quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và
chính trị - xã hội khác nhau. Điều đó được thể hiện rất rõ qua các trào lưu khác nhau của chủ
nghĩa xã hội thời đó. Sự lý giải về những khuyết tật của xã hội tư bản đương thời, về sự cần thiết
phải thay thế nó bằng xã hội tốt đẹp, thực hiện được sự bình đẳng xã hội theo những lập trường
giai cấp khác nhau đã sản sinh ra nhiều biến thể của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội
phong kiến”, “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản”, “chủ nghĩa xã hội tư sản”,...
Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và
cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để
nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ tính cách mạng và tính khoa học trong bản
chất của mình; nhờ đó, nó có khả năng giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt ra. Lý
luận đó đã được sáng tạo nên bởi C. Mác và Ph. Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở
lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận.
*Tiền đề:
– Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử còn kết quả
của sự kế thừa tinh hoa di sản luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất triết học cổ điển
Đức, kinh tế – chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh. +
Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen là L.Phoibac đã ảnh hưởng sâu sắc
đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung bản trong phép biện chứng của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiobac. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế
bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết họcghen và phương pháp siêu
hình trong triết học của Phoiobac.
Trên sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: Chủ nghĩa duy vật biện
chứng phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng vào việc
lOMoARcPSD| 39651089
nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển hội, đặc biệt là
nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của
chủ nghĩa xã hội.
+ Với kinh tế – chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của
(A.Xmit Đ.Ricacdo), C.Mác Ph.Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp khoa học của
những học thuyết này. Đó là: Quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính
trị học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời, các ông cũng phê phán khắc phục tính chất chưa
triệt để trong học thuyết giá trị về lao động phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các
nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị
lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa hội không tưởng nước AnhPháp, đặc biệt là với những biểu lớn của
là H.Xanh Ximong, S.Phurie và R.Ooen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân
đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế cảu Chủ nghĩa
bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ.
Đó tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, các ông xây dựng nên một lý luận mới
– lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
– Tiền đề khoa học tự nhiên:
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan
trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học sự phát triển của
vật chất một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng. + Thuyết
tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích
quá trình phát triển của chúng; dặt sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan
niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không sự
liên hệ; bất biến; do Thượng Đế tạo ra đem lại cho sinh học sở khoa học, xác định tính
biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan
của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng
bằng các thành tựu của khoa học, còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền
đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Lênin?
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V.I. Lênin đã đưa ra
định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết
quả của việc tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy
tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên, có thể nhận thấy bao hàm các nội dung
cơ bản sau:
- Vật chất là một phạm trù triết học:
lOMoARcPSD| 39651089
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin một phạm trù triết học, tức phạm trù rộng nhất, khái
quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình dung được cái gì
rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này trong một khoảng không gian nhất
định, vì không có gì rộng hơn nó.
- Vật chất là thực tại khách quan:
Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại. Nvậy
để thấy rằng ý thức mặt vận động, phát triển sau đó. Qua đó vật chất mang đến các chức
năng, tác dụng cần thiết đối với con người. Đặc biệt là vẫn được phản ánh thông qua mắt nhìn, tay
sờ,… Tức là thông qua các tiếp cận từ cảm giác và nhu cầu từ ý thức.
- Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại,chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác:
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp
tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người sự phản ánh đối với vật chất, còn
vật chất là cái được ý thức phản án
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa ý thức chưa
con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức.
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan
(mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế,
ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng
tạo.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Phát hiện vật chất trước ý thức sau. Vật chất nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ýthức con người. Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người
khả năng nhận thức thế giới.
Bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất với sự phát hiện cật chất có trước, ý thức
cósau, vật chất là nguồn gốc của ý thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác.
Khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy
vậttrước Mác.
Câu 2: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức?
* Nguồn gốc của ý thức:
lOMoARcPSD| 39651089
Nguồn gốc của ý thức dựa theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm:
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là bộ óc
sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người. Trong đó thì thế giới
khách quan có sự tác động tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ
con người đối với thế giới khách quan.
Tuy nhiên, nếu chỉ bộ óc không thôi không thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì
cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.
Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có
thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất k Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tnhiên, con người trở thành sản phẩm
cao nhất, thì thuộc tính phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với mọi đối tượng khác trong
tự nhiên.
Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý
thức”. Đó sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con ngườihác trong quá
trình tác động qua lại giữa chúng.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ.
Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức những tiền đề, nguồn
gốc xã hội. Đó là lao động, tức là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ.
Chính thông qua lao động, hay còn gọi hoạt động thực tiễn, nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người mới có thể phản ánh được, biết được nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về
thế giới này.
Nhưng đây, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con
người ý thức. Ý thức được chủ yếu do con người chủ động tác động vào thế giới khách
quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
Ví dụ về nguồn gốc của ý thức:
Ý thức được bắt nguồn từ nguồn gốc xã hội, trong đó bao gồm lao động ngôn ngữ, dụ cụ thể:
Con người khi lao động cụ thể lao động chế tạo ra các công cụ lao động, công cụ dùng trong
sinh hoạt, từ đó con người ý thức về việc thay đổi thói quen ăn uống hay mục đích của hoạt
động biến đổi phát triển xã hội.
* Vai trò của ý thức:
lOMoARcPSD| 39651089
Khẳng định vật chất chính là nguồn gốc khách quan, đồng thời là cơ sở để sản sinh ý thức,
ýthức sản phẩm, sự phản ánh về thế giới khách quan của nhận thức, hành động con người cần
xuất phát từ hiện thực là khách quan, hành động và tôn trọng theo hiện thực khách quan. – Khẳng
định về ý thức có vai trò quan trọng, tích cự sự tác động trở lại phép biện chứng duy vật, vật chất
yêu cầu trong hoạt động ý thức nhận thức con người, theo đó con người phải nhận thức, vận
dụng quy luật khách quan có sự sáng tạo, chủ động để chống lại sự thụ động và thái độ tiêu cực.
Phát huy tính năng động sáng tạo ý thức phát huy về vai trò nhân tố của con người để
thểtác động, cải tổ về thế giới khách quan, sự khắc phục cải thiện bệnh bảo thủ, trì trệ chống
lại sự thụ động, tiêu cực, ỷ lại.
* Kết cấu của ý thức:
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận
từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
- Các lớp cấu trúc của ý thức:
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong
đó tri thức nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn thể bao gồm các yếu tố khác như
niềm tin, lí trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo
lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.Mọi hoạt động của con
người đều tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung
tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức là điều kiện để ý thức phát triển. Tình cảm
là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc
biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con
người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi nh vực
đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
Ý chí khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực
hiện mục đích của con người. Ý chí được coi mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý
thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
lOMoARcPSD| 39651089
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố quan
trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời nhân tố định hướng đối với sự phát triển
và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
- Các cấp độ của ý thức:
Với cách tiếp cận này, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức
bản thân mình. Đó chính tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng ý thức, là một thành tố quan trọng
của ý thức, nhưng đây ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác
có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại
có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về
thực chất, tiềm thức những tri thức chủ thể đã được từ trước nhưng đã gần như trở thành
bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần
kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học.
thức những trạng thái tâm chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ng xử
của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự
kiểm tra, tính toán của trí.thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng
ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Không nên coi vô thức
là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh không liên quan gì
đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong
con người ý thức chứ không phải thức. Nhờ ý thức mới điều khiển được các hiện tượng
vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ một mắt khâu trong cuộc sống ý thức của con
người.
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ giữa vật chất
ý thức thì vật chất trước còn ý thức sau, vật chất nguồn gốc của ý thức quyết định ý
thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vật chất quyết định ý thức:
lOMoARcPSD| 39651089
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật chất,
hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất quyết
định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến
đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới khách
quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Bởi vì, ý thức tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người, vậy cùng với việc xuất phát từ hiện thực khách quan, cần
phát huy tính năng động chủ quan, tức phát huy mặt ch cực của ý thức, hạn chế mặt tiêu cực
của ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và
hoạtđộng thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo
qui luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại
khôn lường. Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
- Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống
tưtưởng, thái độ thụ động, lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai
trò của ý thức, coi trọng công tác tưởng giáo dục tưởng, coi trọng giáo dục luận chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách
mạngcho cán bộ, đảng viên nhân dân nói chung, nhất trong điều kiện nền văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho
cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến?
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa c mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các
lOMoARcPSD| 39651089
sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới
Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng
của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất những mối liên hệ tồn tại mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới, thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó các mối liên
hệ giữa các mặt đối lập, lượng chất, khẳng định phủ định, cái chung cái riêng, bản chất
hiện tượng, v.v.. Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên
hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng
tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những
mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ
biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự hiên, xã hội và tư duy.
* Tính chất của mối liên hệ phổ biến.
