-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề cương thi vấn đáp môn Triết - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Đề cương thi vấn đáp môn Triết - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học mác - lênin (THM00)
Trường: Đại học Văn hóa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 1: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản của Triết học? Vai trò của Triết
học Mac – Lênin trong đời sống xã hội?
1. Nguồn gốc: Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một
thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên).
- Theo người Hy Lạp cổ đại, Triết học là yêu mến sự thông thái
- Theo Trung Quốc: triết học là triết lí về cuộc sống và con người
- Theo Ấn Độ, triết học là chiêm nghiệm về thế giới và con người
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung
nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy
luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiê, xã hội và tư duy.
2. Vấn đề cơ bản của triết học trả lời hai câu hỏi lớn (hai mặt):
Mặt thứ nhất: Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào
quyết định đến cái nào?
+ Các quan điểm cho rằng vật chất có trước và quyết định ý thức hình thành nên chủ nghĩa duy vật
+ Các quan điểm cho rằng ý thức có trước và quyết định vật chất hình thành nên chủ nghĩa duy tâm
+ Các quan điểm cho rằng vật chất và ý thức cùng tồn tại và độc lập với nhau hình
thành nên triết học nhị nguyên
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay không
+ Các quan điểm cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hình
thành nên thiết khả tri luận
+ Các quan điểm ngược lại là bất khả tri luận
+ Các quan điểm cho rằng con người vừa nhận thức được và vừa không nhận thức được là hoài nghi luận
3. Vai trò của Triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội
- Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người trong nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Câu 2: Triết học Mac ra đời dựa trên những điều kiện, tiền đề nào?
Chức năng của Triết học Mac – Lênin là gì?
1. Điều kiện kinh tế - xã hội:
- Chủ nghĩa Mác ra đời vào những nãm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền
tảng của cuộc cách mạng công nghiệp đưực thực hiện trứơc tiên ở nước Anh vào
cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước
chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là
sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản
xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản. tiêu
biểu là: cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong
trào Hiến chương (Anh) từ năm 1835 đến năm 1848; cuộc khởi nghĩa của công
nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844, V.V.. Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện giai
cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu
tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách
quan đó; đồng thời, chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho
sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
- Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản
ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế –
chính trị – xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
+ Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn tuyệt đối
cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho Chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ chính sự phát triển của kinh tế tư
bản chú nghĩa mới tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện những
nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản.
+ Chính sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn, lý
luận, chính trị, xã hội… đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa là nó kích
thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác.
+ Chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác.
- Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của
giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là
điều kiện chính trị – xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của Chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên:
- Nguồn gốc lí luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà
còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực
tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế – chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen là L.Phoibac đã
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép
biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiobac. Đồng thời, các ông cũng
khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm
trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiobac.
Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các
ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung
nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát
triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với kinh tế – chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại
biểu lớn của nó (A. Xmit và Đ. Ricacdo), C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những
quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: Quan điểm duy vật
trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao
động. Đồng thời, các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong
học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các
nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học
thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những
biểu lớn của nó là H.Xanh Ximong, S.Phurie và R.Ooen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư
tưởng này đối với những hạn chế cảu Chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng
khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất
không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, các ông xây dựng nên một lý luận mới
– lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học là sự
phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng.
+ Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động
vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; dặt cơ sở cho sự phát
triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình
thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động
vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học
cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu
cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu
trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản
thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Như vậy, những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác bao gồm một điều
kiện về kinh tế – xã hội và hai tiền đề. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài
người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng
Cộng sản Việt Nam “kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
3. Chức năng của Triết học Mác – Lênin
Cũng như mọi khoa học, triết học Mác – Lênin cùng một lúc thực hiện nhiều chức
năng khác nhau. Đó là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán… Tuy nhiên,
chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản
của triết học Mác – Lênin.
- Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác –
Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho
con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học
để con người xem xét, nhận thức thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem
xét chính minh. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất
của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa
họe định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và câ cách
thức hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một
vai trò của phương pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết
học Mác – Lênin có sự thống nhất hữu cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con
người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá
nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn.
Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan của con người phát triển như một quá trình tự giác.
Thế giới quan duy vật biện chúng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các
loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách
mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu
tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận:
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có
vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận
về hệ thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương
pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò phương pháp luận duy vật biện chúng được thể hiện trước hết là phương
pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật biện chứng
trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa
học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Tuy nhiên, triết học Mác – Lênin không phải là “đơn thuốc vạn năng” có thể giải
quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng
với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn xã hội. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không
được xem thường hoặc tuyệt đối hoá phương pháp luận triết học. Nếu xem thường
phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong chọc sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp,
thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh
được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Câu 5: Trình bày quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất?
Ý nghĩa phương pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn?
- Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. * Nội dung
- Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Theo định nghĩa của Lenin vật chất là một phạm trù của triết học vì nó là sản phẩm
của sự trừu tượng hóa, không tồn tại cảm tính
+ “Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc
thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách
quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”: là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất,
là cơ bản nhất để phân biệt, xác định là cái gì là vật chất, cái gì không phải vật chất.
+ Theo Lênin, trong đời sống xã hội thì "khách quan không phải theo ý
nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý thức, những con người, có thể tồn
tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật có ý thức, mà
khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý
thức xã hội của con người” : cho dù con người có nhận thức hay không thì vật chất vẫn tồn tại
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Lenin khẳng định, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình
thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể,
tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách
chung chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người.
