


















Preview text:
Đề cương Tâm Iý học 2
Câu 1: Hoạt động học tập của học sinh THCS và THPT a. THCS
- Trẻ càng lớn lên, hoạt động học tập càng có vị trí quan trọng trong cuộc sống của trẻ và
vai trò của nó trong sự phát triển của trẻ ngày càng to lớn.
- Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em được học với nhiều
giáo viên. Mỗi giáo viên có trình độ nghề nghiệp, phẩm chất, uy tín, có cách dạy và yêu
cầu khác nhau đối với học sinh. Do vậy, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh “xa
cách” hơn so với bậc tiểu học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn nhất định cho các
em nhưng nó cũng tạo điều kiện cho các em phát triển dần phương thức nhận thức người khác.
- Động cơ học tập đã được hình thành rõ nét và biểu hiện phong phú. Hai động cơ hình
thành và chi phối hoạt động học tập của các em: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ
quan hệ xã hội. Động cơ xã hội gắn liền với những quan hệ xã hội còn động cơ hoàn
thiện tri thức lại hướng vào việc nhận thức, lĩnh hội tri thức các môn học. Sự xuất hiện
động cơ học tập mới này có quan hệ đến sự hình thành thái độ, hứng thú, viễn cảnh sống,
lý tưởng, dự định trong tương lai của thiếu niên. Như vậy, học tập ở giai đoạn này có ý
nghĩa quan trọng đối với các em, và từ đó làm nảy sinh, phát triển hoạt động học tập cao
hơn về chất so với lứa tuổi trước: xuất hiện hoạt động tự học. –
Thái độ tự giác đối với học tập ở tuổi thiếu niên cũng tăng lên rõ rệt. Ở học sinh tiểu học,
thái độ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của các em đối với giáo viên và điểm số
nhận được. Nhưng ở tuổi thiếu niên, thái độ đối với môn học do nội dung môn học và sự
đòi hỏi phải mở rộng tầm hiểu biết chi phối. Thái độ đối với môn học đã được phân hóa
(môn “hay”, môn “không hay”)
- Hứng thú học tập ở trường trung học cơ sở, nội dung học tập đã được mở rộng; nhiều
em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đối với môn học, say mê học tập. Tuy
nhiên, tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến hứng thú của thiếu niên bị phân tán và
không bền vững và có thể hình thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc đối với các lĩnh
vực khác trong cuộc sống.
- Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ở mỗi em để kịp thời
động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó khăn trong học tập và hình thành
nhân cách một cách tốt nhất. Mặt khác, cần chú ý tới tài liệu học tập: Tài liệu học tập
phải súc tích về nội dung khoa học, phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em
hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học, phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập và phải
trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó, giáo viên phải
giúp đỡ các em hướng dẫn cho các em cách học, có phương pháp học tập phù hợp. b. THPT
a. Đặc điểm về hoạt động học tập
- Hoạt động học tập và hướng nghiệp là hoạt động chủ đạo của học sinh ở lứa tuổi này.
Hoạt động học tập của lứa tuổi học sinh trung học phổ thông có những đặc điểm khác
biệt cơ bản so với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
Nội dung, tính chất hoạt động học tập
- Nội dung, tính chất hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông khác hơn nhiều
so với những lứa tuổi trước. Nội dung hoạt động học tập của học sinh trung học phôt
thông nhiều hơn, khó hơn, phức tạp hơn; đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy
luật của các bộ môn khoa học. Đặc biệt, hoạt động học tập của học sinh trung học phổ
thông đòi hỏi tính năng động và tính độc lập của học sinh ở mức độ cao hơn và trình độ
tư duy lý luận phát triển mới có thể nắm vững bản chất các khái niệm khoa học. Chính vì
vậy, người học cần có sự thay đổi về phương pháp học tập. Mặt khác, hoạt động học tập
của học sinh trung học phổ thông gắn liền với hoạt động hướng nghiệp, do đó, tính phân
hóa trong hoạt động học tập thể hiện rõ hơn, cao hơn lứa tuổi thiếu niên. Những điều này
kích thích, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ mạnh mẽ của các em và cũng gây khó khăn cho
không ít học sinh trong hoạt động học tập. Động cơ học tập
- Động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông đã được hình thành một cách rõ nét,
phong phú, có cấu trúc phức tạp và phát triển gắn liền với động cơ lựa chọn nghề nghiệp.
Hệ thống động cơ học tập đã được phát triển hoàn thiện và bền vững hơn trước. Ở lứa
tuổi này xuất hiện các loại động cơ học tập, như động cơ hoàn thiện tri thức, động cơ
quan hệ xã hội (học để có địa vị xã hội, học để phục vụ xã hội, học để thi đỗ vào trường
đại học...). Trong đó, có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học
đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em...), động cơ nhận thức, sau đó là ý
nghĩa xã hội của môn học...
- Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em càng ý thức
được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Do vậy, các em tích cực, tự
giác hơn trong học tập. Thái độ học tập của học sinh đối với các môn học trở nên có tính
lựa chọn hơn. Điều này gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp. Những môn học liên
quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp thường được các em tập trung vào nhiều nhất.
- Như vậy, một mặt các em rất tích cực học tập những môn mà các em cho là quan trọng
đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ
học để đạt điểm trung bình. Tất cả những điều đó có thể dẫn đến không chỉ giảm sút kết
quả học tập nói chung mà còn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách thanh niên. Hứng thú học tập
- Hứng thú học tập của học sinh trung học phô thông mang tính chất rộng, sâu và bền
vững hơn học sinh trung học cơ sở. Ở lứa tuổi này, hứng thú học tập ổn định, đặc thù đối
với một khoa học, một lĩnh vực hoạt động nhất định, vì thế mà nó thường dẫn đến sự hình
thành xu hướng nhận thức nghề nghiệp của cá nhân, quy định việc lựa chọn nghề nghiệp
của các em. Hứng thú học tập đối với các môn học thường liên quan đến việc chọn nghề
nhất định của học sinh. Tuy nhiên, một số thanh niên chưa có biểu hiện hứng thú rõ rệt
với học các môn học cụ thể; một số khác hứng thú với thể thao, văn nghệ, hoạt động thực tiễn hơn là học tập
Câu 2: Sự phát triển trí tuệ của học sinh THCS và THPT a. THCS
- Tri giác: Các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp khi tri giác sự vật, hiện tượng phức
tạp. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn.
- Trí nhớ: Trí nhớ của thiếu niên cũng được thay đổi về chất. Đặc điểm cơ bản của trí nhớ
ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chất chủ định, năng lực ghi nhớ tăng lên rõ rệt, cách
thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao.
- Học sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ.