- Tính khách quan: chủ yếu biểu hiện ở: Thứ nhất, các bộ phận, yếu tố các khâu
khác nhau bên trong tất cả các sự vật có mối liên hệ lẫn nhau. Thứ hai, mọi thứ đều có mối liên hệ
với mọi thứ khác xung quanh. Thứ ba, toàn bộ thế giới một thể thống nhất mối liên hệ lẫn
nhau. - Tính khách quan: Nó là sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con
người. Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới
là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ thể nhận thức vận dụng các mối liên hệ đó
trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính đa dạng, phong phú: Trong mối liên hệ phổ biến này ẩn chứa tính đa dạng, phong
phú của các mối liên hệ được thể hiện thông qua sự liên hệ của các các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác nhau đều những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với
sự tồn tại phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Câu 5: Nguyên lý về sự phát triển?
lOMoARcPSD| 39651089
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi
lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
* Khái niệm sự phát triển:
- Quan điểm siêu hình cho rằng: phát triển chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về mặt số lượng
không có sự thay đổi về chất của sv,đồng thời coi sự pt là quá trình tiến liên liên tục không trải
qua những bước quanh co phức tạp.
- Quan điểm duy vật biện chứng: khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của
sv theokhuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện *
Tính chất cơ bản của sự phát triển:
- Tính khách quan: biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá
trình bắt nguồn từ bản thân hiện tượng là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật hiện tượng
đó. - Tính phổ biến: thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra ở với mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội, tư duy, trong đó tất cả với mọi sự vật hiện tượng trong với mọi quá trình, với mọi giai đoạn
của sự vật hiện tượng đó.
- Tính đa dạng, phong phú: mối sự vật hiện tượng có quá trình phát triển khác nhau tồn
tại ở không gian thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau.
- Tính thừa kế: với mọi sự phát triển đều phải dựa trên cơ sở nền tảng của các quá trình
phát triển trước đó.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng phải khắc phục tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, định kiến, đối lập với phát triển.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, 1
mặt cầnphải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó, mặt khác con đường của sự
phát triển là quá trình biện chứng, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong việc nhận thức và
giải quyết các vấn đề của thực tế.
Câu 6: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại?
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất
định.
lOMoARcPSD| 39651089
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận độngphát triển của sự vật, hiện tượng
cũng như của các thuộc tính của nó.
Chất một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng;
sự thống nhất hữu giữa các thuộc nh, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, làm cho sự
vật là nó mà không phải là cái khác.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển. Đó mối liên hệ tất yếu, khách quan,
phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thứ nhất: Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Chất và lượng là 2 mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi xong hai
mặt đó không thể tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện chứng sự thống nhất
giữa chất và lượng trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.
Độ: Là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm căn bản về chất của sự
vật.– Điểm nút: giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay
đổi về chất của sự vật.
Bước nhảy: Dùng để chí sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng
trước đógây ra.
Các hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng tất cả các bộphận
cấu thành sự vật.
- Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
- Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận cácyếu
tố cấu thành nên sự vật.
- Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
Thứ hai: Sự thay đổi về chất tác động sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Khi chất mới
ra đời lại sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện
tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.
lOMoARcPSD| 39651089
Từ đó thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất lượng. Sthay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua
bước nhảy.
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên
tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Bất sự vật, hiện tượng nào cũng một thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất. Chất lượng
tuy là hai mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi, song hai mặt
đó không tác rời nhau lại tác động qua lại một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu
sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất. thể sự tăng giảm về lượng làm biến đổi ngay chất nhưng
cũng có thể biến đổi dần dần về chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng để biến
đổi vềchất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu cầu khách quan của sự vận
độngcủa sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện chỗ không chú ý thỏa đáng đến
sự tích luỹ vlượng mà cho rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên
tục; ngược lại, tưởng bảo thủ thường biểu hiện chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự
phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
- Sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải thái độ khách quan, khoa học quyết tâm
thựchiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt
động có ý thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực hội, tuy vẫn phải
tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
- Phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các
yếutố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động
vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
* Ví dụ: Quá trình học tập học sinh quá trình dài, khó khăn, cần sự cố gắng không biết mệt mỏi,
không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh.
Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: học sinh
tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà,
lOMoARcPSD| 39651089
đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm
tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp.
Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao
hơn. Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức độ, các bài kiểm tra, các thi điểm nút và
việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy.
Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết bước
nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút,
đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện
một bước nhảy cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua thi đại học để trở thành một sinh
viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động
trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh
viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ
thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này khác
hẳn so với quá trình ch lũy lượng bậc trung học hay phổ thông trung học. Bởi đó không đơn
thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy mả phần lớn là sự tự nghiên cứu,
tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở những kiến thức hội từ
các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ.
Sau khi đãch lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước
nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó vượt qua thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử
nhân và tìm được một công việc.
Câu 7: Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập?
Quy luật thống nhất đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, hạt nhân của phép biện
chứng duy vật. Theo V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...”
Mặt đối lập là những mặt những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự thống
nhất của các mặt đối lập sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối
lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
lOMoARcPSD| 39651089
Đấu tranh của các mặt đối lập sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định lẫn nhau
giữa các mặt đó.
* Nội dung quy luật:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập
không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối
lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới
xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các
mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức đnào đó sẽ hình thành
mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực
hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản kinh tế này được duy trì trong
một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa hội, là các đối lập với nền
kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng bỏ
ngay sau chiến tranh đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế hội. Nhưng nền kinh tế
thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn
khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với
nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì cái vốn có trong các
sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong
tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có tính
đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi
một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập đặt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn
lOMoARcPSD| 39651089
mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng
vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ nền kinh tế thị trường vận động theo chế của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ
nghĩa bản. Nhưng nếu sự đấu tranh thì thể giữ vững được định hướng hội chủ nghĩa.
Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu
thuẫnphải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan
- Phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
loạimâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa
giữa chúng.
- Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không
điềuhoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào
điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
* Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được
nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những
sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất việc tạo ra sản phẩm đối tượng thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như
không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải đối
tượng nói chúng mà đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người
tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chđối tượng của tiêu dùng còn quyết định về phương thức tiêu
dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều
này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối
với sản phẩm đó.
lOMoARcPSD| 39651089
Do vậy thể thấy được rằng sản xuất tiêu dùng chính sự thống nhất của hai mặt đối lập,
chúng tính chất tương đồng mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện
cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Câu 8: Quy luật phủ định của phủ định?
một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra
khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện
tượng cũ) của sự phát triển của chúng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa
trong sự phát triển.
Phủ định là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, mắt khâu của quá trình
dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Phủ định biện chứng khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát
triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ
là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới.
* Nội dung của quy luật:
Quá trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng tạo nên sự
vận động, phát triển tận của thế giới vật chất. Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng
thường trải qua hai lần phủ định biện chứng – tức là trải qua một quá trình phủ định của phủ định.
Sự phủ định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một
chu kỳ mới và được lặp lại vô tận.
Sự phđịnh lần thứ nhất diễn ra cho sự vật chuyển thành cái đối lập với nh (cái phủ
định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề cái cũ, cái phủ định cái mới xuất hiện
sau cái phủ định cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ
định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ định lần thứ hai) .
Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được
sinh ra lần phủ định thứ nhất. dường như lập lại cái ban đầu nhưng được bổ sung nhiều
nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoắn ốc”. Ở mỗi chu kỳ phủ định
của phủ định, sự vật, hiện tượng thường trải qua ba hình thái tồn tại bản. Trong đó, hình thái
cuối chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao
hơn về trình độ phát triển.
lOMoARcPSD| 39651089
Trong chuỗi phủ định của phủ định, nhờ tính kế thừa của phủ định biện chứng, cái mới ra đời trên
sở cái cũ, chỉ loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển, đồng thời giữ lại
và cải biến những yếu tố ch cực cho phù hợp với cái mới, nhờ đó, mỗi lần phủ định biện chứng
đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật. Trải qua nhiều lần phủ
định biện chứng, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới sự vận động theo khuynh hướng
đi lên của sự vật, hiện tượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng cái mới, cái mới
nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ nhất định chiến thắng cái lạc hậu.
Phải biết phát hiện cái mới, quý trọng cái mới, tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới,
cho quá trình đó diễn ra đầy quanh co, phức tạp.
Cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế thừa những giá trị,
tinh hoa của cái cũ. Do đó, phải chống thái độ hư chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, nhưng
cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, bám giữ cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử. * Ví dụ:
Hạt thóc Cây mạ Cây lúa Hạt thóc Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải 1 hạt
nhiều hạt)
* Liên hệ thực tiễn:
Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đỏi mới ở nước:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự
vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra
quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ
hơn chu kỳ trước. vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản điều tiết của
nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho hội phát triển
cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã
cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi
lOMoARcPSD| 39651089
khủng hoảng kinh tế từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không thế mà chúng ta không trân
trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền
kinh tế tập trung tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng
hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cnhững quy luật một cách đầy
đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng
ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Câu 9: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Thực tiễn toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, tính lịch sử - hội của con người
nhằm cảitạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Nhận thức quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người; quá trình tạo thành tri
thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua sự tác động của chủ nghĩa duy vật thế giới, con người (chủ thể nhận thức ) sẽ phát hiện
ra được những mặt, thuộc tính của svht, qua đó giúp cng hiểu được svht ngày càng sâu sắc hơn, từ
đó cng dc những tri thức về sự vật hiện tượng, nhận thức được các quy luật vận động phát
triển của thế giới. mọi tri thức của người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nhờ có hoạt động thực tiễn,
các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic của con người ngày
càng phát triển, con người tạo ra được các công cụ, phương tiện để giúp con người nối dài giác
quan.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt
động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc
bấy giờ.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lựchoạt
động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn
vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt
ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết. Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con
lOMoARcPSD| 39651089
người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới ý nghĩa. Bằng
thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì phục vụ thực tiễn phát
triển và ngược lại.