Trong đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính
thứ nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là
tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường
nhất nguyên duy vật của V.I.Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
Ví dụ: Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại
nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người -> cho thấy vật chất tồn tại
khách quan, không lệ thuộc vào ý thức. Có ý thức của con người trước
hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan (mắt,
mũi, tai, lưỡi…) của con người -> cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất
- Thứ ba, cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện
tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...), lại luôn
luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện
tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là
bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan
* Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết học Mác – Lênin
+ Giải quyết một cách đúng đắn và triệt để hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết), chủ nghĩa duy
vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này
+ Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – các điều
kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất xã hội
+ Tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, từ đó góp phần tạo nên nền
tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các
vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Khắc phục cuộc khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học đầu thế kỉ XX và cổ
vũ các nhà khoa học tự nhiên tiếp tục đi sâu nghiên cứu khám phá thế giới vật chất Câu
8: Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong giải quyết
mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan?
- Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại;
chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết định ý thức, ý thức tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau
Ví dụ: Bộ óc người là cơ quan phản ánh, cơ quan sản sinh ra ý thức, vì vậy chỉ khi
tồn tại con người thì ý thức mới tồn tại
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: vì ý thức phản ánh hiện thực
khách quan trong khi tự thân ý thức không thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: thế giới vật chất luôn vận động và
biến đổi không ngừng vì vậy khi vật chất thay đổi dẫn tới ý thức cũng thay đổi theo
Ví dụ: Thế giới đang đi theo xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, đương nhiên nước ta
phải đổi mới tư duy phát triển kinh tế mở cửa hội nhập.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
VD: Ở nhiều nơi vùng núi, điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ít được tiếp xúc
với công nghệ hiện đại và ứng dụng thông minh, thiết bị học tập => suy nghĩ và
cách làm lạc hậu, kém phát triển. Nếu họ được sử dụng những thiết bị hiện đại để
làm việc và cập nhật thông tin họ sẽ phát triển theo hướng khác
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời
sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
+ Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện,hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
+ Thứ ba,vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà
nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định
mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Ví dụ 1: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải
bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
Ví dụ 2: Việc áp dụng chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường, mở cửa hội nhập đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển với 1 tốc độ nhanh chóng.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Ví dụ 1: Sau khi biết bản thân mắc Covid-19, thay vì liên lạc với trung tâm y tế thì
lại bỏ trốn, khiến dịch bệnh lây lan rộng hơn.
Ví dụ 2: Chủ trương phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung
bao cấp đã khiến cho nền kinh tế phát triển một cách trì trệ, chậm chạp.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Tóm lại, quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua
lại, trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thựctiễn thông
qua hoạt động nhận thức của con người
* Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra và ứng dụng vào cuộc sống, học tập
và nghề nghiệp sau này của bản thân em.
Thứ nhất, mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách quan, đồng
thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng
các quy luật tự nhiên và xã hội…
Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình;
Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Ứng dụng vào bản thân em, trong cả cuộc sống, học tập và nghề nghiệp sau
này, ý nghĩa phương pháp luận đều được áp dựng vào moi mặt cuộc sống. Thứ
nhất là trong cuộc sống, các quy luật tự nhiên và xã hội luôn ứng dựng vào các
hoạt động thiết thực. Như là lấy căn cứ là hiện thực khách quan để từ đó xuất
phát cho mọi hoạt động và nhận thức thực tiễn của mình. Thực tế khách quan
đó là ngoài thực hiện đầy đủ nội quy của lớp và trường thì phải tham gia các
tích cực các hoạt động của trường, của khoa và của lớp thì mới đạt được điểm
rèn luyện trên 70 điểm và có cơ hội nhận được học bổng của trưởng. Xuất phát
từ quy luật khách quan này mà em đã tích cực tham gia các phong trào tình
nguyện viên, xin đăng ký các hoạt động tình nguyện, tham gia vào ban văn
nghệ để chuẩn bị cho sự kiện chào mừng 30 năm thành lập khoa du lịch, tích
cực tham gia các câu lạc bộ và tham gia hội trại của lớp vào ngày 26,27/10 sắp tới.
Ngoài ra việc em lựa chọn học ngành nghề Hướng dân viên du lịch quốc tế
cũng là một trong những ý nghĩa phương pháp luận ảnh hưởng đến việc chọn
ngành nghề tương lại. Với thực tế khách quan và xu hướng ăn no, mặc ấm sang
ăn ngon, mặc đẹp, thì nhu cầu về giải trí và đi du lịch của người dân tăng lên,
dẫn đến thị trường làm việc của ngành Du lịch tăng, dựa vào yếu tố khách quan
đó, tác động đến suy nghĩ của em rằng sau này khi ra trường em vừa được thực
hiện ước mơ được đi đến khắp mọi miền vừa giúp em có thị trường lao động
rộng mở, không lo thất nghiệp.
Thứ hai, phát huy tính năng động, tích cực của ý thức
Để xã hội ngày càng phát triển thì phải phát huy tối đa vai trò tích cực của ý thức,
vai trò tích cực của nhân tố con người, nhận thức đúng quy luật khách quan.
+ Dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết tìm ra và vận
dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu để ra một cách tối ưu.
+ Khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý
chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ
tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Bản thân em luôn ứng dụng ý nghĩa phương pháp luận này vào tư duy. Bằng
chứng là em luôn học tập và trau dồi bản thân mỗi ngày. Em đã từng tiếp xúc
và học triết năm nhất, nhưng do em còn trì trệ bản thân, lười tư duy và cho rằng
học qua loa và có thể qua môn, và kết quả là em đã trượt. Nhưng trong quá
trình học tập và rèn luyện tư duy, em đã được các thầy cô dạy bảo và tư duy đó
của em đã thay đổi và tiến bộ lên từng ngày. Em xác định mục tiêu là phải ra
trường đúng hạn, phải đạt các môn từ điểm C trở lên, và mỗi ngày đi học em lại
càng cố gắng nghe giảng hơn, tham khảo các tài liệu từ các cô và các bạn đã
qua môn triết, em quyết tâm sẽ thi đỗ môn triết. Và em cũng đặt mục tiêu cho
tương lai gần là em sẽ ra trường đúng hạn và trở thành một tour guide có dày
dặn kinh nghiệm và kiến thức. Để được như vậy em tích cực, chủ động học tập và rèn luyện.
Câu 10: Trình bày nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến của
PBCDV. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này ? *Khái niệm
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng với nhau.
- “Liên hệ” là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng
nhất định làm đối tượng kia thay đổ.
- “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của PBCDV” cho rằng các sự vật, hiện tượng
của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm
nhập, chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.
VD1: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong khi
đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả khí O2.
VD2: Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên hệ với
nhau. Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động
qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau, cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau, chuyển hóa nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng
của cả cung và cầu.
*Đặc trưng/tính chất của mối liên hệ phổ biến - Tính
khách quan : Thể hiện sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con người. - Tính
phổ biến : Thể hiện ở chỗ, bất kỳ ở đâu, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều
có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng nắm giữ những vai trò, vị trí khác nhau
trong sự vận động, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này không chỉ
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các
mặt yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. - Tính
đa dạng, phong phú : Từ khác khía cạnh khác nhau, mối liên hệ được chia
thành mối liện hệ phổ biến trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ phổ biến
bản chất – mối liên hệ hiện tượng; mối liện hệ phổ biến chủ yếu – thứ yếu; mối liên
hệ phổ biến tất nhiên – ngẫu nhiên; mối liên hệ phổ biến bên trong – bên ngoài.
Quan hệ nhân quả; mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận. Những mối liên hệ phổ
biến khác nhau có tác dụng khác nhau đến sự tồn tại và phát triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi
xem xét bất cứ một sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải có quan điểm toàn diện,
tránh quan điểm xem xét phiến diện và siêu hình, đặt sự vật hiện tượng trong quan
hệ với sự vật hiện tượng khác, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá
trìnhh phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra các mối liên hệ bản
chất chủ yếu. Khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển
VD3: Trong cuộc Cách mạng T8/1945, các thành phần như sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và sự đoàn kết dân tộc của nhân dân Việt Nam,... có mối liên hệ phổ
biến chặt chẽ với nhau cộng thêm sự chớp thời cơ từ hoàn cảnh lịch sử, cụ thể và
Nhật đầu hàng quân Đồng Minh giúp cho ta có cơ hội lật đổ, hất cẳng Nhật ra
khỏi đất nước để đi đến độc lập và 2/9 Bác Hồ đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Câu 11: Trình bày nội dung nguyên lý về sự phát triển? Ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này ? *Khái niệm
Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cáo, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển,
mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên mới là phát triển.
VD1: Trong quá trình biến đổi của cá giống loài đã có sự biến đổi và phát triển từ
bậc thấp lên bậc cao ( lúa được cải tiến từ loại có năng suất thấp, chất lượng thấp
sang giống lúa ST25 năng suất, chất lượng cao hơn, chịu được hạn hán sâu bệnh tốt hơn)
VD2: Quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức trong xã hội loài
người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời nguyên thủy lên
các hình thức tổ chức bộ tộc -> chiếm hữu nô lệ -> phương thức sản xuất phong
kiến -> nhà nước tư sản -> nhà nước xã hội chủ nghĩa.
*Tính chất của nguyên lý về sự phát triển
- Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự
vật hiện tượng, chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ
thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người - Tính phổ biến
, sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. - Tính
kế thừa , sự vật hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối với
sự vật hiện tượng cũ. Sự vật hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ chứ
không phải hư vô. Vì vậy trong sự vật hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và
cải tạo yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi gạt bỏ mặt tiêu cực
lỗi thời, lạc hậu của sự vật hiện tượng cũ gây cản trở sự vật hiện tượng mới tiếp tục phát triển. -
Tính đa dạng, phong phú
, tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình phát triển không giống
nhau. Tính đa dạng, phong phú còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các
yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển chính là cơ sở lý luận khoa học để có thể định hướng
được việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Khi nhận thức sự vật phải nhận
thức nó trong sự vận động, phát triển không nhìn sự vật đứng im, chết cứng, không
vận động, không phát triển. Trong quá trình phát triển kế thừa và tiếp tục phát triển
những thuộc tính còn phù hợp, loại bỏ những mặt hạn chế, lạc hậu. Quan điểm phát
triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến đối với sự phát
triển. Nhận thức sụ vật phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó, để có
phương án tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó. Phát triển
là khó khăn, phức tạp vì vậy muốn nắm được bản chất khuynh hướng phát triển
của đối tượng nghiên cứu cần “phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự vận
động”...,trong sự biến đổi của nó”.
VD3: Mức độ và nhu cầu tìm tòi học hỏi muốn tiếp cận kiến thức đang phát triển.
Trước đây con người có được kiến thức do sự truyền dạy của thế hệ trước cho thế
hệ sau ( ông -> cha -> con ->cháu những kiến thức nông nghiệp là ruộng đồng).