Các em có những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so
sánh, hệ thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ tài liệu. Kỹ năng nắm vững phương tiện ghi
nhớ của thiếu niên được phát triển ở mức độ cao, các em bắt đầu biết sử dụng những
phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được
ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý
nghĩ nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Các em thường phản đối các yêu cầu
của giáo viên bắt học thuộc lòng từng câu, từng chữ có khuynh hướng muốn tái hiện bằng
lời nói của mình. Vì thế giáo viên cần phải:
+ Giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác những định nghĩa, những
qui luật. Ở đây phải chỉ rõ cho các em thấy, nếu ghi nhớ thiếu một từ nào đó thì ý nghĩa
của nó không còn chính xác nữa.
+ Rèn luyện cho các em có kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài học mình., theo
cách diễn đạt của mình
+ Khi kiểm tra sự ghi nhớ, phải bằng sự tái hiện mới biết được hiệu quả của ghi nhớ.
(Thường thiếu niên hay sử dụng sự nhận lại) di don
+ Giáo viên cần hướng dẫn các em vận dụng cả hai cách ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa một cách hợp lý.
+ Cần chỉ cho các em thiết lập các mối liên tưởng ngày càng phức tạp hơn, gắn tài liệu
mới với tài liệu cũ, giúp cho việc lĩnh hội tri thức có hệ thống hơn, đưa tài liệu cũ vào hệ thống tri thức. - Tư duy
Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở có những biến đổi cơ bản:
- Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh là một đặc điểm cơ
bản của hoạt động tư duy ở thiếu niên. Nhưng thành phần của tư duy hình tượng - cụ thể
vẫn được tiếp tục phát triển, nó vẫn giữ vai trò quan trọng cấu trúc của tư duy.
- Các em hiểu các dấu hiệu bản chất của đối tượng nhưng không phải bao giờ cũng phân
biệt được những dấu hiệu đó trong mọi trường hợp. Khi nắm khái niệm các em có khi thu
hẹp hoặc mở rộng khái niệm không đúng mức.
- Ở tuổi thiếu niên, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, các em biết lập luận
giải quyết vấn đề một cách có căn cứ. Các em không dễ tin như lúc nhỏ, nhất là ở cuối
tuổi này, các em đã biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được,
những kinh nghiệm riêng của mình để minh họa kiến thức.
Từ những đặc điểm trên, giáo viên cần lưu ý:
+ Phát triển tư duy trừu tượng cho học sinh trung học cơ sở để làm cơ sở cho việc lĩnh
hội khái niệm khoa học trong chương trình học tập.
+Chỉ dẫn cho các em những biện pháp để rèn luyện kỹ năng suy nghĩ có phê phán và độc lập Tưởng tượng
- Khả năng tưởng tượng của thiếu niên phong phú, hình ảnh tưởng tượng mang tính khái
quát, sáng tạo hơn lứa tuổi trước.
- Tưởng tượng tái tạo khá đầy đủ, chính xác và mang tính khách quan hơn. Nhờ đó, việc
tái tạo những câu chuyện kể, những bài học trên lớp tương đối chính xác.
- Tưởng tượng sáng tạo phát triển thể hiện ở khả năng sáng tác văn học, nghệ thuật, hội họa
- Thiếu niên đã có nhiều ước mơ cao đẹp, táo bạo và xa bay bổng, đặc điểm men da
comic ca dep, lao bao va xa bay bo những con người lý tưởng trong tưởng tượng của
thiếu niên đã tập trung, không trước. Tuy nhiên, hình ảnh tưởng tượng ở các còn tản mạn,
xa rời thực tế như em còn mang tính xa vời chưa gắn liền với khả năng của bản thân. - Chú ý
- Đặc điểm nổi bật ở giai đoạn này là chú ý có chủ định chiếm ưu thế và khá bền vững,
các em có thể tập trung lâu dài vào một hay một số đối tượng.
- Tính lựa chọn của chú ý phát triển và phụ thuộc vào tính chất tri thức của môn học, mức
độ hứng thú của thiếu niên với tri thức đó.
- Khối lượng chú ý tăng rõ rệt, cùng một lúc có thể tập trung vào nhiều đối tượng khác
nhau mà vẫn đạt hiệu quả cao.
- Sự di chuyển của chú ý từ thao tác này sang thao tác khác, từ hành động này sang hành
động khác, từ hoạt động này sang hoạt động khác nhanh và dễ dàng, đặc biệt là hoạt động học tập Ngôn ngữ
- Ngôn ngữ phát triển mạnh, vốn từ tăng rõ rệt, đặc biệt là các thuật ngữ khoa học. Các
em nói và diễn đạt rõ ràng, lưu loát bằng ngôn ngữ của chính mình, dùng câu cú đúng ngữ pháp tinh
- Ngôn ngữ giàu hình tượng thể hiện trong khả năng sáng tác văn thơ...
- Tuy nhiên, ngôn ngữ của thiếu niên vẫn còn nhiều thiếu sót, nhiều em viết sai ngữ pháp,
dùng từ sáo rỗng, thiếu chân thực... b. THPT
- Do sự hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh trung ương và các giác quan;
do sự tích lũy phong phú kinh nghiệm sống và tri thức; do yêu cầu ngày càng cao của
hoạt động học tập, lao động xã hội, hoạt động nhận thức của học sinh trung học phổ
thông có những nét mới về chất. Đặc điểm nổi bật là tính chủ định được phát triển mạnh
ở tất cả quá trình nhận thức. Tri giác
- Tri giác có mục đích phát triển đến mức cao, giúp các em có khả năng quan sát có mục
đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình tri giác đã chịu sự điều khiển của ngôn ngữ
và không tách rời tư duy trừu tượng, nhờ vậy hoạt động tri giác trở nên có hiệu quả hơn,
phản ánh đối tượng đầy đủ và chính xác hơn. Khả nặng phân tích, tổng hợp phức tạp khi
tri giác tăng lên, các em đã biết phân tích, tổng hợp từ những yếu tố cụ thể, chi tiết để tìm
ra yếu tố chung, phổ biến của nhiều sự vật, đó là cơ sở của khái quát hóa khái niệm sau
này. Việc tri giác thời gian và không gian của các em cũng chính xác hơn. Tuy nhiên, ở
một số thanh niên tri giác còn chịu sự chi phối của cảm xúc, tâm trạng. Trí nhớ
- Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo, đồng thời vai trò của trí nhớ ý nghĩa tăng lên rõ
rệt. Các em sử dụng phương pháp ghi nhớ, thủ thuật ghi nhớ ngày càng nhiều (lập dàn
bài, tóm tắt ý chính, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu các phần theo một mối quan
hệ nhất định để ghi nhớ...), biết lựa chọn nội dung tài liệu để ghi nhớ, nhận biết tài liệu
nào thì cần ghi nhớ từng câu, tài liệu nào ghi nhớ ý chính rồi diễn đạt theo ngôn ngữ của
mình..., có nghĩa sự ghi nhớ đã có sự lựa chọn rõ ràng. Tuy nhiên, một số em còn ghi nhớ
đại khái, chung chung, đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu. Chú ý
- Cùng với óc quan sát, trí nhớ chủ định, năng lực chú ý chủ định cũng phát triển. Đặc
biệt khả năng phân phối chú ý của các em rất tốt. Năng lực này càng lên lớp trên càng
phát triển (vừa nghe giảng, vừa ghi chép, vừa theo dõi câu trả lời của bạn, vua phân tích