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá giải mã bản đồ gien người cũng ra
đời từ chính thực tiễn, từ mục đích chữa trị những căn bệnh nan y từ mục đích tìm hiểu, khai
thác những tiềm năng ẩn của con người…có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh vực tri
thức nào mà lại không xuất phát từ một mục đích nào đó của thực tiễn, không nhằm vào việc phục
vụ, hướng dẫn thực tiễn.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: để làm gì?
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính
xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với
tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận
thức tiếp theo.Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ
đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải đo đạc diện tích và do lường
sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí toán học đã ra đời
và phát triển.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý:
Bằng thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì phục vụ thực
tiễn phát triển ngược lại. Như vậy, thực tiễn thước đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng
đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó phải là chân lý hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn
đề m hiểu xem duy của con người thể đạt tới chân khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải
chứng minh chân lý”.
Ví dụ:
Trái đất quay quanh mặt trời
Không có gì quý hơn độc lập tự do
Nhà bác học Galilê phát minh ra định luật về sức cản của không khí
=> Thực tiễn tiêu chuẩn của chân chỉ đem những tri thức đã thu nhận được qua nhận
thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới khẳng định được tính đúng đắn của nó.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
lOMoARcPSD| 39651089
Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
Nghiên cứu luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn
đếnbệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ
rơivào chủ nghĩa thực dụng.
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
Lực lượng sản xuất phương thức kết hợp giữa người lao động với liệu sản xuất, tạo ra sức sản
xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể
tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực bản, tận và đặc biệt của sản xuất.
liệu sản xuất điều kiện vật chất cần thiết đtổ chức sản xuất, bao gồm liệu lao động đối
tượng lao động.
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao
động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. liệu
lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng
lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con
người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động con
người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao động những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào
đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người
và xã hội.
Quan hệ sản xuất tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản
lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
và không tách rời nhau. Chúng tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của
sự vận động và phát triển xã hội.
lOMoARcPSD| 39651089
* Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
- Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển này. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu này dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất bằng một quan hệ sản xuất mới
sao cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất bằng quan hệ sản xuất mới thì phương thức sản
xuất cũ cũng mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Lực lượng sản xuất thành tố động nhất, cách mạng nhất, nội dung của phương thức sản
xuất.Còn quan hệ sản xuất thành tố tương đối ổn định, hình thức hội của phương thức sản
xuất.Trong mối quan hệ đó, nội dung quyết định hình thức, tức lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất hội không ngừng biến đổi ngày càng tiến bộ hơn.Xét đến
cùng, sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết
công cụ lao động.
Do vậy, lực lượng sản xuất vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất, buộc quan hệ
sản xuất phải hình thành, biến đổi phát triển phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng
sản xuất.
Ví dụ:
Cách mạng sản ở Anh (1642 1651), Pháp (1789 1799) đã xóa bỏ phương thức
sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng sản năm 1917 Nga đã đưa phương thức sản xuất hội chủ nghĩa lần
đầu tiên xuất hiện trên thực tế…
- Quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất và phân phối. Do đó nó trực tiếp gây
ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, cải tiến
công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng
là tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nếu nó phù hợp, còn
tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp.
lOMoARcPSD| 39651089
Nếu được vận dụng khoa học, phù hợp với nh chất trình động của lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất sẽ tạo địa rộng lớn để lực ợng sản xuất phát triển.Khi đó, quan hệ sản xuất
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó.
Nếu đã lỗi thời, không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm kẹp, cản trở
lực lượng sản xuất phát triển.
Câu 11: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
Cơ sở hạ tầng (hạ tầng các mối quan hệ vất chất, kinh tế) là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng (thượng tầng các mối quan hệ tu tưởng, chính trị) toàn bộ những quan
điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những
thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thhội v.v) những mối quan
hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của hội, tức cái sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý, chính trị những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện
thực đó”.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế xã hội
nhất định, khi sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo. sở hạ tầng
quyết định sự thay đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Khi sở hạ tầng nào mất đi thì kiến
trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì lại sản sinh
ra kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó. dụ: chế bao cấp tương ướng với Nhà
nước xơ cứng, mệnh lệnh quan liêu. Cơ chế thị trường tương ứng với nó là Nhà nước năng động,
hoạt động có kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng hiệu quả.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng củng cố, bảo vệ duy trì sở hạ tầng sinh ra đấu tranh chóng lại
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đối lập với nó.Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra
nhưng sau khi xuất hiện nó có tính độc lập tương đối do đó nó tác động lại cơ sở hạ tầng thể hiện
ở mặt: Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì củng cố và hoàn thiện cơ sở
hạ tầng đã sinh ra nó vàtìm cách xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, kiến trúc thượng tầng cũ. Nó luôn luôn
giữ lại kế thừa những cái cũ đã làm tiền đề cho cái mới.Ví dụ: Nhà nước sản hiện đại củng
lOMoARcPSD| 39651089
cố, bảo vệ, phát triển sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Còn Nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát triển
sở hữu xã hội (tập thể).
Kiến trúc thượng tầng tác động đến sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó Nhà
nước là yếu tố quan trọng nhất, tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng vì nó là công
cụ bạo lực tập trung trong tay giai cấp thống trị. không chỉ thực hiện chức năng kinh tế bằng
hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đúng, còn tác dụng trực tiếpthúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng phải thông qua thì mới có hiệu lực đối với cơ
sở hạ tầng.-Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều: tích cực và tiêu
cực
+ Tích cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với những quy luật vận động của cơ sở
hạ tầng thì thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Do đó, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- hội. +
Tiêu cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với những quy luật vận động của cơ sở
hạ tầng, khi sản phẩm của quan hệ kinh tế lỗi thời thìcản trỏ, kìm hãm sự phát triển của
cơ sở hạ tầng. Do đó, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội: Là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết
định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến
trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế
sống còn của mình. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ
yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vậy V.I Lênin viết: "Chính trị
sự biểu hiện tập trung của kinh tế...Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh
tế".
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
Tồn tại hội khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người
với nhau.
Ý thức hội mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm nh cảm, tập quán, truyền thống, quan
diểm, tưởng, luận, nảy sinh từ tồn tại hội phản ánh hội trong những giai đoạn
phát triển khác nhau.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội:
lOMoARcPSD| 39651089
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong
lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, sinh raquyết định
ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
Tồn tại hội nào thì sinh ra ý thức hội ấy. Tức người ta không thể tìm nguồn gốc
tưtưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã
hội để lý giải cho ý thức xã hội.
Khi tồn tại hội thay đổi một cách căn bản, nhất khi phương thức SX đã thay đổi thì
sớmhay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi hội mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội đó
sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm
xã hội như trong truyền thống ,tập quán ,thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:-
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thườngxuyên trực tiếp của những
hoạtđộng thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội cái phản ánh tồn tại hội nên nói chung
chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Do sức mạnh của thói quen truyền thống ,tập quán cũng như dotính lạc hậu ,bảo thủ của
mộtsố hình thái xã hội.
Ý thức hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tậpđoàn người ,những giaii cấp
nhấtđịnh trong xã hội..
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên
tiến thể vượt trước sự phát triển của tồn tại hội,dự báo được tương lai và tác dụng tổ chức
chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận
tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
lOMoARcPSD| 39651089
Mức độ ảnh hưởng của tưởng đối với sự phát triển hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.
Câu 13: Khái niệm con người và bản chất con người?
Con người là một dạng sinh vật sống trên Trái Đất với các tiến hóa cao nhất của động vật sống,
tri thức, ý thức. Các nhận thức và hành động tác động lên nhau để hình thành với những nhu cầu,
đáp ứng cho nhu cầu của con người. Nhưng định nghĩa về con người cho đến nay vẫn chưa được
thống nhất cụ thể. Việc đưa ra định nghĩa xác định với các góc nhìn khác nhau các khía cạnh
thực tiễn.
* Bản chất con người:
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học với các giá trị mang đến
nhận thức, đánh giá và phản ánh ở các giai đoạn, các thời kỳ trước.
Đồng thời chỉ ra các điểm tiến bộ trong nghiên cứu, khẳng định con người hiện thực sự thống
nhất giữa yếu tố sinh học yếu tố hội được sinh ra với sự độc lập mang tính thể, với các
quan hệ huyết thống các đặc điểm kèm theo. Bên cạnh yếu tố hội ràng buộc, tạo thành các
mối quan hệ khác nhau, xác định trong xây dựng quan hệ trong lao động sản xuất, trong hợp tác
làm ăn, trong sinh hoạt hàng ngày, điều đó mang đến đặc trưng thể hiện.
Sự thống nhất của yếu tố sinh học hội mới làm nên con người. Trong quá trình phát triển,
nhận thức, tác động ngược trở lại thế giới. Để tìm kiếm, khai thác các lợi ích trong nhu cầu ngày
càng cao. Gắn với ứng dụng các sự vật trong tự nhiên để tạo ra các giá trị mới cao hơn, chất lượng
và phục vụ đảm bảo các nhu cầu hơn.