Dần dần phát triển lên là học hỏi qua sách vở, chữ viết, thầy trò, ... đến giai đoạn
hiện tại được bổ sung phương pháp tiếp cận mới đó là qua mạng internet,.... Tùy
từng hoàn cảnh cụ thể mà sự giáo dục và truyền đạt kiến thức lại khác nhau, như
trong đại dịch covid, con người đã làm quen với phương pháp học tập từ xa mà
vẫn đem lại hiệu quả.
Câu 15: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm – ví dụ
Việc nhận thức nội dung và hình thức sự vật, hiện tượng và sự hình thành các khái
niệm về chúng được thực hiện trong quá trình nhận thức từ những mối liên hệ nhân
quả này sang mối liên hệ nhân quả khác, từ những đặc tính này sang những đặc
tính khác của sự vật, hiện tượng ấy.
- Nội dung là phạm trù dùng để chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố, quá trình cấu tạo
nên sự vật, hiện tượng.
- Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật,
hiện tượng; là hệ thống các mối liên hệ tương đối giữa các yếu tố cấu thành nội
dung của sự vật, hiện tượng. VD:
a) - Nội dung: Ở thực vật (cụ thể là cây): Các bộ phận như lá, rễ, quả, thân, củ… là
toàn bộ các yếu tố vật chất tạo nên 1 cơ thể sống của cây.
- Hình thức: Các quá trình: Các mối liên hệ giữa các bộ phận cơ thể, các quá trình
sinh lý: hô hấp, quang hợp, dinh dưỡng
b) - Nội dung của một tác phẩm văn học là toàn bộ các yếu tố như nhân vật, sự kiện, ý
nghĩa mà tác giả muốn phản ánh, thể hiện: Trong tác phẩm “Lão Hạc”, Nam Cao
phản ánh hiện thực số phận của người nông dân trước CMT8 qua tình cảnh của lão
Hạc và thể hiện tấm lòng của nhà văn trước số phận đáng thương của một con người.
- Hình thức của một tác phẩm văn học được thể hiện thông qua phương thức diễn
đạt nội dung của tác phẩm, cách diễn đạt, cách sắp xếp trình tự tác phẩm.
Nội dung và hình thức là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
+ Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của
nó nhưng phép biện chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự
vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung.
VD: Một tác phẩm văn học được in thành sách đều có kích thước, hình dáng, màu
sắc, v.v… nhất định Hình thức bên ngoài
Hình thức bên trong: bố cục của tác phẩm, bút pháp, ngôn ngữ... được sử dụng để
diễn đạt nội dung, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm mà tác giả muốn đề cập. 2. Mối quan hệ
Mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối
tượng hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau. Trong
biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới. A) Tính thống nhất
- Nội dung là toàn bộ những mặt, những yếu tố, những quá trình hợp thành cơ sở tồn
tại và phát triển của sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức kết cấu của nội dung.
các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức.
ND & HT gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, Không có một
hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định, cũng như không có nội
dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định nội dung nào có hình thức đó
VD: Với một chiếc áo thì nội dung của nó là các loại vải: vải cotton, vải kaki, thun
gân,… Các kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc chính là hình thức. Do đó, nếu các loại vải
khác nhau thì kiểu dáng của chiếc áo sẽ khác nhau.
B) Tác động qua lại giữa nội dung và hình thức
Nội dung quyết định Hình thức
Hình thức tác động trở lại Nội dung
Nội dung giữ vai trò quyết định đối Hình thức do nội dung quyết định
với hình thức trong quá trình vận nhưng hình thức có tính độc lập
động phát triển của sự vật (vì khuynh tương đối và tác động ngược trở lại
hướng chủ đạo của nội dung là biến nội dung. Sự tác động của hình thức
đổi, còn khuynh hướng chủ đạo của đến nội dung thể hiện ở chỗ:
hình thức là tương đối bền vững,
chậm biến đổi hơn so với nội dung.) Nếu phù hợp với nội dung thì hình -Vì tác động lẫn nhau
các yếu tố thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc
của nội dung biến đổi trước, hình
thức không thể kìm hãm mãi sự phát đẩy nội dung phát triển
triển của nội dung mà sẽ phải thay Nếu không phù hợp với nội dung thì
đổi cho phù hợp với nội dung mới
( hình thức biến đổi chậm hơn)
hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự
phát triển của nội dung.
VD: Nội dung quan hệ giữa anh A và VD: Trang bìa của một cuốn sách
chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình phải phù hợp với nội dung của cuốn
thức quan hệ giữa hai người không sách đó.
có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và
chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã
thay đổi, thì hình thức quan hệ buộc
phải thay đổi khi hai người buộc phải
có “giấy chứng nhận kết hôn”.
Hình thức và nội dung phải phù hợp với nhau
3. Ý Nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tách rời nội dung
với hình thức hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó của sự vật hiện tượng.
- Thứ nhất, hình thức của sự vật hiện tượng do nội dung của nó quyết định, là kết
quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó, thì sự thay đổi
hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp với nội dung quyết định nó, do
vậy, muốn biến đổi sự vật hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó.
Ví dụ: một sự vật là cây xanh, hình thức bên ngoài là cái cây có nội dung bên trong
là nhựa cây, gỗ, khoáng chất,... bên trong cây. Muốn biến đổi cây sang một hình
thức khác thì trước hết phải biến đổi nội dung của nó trước, khi nội dung thay đổi
chỉ còn bột gỗ ( bột giấy) thì hình thức sẽ thay đổi theo nội dung trở thành tờ giấy.