nhận xét...). Tính lựa chọn và ổn định của chú ý ở lứa tuổi này phát triển cao hơn hẳn học sinh lớp dưới. Tư duy
- Đây là giai đoạn tiếp tục hoàn thiện các năng lực trí tuệ. Ở lứa tuổi này, tư duy trừu
tượng phát triển mạnh trong hoạt động trí tuệ. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy
trừu tượng một cách độc lập, Tưởng tượng
- Tưởng tượng phát triển mạnh mẽ, phong phú và mang tính tích cực. Các em biết sử
dụng nhiều phương pháp sáng tạo ra hình ảnh mới. Biểu tượng của tưởng tượng mang
tích chất sáng tạo và gắn với hiện thực hơn. Tưởng tượng tái tạo tương đối đầy đủ và
chính xác. Tưởng tượng sáng tạo thường thể hiện trong những ước mơ, trong những hình
ảnh tương lai về mục đích sống lớn lao. Tưởng tượng phong phú là cơ sở để các em sáng
tạo và xây dựng ước mơ, lý tưởng của mình Ngôn ngữ
- Ngôn ngữ phát triển mạnh và gắn liền với sự phát triển của tư duy. Ngôn ngữ của các
em giàu hình tượng, điều này thể hiện rõ ở khả năng sáng tác văn thơ. Các em có nhu cầu
dùng ngôn ngữ của mình để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm một cách hay nhất. Tuy nhiên ngôn
ngữ của một số em còn những thiếu sót như nói và viết sai ngữ pháp, ngôn ngữ viết và
nói còn cầu kỳ, dùng từ chưa chính xác, đặt câu sai, có khi còn mắc lỗi chính tả.
- Tóm lại, ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông, những đặc điểm chung về mặt nhận
thức, trí tuệ thông thường của con người đã được hình thành và chúng vẫn còn tiếp tục hoàn thiện.
Câu 3: Giao tiếp HS THCS và THPT a. THCS
Giao tiếp với người lớn:
- Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo: “cảm nhận mình đã là người lớn”.
Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, nhưng các em cũng có cảm nhận mình
chưa thực sự là người lớn. Cảm nhận về sự trưởng thành của bản thân là nét đặc trưng
trong nhân cách thiếu niên, được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức. Các
em quan tâm đến hình thức, tác phong, cử chỉ... và những khả năng của bản thân.
- Ở lứa tuổi này, các em có nhu cầu thiết lập mối quan hệ với người lớn và muốn người
lớn quan hệ đối xử với mình bình đẳng, không bị coi là trẻ con và người lớn không can
thiệp quá tỉ mỉ vào một số mặt trong đời sống riêng của các em.
- Các em mong muốn cải tổ mối quan hệ này theo hướng hạn chế quyền của người lớn,
mở rộng quyền của các em và phải đảm bảo sự công bằng.
- Các em mong muốn người lớn phải tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở
rộng tính độc lập của các em. Nguyện vọng muốn được tin tưởng và độc lập hơn, muốn
có quyền bình đẳng nhất định với người lớn có thể thúc đẩy các em tích cực hoạt động,
chấp nhận những yêu cầu đạo đức của người lớn và phương thức hành vi trong thế giới
người lớn. Nhưng mặt khác nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống cự, không
phục tùng những yêu cầu của người lớn.
- Thiếu niên bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây các em vẫn thực hiện một
cách tự nguyện. Các em bảo vệ ý kiến của mình không chỉ trong lời L nói mà cả trong hành động.
- Khi người lớn không chịu thay đổi mối quan hệ với các em, thì các em sẽ trở thành
người trực tiếp thay đổi mối quan hệ đó và như vậy, xung đột sẽ xẩy ra. Nếu người lớn
thấy sự phản đối của các em, mà không suy xét về phía mình để thay đổi mối quan hệ với
các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo dài đến hết thời kì của lứa tuổi
này Biểu hiện của xung đột đó là các em tỏ ra bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời,
không tin tưởng người lớn... Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Do vậy, trong mối quan hệ với thiếu niên, người lớn cần :
- Phải tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của thiếu niên.
- Người lớn cần xây dựng mối quan hệ với thiếu niên dựa trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.
- Gương mẫu, khéo léo, tế nhị khi tiếp xúc với thiếu niên.
Sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi:
- Quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học.
Sự giao tiếp của các em đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường, mở rộng
trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của
các em. Các em có nhu cầu cao trong giao tiếp với bạn bè vì:
- Một mặt, các em khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, có
nguyện vọng được sống trong tập thể, có những bạn bè thân thiết tin cậy. Mặt khác, các
em cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận,
thừa nhận, tôn trọng mình.
- Học sinh trung học cơ sở cho rằng quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ độc lập trong
quan hệ này, bảo riêng của cá nhân, các em có quyền hành động độc vệ quyền đó của
mình. Các em không muốn người lớn can thiệp quá sâu vào chuyện bạn bè của mình.
Nếu có sự can thiệp thô bạo của người lớn, các em cảm thấy bị xúc phạm, điều này rất có
thể các em chống đối lại.
- Tình bạn trong đời sống học sinh trung học cơ sở đã sâu sắc hơn. Các em có nhu cầu
giao tiếp và kết bạn với nhau. Các em chỉ kết bạn với những bạn được mọi người tôn
trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về mặt nào đó.
- Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường là rộng, nhưng không được bền vững, có
tính chất tạm thời, là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người bạn thân. Về sau những em có
cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó, thường gắn bó với nhau. Trong
việc chọn bạn, thiếu niên thường yêu cầu cao ở bạn. Điều quan trọng để kết bạn là tình
bạn phải trung thành, thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau...
- Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ của các em gắn bó với nhau hơn,
chịu ảnh hưởng của nhau, dễ lây hứng thú của bạn (có thể trở thành người tốt hoặc ngược
lại). Vì vậy, giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới. Bạn bè mà các em yêu
thích có thể trở thành hình mẫu đối với các em, nhất là các bạn có những ưu điểm.
Giao tiếp với bạn khác giới:
- Một đặc trưng quan trọng trong quan hệ với bạn bè cùng tuổi là xuất hiện những sắc
thái mới trong quan hệ với bạn khác giới - những cảm xúc giới tính..
- Tự ý thức đã phát triển khiến các em nhanh chóng nhận thức được những đặc điểm giới
tính của mình. Các em đã bắt đầu quan tâm lẫn nhau, ưa thích nhau, từ đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình.