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau:
Quan hệ với tự nhiên.
Quan hệ với xã hội.
Quan hệ với chính bản thân con người.
Mang đến các tác động qua lại đối với xã hội. Các xây dựng mỗi quan hệ giữa con người với con
người thể hiện cho các mục đích ý nghĩa bao trùm.Từ đó tác động lên tất cả các mối quan hệ
khác mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Tổng hòa cho các lợi ích, các
tiếp cận. Và hướng đến cung cấp cho con người. - Con người chủ thể là sản phẩm của lịch
sử:
lOMoARcPSD| 39651089
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Với cách thực thể xã hội, con người hoạt động
thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Mang đến các tiếp cận ban đầu để hình
thành lên nhận thức. Cũng như sau đó có các kinh nghiệm, có sự học tập và phát triển nhu cầu. Từ
đó thực hiện các tác động với ý nghĩa mong muốn ngày càng cao, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử, mang đến các giai đoạn với đặc điểm tác động vào tự nhiên khác nhau của
con người. Thể hiện các giai đoạn và tiến trình lịch sử.
Hoạt động lao động sản xuất nguồn gốc đối với các phát triển đó. Vừa điều kiện cho sự tồn
tại của con người. Phải làm, phải lao động để ăn, trao đổi chênh lệch lợi ích. Từ đó trở
thành phương thức để làm biến đổi đời sống bộ mặt hội. Tác động làm thay đổi trong
định hướng phục vụ cho con người.
| 1/35

Preview text:

lOMoAR cPSD| 39651089
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm triết học và nguyên nhân ra đời của triết học ?
Khái niệm triết học
• Ở phương Đông, theo quan niệm của người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc là chữ
“triết”, dựa theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là trí, ám chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu sắc
của con người về thế giới và về đạo lý làm người. Còn theo quan niệm của người An Độ,
triết học được gọi là Darshara, có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng với hàm ý là sự hiểu
biết dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
• Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp được gọi là
philosophia, có nghĩa là yêu mến (philo) sự thông thái (sophia). Ở đây, khi nói tới triết
học, tới philosophia, người Hy Lạp cổ đại không chỉ muốn nói tới sự hiểu biết sâu sắc về
nhiều lĩnh vực tri thức ở tầm cao nhất (tức sự thông thái) mà còn thể hiện khát vọng vươn
tới tầm cao nhận thức đó. Đối với người Hy Lạp cổ đại, triết học chính là hình thái cao
nhất của tri thức. Nhà triết học là nhà thông thái, là người có khả năng tiếp cận chân lý,
làm sáng tỏ bản chất của sự vật. Có thể thấy rằng, khái niệm “triết”, “triết học” dù ở
phương Đông hay phương Tây đều bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu
biết về vũ trụ và con người, sự giải thích thế giới bằng một khả năng tư duy lôgic nhất
định) và yếu tố nhận định (sự đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động tương ứng).
• Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới.
Nguyên nhân ra đời
• Nguồn gốc nhận thức: Để tồn tại và thích nghi với trong thế giới, con người cần phải có
hiểu biết về thế giới xung quanh cũng như về bản thân. Xuất phát từ yêu cầu khách quan
đó, những câu hỏi như: Thế giới xung quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc hay
không? Sức mạnh nào chi phối thế giới? Con người là gì? Nó được sinh ra như thế nào và
có quan hệ như thế nào với thế giới bên ngoài? Bản chất đích thực của cuộc sống nằm ở
đâu? v.v. đã được đặt ra ở một mức độ nhất định, dưới hình thức nhất định, và đã được
đặt ra ngay từ thời nguyên thủy. Tuy nhiên, chỉ đến thời kỳ cổ đại, khi mà tri thức của con
người về thế giới đã tích lũy tới một mức độ cho phép, khả năng tư duy của con người đã
được “mài sắc” và nâng cao tới mức cho phép đủ để diễn tả thế giới một cách trừu tượng
bằng hệ thống phạm trù, khái niệm trừu tượng, thì lúc đó, những câu hỏi trên mới được
trả lời một cách sâu sắc. Nói cách khác, khi con người đạt tới trình độ phát triển tư duy
trừu tượng, chỉ tới lúc đó, triết học với tính cách là lý luận, là hệ thống quan niệm chung
nhất về thế giới và cuộc sống con người mới ra đời.
• Nguồn gốc xã hội: Thứ nhất, đó là sự phát triển của sản xuất vật chất và quá trình phân
công lao động xã hội. Để triết học ra đời cần phải có những người chuyên lao động trí óc.
Bởi vì, chỉ có họ mới có thể khái quát những tri thức mà nhân loại đã tích lũy được thành
hệ thống các quan niệm có tính chỉnh thể về thế giới - tức tri thức triết học. Sự phát triển
của sản xuất vật chất đến mức nào đó sẽ dẫn tới sự phân công lao động xã hội, phân chia
thành hai loại lao động: lao động chân tay và lao động trí óc. Chính sự xuất hiện lao động
trí óc, biểu hiện ở sự ra đời tầng lớp trí thức đã tạo điều kiện cho triết học ra đời. lOMoAR cPSD| 39651089
• Thứ hai, cùng với quá trình phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội, sự phân
chia giai cấp trong xã hội thành thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột, cũng như sự xuất
hiện quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị, bị bóc lột chống giai cấp thống trị,
bóc lột cũng là nguồn gốc xã hội của sự ra đời triết học. Bởi vì, nhằm để bảo vệ quyền lợi
của giai cấp mà mình đại diện,các nhà tư tưởng đã xây dựng các học thuyết triết học khác
nhau, với những quan điểm chính trị khác nhau. Trên thực tế, từ khi ra đời, triết học luôn
mang tính giai cấp, nghĩa là nó luôn phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực
lượng xã hội nhất định. Điều đó cũng góp phần lý giải vì sao triết học không ra đời ở thời
kỳ cộng sản nguyên thuỷ mà chỉ đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ, với việc xã hội xuất hiện
phân chia giai cấp và sự ra đời bộ phận lao động trí óc thì triết học mới ra đời.
**Câu 2:**Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan, vì sao nói triết học là
hạt nhân lý luận của thế giới quan ?
Các thành phần cơ bản của thế giới quan
Thế giới quan hình thành gồm nhiều yếu tố phụ thuộc và tất cả thuộc về ý thức xã hội, đó là:
• Quan điểm triết học
• Quan điểm khoa học, chính trị, đạo đức và thẩm mỹ
• Quan điểm tôn giáo: sản phẩm của thâm thức mô tả kiến thức qua trực giác cảm nhận.
• Kiến thức khoa học nhắm đến mục tiêu và phương hướng thực tiễn, trực tiếp cho người
trong tự nhân, xã hội dựa theo quan sát và dữ kiện từ thực tiễn, phân tích tổng hợp chặt
chẽ và có kiểm nghiệm đối với sự khách quan với thực tiễn.
• Nguyên tắc về tiêu chuẩn đạo đức đóng vai trò điều chỉnh các quan hệ qua lại và hành vi của con người.
• Những quan điểm thẩm mỹ quy định những quan hệ với môi trường xung quanh với hình
thức, mục tiêu và kết quả của hoạt động.
Vì sao nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan?
• Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người
không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến
đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Con người phải hiểu thế giới
xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Đó là thế giới quan.
• Theo quan điểm Mác Lê-nin đưa ra cách hiểu về thế giới quan như sau: “Thế giới quan là
toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống
và vị trí của con người trong thế giới đó”
. Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho
toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như
tự nhận thức bản thân để từ đó xác định lý tưởng, hệ giá lối sống, nếp sống của mình.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp
cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành
niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
• Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: lOMoAR cPSD| 39651089
o Thế giới quan huyền thoại: Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận
thế giới của người nguyên thủy. Ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý
trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái
người, v.v. của con người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. o
Thế giới quan tôn giáo: Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò
chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người.
o Thế giới quan triết học: Triết học diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ
thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình
nhận thức thế giới. Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình
thành và phát triển của thế giới quan. Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn
bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người trong đó tri thức của các khoa học
cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng
mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương thức tư duy đặc thù đã
tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư
cách là một chỉnh thể.
o Triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới
đó. Triết học là thế giới quan và nhân sinh quan của con người khi xem xét thế
giới và loài người trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa con người với
con người trong tự nhiên và xã hội.
• Như vậy, triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
và tri thức do các khoa học đưa lại; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố
và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Câu 3:
Phân tích Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
• Khái niệm: Theo Ăngghen , vấn đề cơ bản của triết học ,đặc biệt là triết học hiện đại ,là
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại (hay còn được biết tới là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất).