- Thứ hai, hình thức chỉ thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp với nội dung.
Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ
giữa nội dung đang phát triển và hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với
hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì trong những trường hợp nhất định, phải
can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi về hình thức để nó phù hợp
với nội dung đã phát triển và đảm bảo cho nội dung phát triển hơn nữa, không bị hình thức cũ kìm hãm.
Ví dụ: Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức & phương pháp quản lý, sự gia tăng
tệ quan liêu, tuyệt đối hóa những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước
đây trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính trong tình trạng khủng
hoảng xã hội một vài năm trước. Xã hội có đạt được sự phát triển mới về chất hay
không phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội đã
già cỗi, phong cách và phương pháp làm việc cũ đưa chúng vào phù hợp đến mức
độ nào với những điều kiện dạng thay đổi.
- Thứ ba, một nôi dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại nên cần sử
dụng mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình
thức vốn có, lấy hình thức này thay thế, bổ sung cho hình thức kia để làm cho bất
kì hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới. V.I.Lênin kịch liệt
phê phán thái độ chỉ thừa nhận các hình thức cũ,bảo thủ trì trệ, chỉ muốn làm theo
hình thức cũ, đồng thời cũng phê phán thái độ phủ định vai trò của hình thức cũ
trong hoàn cảnh mới, chủ quan , nóng vội, thay đổi hình thức cũ một cách tùy tiện, vô căn cứ.
Ví dụ: Kim cương và than chì là hai dạng thù hình của cùng một nguyên tố Cacbon
nhưng sự khác biệt ở đây là cấu trúc tinh thể của chúng. Dẫn đến kim cương có độ
bền và độ cứng cực cao để làm xước hay vỡ kim cương cần đến một lực cực lớn,
khiến kim cương trở thành một trong những vật liệu cứng nhất trong tự nhiên.
Trong khi đó, cấu trúc liên kết yếu giữa các tinh thể trong Cacbon làm cho than chì
có thể gọt dễ dàng và được sử dụng phổ biến trong bút chì.
Câu 16: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa
bản chất và hiện tượng. Nếu ý nghĩa phương pháp luận. 1.
Khái niệm – Ví dụ:
- Phạm trù là những khái niệm có nội hàm rộng lớn, phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và
hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
- Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Nếu bản chất là cái bên trong quy định sự vận động và sự phát triển của sự
vật, hiện tượng thì phạm trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra
bên ngoài của bản chất.
Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa cái Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng
hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật với Hiện tượng là phạm trù chỉ
sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã hội. Do đó,
một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ
đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp. 2.Mối quan hệ
Mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối
tượng hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau. Trong
biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
a) Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không. Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại
ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
b) Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù hợp với nhau, vì mỗi đối
tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng
luôn tồn tại khách quan trong mối lien hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tài nếu thiếu cái kia.
- Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất bao giờ cũng được tồn tại thông qua hiện tượng. Hiện tượng bao giờ
cũng là sự biểu hiện của bản chất. – bản chất được ánh lên nhờ hiện tượng – Heghen .
- Bản chất khác nhau bộc lộ hiện tượng khác nhau:
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo.
Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát, thống kê các
hiện tượng (quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở đó tiến hành nghiên
cứu (có thể thông qua việc xác lập các mô hình giả thuyết,...) về bản chất của hiện
tượng để giải thích hiện tượng quan sát được. (quan sát hiện tượng để nghiên cứu
bản chất, từ bản chất để giải quyết các vấn đề căn bản của hiện tượng)
Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng.
Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của
một bản chất nhất định. Chính nhờ sự thống nhất giữa cả 2 ta có thể tìm ra cái
chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
c) Những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng.
Trong những điều kiện nhất định, bản chất thực hiện dưới hình thức đã bị cải biến,
xuyên tạc những yếu tố thực sự làm hiện tượng trở nên phong phú hoặc nghèo nàn bản chất.
VD: Trước đây ta vẫn nghĩ trái đất đứng yên, mặt trời quay quanh. Khoa học đã
chứng minh quy luật vận động: trái đất quay quanh mặt trời. Ở góc nhìn của con
người, mặt trời di chuyển, cây cối đứng yên.
- Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, hay ít. Còn hiện tượng không ổn
định, nó luôn luôn “động” (trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.)
+ Nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật,
mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại của nó
với các sự vật xung quanh.
+ Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi
hiện tượng biến đổi, bản chất ngẫu nhiên.
( không có nghĩa bản chất luôn giữ nguyên từ lúc ra đời đến khi mất. Bản chất biến
đổi rất chậm so với hiện tượng)
- Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
+ Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà
còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện.--> hiện tượng phong
phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
VD: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong
khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
d) Khẳng định lại.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng
Biện chứng là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận
động phát triển theo quy luật của các sự vật hiện tượng quá trình trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Hai loại hình biện chứng gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Trong đó:
. Biện chứng khách quan: Biện chứng của bản thân thế giới vật chất, tồn tại khách
quan độc lập với ý thức của con người.
. Biện chứng chủ quan: Biện chứng của sự thống nhất giữa logic biện chứng, phép
biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng. Biện chứng của quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người.
+ Tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là phù hợp với
nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự
vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình
tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
e) Kết quả : hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y
nguyên bản chất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
- Bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản
chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
- Bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên ngoài
thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản chất
trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng
- Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng
khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao giờ
có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, ta
phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Ví dụ : Ðể nhận thức vật chất của ánh sáng trắng, người ta chả phải căn cứ qua
nhiều thí nghiệm như: cho ánh sáng trắng đi qua lăng kính ta thu được tại dải màu
như cầu vòng từ đỏ đến tím và ngược lại cho quang phổ đi qua thấu kính hội tụ ta
thu được ánh sáng trắng. Từ đó kết luận bản chất ánh sáng trắng là tổng hợp của ánh sáng đơn sắc Câu 17: T
rình bày nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn
đến thay đổi về chất và ngược lại? Nêu ý nghĩa phương pháp luận
* Khái niệm “chất”, “lượng”
- Chất là phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ củ những thuộc tính làm cho vật là nó chứ không phải là cái khác.
Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của
muối là: tan trong nước, có vị mặn…
Muốn tìm chất của sự vật hiện tượng ta cần tìm thuộc tính
- Lượng là phạm trù triết học dùng để tính quy định vốn có của sự vật, hiện
tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc
độ và nhịp điệu vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng tồn tại khách
quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: Lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là nghĩa là gồm hai
nguyên tử hiđrô và một nguyên tử ôxi.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự
vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa
chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý
nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng
trong mối quan hệ khác lại là lượng.
Ví dụ: Trong mối quan hệ của một lớp học có sinh viên là lớp trưởng và sinh viên
là những thành viên trong lớp là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối
quan hệ lãnh đạo thì sinh viên là lớp trưởng và sinh viên là thành viên trong lớp lại khác nhau về chất
* Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
- Chất và lượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng bởi vì mỗi sự vật hiện tưởng đều phải có tính quy định về chất, lại vừa có
tính quy định về lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy không có chất lượng
nói chung tồn tại tách rời nhau). Ví dụ: Khi nói đến lớp HDQT11B có 48 sinh viên
là nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng cúa lớp đó
+ Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay
đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay
đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là
độ.(Độ là khái niệm dùng để mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
Ví dụ về độ: Người sống lâu nhất trên thế giới từng được biết đến có tuổi thọ là
146 tuổi. Do đó, giới hạn từ 0 đến 146 năm gọi là độ của con người xét về mặt tuổi tác
- Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
+ Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi
về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những
sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt
tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản của sự
vật, hiện tượng, do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Sự thay đổi về chất
diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn,
tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và
nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai
đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn
mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện
tượng. Ví dụ: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước
nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác
động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết
cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sinh viên chăm chỉ làm bài tập, giành nhiều thời gian tự học, hạn chế tham
gia vào các cuộc vui chơi. Như vậy sẽ tích lũy được nhiều kiến thức, đạt kết quả học tập tốt.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần
dần về lượng đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy chuyển hóa về chất
do đó trong hoạt động thực tiễn về nhận thức chúng ta từng bước tích lũy về lượng
để làm biến đổi về chất theo quy luật tránh tư tưởng chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn.
- Phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại tránh tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh.
- Cần có thái độ khách quan khoa học và quyết tâm thực hiện các bước nhảy khi có
đầy đủ các điều kiện.
- Biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào những phương thức liên kết
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Câu 20: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức? Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. ý nghĩa
phương pháp luận rút ra?
*Định nghĩa thực tiễn: Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật
chất có tính chất lịch sử – xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
Phân tích định nghĩa: Khi nghiên cứu định nghĩa thực tiễn cần nắm chắc và hiểu rõ một số nội dung sau:
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người: chỉ những hoạt động
vật chất của con người mới là hoạt động thực tiễn.
- Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại giữa chủ thể và
khách thể, trong đó chủ thể với tính tích cực của mình làm biến đổi khách thể.
Trong quá trình này không chỉ biến đổi khách thể, mà còn làm biến đổi ngay cả
bản thân chủ thể. Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có thể có 3 hình thức cơ
bản sau đây: Hoạt động lao động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản nhất,
có vai trò quyết định chi phối các hình thức hoạt động khác. Chính lao động đã
biến vượn thành người và là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Hoạt động biến đổi xã hội: là hình thức cao nhất của hoạt động
thực tiễn xã hội. Không có các hoạt động đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng
dân tộc, đấu tranh cho hoà bình thì không thể biến đổi được các quan hệ xã hội và
xã hội nói chung được. Thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của hoạt
động thực tiễn, đó là hoạt động của con người đượ tiến hành trong điều kiện nhân
tạo, nhằm nhận thức và biến đổi tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện tiến bộ của
khoa học và kỹ thuật,thực nghiệm là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc
biến các phát minh khoa học thành các giải pháp kỹ thuật và công nghệ, thành các
sản phẩm phục vụ đời sống con người. Với vai trò đó, thực nghiệm thúc đẩy mạnh
mẽ hoạt động sản xuất vật chất và kích thích sự biến đổi các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Ví dụ: Những hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học nhằm
tìm ra các nguyên vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: Trong quan hệ với nhận thức, thực
tiễn có những vai trò sau đây:
- Triết học Mác khẳng định nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Trong mối quan hệ này, lý luận đóng vai trò là người dẫn đường cho hoạt động
thực tiễn, thực tiễn là nơi để kiểm chứng lại tính chân thực, đúng đắn của nhận
thức. Quá trình của nhận thức là: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân
lý. Thể hiện ở chỗ: nhận thức ngay từ đầu đều xuất phát từ thực tiễn và do thực tiễn
quy định (là cơ sở). Chính yêu cầu của thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn cải
biến xã hội đã buộc con người phải nhận thức (là động lực). Nhờ có hoạt động thực
tiễn, mà trước hết là lao động, con người nhận thức được thế giới xung quanh.
Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức,
rèn luyện các giác quan của con người ngày càng tinh tế, hoàn thiện hơn.
- Thực tiễn không chỉ là cơ sở mà còn là mục đích của nhận thức: Tri thức khoa
học có ý nghĩa thực tiễn chỉ khi nó được áp dụng vào đời sống. Chính thực tiễn là
nơi để thể hiện sức mạnh của tri thức. Như vậy, nhận thức không phải là chỉ để
nhận thức, nhận thức coa mục đích cuối cùng của nó là giúp con người trong hoạt
động cải tạo thế giới. Chính nhu cầu của thực tiễn đã dẫn đến sự luận quay về chỉ
đạo thực tiễn để lý luận bổ sung không ngừng.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Chỉ có thực nghiệm mới có thể xác
định đúng tính đúng đắn của một tri thức. Tri thức là kết quả của quá trình hoạt
động nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực nên
phải được kiểm tra trong thực tiễn. Thực tiễn có nhiều hình thức khi tham gia chân
lý có thể bằng thực nghiệm khoa học hoặc vận dụng lý luận XH vào quá trình cải
biến XH. Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động để
khắc phục bệnh giáo điều
*Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của thực tiễn và lý luận đã
thể hiện được sự tống nhất giữ chúng. Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí luận và là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý
- Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vì:Thực tiến
được con người dùng để liên hệ vói thế giới bên ngoài, bởi thế giới khách quan bên
ngoài chỉ được nhận thức khi thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vì những nhu cầu,
nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức đều được
thực tiễn đề ra và nó được xác định là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.
- Những nhu cầu khách quan mà còn người tạo ra đó chính là cải tạo thế giới .
Chính nhu cầu này mà bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,
hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật biến
đổi và vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp
con người nhận thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Dựa vào đó để con người có thể hình thành các lý luận và lý thuyết kho học nhất
định. Đó chính là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- Từ đó chúng ta có thể thấy:
+ Nhận thức phải được xuất phát từ thực tiễn.
+ Nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.
+ Phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận, tri thức chuyên ngành,
thường xuyên cập nhật kiến thức, học tập suốt đời.
- Có phương pháp phân tích KH, phát hiện ra nhu cầu thực tiễn, nắm được bản chất của thực tiễn.
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn phải sáng tạo, đổi mới không ngừng. Bổ sung
phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Câu
23. Trình bày quan
điểm của CNDVLS về quy
luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ý nghĩa
phương pháp luận đối với nhận thức sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay?
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan
hệ phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ này tồn tại trong
mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản
xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm
cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Quan điểm: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của 1 phương thức
sản xuất có tác động biện chứng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau, qua đó thúc đẩy
nhau phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau
quy luật cơ bản nhất của
sự vận động và phát triển của xh.
- Vai trò quyết định của LLXS với QHSX: Lực lượng sx quyết định sự ra đời của
một kiểu qhsx mới trong lịch sử, quyết định đến nd và t/c của qhsx. Con người
bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập
sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới nấc thang cao hơn.
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX: Sự phù hợp của QHSX với LLSX là
một trạng thái trong đó QHSX là “hình thức phát triển” và “ tạo địa bàn đầy đủ”
cho LLSX phát triển. Sự phù hợp của QHSX với LLSX quy định mục đích, xu
hướng phát triển của nền sx xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sx phát
triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sx.
- Ý nghĩa trong đời sống xh: QHSX phù hợp với trình độ pt của LLSX có ý nghĩa pp
luận rất quan trọng. Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng
trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để
nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
VD quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sx: Trong xã hội nguyên thủy, trình độ
của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là
đồ đá, cung tên nên người nguyên thủy buộc phải gắn bó với nhau và thực hiện chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, tất cả tư liệu sản xuất đều là của chung, do trình
độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém nên của cải làm ra hầu hết đều bị tiêu dùng
hết, không có của cải dư thừa nên không có việc chiếm đoạt làm của riêng, tất cả
mọi người trong xã hội đều bình đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công.
Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan
hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý là quản lý
thông qua các công xã và quan hệ phân phối kết quả là phân phối bình đẳng cho
các thành viên. Về lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thủy chính là năng lực
sản xuất của người lao động và các tư liệu sản xuất như đồ đá, cung tên,…trong xã
hội nguyên thủy năng lực sản xuất của người lao động còn thấp, tư liệu sản xuất
vẫn còn thô sơ, lạc hậu.
Câu 25. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội? Phân tích luận điểm của
C. Mác: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên”.
HTKT-XH là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu Quản hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó phù hợp với một trình độ nhất định của Lực lượng sản xuất và một Kiến trúc
tương tầng tương ứng được xây dựng dựa trên những Quan hệ sản xuất hiện có Phân tích:
- Ba yếu tố cơ bản: Lực lượng sx, quan hệ sản xuất, kiến trúc tương tầng tác động
biện chứng tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người mà nguồn
gốc sâu xa bắt đầu từ sự phát triển của LLSX
- Thông qua sự tác động tổng hợp của 2 quy luật cơ bản: quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ
tầng và Kiến trúc tương tầng.
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà Lịch sử nhân loại đã và đang trải qua
qua trình thay thế tuần tự các HTKT-XH từ thấp đến cao: Nguyên thủy Chiếm
hữu nô lệ Phong kiến Tư bả n chủ nghĩa HTK
T-XH cộng sản công nghiệp ( đích đến)
- Đồng thời, do sự tác động của các yếu tố như điều kiện địa lý, tương quan lực lượng
giữa các giai, tầng xã hội, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế,… đã tạo ra sự
phát triển phong phú, đa dạng của các cộng đồng người. Do đó, các HTKT-XH –
trong những điều kiện nhất định có thể phát triển qua những bước nhảy vọt “bỏ
qua” một hay vài HTKT-XH nhất định.