- Ở các em gái thái độ quan tâm đến bạn thường thể hiện khá thụ động và kín đáo (làm
dáng hơn trước chú ý đến hình thức của mình hơn), các em thường che dấu tình cảm của
mình bằng cách tỏ vẻ thờ ơ, lãnh đạm với bạn trai. Các em trai thể hiện thái độ này một
cách công khai, ngang nhiên, có khi thô bạo (giật tóc, dấu cặp...).
- Lúc đầu sự quan tâm của các em trai có tính chất tản mạn và biểu hiện bằng phương
thức đặc thù của trẻ con như xô đẩy, trêu chọc các em gái... Các em gái nhiều khi không
hài lòng về những hành vi như thế của các em trai và khi các em gái ý thức được thì
không bực tức, giận các em trai.
- Sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một loại hoạt động đặc biệt, nội dung
của nó là xây dựng những quan hệ qua lại và những em nhận thức hành động trong quan
hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các e được người khác và bản thân mình đồng thời
qua đó phát triển một số kĩ năng như kĩ năng so sánh, phân tích, khái quát hành vi của
bản thân và của bạn, làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân cách của bạn và của bản thân.
- Do đó, làm công tác giáo dục phải tạo điều kiện để các em giao tiếp với nhau, hướng
dẫn, xây dựng mối quan hệ của các em, tránh tình trạng ngăn cấm, hạn chế sự giao tiếp
bạn bè của lứa tuổi này. b. THPT
Giao tiếp trong nhóm bạn và trong tập thể
- Lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi có nhu cầu giao tiếp phát triển đến đỉnh cao, Chính vì
vậy mà thanh niên nhanh chóng mở rộng phạm vi giao tiếp và đa dạng hóa hoạt động
sống của mình. Quan hệ bạn bè cùng tuổi và đời sống tập thể chiếm vị trí quan trọng nhất
đối với cuộc sống của học sinh trung học phổ thông.
- Tuổi thanh niên là tuổi có tinh thần tập thể rất cao. Đối với thanh niên, trở thành người
được bạn bè trong tập thể yêu mến là điều quan trọng. Họ muốn mình trở thành người
cần thiết cho nhóm, trở thành người có uy tín nhất định và có vị trí trong nhóm và trong
tập thể. Những người có vị thế thấp trong tập thể, ít được bạn bè yêu mến...Các em
thường lo lắng và muốn chuyển từ tập thể này sang tập thể khác hòng tìm thấy vị thế mới
của mình trong nhóm bạn, thay đổi nhân cách của mình.
- Quan hệ bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan hệ với người lớn tuổi hơn hoặc ít
tuổi hơn. Điều này do lòng khao khát muốn có vị trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối.
Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, trong những giờ rảnh rỗi, thì những thú vui, những trò
tiểu khiển...thanh niên thường hướng về bạn bè cùng tuổi và chịu ảnh hưởng của bạn bè
hơn là hướng về cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị sâu sắc hơn như thế giới quan,
những giá trị đạo đức thì ảnh hưởng của cha mẹ lại mạnh hơn rõ rệt.
- Thanh niên thường có nhiều nhóm bạn bè: Nhóm bạn và tập thể học sinh có tổ chức
trong nhà trường như nhóm học tập, lớp học, hội học sinh, Đoàn thanh niên... Nhóm bạn
có tổ chức nhưng ngoài nhà trường như nhóm thể thao, câu lạc bộ, đội văn nghệ, trong
nhà văn hóa thiếu nhi. Nhóm không chính thức hay còn gọi là nhóm tự phát được hình
thành trên cơ sở cùng hứng thú, cùng năng khiếu, đặc biệt là cùng quan điểm, niềm tin,
ước mơ, mục đích chí hướng.
- Do tầm ảnh hưởng của các nhóm quy chiếu trong công tác giáo dục (cả giáo dục trong
và ngoài nhà trường) cần chú ý đến mối quan hệ giao tiếp giữa học sinh với các nhóm,
hội tự phát: Chúng ta không thể quán xuyến toàn bộ cuộc sống của các em, cũng không
thể loại trừ được các nhóm tự phát và các đặc tính của chúng, nhưng có thể tránh được
các hậu quả xấu của nhóm tự phát bằng cách tăng cường tổ chức các hoạt động của Đòan,
hoạt động chính trị, văn hóa, nghệ thuật, hoạt động của các nhóm chính thức một cách
phong phú, sinh động... khiến cho các hoạt động đó phát huy được tính tích cực của học sinh
Câu 4; Đời sống tình cảm của HS THCS và THPT a. THCS
- Đặc điểm tình cảm nổi bật ở lứa tuổi này các em dễ xúc động, vui buồn chuyển hóa dễ
dàng, tình cảm còn mang tính chất bồng bột, hăng say
- Ở cuối lứa tuổi học sinh trung học cơ sở tình cảm của các em đã biết tùng lý trí, tình
cảm cao cấp phát triển mạnh cụ thê:
+ Tình cảm đạo đức hình thành rõ nét, thể hiện ở những rung động yêu ghét rõ ràng các
hành vi đạo đức và phi đạo đức.
+ Tình cảm trí tuệ và tình cảm thẩm mỹ bắt đầu phát triển: Các em biết rung động trước
cái đẹp, cái mới, cái sáng tạo...
- Tình bạn ở lứa tuổi này bền vững hơn so với lứa tuổi trước và có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng với các em, vì vậy các em thường thể nghiệm chủng một cách mạnh mẽ.
- Thiếu niên dễ có phản ứng mãnh liệt trước sự đánh giá, nhất là sự đánh giá thiếu công bằng của người lớn.
- Tâm trạng của thiếu niên thay đổi nhanh chóng, thất thường, có lúc đang vui nhưng chỉ
là một cớ gì đó lại sinh ra buôn ngay hoặc đang lúc bực mình nhưng gặp điều gì thích thú
lại tươi cười ngay. Do đó, nên thái độ của các em đối với những người xung quanh cũng có nhiều mâu thuẫn. Kết luận:
→ Trong những giai đoạn phát triển của con người lứa tuổi thiếu niên có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, nhiều biến động nhất nhưng
cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng thành sau này.
→ Sự phát triển tâm lí của thiếu niên chịu ảnh hưởng của thời kỳ phát dục. Nhưng cái
ảnh hưởng quyết định nhất đối với sự phát triển tâm lý chính là những mối quan hệ xung
quanh, đặc biệt là những mối quan hệ giữa thiếu niên và người lớn.