• Nội dung vấn đề cơ bản của triết học: vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
o Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi ‘’vật chất và ý thức ,cái nào có trước, cái nào có
sáu,cái nào quyết định cái nào?’’Để trả lời cho câu hỏi này có 3 cách .Chủ nghĩa
duy vật cho rằng vật chất là cái có trước và quyết định ý thức. Ngược lại,chủ
nghĩa duy tâm lại cho rằng, ý thức có trước, ý thức quyết định vật chất. Các nhà
triết học theo trường phái nhị nguyên lại cho rằng vật chất và ý thức là tồn tại độc
lập , không nằm trong mối quan hệ quyết định lẫn nhau.
o Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi ‘’con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không ?’’ .Câu hỏi này có 2 cách trả lời .Các nhà triết học cho rằng khả tri cho
rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới, trong khi các nhà
triết học bất khả tri lại cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế lOMoAR cPSD| 39651089
giới, hoặc chỉ có thể nhận biết được hiện tượng bên ngoài mà không thể nắm
được bản chất bên trong. • Tại Sao:
• Đây là vấn đề rộng nhất, chung nhất. Đóng vai trò là nền tảng, định hướng để giải quyết
các vấn đề khác. Các trường phái triết học đều trực tiếp/ gián tiếp đi vào giả thích về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đi vào quyết định của
mình. Việc quết định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở xuất phát cho các quyế
định triết học nảy sinh. Việc quyết định vấn đề cơ bản của triết học là tính chất khách
quan khoa học để phá định lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch sử.
Câu 4: Nội dung Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học ?
• Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay,chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ
bản: chủ nghĩa duy vật chất phác,chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
o Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời Cổ đại.Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất
nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra
những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan,ngây thơ,chất
phác.Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật
chất,nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới,không viện đến Thần linh,Thượng đế
hay các lực lượng siêu nhiên.
o Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật,thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và
điển hình là ở thế kỷ thứ XVII,XVIII.Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được
những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy
vật thời Cổ đại,chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình,cơ giới-phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy
khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản làởtrong trạng thái biệt lập
và tĩnh tại.Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm
và tôn giáo,đặc biệt làở thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trưởng Trung cổ sang thời Phục hưng.
o Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duyvật,do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX,sau đóđược
V.I. Lênin phát triển.Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trướcđó
và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời,chủ nghĩa duy vật
biệnchứng,ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chấtphác thời Cổ đại,chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát
triển củachủ nghĩa duy vật.Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh
hiện thực đúngnhư chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp
những lực lượngtiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy. lOMoAR cPSD| 39651089
• Chủ nghĩa duy tâm:Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái:chủ nghĩa duy tâmchủ quan và
chủ nghĩa duy tâm khách quan.
o Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực,chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật,hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
o Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất củaýthức nhưng coi
đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.Thực
thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như
ý niệm,tinh thần tuyệt đối,lý tính thế giới,v.v ..
• Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức,tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới
tự nhiên. Bằng cách đó,chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng
siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới.Vì vậy,tôn giáo thường sử dụng các học thuyết
duy tâm làm cơ sở lý luận,luận chứng cho các quan điểm của mình,tuy có sự khác nhau
đáng kể giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới
quan tôn giáo,lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động. Còn
chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và
năng lực mạnh mẽ của tư duy.
Câu 5: Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học? *Nội dung:
Chủ nghĩa duy tâm là toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy tâm
trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, cho rằng bản chất thế giới là ý thức, tinh thần; ý
thức, tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên.
Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào đó
đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý
luận, luận chứng cho các quan điểm của mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa duy
tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.
Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động.
Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng
lực mạnh mẽ của tư duy. Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt
nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó
của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Bên cạnh nguồn gốc nhận thức,
chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân
tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã
tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và
nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị - xã hội của mình. lOMoAR cPSD| 39651089 *Các hình thức:
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật,
hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan
này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..
Câu 6: Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận?
Thuyết khả tri và Thuyết bất khả tri là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của
triết học. Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số
các nhà triết học (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) trả lời một cách khẳng định: Thừa nhận
khả năng nhận thức được thế giới của con người.
Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi là Thuyết khả tri
(Gnosticism, Thuyết có thể biết). Thuyết khả tri khẳng định về nguyên tắc con người có thể hiểu
được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức
mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là Thuyết bất khả tri
(Agnosticism, Thuyết không thể biết). Theo thuyết này, về nguyên tắc, con người không thể hiểu
được bản chất của đối tượng. Kết quả nhận thức mà loài người có được chỉ là hình thức bề ngoài,
hạn hẹp và cắt xén về đối tượng. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm... của đối tượng mà các giác
quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng
không cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm giác của
con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực
tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế
giới. Thuyết bất khả tri cũng không đặt vấn đề về niềm tin, mà chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.
Thuật ngữ “Thuyết bất khả tri” được đưa ra năm 1869 bởi T.H. Huxley (Hắcxli) (1825 - 1895),
nhà triết học tự nhiên người Anh, người đã khái quát thực chất của lập trường này từ các tư
tưởng triết học của D. Hume (Hium) và Kant. Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả
tri cũng chính là Hume và Kant. lOMoAR cPSD| 39651089
Ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ triết học Hy
Lạp cổ đại. Những người theo hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc
xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan. Tuy
cực đoan về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời phục hưng đã giữ vai trò quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội thời trung cổ. Hoài nghi luận thừa
nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay từ thời Epicurus khi ông đưa ra những luận
thuyết chống lại quan niệm đương thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải đến Kant, bất khả tri
mới trở thành học thuyết triết học có ảnh hưởng sâu rộng đến triết học, khoa học và thần học
châu Âu. Trước Kant, Hume quan niệm tri thức con người chỉ dừng ở trình độ kinh nghiệm, chân
lý phải phù hợp với kinh nghiệm. Hume phủ nhận những sự trừu tượng hóa vượt quá kinh
nghiệm, dù là những khái quát có giá trị. Nguyên tắc kinh nghiệm của Hume có ý nghĩa đáng kể
cho sự xuất hiện của các khoa học thực nghiệm, tuy nhiên, việc tuyệt đối hóa kinh nghiệm đến
mức phủ nhận các thực tại siêu nhiên đã khiến Hume trở thành nhà bất khả tri luận.
Mặc dù quan điểm bất khả tri của Kant không phủ nhận các thực tại siêu nhiên như Hume, nhưng
với thuyết về vật tự nó (Ding an sich, còn được dịch là vật tự thân), Kant đã tuyệt đối hóa sự bí
ẩn của đối tượng được nhận thức. Kant cho rằng con người không thể có được những tri thức
đúng đắn, chân thực, bản chất về những thực tại nằm ngoài kinh nghiệm có thể cảm giác được.
Việc khẳng định về sự bất lực của trí tuệ trước thế giới thực tại đã làm nên quan điểm bất khả tri
vô cùng độc đáo của Kant.
Trong lịch sử triết học, Thuyết bất khả tri và quan niệm vật tự nó của Kant đã bị Feuerbach
(Phoiơbắc) và Hegel phê phán gay gắt. Trên quan điểm duy vật biện chứng, Ph. Ăngghen tiếp tục
phê phán Kant, khi khẳng định khả năng nhận thức vô tận của con người. Theo Ph. Ăngghen,
con người có thể nhận thức được và nhận thức được một cách đúng đắn bản chất của mọi sự vật
và hiện tượng. Không có một ranh giới nào của vật tự nó mà nhận thức của con người không thể
vượt qua được. Ph. Ăngghen khẳng định: “Nếu chúng có thể chứng minh được tính chính xác
của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra
hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục
vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”.
Những người theo khả tri luận tin rằng, nhận thức là một quá trình không ngừng đi sâu khám phá
bản chất sự vật. Với quá trình đó, vật tự nó sẽ buộc phải biến thành “Vật cho ta”.
Chủ nghĩa hoài nghi (scepticism) là một hướng tiếp cận của triết học, mà trong đó, những mọi tri
thức nền tảng hay bất cứ một khẳng định nào cũng đều được người theo thuyết này hồ nghi, xem xét.
Chủ nghĩa hoài nghi triết học (philosophical skepticism) là trường phái tư tưởng triết học xem xét
một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là có
thể, nghĩa là câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay không và liệu người ta có thể có
tri thức thực sự hay không. lOMoAR cPSD| 39651089
Chủ nghĩa hoài nghi trong triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học - trường phái cho rằng
có một tập hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân thực.
Chủ nghĩa hoài nghi xuất hiện từ rất sớm và dưới nhiều hình thức trong lịch sử triết học. Một trong
những yếu tố phổ biến để phân biệt các hình thức hoài nghi là dựa vào độ rộng của quan điểm được hoài nghi.
Ví dụ: Copernicus nghi ngờ về thuyết địa tâm (một quan điểm cho rằng trái đất đứng yên và là
trung tâm vũ trụ). Tuy nhiên, ông lại không nghi ngờ chuyện có tồn tại một vũ trụ bên ngoài trái
đất. Nên dù vấn đề ông đặt ra mang tầm trái đất và các tinh tú, thì độ rộng trong sự hoài nghi của
Copernicus chỉ được xếp vào hàng hoài nghi cục bộ (local scepticism).