VD: Hình thái kinh tế xã hội phong kiến có hai giai cấp điển hình là giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị. Giai cấp thống trị bao gồm giai cấp quý tộc, địa chủ và giai
cấp bị trị bao gồm nông nô và nông dân.
Trong xã hội phong kiến thì cấu trúc xã hội luôn xoay quanh việc sở hữu đất đai.
Những người nông nô, nông dân sẽ canh tác trên đất đai của địa chủ, quý tộc và
khi đến thời kỳ phải nộp tô, thuế cho địa chủ. Đây cũng được coi là hình thức bóc
lột địa tô. (khác biệt so với hình thái xã hội cơ bản)
thế giới và cải tạo thế giớKhi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong sự vận
động, phát triển không nhìn nhận sự vật đứng im, chết cứng, không vận động, không phát triển.
Câu 32: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ này? *Khái niệm:
- Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh
vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng tình cảm, tâm trạng… của cộng đồng
xã hội mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ những sinh hoạt vật chất
và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. *Mối quan hệ:
+ Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại
xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: ●
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không
thể tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn
tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội. ●
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức
SX đã thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
+ Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý
thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện
đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ví dụ: đảng ta đã và đang xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ
công bằng văn minh nhưng đâu đó vẫn tồn tại những quan điểm lạc hậu, tồn dư
của xã hội cũ như là sinh con trai nối dõi tông đường, sự gia trưởng của người
đàn ông… dẫn đến những vấn đề như mất cân bằng giới tính, bạo lực gia đình…
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:
Do tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội
- Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội
- Ý thức xã hội có tính giai cấp nên các thế lực phản xã hội lưu giữ và truyền bá
nhằm chống lại xã hội tiến bộ
Những tư tưởng lạc hậu tiêu cực thường không mất đi dễ dàng nên cần thường
xuyên đấu tranh, tuyên truyền xóa bỏ những tàn dư của xã hội cũ đồng thời giữ gìn
phát huy những truyền thống tốt đẹp cũng như bồi đắp xây dựng ý thức xã hội mới
+ Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng
của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến sẽ có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, các tư tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai
và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Ví dụ: Quan điểm của Democritus về nguyên tử đã có từ thời Hy lạp cổ đại nhưng
phải đến khoảng thế kỉ 19 đầu 20 ta mới chứng minh được sự tồn tại của nguyên
tử và tiếp tục phát triển lí thuyết về nó
Nguyên nhân do nó phản ánh đúng những mối quan hệ logic, khách quan, tất yếu,
bản chất của tồn tại xã hội
Những tư tưởng khoa học vượt trước có vai trò định hướng khả năng chỉ đạo hoạt
động của con người, nếu không có tư tưởng, ý thức dẫn đường thì con người sẽ mò
mẫm trong hành động dẫn dến thất bại
Ví dụ: sự phát triển của khoa học kĩ thuật giúp con người chinh phục được không
gian và tiên đoán trước được những điều sẽ có thể xảy ra trong tương lai đối với trái đất
Thứ tư: Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường
hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh
Ví dụ: chính sách, kế hoạch phát triển đảng của nhà nước: nếu chính sách
đưa ra thiết thực thì nó sẽ đem lại những thành quả tích cực từ đó xã hội sẽ trở
nên phát triển còn ngược lại nếu như chính sách nó không phù hợp với hoàn cảnh
đất nước thì xã hội sẽ bị thụt lùi đi
Do ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội nên cần phát huy vai trò của
các tư tưởng tiên tiến; đấu tranh chống tư tưởng lạc hậu, bảo thủ
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất: Nghiên cứu YTXH không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức
mà phải đi sâu nghiên cứu TTXH. Do đó để nhận thức đúng các hiện tượng của đời
sống ý thức xã hội thì phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã nảy sinh ra nó, đồng thời
cũng cần giải thích các hiện tượng đó từ các phương diện khác nhau thuộc nội
dung tính độc lập tương đối của chúng
VD: Sẽ là sai lầm chủ quan duy ý chí, phiến diện khi phân tích tâm lý người
VN ( tâm lý tiểu nông, coi trọng kinh nghiệm, đề cao họ tộc, tính tùy tiện…) mà
quy chụp đó là bản tính cố hữu. Bởi vì những hạn chế đó có căn nguyên từ TTXH,
đặc biệt là PTSX nông nghiệp manh mún,nhỏ lẻ lạc hậu sinh ra,...
Thứ hai: Trong thực tiễn cải tạo xh cũ, xây dựng xã hội mới cần được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay
đổi tồn tại xh cũ là điều cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng thời cũng
cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xh mới tất yếu dẫn đến những
biến đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động
của đời sống tinh thần xã hội với những điều kiện xác định cũng có thể biến đổi
mạnh mẽ sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Ví dụ: Đảng ta một mặt coi trọng sự nghiệp CNH, HĐH để xác lập PTSX
hiện đại ở VN (coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên CNXH) đồng
thời cũng rất coi trọng tư tưởng văn hóa, giáo dục, xác định "GD&ĐT, KHCN là
quốc sách hàng đầu"
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của
đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải
được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
+ Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay
đổi ý thức xã hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong
tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần
của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những
điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá,
phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình
phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng
văn hoá, xây dựng con người mới.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội
xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông
truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.