→ Đây là lứa tuổi mà các em không còn là trẻ con nữa, nhưng chưa hẳn là người lớn. Ở
lứa tuổi này các em cần được tôn trọng nhân cách, cần được phát huy tính độc lập nhưng
cũng rất cần đến sự chăm sóc chu đáo và đối xử tế nhị. b. THPT
- Đời sống tình cảm của thanh niên rất phong phú và đa dạng, có thái độ xúc cảm đối với
các mặt khác nhau của đời sống. Nét đặc trưng đặc biệt đối với lứa tuổi này là sự phát
triển của tình cảm đạo đức chính trị - xã hội và những tình cảm thường được đối chiếu
một cách đúng đắn với các yêu cầu đạo đức nhất định. Các em yêu quê hương, đất nước,
yêu thích sự công bằng, căm ghét sự vô lý, bất công một cách mạnh mẽ.
- Các em nhạy cảm hơn với các ấn tượng mới của đời sống, rung động mạnh mẽ hơn
trong tình cảm gia đình, mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn trong tình cảm thẫm mỹ, tình cảm trí
tuệ như yêu khoa học và say mê khám phá nghệ thuật.
- Khả năng tự kiểm sóat và tự điều chỉnh xúc cảm, thái độ, hành vi của thanh niên cũng
được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trạng thái cảm xúc của các em trở nên bền vững hơn. Tình bạn
- Nhu cầu tình bạn xuất hiện từ tuổi thiếu niên, song sang tuổi thanh niên nhu cầu tình
bạn phát triển cao hơn. Hơn thế, tình bạn trong lứa tuổi thanh niên khác với lứa tuổi thiếu
niên ở một số đặc điểm sau. Thứ nhất, động cơ tình bạn sâu sắc hơn. Những yêu cầu của
tỉnh bạn cao hơn: sự chân thành, tin tưởng lẫn nhau, lòng vị tha, sự trung thành, sẵn sàng
giúp đỡ thường xuyên, có hứng thú chung, khát vọng hoạt động chung. Thứ hai, tình cảm
đó có nội dung hơn, bao gồm phạm vi hứng thú và hoạt động rất rộng. Thứ ba, tình bạn
đượm màu cảm xúc hơn, nghĩa là các em nhạy cảm hơn, không chỉ có khả năng xúc cảm
chân tình, mà còn có khả năng đáp ứng lại xúc cảm của người khác.
- Tình bạn của thanh niên, cũng như thiếu niên, có đặc điểm rất bền vững. Các em quan
tâm đến bộ mặt tinh thần và những nét tính cách của bạn. Tình bạn ở tuổi này có thể vượt
qua được mọi thử thách và thường kéo dài trong suốt đời người.
- Thanh niên ở lứa tuổi này đều coi tình bạn là những mối quan hệ quan trọng nhất của
mình vì chính bạn bè giúp các em đối chiếu những thể nghiệm và ước mơ lý tưởng, cho
phép họ học được cách tự đánh giá mình và đánh giá người khác
- Ở thanh niên mới lớn, sự khác biệt giữa các cá nhân trong tình bạn rất rõ. Quan niệm
của thanh niên về tình bạn và mức độ thân tình trong tình bạn có sự khác nhau. Nguyên
nhân kết bạn cũng rất phong phú (vì phẩm chất tốt ở bạn, vì tính tình tương phản, vì có
hứng thú, sở thích chung...). Tình yêu
- Lần đầu tiên trong lứa tuổi học sinh trung học phổ thông, xuất hiện một thứ tình cảm
đặc biệt, đó là tình yêu. Đó là một trạng thái hoàn toàn mới mẻ trong đời sống tình cảm
của học sinh mà ở thời thiếu niên chưa có. Đối với thiếu niên,
đúng hơn, chỉ là biểu hiện của mối thiện cảm, tới sự say mê, quyến luyến, thậm chí sự say
đắm lần đầu, nhưng tình yêu, với tư cách là tình cảm sâu sắc mạnh mẽ, có hiệu lực mãi
tới đầu tuổi thanh niên mới xuất hiện. Đây là một nhu cầu tình cảm chân chính và là một
hiện tượng tự nhiên bình thường. Theo I.X. Kôn, tình yêu nam nữ ở lứa tuổi này chính là
sự kết hợp giữa tình dục cảm tính với nhu cầu về sự thân thiết, ấm áp, gần gũi, ngọt ngào,
cảm xúc nồng nàn của hai tâm hồn khác giới.
- Tình yêu ở lứa tuổi này về cơ bản là tình cảm lành mạnh, trong sáng, không vụ lợi và
không tính toán. Tình yêu ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông thường xuất hiện từ
tình bạn, từ sự cảm thông hoàn cảnh của nhau, từ sự hòa hợp tâm hồn, từ sự quý mến cảm
phục nhau. Các em thường động bởi một nét tính cách, một phẩm chất riêng lẻ: học giỏi, có tài vặt nào đó
- Tình yêu của thanh niên được quy định bởi thái độ đạo đức của họ. Trong nhiều trường
hợp, tình yêu đang ấp ủ đã ảnh hưởng tích cực đến việc học tập và rèn luyện của thanh
niên. Tình yêu tạo cho họ nguyện vọng khắc phục những khuyết điểm để vươn lên. Cũng
có nhiều trường hợp tình yêu phát triển không bình thường đã cản trở đến việc học tập và
rèn luyện của thanh niên, làm sao nhãng công việc chung, làm cho thanh niên bị kích
thích quá mức hoặc quá phân tán.
- Thứ tình cảm “già tình bạn, non tình yêu này” thường gây những ấn tượng mạnh mẽ và
rất sâu sắc trong tâm hồn các em. Tuy vậy, mối tình đầu này thường dễ vỡ do chưa có cơ
sở vững chắc và cuộc sống của các em còn nhiều biến động về vật chất và tinh thần.
→ Trong công tác giáo dục cần:
+ Tình yêu của thanh niên mới lớn là một tình cảm xuất hiện tất yếu trong quá trình phát
triển của con người. Tình yêu của thanh niên về cơ bản là một tình cảm lành mạnh. Vì
vậy, bất luận trong trường hợp nào đều không được can thiệp một cách thô bạo vào tình
cảm thiêng liêng này. Người lớn không được chế nhạo, tỏ thái độ bất bình đối với sự xuất
hiện những rung động mới mẻ này của thanh niên
+ Nếu tình yêu của các em tốt đẹp, không ảnh hưởng gì đến kết quả học tập và rèn luyện
thì giáo viên phải giúp các em vượt qua khó khăn, căng thăng để vươn lên, giữ mãi được tình yêu trong sáng đó.
+ Nếu tình yêu của các em ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập và rèn luyện thì giáo viên
cần phải giúp các em nhận thức đúng, hướng nghị lực của các em vào những hứng thú, say mê khác có lợi.
+ Nếu thấy tình yêu mang tính bản năng, có khuynh hướng thỏa mãn tính dục, thì giáo
viên cần phải có biện pháp nghiêm khắc, cứng rắn đối với những trường hợp này, tránh
gây ảnh hưởng xấu đến tập thể học sinh.