Một dạng hoài nghi khác khi tầm bao phủ của nó có độ rộng lớn hơn, phủ trùm thế giới bên ngoài
(external world). Nói một cách cụ thể thì theo chủ nghĩa này: liệu những giác quan hay lý trí của
chúng ta có thể giúp chúng ta có được những phán đoán đúng đắn về thế giới hay không, hoặc
thậm chí là thế giới khách quan có tồn tại hay không? Đây chính là tư tưởng cốt lõi trong thời kỳ
Hellen cổ đại. Còn đối với những ai hoài nghi cả năng lực của lý trí trong việc cung cấp cho chúng
ta tri thức (trong trường hợp các giác quan của chúng ta không thể) thì lúc này mức độ hoài nghi
đã đạt đến ngưỡng cao nhất, phổ quát (global in its scope). Tức lúc này con người sẽ hoài nghi tất
thảy, không chừa một quan niệm nào hết và thậm chí hoài nghi ngay cả những thứ như khái niệm
toán học hay chính bản thân ý nghĩa của sự hoài nghi.
Câu 7: Nội dung Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng? (phương pháp biện chứng) *Nội dung:
Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối
tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong
khuynh hướng phổ quát là phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và chất của
các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập của mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự vật.
Quan điểm biện chứng cho phép chủ thể nhận thức không chỉ thấy những sự vật riêng biệt mà
còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh
thành, phát triển và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái
động của sự vật. Ph. Ăngghen nhận xét, tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề
tuyệt đối không thể dung nhau được, đối với họ một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một lOMoAR cPSD| 39651089
sự vật không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài
trừ lẫn nhau. Ngược lại, tư duy biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt, không tuyệt đối hóa
nghiêm ngặt những ranh giới, “trong những trường hợp cần thiết, là bên cạnh cái “hoặc là... hoặc
là” thì còn có cả “cái này lẫn cái kia” nữa, và thực hiện sự môi giới giữa các mặt đối lập” . Tư
duy biện chứng thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận
cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới, là phương
pháp luận tối ưu của mọi khoa học. *Các hình thức:
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã trải qua ba giai đoạn
phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử: phép biện chứng tự phát, phép
biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. -
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương
Đông và phương Tây thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng của vũ trụ vận động trong
sự sinh thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, những gì mà các nhà biện chứng thời đó thấy
được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng. -
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện
trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Kant và người hoàn thiện là Hegel. Có thể khẳng
định, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày
một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Theo các
nhà triết học Đức, biện chứng bắt đầu từ tinh thần và kết thúc cũng ở tinh thần. Thế giới hiện
thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển
Đức là biện chứng duy tâm. -
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện
trong triếthọc do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin và các nhà triết học
hậu thế phát triển. C. Mác và Ph. Ăngghen đã gạt bỏ tính thần bí, tư biện của triết học cổ điển
Đức, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện
chứng duy vật với tư cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình
thức hoàn bị nhất. Công lao của C. Mác và Ph. Ăngghen còn ở chỗ tạo được sự thống nhất giữa
chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại, làm cho phép
biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Câu 8: Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác – Lênin? *Điều kiện:
Sự xuất hiện triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Đó là kết quả tất
yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, trong sự phụ thuộc vào
những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản lOMoAR cPSD| 39651089
với giai cấp tư sản. Đó cũng là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan của C. Mác và Ph. Ăngghen.
-Điều kiện kinh tế - xã hội:
+Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước
chủ yếu của châu Âu. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường
quốc công nghiệp lớn nhất. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn
thành. Cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho nền sản xuất xã hội ở Đức được phát triển
mạnh ngay trong lòng xã hội phong kiến. Nhận định về sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất 25 cả các thế hệ trước kia gộp lại” .
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được
củng cố, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong kiến.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt
và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng những lý tưởng về bình đẳng xã
hội mà cuộc cách mạng tư tưởng nêu ra đã không thực hiện được mà lại làm cho bất công xã hội
tăng thêm, đối kháng xã hội sâu sắc hơn, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
+Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị - xã hội
độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự ra đời triết học Mác.
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp vô sản cũng đã đi theo
giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội và
giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính chất đối
kháng càng phát triển, trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở
Lyon (Pháp) năm 1831 bị đàn áp và sau đó lại nổ ra vào năm 1834, đã chỉ ra một điều quan trọng
- như một tờ báo chính thức của chính phủ hồi đó đã nhận định - đó là cuộc đấu tranh bên trong,
diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không có gì hết... Ở
Anh, phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX là “phong trào cách mạng
vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”2 . Nước Đức còn
đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song sự phát triển công nghiệp trong điều kiện
cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp vô sản lớn nhanh, nên cuộc đấu tranh của thợ dệt ở lOMoAR cPSD| 39651089
Xilêdi cũng đã mang tính chất giai cấp tự phát và đã đưa đến sự ra đời một tổ chức vô sản cách
mạng là “Đồng minh những người chính nghĩa”.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh
và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản nên không còn là lực lượng cách mạng trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Giai cấp
tư sản Đức đang lớn lên trong lòng chế độ phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi
nhìn vào cách mạng tư sản Pháp năm 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong
trào công nhân Đức. Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến Đức thành nền dân chủ tư
sản một cách hòa bình. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ có sứ mệnh
là “kẻ phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền
dân chủ và tiến bộ xã hội.
+Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
Triết học, theo cách nói của Hegel, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì vậy, thực tiễn xã hội
nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vô sản, đòi hỏi phải được soi sáng bởi lý luận nói chung
và triết học nói riêng. Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã
được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, từ đó hình thành
những học thuyết với tư cách là một hệ thống những quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và
chính trị - xã hội khác nhau. Điều đó được thể hiện rất rõ qua các trào lưu khác nhau của chủ
nghĩa xã hội thời đó. Sự lý giải về những khuyết tật của xã hội tư bản đương thời, về sự cần thiết
phải thay thế nó bằng xã hội tốt đẹp, thực hiện được sự bình đẳng xã hội theo những lập trường
giai cấp khác nhau đã sản sinh ra nhiều biến thể của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội
phong kiến”, “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản”, “chủ nghĩa xã hội tư sản”,...
Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và
cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để
nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ tính cách mạng và tính khoa học trong bản
chất của mình; nhờ đó, nó có khả năng giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt ra. Lý
luận đó đã được sáng tạo nên bởi C. Mác và Ph. Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở
lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. *Tiền đề:
– Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả
của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển
Đức, kinh tế – chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh. +
Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen là L.Phoibac đã ảnh hưởng sâu sắc
đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiobac. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ
bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu
hình trong triết học của Phoiobac.
Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc lOMoAR cPSD| 39651089
nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là
nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với kinh tế – chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó
(A.Xmit và Đ.Ricacdo), C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của
những học thuyết này. Đó là: Quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính
trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời, các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa
triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các
nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị
lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những biểu lớn của nó
là H.Xanh Ximong, S.Phurie và R.Ooen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân
đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế cảu Chủ nghĩa
tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ.
Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, các ông xây dựng nên một lý luận mới
– lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
– Tiền đề khoa học tự nhiên:
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan
trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của
vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng. + Thuyết
tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích
quá trình phát triển của chúng; dặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan
niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự
liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính
biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan
của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng
bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền
đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Lênin?
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V.I. Lênin đã đưa ra
định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết
quả của việc tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy
tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên, có thể nhận thấy nó bao hàm các nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là một phạm trù triết học: lOMoAR cPSD| 39651089
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất, khái
quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình dung được cái gì
rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này trong một khoảng không gian nhất
định, vì không có gì rộng hơn nó.
- Vật chất là thực tại khách quan:
Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại. Như vậy
để thấy rằng ý thức có mặt và vận động, phát triển sau đó. Qua đó vật chất mang đến các chức
năng, tác dụng cần thiết đối với con người. Đặc biệt là vẫn được phản ánh thông qua mắt nhìn, tay
sờ,… Tức là thông qua các tiếp cận từ cảm giác và nhu cầu từ ý thức.
- Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại,chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác:
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp
tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn
vật chất là cái được ý thức phản án
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có
con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức.
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan
(mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế,
ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ýthức con người. Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có
khả năng nhận thức thế giới. –
Bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất với sự phát hiện cật chất có trước, ý thức
cósau, vật chất là nguồn gốc của ý thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác. –
Khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vậttrước Mác.
Câu 2: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức?
* Nguồn gốc của ý thức: lOMoAR cPSD| 39651089
Nguồn gốc của ý thức dựa theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm:
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là bộ óc và
sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người. Trong đó thì thế giới
khách quan có sự tác động tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ
con người đối với thế giới khách quan.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì
cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.
Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có
thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất k Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩm
cao nhất, thì thuộc tính phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với mọi đối tượng khác trong tự nhiên.
Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý
thức”. Đó là sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con ngườihác trong quá
trình tác động qua lại giữa chúng.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ.
Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn
gốc xã hội. Đó là lao động, tức là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ.
Chính thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động thực tiễn, nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người mới có thể phản ánh được, biết được nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này.
Nhưng ở đây, không phải bỗng nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con
người có ý thức. Ý thức có được chủ yếu là do con người chủ động tác động vào thế giới khách
quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
Ví dụ về nguồn gốc của ý thức:
Ý thức được bắt nguồn từ nguồn gốc xã hội, trong đó bao gồm lao động và ngôn ngữ, ví dụ cụ thể:
Con người khi lao động cụ thể là lao động chế tạo ra các công cụ lao động, công cụ dùng trong
sinh hoạt, từ đó con người có ý thức về việc thay đổi thói quen ăn uống hay mục đích của hoạt
động biến đổi phát triển xã hội.