- Giáo dục tình cảm cho thanh niên là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của gia đình, nhà
trường mà còn là của toàn xã hội. Giáo dục tình cảm là một trong những nội dung quan
trọng của việc giáo dục nhân cách, chuẩn bị cho thanh niên bước vào cuộc sống lao động xã hội.
Câu 5: Hoạt động học, bản chất của hoạt động học, hình thành động cơ học tập cho học sinh A. Hoạt động học
Là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.
a. Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kỹ năng kỹ xảo tương ứng
- Đối tượng của hoạt động học là những khái niệm khoa học. Đây cũng chính là mục đích
của hoạt động học cần chiếm lĩnh thông qua việc tái tạo của bản thân. Bởi vì, tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo tồn tại bên ngoài bản thân học sinh, học sinh muốn có được tri thức đó thì
phải chiếm lĩnh nó, tái tạo những tri thức đã có trong nền văn hoá để chuyển vào bên trong (tâm lý).
- Việc tái tạo này không thể thực hiện được nếu học sinh chỉ là khách thể bị động của
những tác động sư phạm. Trái lại, muốn học có kết quả người học phải tích cực tiến hành
những hoạt động học tập bằng chính ý thức, tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân.
b. Hoạt động học hướng vào làm thay đổi chính bản thân của chủ thể học (học sinh)
- Bằng hoạt động học, mỗi chủ thể (học sinh) lĩnh hội được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới,
nhờ vậy vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người học tăng lên. Qua đó, tâm lý của người
học cũng được thay đổi và phát triển (nhận thức lý tính, các phẩm chất nhân cách...). Như
vậy, chúng ta khẳng định hoạt động học tạo ra sự biến đổi ở chính người học, hình thành
nhân cách ở người học.
- Người học càng ý thức về đối tượng của hoạt động bao nhiêu, sức lực của học sinh được
huy động càng nhiều thì sự thay đổi tâm lý của học sinh sẽ cao.
c. Hoạt động học là hoạt động tự giác được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
- Hoạt động học chỉ có thể đạt kết quả cao khi việc học tập đó là hoàn toàn tự giác, tự
nguyện không có sự gò bó ép buộc hay nói cách khác chính cá nhân ý thức về mục đích
hoạt động của mình. Đồng thời, kết quả của hoạt động học tập còn phụ thuộc nhiều vào
việc tự tổ chức điều khiển hoạt động học tập của bản thân người học một cách khoa học.
- Bên cạnh đó, việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo của học sinh diễn ra dễ
dàng, khoa học và có hệ thống khi được giáo viên chọn lọc, tinh chế và tổ chức lại theo
một hệ thống nhất định nhằm vạch ra được bản chất, quy luật của sự vật hiện tượng và
được giáo viên tổ chức, điều khiển một cách có ý thức.
B. Bản chất của hoạt động học
C. Sự hình thành dộng cơ học tập
- Hoạt động nào cũng được thúc đẩy bởi động cơ nhất định. Trong hoạt động học tập của
học sinh, động cơ chính là nhu cầu được mỗi học sinh nhận thức, trở thành động lực thúc đẩy các em học tập.
-Trong quá trình học tập mặc dù có cùng đối tượng học tập, nhưng ở thời điểm khác
nhau, ở học sinh khác nhau thì có động cơ khác nhau và ở một học sinh cũng có thể có
nhiều động cơ khác nhau.
Động cơ hoàn thiện tri thức hay còn gọi là động cơ bên trong
- Động cơ này được biểu hiện là học sinh có nhu cầu mở rộng tri thức, có nhiều hiểu biết
nên các em say mê giải quyết những nhiệm vụ học tập... Mỗi lần khám phá được tri thức
mới các em cảm thấy nguyện vọng hoàn thiện tri thức của mình được thực hiện một phần.
Nguyện vọng hoàn thiện tri thức được hiện thân ở đối tượng hoạt động học được gọi là
động cơ hoàn thiện tri thức. Động cơ này bao gồm:
* Động cơ mang tính chất nội dung (gắn liền với mong muốn tìm hiểu điều mới, làm chủ
tri thức, đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng).
* Động cơ mang tính chất quá trình (gắn liền với quá trình học tập, nảy sinh khi học sinh
có khát vọng thể hiện tính - tích cực trí tuệ của mình, cố gắng vượt qua khó khăn trở ngại)
- Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức đòi hỏi học sinh phải có
sự nỗ lực ý chí đề khắc phục những khó khăn trở ngại bên ngoài có thể xuất hiện trong tiến trình học tập.
Động cơ quan hệ xã hội hay còn gọi là động cơ bên ngoài
- Động cơ này được nảy sinh, liên quan đến hệ thống các mối quan hệ giữa người học với
hiện thực khách quan. Trong trường hợp này những những mối quan hệ xã hội của cá
nhân được hiện thân ở đối tượng học tập nên được gọi là động cơ quan hệ xã hội. Động cơ ngày bao gồm:
* Động cơ xã hội rộng lớn (học để phục vụ đất nước, nghề nghiệp tương
* Động cơ danh vọng (đứng đầu lớp, chỉ huy, uy tín...)
* Động cơ cầu thị (muốn nhận được sự khen thưởng của cha mẹ, nhà trường, thầy cô giáo...)
* Động cơ tiêu cực (nhằm mục đích tránh sự khó chịu của cha mẹ, thầy cô giáo, nhà
trường...) các em học vì động cơ này thì kết quả, chất lượng học tập không làm các em quan tâm.
- Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó mang
tính ép buộc và có những lực chống đối nhau. Vì thế, nó gây ra những căng thẳng tâm lý
đòi học sinh phải có sự nỗ lực bên trong, đôi khi có cả sự đấu tranh với chính bản thân
mình. Khi có xung đột gay gắt học sinh thường có những hiện tượng vi phạm nội quy,
thờ ơ với học tập hay bỏ học...
Câu 6: Đặc điểm Iao động sư phạm, năng Iực dạy học
a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Năng lực hiểu học sinh là khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, là sự hiểu
biết tường tận về nhân cách của chúng cũng như khả năng quan sát tinh tế những biểu
hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục. *Biểu hiện:
- Giáo viên phải biết xác định được khối lượng, mức độ, phạm vi kiến thức đã có ở học
sinh, từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày cho học sinh.
- Phải dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng
ở học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- Giáo viên phải có khả năng quan sát tinh tế và có thể xây dựng những biểu hiện chính
xác về lời giảng của mình đã được học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào.
- Khả năng hiểu học sinh ở người giáo viên thể hiện ở hai mức độ: Mức độ thấp là thông
qua câu trả lời và làm bài tập của học sinh. Mức độ cao là thông qua những qua qua tiếng
xì xào, ánh mắt, sắc mặt
Vì vậy, muốn hiểu học sinh thì người giáo viên phải luôn quan tâm gần gũi học sinh với
tình thương và trách nhiệm. Giáo viên phải nắm vững chuyên môn cũng nhu sự hiểu biết
đầy đủ về tâm lý của trẻ và kết hợp với những phẩm chất tâm lý cần thiết.
b. Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo
Tri thức và tầm hiểu biết của giáo viên là năng lực cơ bản, năng lực trụ cột của nghề dạy học, vì:
. Giáo viên thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc
biệt: tri thức. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình tất yếu phải nắm vững phương tiện ấy.
Chỉ khi nào nắm vững được nội dung, bản chất, con đường hình thành tri thức mà nhân
loại đã đi qua thì khi ấy người giáo viên mới có thể chắt lọc được những cái cần cho sự
phát triển nhân cách của người học.
- Vì công việc của nhà giáo cũng là công việc của một nhà giáo dục, để giáo dục được HS
thì không chỉ nắm vững kiến thức môn mình dạy người thầy giáo cần có hiểu biết rộng,
tâm hồn của họ phải được bồi bổ nhiều tinh hoa của dân ộc, của cuộc sống, của khoa học.
Khi đó người thầy giáo mới có thể bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có được nhãn quan rộng rãi,
có hứng thú và thiên hướng thích hợp.
- Xã hội càng hiện đại, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với trẻ, đồng thời làm cho hứng
thú và nguyện vọng của trẻ càng phát triển (thích tò mò, tìm hiểu...). Người giáo viên cần
phải nâng cao trình độ, tri thức để đáp ứng sự phát triển ở trẻ.
- Tạo ra uy tín cho người giáo viên. * Biểu hiện:
- Giáo viên phải nắm vững và hiểu biết rộng về môn mình phụ trách. - Thường xuyên
theo dõi, nắm bắt xu hướng phát triển và những phát minh trong khoa học môn mình phụ
trách và các khoa học lân cận
- Biết tiến hành nghiên cứu khoa học.
- Có năng lực tự học tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình
- Để có năng lực này đòi hỏi người giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là có
nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết, thứ hai là có khả năng để làm thỏa mãn nhu
cầu đó (phương pháp tự học, người giáo viên phải có tầm hiểu biết sâu rộng và luôn có
nhu cầu mở rộng tầm hiểu biết để hoàn thiện tri thức của mình. Tâm hồn của giáo viên
phải được bồi bổ rất nhiều những tinh hoa của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học.
Dù họ có cống hiến cho học sinh bao nhiêu đi nữa thì họ vẫn dư dật những kiến thức đó.
c. Năng lực chế biến tài liệu học tập
- Năng lực chế biến tài liệu là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên biên tài
liệu đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa
tuổi, của từng cá nhân học sinh, phù hợp với trình độ, kinh nghiệm của học sinh và đảm bảo logic sư phạm. *Biểu hiện
- Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình,
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức tinh và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa
kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực tế.
- Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và
giàu cảm xúc và sáng tạo.
- Học tập được kinh nghiệm của giáo viên khác và đúc kết kinh nghiệm cho mình.
- Giáo viên phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu dùng để dạy cho học sinh, xác lập được
mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh.
- Giáo viên phải biết chế biến tài liệu cho phù hợp với logic sư phạm và vừa phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh.
- Giáo viên phải có khả năng phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức. - Phải có sự
sáng tạo khi chế biến và trình bày tài liệu học tập.
d. Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học
- Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học là khả năng tổ chức và điều khiển hoạt động nhận
thức của học sinh qua bài giảng.
- Nắm vững kỹ thuật dạy học mới là giáo viên tổ chức và điều khiển hoạt động của học
sinh giúp học sinh lĩnh hội tri thức thông qua hoạt động tích cực độc lập của bản thân. * Biểu hiện:
- Giáo viên phải tạo cho học sinh ở vị trí người “khám phá” trong quá trình dạy học
- Giáo viên phải truyền đạt tài liệu một cách rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh.
- Phải tạo ra hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ một cách độc lập tích cực.
- Phải tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội tri thức trong quá trình học tập.
-Vì vậy, để có năng lực này đòi hỏi ở người giáo viên phải có quá trình học tập nghiêm
túc và rèn luyện kỹ năng sư phạm. d. Năng lực ngôn ngữ
- Năng lực ngôn ngữ là một năng lực quan trọng không thể thiếu của người thầy giáo vì
đây là công cụ, phương tiện đảm bảo cho người giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình
- Nhờ ngôn ngữ thầy giáo truyền đạt thông tin tới trò, thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của
học sinh vào bài giảng và điều khiển và điều chỉnh hoạt động nhận xi thức của học sinh,
giải thích, bàn bạc, tổ chức, huy động các lực lượng khác
tham gia vào hoạt động giáo dục.
- Năng lực ngôn ngữ là khả năng biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý chí và tình cảm
của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu * Biểu hiện:
- Năng lực ngôn ngữ của giáo viên được biểu hiện cả về nội dung và hình thức
- Nội dung ngôn ngữ phải sâu sắc, chứa đựng mật độ thông tin lớn, phải thích hợp với các
nhiệm vụ nhận thức khác nhau.
Hình thức ngôn ngữ phải trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, biểu cảm, phát
âm mạch lạc, không sai về ngữ pháp và có cảm xúc làm lay động tâm hồn học sinh.
- Ngôn ngữ của giáo viên không quá nhanh cũng không quá chậm, ngôn ngữ của giáo
viên phải có tác dụng khơi gợi sự chú ý và tư duy tích cực của học sinh vào bài giảng.
Bên cạnh đó người giáo viên phải biết sử dụng phi ngôn ngữ sinh động, phù hợp với nội dung của bài giảng
Vì vậy, người giáo viên phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi về ngôn ngữ, phải am hiểu
về tri thức đề truyền đạt có xúc cảm
Câu 7: Năng Iực giáo dục ở người giáo viên
a. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh là năng lực biết dựa vào mục đích
giáo dục, vào yêu cầu đào tạo, hình dung trước cần phải giáo dục cho sinh những phẩm
chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt được mục đích đó. *Biểu hiện:
- Giáo viên có khả năng tiên đoán sự phát triển của những thuộc tính này hay thuộc tính
khác ở từng học sinh, vừa nắm được nguyên nhận nảy sinh và mức độ của những thuộc tính đó.
- Giáo viên thấy được sự khác nhau trong nhân cách của học sinh dưới ảnh hưởng của dự
án phát triển nhân cách do mình xây dựng nên.
- Giáo viên hình dung được hiệu quả của những tác động sư phạm nhằm hình thành nhân cách học sinh.
- Nhờ có năng lực này mà công việc của người giáo viên trở nên có kế hoạch, chủ động và sáng tạo hơn. * Yêu cầu
- Óc tưởng tượng sư phạm phong phú. - Tính lạc quan sư phạm.
- Niềm tin vào sức mạnh giáo dục, niềm tin vào con người.