* Vai trò của ý thức: lOMoAR cPSD| 39651089 –
Khẳng định vật chất chính là nguồn gốc khách quan, đồng thời là cơ sở để sản sinh ý thức,
ýthức là sản phẩm, là sự phản ánh về thế giới khách quan của nhận thức, hành động con người cần
xuất phát từ hiện thực là khách quan, hành động và tôn trọng theo hiện thực khách quan. – Khẳng
định về ý thức có vai trò quan trọng, tích cự sự tác động trở lại phép biện chứng duy vật, vật chất
yêu cầu trong hoạt động ý thức và nhận thức con người, theo đó con người phải nhận thức, vận
dụng quy luật khách quan có sự sáng tạo, chủ động để chống lại sự thụ động và thái độ tiêu cực. –
Phát huy tính năng động sáng tạo ý thức và phát huy về vai trò nhân tố của con người để
có thểtác động, cải tổ về thế giới khách quan, có sự khắc phục cải thiện bệnh bảo thủ, trì trệ chống
lại sự thụ động, tiêu cực, ỷ lại.
* Kết cấu của ý thức:
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận
từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
- Các lớp cấu trúc của ý thức:
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong
đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo
lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.Mọi hoạt động của con
người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung
tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Tình cảm
là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc
biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con
người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực
đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực
hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý
thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. lOMoAR cPSD| 39651089
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố quan
trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển
và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
- Các cấp độ của ý thức:
Với cách tiếp cận này, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức
bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng
của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác
có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại
có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về
thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành
bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần
kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý
hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự
kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng
ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Không nên coi vô thức
là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh không liên quan gì
đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong
con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng
vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì vật chất có trước còn ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết định ý
thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vật chất quyết định ý thức: lOMoAR cPSD| 39651089
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật chất, là
hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất quyết
định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới khách
quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Bởi vì, ý thức có tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người, vì vậy cùng với việc xuất phát từ hiện thực khách quan, cần
phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực của ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận: -
Tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và
hoạtđộng thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo
qui luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại
khôn lường. Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. -
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống
tưtưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai
trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. -
Giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách
mạngcho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho
cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến?
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các lOMoAR cPSD| 39651089
sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới
Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng
của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên
hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất
và hiện tượng, v.v.. Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên
hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng
tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những
mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ
biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự hiên, xã hội và tư duy.
* Tính chất của mối liên hệ phổ biến. -
Tính khách quan: Nó chủ yếu biểu hiện ở: Thứ nhất, các bộ phận, yếu tố và các khâu
khác nhau bên trong tất cả các sự vật có mối liên hệ lẫn nhau. Thứ hai, mọi thứ đều có mối liên hệ
với mọi thứ khác xung quanh. Thứ ba, toàn bộ thế giới là một thể thống nhất có mối liên hệ lẫn
nhau. - Tính khách quan: Nó là sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con
người. Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới
là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó
trong hoạt động thực tiễn của mình. -
Tính đa dạng, phong phú: Trong mối liên hệ phổ biến này ẩn chứa tính đa dạng, phong
phú của các mối liên hệ được thể hiện thông qua sự liên hệ của các các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với
sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Câu 5: Nguyên lý về sự phát triển? lOMoAR cPSD| 39651089
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi
lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
* Khái niệm sự phát triển: -
Quan điểm siêu hình cho rằng: phát triển chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về mặt số lượng
không có sự thay đổi về chất của sv,đồng thời coi sự pt là quá trình tiến liên liên tục không trải
qua những bước quanh co phức tạp. -
Quan điểm duy vật biện chứng: khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của
sv theokhuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện *
Tính chất cơ bản của sự phát triển: -
Tính khách quan: biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá
trình bắt nguồn từ bản thân hiện tượng là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật hiện tượng
đó. - Tính phổ biến: thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra ở với mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội, tư duy, trong đó tất cả với mọi sự vật hiện tượng trong với mọi quá trình, với mọi giai đoạn
của sự vật hiện tượng đó. -
Tính đa dạng, phong phú: mối sự vật hiện tượng có quá trình phát triển khác nhau tồn
tại ở không gian thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. -
Tính thừa kế: với mọi sự phát triển đều phải dựa trên cơ sở nền tảng của các quá trình phát triển trước đó.
* Ý nghĩa phương pháp luận: -
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng phải khắc phục tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, định kiến, đối lập với phát triển. -
Quan điểm phát triển đòi hỏi nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, 1
mặt cầnphải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó, mặt khác con đường của sự
phát triển là quá trình biện chứng, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong việc nhận thức và
giải quyết các vấn đề của thực tế.
Câu 6: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại?
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. lOMoAR cPSD| 39651089
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng
cũng như của các thuộc tính của nó.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, làm cho sự
vật là nó mà không phải là cái khác.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
là phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan,
phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thứ nhất: Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Chất và lượng là 2 mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi xong hai
mặt đó không thể tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện chứng sự thống nhất
giữa chất và lượng trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại. –
Độ: Là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm căn bản về chất của sự
vật.– Điểm nút: Là giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay
đổi về chất của sự vật. –
Bước nhảy: Dùng để chí sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đógây ra.
Các hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các bộphận cấu thành sự vật.
- Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
- Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận cácyếu
tố cấu thành nên sự vật.
- Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
Thứ hai: Sự thay đổi về chất tác động sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Khi chất mới
ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện
tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 39651089
Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy.
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên
tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất. Chất và lượng
tuy là hai mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi, song hai mặt
đó không tác rời nhau mà lại tác động qua lại một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu
sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất. Có thể sự tăng giảm về lượng làm biến đổi ngay chất nhưng
cũng có thể biến đổi dần dần về chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận: -
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng để có biến
đổi vềchất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. -
Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự vận
độngcủa sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến
sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên
tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự
phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên. -
Sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm
thựchiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt
động có ý thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải
tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. -
Phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các
yếutố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động
vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
* Ví dụ: Quá trình học tập học sinh là quá trình dài, khó khăn, cần sự cố gắng không biết mệt mỏi,
không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh.
Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: học sinh
tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, lOMoAR cPSD| 39651089
đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm
tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp.
Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao
hơn. Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và
việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy.
Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước
nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút,
đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện
một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động
trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh
viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này khác
hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông trung học. Bởi đó không đơn
thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu,
tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ
các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ.
Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước
nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử
nhân và tìm được một công việc.
Câu 7: Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập?
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật. Theo V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...”
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối
lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. lOMoAR cPSD| 39651089
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
* Nội dung quy luật:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập
không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối
lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới
xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các
mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành
mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực
hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong
một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng bỏ
nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Nhưng nền kinh tế
thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn
khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng dó là tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với
nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì cái vốn có trong các
sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có tính
đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi
một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập đặt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 39651089
cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng
vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ
nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
* Ý nghĩa phương pháp luận: -
Thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu
thuẫnphải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan -
Phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
loạimâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. -
Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không
điềuhoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào
điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
* Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được
nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những
sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như
không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải là đối
tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu
dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều
này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. lOMoAR cPSD| 39651089
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập,
chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện
cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Câu 8: Quy luật phủ định của phủ định?
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra
khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện
tượng cũ) của sự phát triển của chúng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển.
Phủ định là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của quá trình
dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát
triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và
là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới.
* Nội dung của quy luật:
Quá trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng tạo nên sự
vận động, phát triển vô tận của thế giới vật chất. Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng
thường trải qua hai lần phủ định biện chứng – tức là trải qua một quá trình phủ định của phủ định.
Sự phủ định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một
chu kỳ mới và được lặp lại vô tận.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ
định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới xuất hiện
sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ
định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ định lần thứ hai) .
Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được
sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều
nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoắn ốc”. Ở mỗi chu kỳ phủ định
của phủ định, sự vật, hiện tượng thường trải qua ba hình thái tồn tại cơ bản. Trong đó, hình thái
cuối chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao
hơn về trình độ phát triển. lOMoAR cPSD| 39651089
Trong chuỗi phủ định của phủ định, nhờ tính kế thừa của phủ định biện chứng, cái mới ra đời trên
cơ sở cái cũ, chỉ loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển, đồng thời giữ lại
và cải biến những yếu tố tích cực cho phù hợp với cái mới, nhờ đó, mỗi lần phủ định biện chứng
đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật. Trải qua nhiều lần phủ
định biện chứng, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới sự vận động theo khuynh hướng
đi lên của sự vật, hiện tượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng cái mới, cái mới
nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ nhất định chiến thắng cái lạc hậu.
Phải biết phát hiện cái mới, quý trọng cái mới, tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, dù
cho quá trình đó diễn ra đầy quanh co, phức tạp.
Cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế thừa những giá trị,
tinh hoa của cái cũ. Do đó, phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, nhưng
cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, bám giữ cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử. * Ví dụ:
Hạt thóc Cây mạ Cây lúa Hạt thóc Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
• Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
• Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
* Liên hệ thực tiễn:
Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đỏi mới ở nước:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự
vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra
quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ
hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của
nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển
cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã
có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi lOMoAR cPSD| 39651089
khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền
kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy
đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng
ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Câu 9: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cảitạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người; là quá trình tạo thành tri
thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua sự tác động của chủ nghĩa duy vật thế giới, con người (chủ thể nhận thức ) sẽ phát hiện
ra được những mặt, thuộc tính của svht, qua đó giúp cng hiểu được svht ngày càng sâu sắc hơn, từ
đó cng có dc những tri thức về sự vật hiện tượng, nhận thức được các quy luật vận động và phát
triển của thế giới. mọi tri thức của người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nhờ có hoạt động thực tiễn,
các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic của con người ngày
càng phát triển, con người tạo ra được các công cụ, phương tiện để giúp con người nối dài giác quan.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt
động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lựchoạt
động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn
vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt
ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con lOMoAR cPSD| 39651089
người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng
thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra
đời từ chính thực tiễn, từ mục đích chữa trị những căn bệnh nan y và từ mục đích tìm hiểu, khai
thác những tiềm năng bí ẩn của con người…có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh vực tri
thức nào mà lại không xuất phát từ một mục đích nào đó của thực tiễn, không nhằm vào việc phục
vụ, hướng dẫn thực tiễn.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: để làm gì?
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính
xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với
tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận
thức tiếp theo.Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ
đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải đo đạc diện tích và do lường
sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý:
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực
tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng
đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn
đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý”. Ví dụ:
– Trái đất quay quanh mặt trời
– Không có gì quý hơn độc lập tự do
– Nhà bác học Galilê phát minh ra định luật về sức cản của không khí
=> Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì chỉ có đem những tri thức đã thu nhận được qua nhận
thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới khẳng định được tính đúng đắn của nó.
* Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 39651089
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn
đếnbệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ
rơivào chủ nghĩa thực dụng.
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản
xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể
tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Tư
liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao
động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu
lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng
lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con
người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào
đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản
lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
và không tách rời nhau. Chúng tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của
sự vận động và phát triển xã hội. lOMoAR cPSD| 39651089
* Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
- Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển này. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu này dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới
sao cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thì phương thức sản
xuất cũ cũng mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Lực lượng sản xuất là thành tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản
xuất.Còn quan hệ sản xuất là thành tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản
xuất.Trong mối quan hệ đó, nội dung quyết định hình thức, tức là lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi và ngày càng tiến bộ hơn.Xét đến
cùng, sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Do vậy, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất, buộc quan hệ
sản xuất phải hình thành, biến đổi và phát triển phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Ví dụ:
• Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa bỏ phương thức
sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
• Cách mạng vô sản năm 1917 ở Nga đã đưa phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa lần
đầu tiên xuất hiện trên thực tế…
- Quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất và phân phối. Do đó nó trực tiếp gây
ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, cải tiến
công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng
là tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nếu nó phù hợp, còn
tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp. lOMoAR cPSD| 39651089
Nếu được vận dụng khoa học, phù hợp với tính chất và trình động của lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất sẽ tạo dư địa rộng lớn để lực lượng sản xuất phát triển.Khi đó, quan hệ sản xuất là
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó.
Nếu đã lỗi thời, không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm kẹp, cản trở
lực lượng sản xuất phát triển.
Câu 11: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
Cơ sở hạ tầng (hạ tầng các mối quan hệ vất chất, kinh tế) là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng (thượng tầng các mối quan hệ tu tưởng, chính trị) là toàn bộ những quan
điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những
thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan
hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó”.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế xã hội
nhất định, khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo. Cơ sở hạ tầng
quyết định sự thay đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng nào mất đi thì kiến
trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì nó lại sản sinh
ra kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó. Ví dụ: cơ chế bao cấp tương ướng với nó là Nhà
nước xơ cứng, mệnh lệnh quan liêu. Cơ chế thị trường tương ứng với nó là Nhà nước năng động,
hoạt động có kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng hiệu quả.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng củng cố, bảo vệ duy trì cơ sở hạ tầng sinh ra nó và đấu tranh chóng lại cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đối lập với nó.Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra
nhưng sau khi xuất hiện nó có tính độc lập tương đối do đó nó tác động lại cơ sở hạ tầng thể hiện
ở mặt: Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì củng cố và hoàn thiện cơ sở
hạ tầng đã sinh ra nó vàtìm cách xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, kiến trúc thượng tầng cũ. Nó luôn luôn
giữ lại và kế thừa những cái cũ đã làm tiền đề cho cái mới.Ví dụ: Nhà nước tư sản hiện đại củng lOMoAR cPSD| 39651089
cố, bảo vệ, phát triển sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Còn Nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát triển
sở hữu xã hội (tập thể).
Kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó Nhà
nước là yếu tố quan trọng nhất, tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng vì nó là công
cụ bạo lực tập trung trong tay giai cấp thống trị. Nó không chỉ thực hiện chức năng kinh tế bằng
hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đúng, nó còn có tác dụng trực tiếpthúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng phải thông qua thì mới có hiệu lực đối với cơ
sở hạ tầng.-Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều: tích cực và tiêu cực
+ Tích cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với những quy luật vận động của cơ sở
hạ tầng thì nó thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Do đó, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. +
Tiêu cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với những quy luật vận động của cơ sở
hạ tầng, khi nó là sản phẩm của quan hệ kinh tế lỗi thời thì nó cản trỏ, kìm hãm sự phát triển của
cơ sở hạ tầng. Do đó, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội: Là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết
định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến
trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế
sống còn của mình. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ
yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy V.I Lênin viết: "Chính trị
là sự biểu hiện tập trung của kinh tế...Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế".
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan
diểm, tư tưởng, lý luận, … nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội: lOMoAR cPSD| 39651089
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong
lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định
ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: –
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc
tưtưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã
hội để lý giải cho ý thức xã hội. –
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay đổi thì
sớmhay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó
sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý
xã hội như trong truyền thống ,tập quán ,thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:- –
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thườngxuyên và trực tiếp của những
hoạtđộng thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung
chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. –
Do sức mạnh của thói quen truyền thống ,tập quán cũng như dotính lạc hậu ,bảo thủ của
mộtsố hình thái xã hội. –
Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tậpđoàn người ,những giaii cấp
nhấtđịnh trong xã hội..
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên
tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức
chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận
tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 39651089
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.
Câu 13: Khái niệm con người và bản chất con người?
Con người là một dạng sinh vật sống trên Trái Đất với các tiến hóa cao nhất của động vật sống, có
tri thức, ý thức. Các nhận thức và hành động tác động lên nhau để hình thành với những nhu cầu,
đáp ứng cho nhu cầu của con người. Nhưng định nghĩa về con người cho đến nay vẫn chưa được
thống nhất cụ thể. Việc đưa ra định nghĩa xác định với các góc nhìn khác nhau ở các khía cạnh thực tiễn.
* Bản chất con người:
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học với các giá trị mang đến
nhận thức, đánh giá và phản ánh ở các giai đoạn, các thời kỳ trước.
Đồng thời chỉ ra các điểm tiến bộ trong nghiên cứu, khẳng định con người hiện thực là sự thống
nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội được sinh ra với sự độc lập mang tính cá thể, với các
quan hệ huyết thống và các đặc điểm kèm theo. Bên cạnh yếu tố xã hội ràng buộc, tạo thành các
mối quan hệ khác nhau, xác định trong xây dựng quan hệ trong lao động sản xuất, trong hợp tác
làm ăn, trong sinh hoạt hàng ngày, điều đó mang đến đặc trưng thể hiện.
Sự thống nhất của yếu tố sinh học và xã hội mới làm nên con người. Trong quá trình phát triển,
nhận thức, tác động ngược trở lại thế giới. Để tìm kiếm, khai thác các lợi ích trong nhu cầu ngày
càng cao. Gắn với ứng dụng các sự vật trong tự nhiên để tạo ra các giá trị mới cao hơn, chất lượng
và phục vụ đảm bảo các nhu cầu hơn.
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau:
– Quan hệ với tự nhiên.
– Quan hệ với xã hội.
– Quan hệ với chính bản thân con người.
Mang đến các tác động qua lại đối với xã hội. Các xây dựng mỗi quan hệ giữa con người với con
người thể hiện cho các mục đích và ý nghĩa bao trùm.Từ đó tác động lên tất cả các mối quan hệ
khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Tổng hòa cho các lợi ích, các
tiếp cận. Và hướng đến cung cấp cho con người. - Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử: lOMoAR cPSD| 39651089
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động
thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Mang đến các tiếp cận ban đầu để hình
thành lên nhận thức. Cũng như sau đó có các kinh nghiệm, có sự học tập và phát triển nhu cầu. Từ
đó thực hiện các tác động với ý nghĩa mong muốn ngày càng cao, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử, mang đến các giai đoạn với đặc điểm tác động vào tự nhiên khác nhau của
con người. Thể hiện các giai đoạn và tiến trình lịch sử.
Hoạt động lao động sản xuất là nguồn gốc đối với các phát triển đó. Vừa là điều kiện cho sự tồn
tại của con người. Phải làm, phải lao động để có ăn, có trao đổi và chênh lệch lợi ích. Từ đó trở
thành phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Tác động và làm thay đổi trong
định hướng phục vụ cho con người.