- Óc quan sát sư phạm tinh tế.
b. Năng lực giao tiếp sư phạm
Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên
ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của học sinh và của bản thần giáo viên, đồng
thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện giao tiếp, biết cách tổ chức, điều khiển và điều
chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích giáo dục. * Biểu hiện:
+ Kỹ năng định hướng giao tiếp:
+ Kỹ năng định vị: là sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng, là khả năng biết xác định vị
trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối điều kiện để đối tượng chủ động,
+ Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp: là khả năng xác định được hứng thú nguyện
vọng của đối tượng để tìm ra đề tài giao tiếp thích hợp nhằm thu hút đối tượng. Trong
quá trình giao tiếp chủ thể phải biết làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân và biết sử
dụng phương tiện giao tiếp một cách thích hợp với tình huống giao tiếp nhất định.
- Ngoài ra, năng lực giao tiếp của giáo viên còn thể hiện trong sự tiếp xúc với đồng
nghiệp, với phu huynh học sinh, với các tổ chức xã hội khác
- Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với rèn luyện các phẩm chất nhân cách.
Chỉ có những giáo viên nào có nhiệt tình, tôn trọng nhân cách học sinh luôn quan tâm
giúp đỡ học sinh, biết lắng nghe và dân chủ trong giao tiếp với học sinh thì thường dễ đạt
kết quả cao trong hoạt động sư phạm.
c. Năng lực cảm hóa học sinh
Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp mình đến với học
sinh về mặt tình cảm và ý chí. Đó là khả năng làm cho học sinh nghe, tin và làm theo
giao viên bằng tình cảm, bằng niềm tin. * Biểu hiện:
- Luôn có tinh thần trách nhiệm cao, có niềm tin và có kỹ năng truyền đạt niềm tin đó cho học sinh.
- Luôn quan tâm chu đáo và khéo léo ứng xử khi giao tiếp với học sinh, biết tôn trọng và
yêu cầu hợp lý đối với học sinh.
- Là người có nguyên tắc, có ý thức tổ chức kỷ luật nhưng có lòng vị tha... Để có năng
lực này đòi hỏi người giáo viên phải luôn phấn đấu và tu dưỡng tạo ra mà có nếp sống
văn hóa lành mạnh có phong cách mẫu chân chính thực sự. Phải biết xây dựng quan hệ
thầy trò tốt đẹp, vừa nghiêm túc, vừa thân mật, có thái độ yêu thương và tin tưởng học
sinh, đối xử dân chủ, công bằng và phải gương mẫu trước học sinh về mọi mặ
d. Năng lực ứng xử sư pham
Là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến học sinh một cách hiệu quả nhất, là
sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm cụ thể phù hợp với những đặc điểm và
khả năng của cá nhân cũng như tập thể học sinh trong từng tình huống sư phạm cụ thể. * Biểu hiện:
- Biết sử dụng các tác động sư phạm một cách nhạy bén và có giới hạn (khuyến khích hay
trách phạt, nghiêm khắc hay nhẹ nhàng...).
- Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ, không nóng
vội, không thô bạo. Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp.
- Biết biến cái bị động thành cái chủ động để giải quyết vấn đề mau lẹ.
- Phải thường xuyên quan tâm chu đáo đến đặc điểm tâm sinh lý của từng cá - nhân hay tập thể học sinh.
e. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là năng lực tất yếu cần có để đảm bảo cho giáo viên
tiến hành dạy học và giáo dục đạt kết quả tốt. Vì giáo người tổ chức lao động cho cá nhân
và tập thể học sinh trong những điều kiện sư phạm khác nhau, vừa là hạt nhân gắn kết
học sinh thành một tập thể, vừa là người tuyên truyền, phối hợp các lực lượng giáo dục. * Biểu hiện:
- Giáo viên phải biết tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong
hoạt động dạy học và giáo dục ở trên lớp cũng như ở ngoài trường.
- Xây dựng tập thể học sinh thành tập thể vững mạnh, đoàn kết có ảnh hưởng tốt đến mọi
thành viên trong tập thể.
- Phải biết tổ chức, vận động và phối hợp các lực lượng xã hội tham gia vào
công tác giáo dục theo một mục tiêu xác định.
Để có được các năng lực trên, đòi hỏi người thầy giáo:
- Biết vạch kế hoạch hoạt động một cách có khoa học.
- Biết sử dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục một cách đúng đắn
nhằm ảnh sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của học sinh.
- Biết xác định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục khác nhau.
Phải có niềm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và biện pháp giáo dục.
Câu 8: Uy tín của người giáo viên Khái niệm
- Uy tín là giá trị xã hội của nhân cách, là sự phát triển cao của nhân cách do tài đức, cách
xử thế và cuộc sống thực tạo nên.
- Uy tín của người giáo viên là giá trị xã hội của người giáo viên, là sự phát triển cao
nhân cách của người giáo viên, do tấm lòng và tài năng của người giáo viên tạo nên.
Vai trò uy tín của người giáo viên
- Hiệu quả của hoạt động sư phạm phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của người giáo viên.
- Có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình cảm của học sinh.
- Được học sinh kính trọng, yêu mến và đánh giá cao về phẩm chất và năng lực.
- Tạo cho giáo viên sức mạnh tinh thần và khả năng cảm hoá học sinh
Các loại uy tín của giáo viên
- Uy tín thật (uy tín chân chính), được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người giáo viên,
nó là kết quả của sự hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giàu lòng
sáng tạo, là kiến tạo quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò. Với uy tín đó, người giáo viên luôn
toả ra một hào quang hấp dẫn và soi sáng cho các em noi theo. Mỗi lời nói, cử chỉ, hành
vi của giáo viên đều là bài học sống động cho học sinh, nhiều học sinh mong muốn giáo
viên là hình tượng lý tưởng của mình.
- Uy tín giả, dựa trên cơ sở của dư luận, quyền uy. Loại uy tín này được xây dựng bằng
các thủ thuật giả tạo như: trấn áp học sinh, làm các em sợ hãi mà phục tùng, bằng cách
khoe khoang khoác lác về những cái mà mình không có, hoặc bằng lối sống xuề xòa, dễ
dãi, vô nguyên tắc, bằng những biện pháp nuông chiều học sinh... Uy tín kiểu này sẽ
không thể tồn tại lâu dài và sẽ nhanh chóng thất bại.
Để hình thành uy tín người giáo viên cần phải:
- Phải thương yêu học sinh và tận tụy với nghề nghiệp.
- Phải đối xử với học sinh một cách công bằng không thiên vị, không thành
- Giáo viên phải có ý chí phấn đấu vươn lên, có nhu cầu mở rộng tri thức và có nhu cầu
nâng cao trình độ nghề nghiệp.
- Có phương pháp và kỹ năng tác động trong dạy học và giáo dục hợp Iý, hiệu quả và sang tạo
- giáo viên phải có tác phong sư phạm, phải gương mẫu trước học sinh về mọi mặt, mọi Iúc, mọi nơi